Hiên nay công ty chưa xây dựng cho mình một kế hoạch sử dụng tiền mặt hợp lý. Mặc dù công ty cũng có biện pháp làm cho đồng tiền sinh sôi nảy nở như gửi Ngân hàng, song thực tế cho thấy để nâng cao hiệu quả quản lý vốn lưu động công ty cần xác định một cách tương đối chính xác nhu cầu tiền mặt trong từng thời kỳ, từ đó quyết định nên giữ tiền mặt trong két là bao nhiêu để vừa đảm bảo mức tối thiểu nhất vừa đảm bảo tăng tối đa lượng tiền mặt sử dụng vào các mục đích kiếm lời khác. Để làm được điều này công ty cần xây dựng cho mình một kế hoạch thu chi tiền mặt.
Kế hoạch thu chi tiền mặt của công ty phụ thuộc vào những yếu tố sau:
² Quy mô kinh doanh của công ty tại từng thời điểm
² Chính sách tín dụng thương mại của công ty
² Chính sách tín dụng thương mại của khách hàng mà công ty được hưởng
² Quy định Nhà nước về các phải nộp
² Chế độ lương thưởng của công ty và các yếu tố khác
Căn cứ vào nguồn hình thành thu chi bằng tiền ta có thu chi ngân quỹ cuả công ty bao gồm
² Thu/ chi từ hoạt động SXKD
² Thu/ chi từ hoạt động đầu tư
² Thu/ chi từ hoạt động tài chính
Công ty cần so sánh thu chi bằng tiền để tìm nguồn tài trợ (chủ yếu là ngắn hạn) nếu thâm hụt và đầu tư nếu dư thừa. Các biện pháp liên quan tới nguồn tài trợ đã được đề cập tới trong phần 2. ở đây ta chỉ xem xét các biện pháp nhằm đa dạng hoá các hình thức đầu tư cho công ty khi dư thừa tiền mặt. Hiện tại công ty chỉ áp dụng một hình thức đầu tư duy nhất đó là gửi tiền vào Ngân hàng. Tuy nhiên hiện tại và nhất là trong tương lai khi thị trường chứng khoán ra đời thì ngoài tiền gửi Ngân hàng công ty có thể đầu tư vào các chứng khoán thanh khoản cao như tín phiếu kho bạc, trái phiếu Chính phủ để thu thêm lợi tức từ hoạt động tài chính, tránh ứ đọng tiền mặt mà vẫn đảm bảo khả năng thanh khoản bằng tiền mặt bởi các loại chứng khoán này cũng rất dễ chuyển đổi thành tiền mặt.
32 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1741 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng công tác quản lý và sử dụng vốn lưu động tại thời báo kinh tế Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời nói đầu
Trong cơ chế thị trường, tất cả các doanh nghiệp đều có cùng một mục tiêu là làm thế nào để kinh doanh có hiệu qủa, đứng vững trên thị trường đầy khắc nghiệt. Để đạt được mục tiêu này thì một vấn đề mà bất cứ doanh nghiệp nào cũng quan tâm hàng đầu đó là bảo toàn và phát triển vốn nói chung cũng như vốn lưu động nói riêng. Đặc biệt với điều kiện nền kinh tế nước ta khi mà cơ chế quản lý kinh tế cũ vẫn còn có ảnh hưởng nặng nề, mặt khác các văn bản pháp luật còn chưa đầy đủ, hoàn thiện, các quan hệ kinh tế còn chưa phổ biến thì vấn đề này càng trở nên quan trọng ....Vì vậy muốn quản lý vốn lưu động của mình có hiệu quả các doanh nghiệp phải có sự kết hợp chặt chẽ giữa lý luận và thực tiễn hoạt động sản xuất kinh doanh cũng như tình hình kinh tế- xã hội luật pháp của đất nước.
Thực tế nhiều năm qua cho thấy nâng cao hiệu quả quản lý và sử dụng vốn lưu động đã và đang được các doanh nghiệp đặc biệt quan tâm. Tuy nhiên bên cạnh những doanh nghiệp làm ăn phát đạt nhờ phương pháp quản lý vốn có hiệu quả thì cũng có không ít các doanh nghiệp thua lỗ, phá sản do chưa có biện pháp quản lý vốn hoặc là có nhưng các biện pháp chưa hợp lý. Nói như vậy không có nghĩa là đây chỉ là một vấn đề đặt ra đối với các doanh nghiệp làm ăn kém hiệu quả mà nó đã trở thành mối quan tâm hàng đầu đối với tất cả các doanh nghiệp hiện nay. Dù cho đó là doanh nghiệp kinh doanh hay công ích, doanh nghiệp thương mại hay sản xuất, doanh nghiệp thua lỗ hay đang hưng thịnh muốn tồn tại và phát triển thì không thể không quản lý tốt các nguồn lực của mình mà cụ thể ở đây là vốn lưu động .
Đứng trước tình hình này Thời báo kinh tế Việt nam trong thời gian qua đã có những cố gắng trong khai thác và huy động vốn phát triển SXKD và đã đạt được kết quả nhất định. Tuy nhiên bên cạnh những mặt đạt được Thời báo vẫn còn nhiều vấn đề cần giải quyết nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả quản lý vốn đặc biệt là vốn lưu động.
Do tầm quan trọng của vấn đề và qua quá trình tìm hiểu tình hình thực tế ở công ty, được sự giúp đỡ tận tình của cô giáo hướng dẫn và các cô chú, anh chị trong công ty em đã mạnh dạn nghiên cứu đề tài:
thực trạng công tác quản lý và sử dụng vốn Lưu động tại Thời báo Kinh tế Việt Nam
Nội dung của đề tài được trình bày thành ba chương:
Chương một: Khái quát chung về Thời báo Kinh tế Việt Nam.
Chương hai: Thực trạng công tác quản lý và sử dụng vốn lưu động tại Thời báo Kinh tế Việt Nam
Chương ba: Một số ý kiến đề xuất nhằm hoàn thiện công tác quản lý và sử dụng vốn lưu động tại Thời báo Kinh tế Việt Nam.
Với lượng kiến thức tích luỹ còn hạn chế, thời gian thực tập ít ỏi tại cơ quan nên mặc dù đã rất cố gắng song cuốn chuyên đề Báo cáo quản lý này khó tránh khỏi những thiếu sót nhất định. Vì vậy, em rất mong nhận được sự góp ý giúp đỡ của cô giáo Phương Mai Anh, và các anh, chị trong phòng tài chính kế toán của cơ quan
Chương i
khái quát chung về Thời báo kinh tế Việt Nam
1.quá trình hình thành và phát triển của Thời báo kinh tế Việt Nam.
Thời báo kinh tế Việt Nam ra đời và phát triển cùng với tiến trình đổi mới của đảng và nhà nước Việt nam. Sự đa dạng hoá của các thành phần kinh tế cùng với sự hình thành và phát triển của nền kinh tế thị trường, làm cho số lượng các doanh nghiệp nước ngoài đầu tư vào Việt Nam ngày càng nhiều hơn. Nhu cầu thông tin kinh tế không chỉ giới hạn ở các doanh nghiệp Việt Nam mà còn trở nên rất cần thiết đối với các doanh nghiệp nước ngoài hoạt động kinh doanh và đầu tư vào Việt Nam.
Thời báo kinh tế Việt Nam là cơ quan trung ương của hội kinh tế Việt Nam số báo đầu tiên ra mắt bạn đọc vào tháng 3 năm 1992 dưới dạng báo tháng, phát hành trên cả nước với lượng phát hành là 3000 bản/ 1 kỳ vào đầu tháng 6/ 1993 báo bắt đầu phát hành hàng tuần.
Để nâng cao chất lượng cũng như việc mở rộng phạm vi hoạt động của tờ báo, ngày 24/ 9/ 1992 Thời báo kinh tế Việt Nam đã ký hợp đồng hợp tác kinh doanh (BBC)với công ty Ringier AG Thụy Sĩ , một công ty truyền thông tin đa quốc gia với hơn 8000 nhân viên khắp toàn cầu, về việc in ấn và phát hành tờ Thời báo kinh tế Việt Nam đây là hợp đồng hợp tác kinh doanh theo giấy phép đầu tư số 470/ GP cấp ngày 26/ 11/ 1992 của uỷ ban nhà nước về hợp tác đầu tư (nay là Bộ Kế Hoạch và Đầu Tư )
Trong hợp đồng hợp tác kinh doanh này bên Việt Nam chịu trách nhiệm về công tác biên tập nội dung của tờ báo đồng thời giúp đỡ tổ chức lưu hành tờ báo ở Việt Nam và tổ chức các cơ sở vật chất như trụ sở văn phòng… Phía Thụy Sĩ đã đầu tư trên 100.000 USD và trang trải mọi chi phí cho công việc tiền khả thi của dự án. Từ tháng 06/ 1993 dự án đã chính thức đi vào hoạt động.
Cùng với sự hợp tác của công ty Ringier AG tháng 03/ 1994 Thời báo kinh tế Việt Nam xuất bản thêm một ấn phẩm mới đó là tạp chí kinh tế tháng bằng tiếng Anh Viet Nam Economic Times.
Từ đó đến nay Thời báo kinh tế Việt Nam đã phát triển không ngừng tháng 6/1997 một ấn phẩm nữa ra đời “Tư vấn tiêu dùng” chuyên san dành cho mọi gia đình phát hành hàng tháng, tờ The guide tách khỏi Viet Nam Economic Times tạo thành một ấn phẩm mới. Tháng 7/1998 tờ báo điện tử VNECONOMY. COM. VN cũng chính thức đi vào hoạt động. Sự phát triển đó càng được khẳng định hơn vào đầu năm 2000, đánh dấu mộc lịch sử đón chào thiên niên kỷ mới, báo Thời báo kinh tế Việt Nam một lần nữa tăng kỳ phát hành lên một tuần 3 số với lượng phát hành và số trang không đổi.
Từ một cơ sở vật chất nghèo nàn với số lượng cán bộ ít ỏi trụ sở của cơ quan đặt tại số 8 phố Lý Thường Kiệt – Hà Nội đến nay Thời báo kinh tế Việt Nam đã và đang lớn mạnh về nhiều mặt với cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại. Trụ sở chính của toà soạn hiện nay đặt tại 175 phố Nguyễn Thái Học- Hà Nội, với một diện tích mặt bằng sử dụng rộng lớn, đầy đủ và phù hợp với yêu cầu công tác của một cơ quan báo chí.
2. Chức năng và nhiệm vụ của Thời báo kinh tế Việt Nam.
Tôn chỉ mục đích của tờ báo như tờ trình của Hội kinh tế Việt Nam với Bộ văn hoá thông tin là truyền bá những kiến thức và thành tựu về khoa học kinh tế gắn khoa học kinh tế với đời sống chính sách luật pháp của nhà nước, bồi dưỡng kiến thức kinh tế cho độc giả quan tâm
Với đặc trưng là cơ quan báo chí Thời báo kinh tế Việt Nam được tổ chức theo chế độ thủ trưởng, đứng đầu là Tổng biên tập. Tổng biên tập là người phụ trách cao nhất, chịu trách nhiệm về công việc chung trước pháp luật.
Giúp việc cho Tổng biên tập là các Phó tổng biên tập và các trưởng bộ phận
3. Cơ cấu tổ chức bộ máy của Thời báo kinh tế Việt Nam.
Sơ đồ tổ chức bộ máy quản lý của Thời báo kinh tế Việt Nam
Ban lãnh đạo
Bộ phận biên tập
Bộ phận trị sự
Bộ phận thương mại
Phòng phóng viên
Phòng biên tập
Phòng sản xuất
Phòng quảng cáo
Phòng phát hành
Phòng tài chính
Với 125 người ngoài Ban lãnh đạo còn có các phòng ban chức năng mỗi phòng ban có chức năng nhiệm vụ riêng nhưng có mối quan hệ gần gũi với nhau tương tác phối hợp nhịp nhàng để Thời báo kinh tế Việt Nam hoạt động có hiệu quả nhất, đáp ứng được yêu cầu đặt ra đối với một cơ quan báo chí.
Cơ cấu tổ chức của Thời báo kinh tế Việt Nam được chia thành ba bộ phận chính : bộ phận biên tập , bộ phận trị sự ,bộ phận thương mại
+ Bộ phận trị sự : đứng đầu là giám đốc trị sự phụ trách 12 nhân viên có nhiệm vụ lo toàn bộ cơ sở vật chất trang thiết bị làm việc cũng như quan tâm đến đời sống tinh thần của toàn bộ nhân viên trong toà soạn.
+ Bộ phận biên tập : đứng đầu là các Phó tổng biên tập, trong bộ phận biên tập bao gồm phòng phóng viên , phòng sản xuất và phòng biên tập . Trong đó phòng biên tập lại bao gồm ban biên tập tiếng Việt , ban biên tập tiếng Anh , ban biên tập tiếng Trung và ban biên tập báo điện tử .
Đây là bộ phận quan trọng nhất góp phần xây dựng các ấn phẩm : những bài viết được thu thập từ phòng phóng viên, cộng tác viên sẽ được đưa về ban biên tập ,ban biên tập chọn duyệt thông tin sắp xếp thành trang rồi chuyển qua phòng sản xuất . Phòng sản xuất sẽ thực hiện khâu đánh máy trình bày in phim và có trách nhiệm in tại công ty in Tiến Bộ, theo dõi bản in cho tới khi sản phẩm cuối cùng hoàn thành đảm bảo về nội dung cũng như chất lượng in ấn, mẫu mã theo đúng bản in đã được duyệt từ toà soạn.
+ Bộ phận thương mại ; đứng đầu là giám đốc thương mại phụ trách công việc kinh doanh của toà báo . Bộ phận thương mại làm việc trực tiếp với phía đối tác Ringier- AG về nghiệp vụ . Tuy nhiên về mặt pháp lí vẫn thuộc Thời báo kinh tế Việt Nam và vấn đề nhân sự phải được Tổng biên tập quản lý.
Phòng quảng cáo
Phòng quảng cáo hoạt động dưới sự chỉ đạo và điều hành của trưởng phòng quảng cáo. Trưởng phòng quảng cáo là người trực tiếp tham mưu cho hội đồng biên tập về những mục tiêu nội dung của các bài viết về những sản phẩm của doanh nghiệp được đăng quảng cáo trên các ấn phẩm của Thời báo kinh tế Việt Nam, tâm lý, phản ứng của khách hàng khi đọc những bài viết đó, từ đó hội đồng biên tập sẽ có định hướng cho cách viết sao cho phù hợp với yêu cầu của từng khách hàng. Hơn nữa, trưởng phòng quảng cáo cũng là người tham mưu cho giám đốc thương mại về những ý kiến của khách hàng về chất lượng phục vụ những hoạt động liên quan đến quảng cáo của họ (khách hàng): Thiết kế, trình bày, dịch vụ làm phim ảnh, sự phục vụ với khách hàng đăng quảng cáo, giá cả…từ đó sẽ có những kế hoạch, những quyết định được đề ra về các chính sách áp dụng cho hoạt động bán quảng cáo, áp dụng linh hoạt chính sách giá, nhằm lôi kéo nhiều khách hàng, tăng doanh thu cho toà báo. Ngoài những công việc trên, trưởng phòng quảng cáo còn phụ trách thêm các vấn đề liên quan đến việc đưa ra những chính sách khuyến mại, thu hút khách hàng, mời chào khách hàng, khuyến khích nhân viên tăng số lượng bán quảng cáo được nhiều hơn, theo dõi công nợ đốc thúc nhân viên thu tiền. Bộ phận quảng cáo gồm 20 nhân viên ở cả 2 miền Nam và Bắc. Họ đã có những đóng góp không nhỏ đối với hoạt động kinh doanh của Thời báo vì tuy là một đơn vị phát hành song thực tế doanh thu quảng cáo lại là bộ phận chính trong tổng doanh thu của Thời báo kinh tế Việt Nam.
Phòng phát hành
Phòng phát hành dưới sự điều hành của Giám đốc phát hành. Những ấn phẩm sau khi đã được nghiệm thu về chất lượng in ấn, từ nhà in được chuyển giao trực tiếp cho bộ phận phát hành. Bộ phận phát hành tiến hành nhập kho đúng số lượng phát hành, sau đó phát hành kịp thời tới khách hàng đúng thời gian quy định.
VD Tờ Thời báo kinh tế Việt Nam phải được bán ở tất cả các sạp báo, hoặc tới taykhách hàng vào các sáng thứ 2, 4, 6 trong tuần. Nhiệm vụ chính bao gồm:
Làm việc với nhà in về số lượng in ấn cho từng số báo.
Quản lý danh sách, sổ các quầy bán báo, trạm bán tại bưu điện, số lượng độc giảđặt báo qua bưu điện và độc giả đặt báo trực tiếp tại toà soạn.
Quản lý, giao báo cho các quầy báo, bưu điện, cá nhân đúng ngày phát hành báo.
Theo dõi công nợ của phát hành báo, thu tiền bán báo.
Mở rộng, thiết lập các đại lí mới, độc giả mới.
Phối hợp cùng phòng quảng cáo mở ra các chiến dịch tiếp thị và khuyến mại ấn phẩm của mình cho bạn đọc.
Phòng tài chính
Phòng tài chính do một Giám đốc tài chính trực tiếp phụ trách. Đội ngũ cán bộ gồm có một kế toán trưởng, bốn kế toán viên và một thủ quỹ với ba nhiệm vụ chính:
Tổ chức công tác hạch toán và kế toán các nghiệp vụ kinh doanh và sản xuất theo pháp lệnh kế toán thống kê.
Làm nhiệm vụ thống kê theo yêu cầu quản lý Nhà nước, xây dựng và quản lý các
định mức về tiền lương lao động toàn toà soạn, lập ngân sách tài chính.
Báo cáo kế toán tổng hợp về doanh thu và lợi nhuận từng tháng, báo cáo tình hình tài chính định kỳ cho công ty Ringier và cho Tổng biên tập.
Trợ lý Giám đốc và Ban lãnh đạo trong việc ra các quyết định tài chính đối vơí hoạt động sản xuất kinh doanh.
Kiểm tra, kiểm soát các hoạt động tài chính của công ty.
Hiện nay Thời báo kinh tế Việt Nam là một đơn vị hạch toán độc lập,toàn bộ công việc kế toán được tập trung thực hiện tại phòng kế tóan từ khâu tập hợp số liệu, ghi sổ kế toán đến khâu lập báo cáo tài chính.
4. Đặc điểm sản xuất tại Thời báo kinh tế Việt Nam.
Thành phẩm tại Thời báo kinh tế Việt Nam tính đến thời điểm 31/12/2001 bao gồm năm ấn phẩm : tờ Thời báo kinh tế Việt Nam phát hành một tuần ba số , tờ Tư vấn tiêu dùng chuyên san tháng dành cho mọi gia đình , tờ Vietnam Economic Times ,tờ The Guide bằng tiếng Anh, tờ The Guide bằng tiếng Trung (tờ chỉ nam du lịch) ,tờ báo điện tử VNECONOMY, ngoài ra còn có một vài chuyên san khác về kinh tế ... Trong đó tờ Thời báo kinh tế Việt Nam phát hành vào sáng thứ hai , thứ tư , thứ sáu hàng tuần với số lượng phát hành lớn nhất và thường xuyên nhất .
Thành phẩm tại Thời báo kinh tế Việt Nam là thành phẩm do thuê ngoài gia công chế biến tại công ty in Tiến Bộ nên giá thành của một tờ báo sẽ là toàn bộ các chi phí thuê ngoài gia công bao gồm chi phí in ấn ,chi phí phân tách màu , chi phí làm phim, và các chi phí khác.
Hiện nay ấn phẩm của tờ Thời báo kinh tế Việt Nam được phát hành đi bắt đầu từ hai địa điểm chính là Hà nội và thành phố Hồ Chí Minh, một số ít tại Hải Phòng, Đà Nẵng, Nha Trang .Với các tỉnh khác các ấn phẩm của Thời báo kinh tế Việt Nam được phát hành đi thông qua hệ thống bưu đện trong đó hai ấn phẩm tiếng Việt là tờ Thời báo kinh tế Việt Nam và tờ Tư vấn tiêu dùng chiếm 60% lượng phát hành ở miền Bắc .
Số lượng phát hành của mỗi số báo có sự thay đổi phụ thuộc vào đơn đặt hàng của khách nhưng sự thay đổi này là không đáng kể.
5. Tình hình tổ chức bộ máy kế toán tại Thời báo kinh tế Việt Nam.
Thời báo kinh tế Việt Nam là một đơn vị hạch toán độc lập , toàn bộ công việc kế toán được tập trung thực hiện tại phòng kế toán từ khâu tập hợp số liệu , ghi sổ kế toán đến lập các báo cáo tài chính .
Phòng kế toán của Thời báo kinh tế Việt Nam sớm tiếp cận với phương pháp tiên tiến và được trang bị máy móc kĩ thuật khá hiện đại các máy tính trong phòng được nối mạng với nhau và do một máy chủ ‘serve” quản lý. Năm 1994 đơn vị đã triển khai đưa phần mềm kế toán của Mĩ có tên Sunsystem vào hoạt động nên công việc của các nhân viên trong phòng khá thuận lợi
Sơ đồ tổ chức bộ máy kế toán tại Thời báo kinh tế Việt Nam
Giám đốc tài chính
Kế toán trưởng
Kế toán tổng hợp
Kế toán tiêu thụ tại Hà Nội
Kế toán tiêu thụ tại TP HCM
Kế toán thanh toán
Thủ quỹ
Theo biên chế phòng kế toán của Thời báo kinh tế Việt Nam có bảy người đứng đầu là giám đốc tài chính. Giám đốc tài chính là nguời chịu trách nhiệm cao nhất với Tổng biên tập và Ban lãnh đạo về các báo cáo tài chính , về mọi hoạt động có liên quan đến tài chính trong phạm vi quyền hạn được giao phó và quản lí công việc của các nhân viên trong phòng như sau :
+ Kế toán trưởng có nhiệm vụ điều hành bộ máy kế toán thực thi theo đúng chế độ chính sách , hướng dẫn chỉ đạo kiểm tra hoạt động của các nhân viên kế toán trong phòng đồng thời kiêm kế toán Tài sản cố định .
+ Kế toán tổng hợp thực hiện công tác kế toán tổng hợp (vào sổ Cái ) theo dõi mạng kế toán tài chính đồng thời kiêm kế toán chi phí
+ Hai kế toán tiêu thụ : một tại Hà Nội , một tại thành phố Hồ Chí Minh. Kế toán tiêu thụ có nhiệm vụ theo dõi các khoản doanh thu ,công nợ của hoạt động phát hành và hoạt động quảng cáo .
+ Một kế toán thanh toán: theo dõi chi tiết tình hình thanh toán với khách hàng, thanh toán hoa hồng, trả lương cho cán bộ công nhân viên đồng thời theo dõi tình hình trích lập và sử dụng các quĩ doanh nghiệp , tình hình thu chi và tồn quĩ tiền mặt ...
+ Thủ quỹ : có nhiệm vụ giữ quĩ tiền mặt ,tình hình thu chi tiền mặt và ghi sổ quĩ .
Phòng phát hành và phòng quảng cáo không có kế toán riêng nhưng có nhiệm vụ tập hợp số liệu cho phòng kế toán để có sự đối chiếu quản lí chặt chẽ về số lượng phát hành từng số báo , từng loại ấn phẩm , doanh thu của hai hoạt động phát hành và hoạt động quảng cáo , tiền đã trả (tiền mặt, séc , tiền gửi ngân hàng ), số phải thu ,tên và địa chỉ của khách, chi phí bán hàng phát sinh trong kì ...
2.2 Hình thức sổ kế toán áp dụng .
Kế toán của Thời báo kinh tế Việt Nam sớm tiếp cận với phương pháp tiên tiến và được trang bị máy móc kĩ thuật khá hiện đại, công việc kế toán được thực hiện trên máy vi tính. Các máy tính trong phòng được nối mạng với nhau và do một máy chủ quản lí .
Do đặc điểm trên nên hình thức kế toán mà đơn vị áp dụng vừa phải phù hợp với chương trình kế toán trên máy vừa phải phù hợp với điều kiện sản xuất kinh doanh vì vậy đơn vị đã áp dụng hình thức kế toán Nhật kí chung
Chương II
Thực trạng quản lý và sử dụng vốn lưu động
tại Thời báo kinh tế Việt Nam
1.Thực trạng quản lý và sử dụng vốn lưu động tại Thời báo Kinh tế Việt Nam trong một vài năm gần đây
1.1.Cơ cấu tài sản và nguồn tài trợ
Cơ cấu tài sản và nguồn vốn của Thời báo trong vài năm qua được thể hiện qua Bảng 1
Bảng 1–Cơ cấu tài sản-nguồn vốn từ 1996-1999
Đơn vị :Triệu đồng
(Nguồn-Bảng cân đối tài sản 96-99)
1.1.1.Cơ cấu tài sản-Tài sản lưu động
Qua bảng trên ta có nhận xét về cơ cấu tài sản :
TSCĐ của thời báo chiếm tỷ lệ khiêm tốn chỉ vào khoảng từ 35%-40%. TSCĐ đạt tỷ trọng lớn nhất vào năm 1997 là 40,2%. Cơ cấu TSCĐ tăng lên trong năm 97 là vì công ty đã khấu hao hết máy móc thiết bị đã dùng trước đây và đang đầu tư vào máy móc, thiết bị mới. Sở dĩ mặc dù thời báo là một doanh nghiệp SXKD song cơ cấu TSCĐ lại không lớn là vì thời báo chỉ đảm nhận các khâu biên tập và chế bản còn việc in ấn do nhà in Tiến bộ thực hiện. Do vậy TSCĐ của thời báo chủ yếu là các máy móc, thiết bị phục vụ cho công tác quản lý...
TSLĐ chiếm tỷ trọng lớn, tuy nhiên cơ cấu TSLĐ không ổn định qua các năm, cơ cấu này có năm tăng nhưng có năm lại giảm đi. Nhìn chung cơ cấu này thường giao động trong khoảng 60%. Con số này nói lên rằng công ty luôn có nhu cầu lớn về vốn lưu động
Có thể thấy tỷ lệ giữa TSCĐ và TSLĐ trong tổng tài sản của công ty và biến động của chúng qua các năm thông qua biểu đồ và bảng sau:
(Nguồn-Bảng cân đối tài sản 96-99 / Tài sản )
Bảng 2–Biến động tài sản-nguồn vốn giai đoạn 1996-1999
Đơn vị :Triệu đồng
(Nguồn-Bảng cân đối tài sản 96-99)
Để thấy rõ sự thay đổi về cơ cấu của TSLĐ (sử dụng vốn lưu động) là do những nhân tố nào ta có thể quan sát ở Bảng 3 sau đây
Bảng 3–Cơ cấu vốn lưu động từ 1996-1999
Đơn vị :Triệu đồng
(Nguồn-Bảng cân đối tài sản 96-99 /A-Tài sản lưu động và đầu tư ngắn hạn )
Nhìn vào bảng cơ cấu vốn lưu động của thời báo trong những năm gần đây ta nhận thấy tỷ trọng chủ yếu trong vốn lưu động của công ty vẫn là các khoản phải thu(60%-70%). Trong các khoản phải thu thì chủ yếu là phải thu từ khách hàng, nó chiếm khoảng trên 90% tổng số các khoản phải thu.Tỷ trọng của khoản mục này tăng dần cả về tỷ lệ cũng như giá trị tuyệt đối, với tốc độ nhanh hơn cả tốc độ tăng của tài sản lưu động. Thời điểm đánh dấu tốc độ tăng lên nhanh chóng của các khoản phải thu này là năm 1997. Trong năm 1997 các khoản phải thu tăng lên với tốc độ gần 25% trong khi đó toàn bộ TSLĐ chỉ tăng khoảng 8%. Trong các năm 98, 99 các khoản phải thu cũng vẫn tăng với tốc độ nhanh hơn tốc độ tăng của TSLĐ song tốc độ này cũng đã giảm đi rất nhiều so với năm 1997 . Sở dĩ như vậy vì năm 97 là thời điểm mà Thời báo phát hành thêm các ấn phẩm mới –Tờ tư vấn tiêu dùng và tờ “The Guide”–là những tờ báo đáp ứng được nhu cầu thông tin ngày càng tăng không chỉ của các độc giả Việt nam mà còn cả với các độc giả là những người nước ngoài. Tuy năm 97 là năm có tốc độ gia tăng khoản phải thu là lớn nhất song năm có tỷ trọng các khoản phải thu lớn nhất chiếm trong tổng vốn lưu động lại là năm 99 (74,2%). Sự gia tăng nhanh chóng của các khoản phải thu này cho thấy vốn lưu động của Thời báo bị chiếm dụng tăng lên đồng thời rủi ro kinh doanh cũng cao. Tuy nhiên điều này cũng không phải là không tốt bởi nó cũng nói lên rằng trong những năm vừa qua doanh thu và lợi nhuận của công ty cũng gia tăng nhanh chóng. Điều này sẽ được minh chứng rõ hơn khi xem xét kết quả SXKD của công ty trong những năm này.
Ngoài ra căn cứ vào Bảng 3 ta còn có nhận xét sau: Nếu năm 96 tỷ trọng vốn bằng tiền chiếm trong tổng vốn lưu động lên tới 33% thì đến năm 97 con số này giảm xuống chỉ còn 18,3% và duy trì ở mức dưới 20% trong những năm tiếp theo. Về mặt con số tuyệt đối ta cũng nhận thấy có một sự giảm sút đáng kể (từ trên 2000 triệu xuống còn trên 1000 triệu). Điều này chứng tỏ công ty đã có những nỗ lực trong việc giảm lượng tiền mặt không cần thiết để đưa vào SXKD song cũng cần phải xem xét và điều chỉnh tỷ lệ này cho phù hợp giữa tiền mặt tại quỹ và TGNH bởi điều này có ảnh hưởng không nhỏ tới khả năng thanh toán của công ty mà ta sẽ có dịp đề cập tới ở phần cơ cấu nguồn vốn sau này.
Như vậy sự gia tăng của sử dụng vốn lưu động qua các năm là do sự gia tăng của các bộ phận khác nhau. Cụ thể năm 97 vốn lưu động tăng 8,3% chủ yếu là do tăng các khoản phải thu (24,3%) và các TSLĐ khác (130%). Năm 98 và 99 vốn lưu động tăng lên tương ứng 2% và 1% chủ yếu là do tăng các khoản phải thu (4%) và tiền mặt (1%). Vì thế dễ dàng nhận thấy cơ cấu các bộ phận trong vốn lưu động ở các năm cũng không giống nhau. Và như vậy ta cũng có thể ước lượng một cách định tính các yếu tố chủ yếu làm gia tăng vốn lưu động nhờ vào sự thay đổi cơ cấu
vốn lưu động qua các năm ở Biểu đồ 2 sau đây.
Biểu đồ 2–Sự thay đổi cơ cấu vốn lưu động qua các năm
1.1.2.Cơ cấu nguồn vốn kinh doanh- Nguồn vốn lưu động
Nhìn chung mặc dù nguồn vốn chủ sở hữu của Thời báo vẫn chiếm tỷ lệ lớn trong tổng tài sản nhưng qua 4 năm có thể thấy tỷ lệ này đang giảm dần và nhường chỗ cho nợ phải trả (>50%). Điều này nói lên rằng trong mấy năm trở lại đây để tài trợ cho hoạt động SXKD của mình công ty đã phải tăng cường huy động nguồn lực từ bên ngoài. Một mặt đây là sự năng động của công ty trong việc huy động vốn đáp ứng nhu cầu SXKD nhưng đồng thời nó cũng nói lên rằng khả năng tự tài trợ của công ty ngày càng kém. Qua đây ta có nhận xét chung là nguồn vốn kinh doanh của Thời báo hàng năm có sự gia tăng đáng kể. Đó là dấu hiệu tốt về tình hình hoạt động kinh doanh của công ty.
Nguồn vốn ngắn hạn nhìn chung tăng lên qua các năm về mặt số tuyệt đối. Tuy nhiên xét về tỷ trọng thì nguồn vốn ngắn hạn chỉ chiếm khoảng 50%. Liệu sự gia tăng này có tốt hay không và tỷ lệ này đã hợp lý hay chưa? . Điều này sẽ được trả lời khi xem xét tới cơ cấu nguồn vốn lưu động của công ty.
Nguồn vốn dài hạn của công ty cũng gia tăng qua các năm. Nguồn vốn dài hạn của Thời báo chỉ bao gồm vốn chủ sở hữu. Điều này cho thấy vốn tự bổ sung của Thời báo đã được tăng lên, cũng có nghĩa là hoạt động SXKD của công ty đã có hiệu quả đem lại lợi nhuận. Tuy nhiên tốc độ gia tăng của vốn chủ sở hữu lại chậm hơn tốc độ gia tăng của nợ ngắn hạn. Công ty cần xem xét điều này vì nó có ảnh hưởng không nhỏ tới khả năng thanh toán của công ty.
Để đáp ứng nhu cầu về vốn lưu động Thời báo phải lựa chọn một trong 3 mô hình tài trợ vốn lưu động đã được đề cập ở phần lý thuyết. Mô hình được các nhà quản trị tài chính của Thời báo lựa chọn là mô hình 3. Theo mô hình này, nguồn vốn dài hạn của công ty sau khi tài trợ cho TSCĐ sẽ được đầu tư vào TSLĐ. Phần còn lại của TSLĐ sẽ được tài trợ bằng nguồn vốn ngắn hạn mà cụ thể đối với Thời báo là các khoản nợ ngắn hạn. Nguồn huy động cho vốn lưu động lại bao gồm nguồn vốn lưu động thường xuyên và nguồn vốn lưu động tạm thời. Trong đó nguồn vốn lưu động thường xuyên là phần còn lại của nguồn dài hạn sau khi đầu tư vào TSCĐ và nguồn vốn lưu động tạm thời là nợ ngắn hạn.
2. Quản lý và sử dụng vốn lưu động
2.1.Tình hình thanh toán của Thời báo
Cũng giống như các doanh nghiệp khác, Thời báo Kinh tế Việt nam trong hoạt động SXKD của mình có nhiều mối quan hệ ràng buộc do vậy khó tránh khỏi việc chiếm dụng vốn của lẫn nhau. Điều này có ảnh hưởng không nhỏ tới khả năng thanh toán của doanh nghiệp. Để đánh giá tình hình thanh toán của Thời báo ta sử dụng Bảng 4
Bảng 4-Bảng các hệ số thanh toán
Đơn vị :Triệu đồng
(Nguồn-Bảng cân đối kế toán &Báo cáo kết quả kinh doanh 96-99)
Căn cứ vào bảng trên ta có nhận xét chung tuy nợ ngắn hạn chiếm tỷ lệ lớn trong tổng nguồn vốn(>50%) và trong nguồn vốn lưu động (>80%) song các hệ số thanh toán trên (>1) cho thấy công ty có khả năng thanh toán số nợ ngắn hạn này bằng TSLĐ của mình trong một chu kỳ kinh doanh. Điều này hoàn toàn phù hợp với nguồn vốn lưu động thường xuyên luôn dương (>0) của công ty. Tuy nhiên các tỷ lệ này không hẳn là cao (>1 và 80%), tổng tài sản(>50%) mà cả về số tuyệt đối. Điều này cho thấy tuy là công ty có khả năng thanh toán nợ ngắn hạn song khả năng này cũng rất bấp bênh, không chắc chắn.
Tuy nhiên, nhìn vào bảng trên ta nhận thấy vốn bằng tiền của công ty chiếm tỷ lệ nhỏ trong tổng TSLĐ và ngày càng giảm xuống thay cho sự gia tăng của các khoản phải thu. Tuy không có số liệu về nợ đến hạn nhưng ta có thể ước lượng được khả năng thanh toán tức thời của công ty rất thấp do sự giảm sút này của vốn bằng tiền. Vì vậy trong thời gian tới Thời báo cần xem xét lại cơ cấu giữa các khoản phải thu và vốn bằng tiền sao cho hợp lý.
Ngoài ra một cách đánh giá khác về khả năng thanh toán của công ty đó là trên giác độ chiếm dụng vốn hay chính là tương quan giưã các khoản phải thu và các khoản phải trả của công ty. Tuy rằng cách nhìn này không thật sự chính xác như đánh giá qua các tỷ lệ thanh toán trên nhưng nó cũng nói lên được phần nào tình hình thanh toán của Thời báo trong vài năm gần đây.
Bảng 5- Cơ cấu nợ của Thời báo kinh tế Việt nam
Đơn vị :Triệu đồng
(Nguồn- Thuyết minh báo cáo Tài chính / Bảng Thanh toán công nợ 96-99)
Căn cứ vào bảng trên ta nhận thấy các khoản phải thu luôn nhỏ hơn các khoản phải trả (chiếm từ 70-85%). Điều này cho thấy nếu xét trong tương quan về vốn chiếm dụng Thời báo đã chiếm dụng được nhiều vốn của khách hàng hơn. Tuy nhiên khi xem xét khả năng thanh toán của công ty thì điều này lại có tác động không tốt tới tình hình tài chính của công ty. Như vậy công ty luôn phải cân nhắc lựa chọn giữa các khoản phải thu, phải trả, sao cho đạt được một tỷ lệ hợp lý để một mặt vừa đảm bảo vốn của mình không bị chiếm dụng quá nhiều, làm ảnh hưởng tới tốc độ luân chuyển của vốn lưu động mặt khác đảm bảo được khả năng thanh toán của mình.
3.Phân tích một số nhân tố cơ bản ảnh hưởng tới hiệu quả sử dụng vốn lưu động của Thời báo kinh tế Việt nam
Nếu ở phần 1 cho chúng ta thấy tình hình tài chính nói chung của Thời báo thì ở phần 2 đã cụ thể hoá hơn tình hình sử dụng vốn lưu động của công ty thông qua việc đánh giá một số chỉ tiêu phản ánh hiệu qủa sử dụng vốn lưu động. Tuy nhiên nếu chỉ dừng lại ở việc mô tả tình hình tài chính hay tình hình quản lý và sử dụng vốn lưu động thì có lẽ không phải ý định của tác giả hay bất cứ ai muốn tìm hiểu, đánh giá tình hình tài chính của công ty. Vấn đề đặt ra đối với đề tài này đó là để đưa ra được các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động thì việc đánh giá không chỉ dừng lại ở các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả mà điều quan trọng hơn là cần phải sử dụng các chỉ tiêu này để phân tích nhằm xác định được các nhân tố ảnh hưởng tới hiệu quả sử dụng vốn lưu động. Phải chăng đó mới chính là mục đích cuối cùng của luận văn này.
Như phần lý thuyết đã trình bày ảnh hưởng tới hiệu quả sử dụng vốn lưu động có rất nhiều yếu tố ( khách quan, chủ quan). Tuy nhiên trong phạm vi luận văn này em chỉ xin phân tích các nhân tố có ảnh hưởng trự tiếp tới 2 chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sử dụng vốn lưu động đó là hệ số luân chuyển của vốn lưu động và hệ số sinh lời của vốn lưu động. Mặc dù với 2 chỉ tiêu này chưa thể phản ánh toàn bộ các nhân tố ảnh hưởng tới hiệu quả sử dụng vốn lưu động song đây là 2 chỉ tiêu quan trọng nhất phản ánh năng lực hoạt động và khả năng sinh lời của vốn lưu động. Ngoài ra việc phân tích 2 chỉ tiêu trên còn cho ta một phương pháp chung khi đánh giá, phân tích các nhân tố ảnh hưởng tới hiệu quả sử dụng vốn lưu động nói riêng cũng như hiệu quả sử dụng của các tài sản khác. Để phân tích được các nhân tố ảnh hưởng ta sử dụng số liệu của 3 năm gần đây nhất là năm 97, 98 và 99
3.1. Phân tích các nhân tố ảnh hưởng tới hệ số luân chuyển vốn lưu động
Hệ số luân chuyển (L)
vốn lưu động
= Doanh thu thuần ( D)
Vốn lưu động bq ( V )
Ta nhận thấy hệ số luân chuyển vốn lưu động năm 99 tăng 0,12 vòng so với năm 98 và hệ số này giảm 0,08 vòng năm 98 so với năm 97. Sự thay đổi này là do 2 nhân tố sau:
Do vốn lưu động bình quân thay đổi ảnh hưởng tới vòng quay vốn lưu động như sau
DL
= D0*( 1 – 1 )
V1 V0
Vậy sự thay đổi vòng quay vốn lưu động năm 99 so với năm 98 và năm 98 so với năm 97 do thay đổi của nhân tố vốn lưu động bình quân lần lượt là:
DLv98 = 19.967,22*(1/6.848 –1/6.492,9)
DLv98 = -0,16
DLv99 = 20.497,69*(1/6.989,8 –1/6.848)
DLv 99= -0,06
Do doanh thu thuần thay đổi ảnh hưởng đến vòng quay vốn lưu động như sau:
DL
= (D1–D0)* 1
V1
DLD98 =(20.497,69– 19.967,22)*1/6.848
DLD98 = +0,08
DLD99 = (21.726,63–20.497,69)*1/6.989,8
DLD99 = +0,18
Tổng hợp các nhân tố ảnh hưởng ta có
Năm 98 vòng quay của vốn lưu động giảm đi là
-0,16 +0,08 = -0,08 (vòng)
Năm 99 vòng quay của vốn lưu động tăng lên là
-0,06 +0,18 = +0,12 (vòng)
Kết luận:
Năm 98 :
Do vốn lưu động bình quân tăng lên (355,1) làm cho vòng quay của vốn lưu động giảm đi 0,16 vòng tuy nhiên do doanh thu thuần tăng lên làm cho tốc độ quay của vốn lưu động tăng lên 0,08 vòng. Sự tăng lên này không đủ bù đắp cho sự giảm sút do ảnh hưởng của yếu tố vốn lưu động. Vì vậy đã làm cho tốc độ quay của vốn lưu động năm 98 nhìn chung là giảm đi so với năm 97. Như vậy qua số liệu trên có thể thấy năm 98 vòng quay vốn lưu động của Thời báo chịu ảnh hưởng lớn bởi sự gia tăng của vốn lưu động. Điều này thể hiện ở chỗ ảnh hưởng của vốn lưu động bình quân năm 98 tới hệ số luân chuyển vốn lưu động lớn hơn rất nhiều (2lần) so với ảnh hưởng của yếu tố doanh thu tới hệ số này. Điều này cũng chứng tỏ hiệu quả sử dụng vốn lưu động năm 98 thấp hơn năm 97 mà chủ yếu là do sự gia tăng quá nhiều của vốn lưu động so với sự gia tăng chậm chạp của doanh thu. Số lượng vốn lưu động gia tăng này là do năm 98 Thời báo kinh tế Việt nam mở rộng quy mô kinh doanh cả về số lượng và mặt hàng tuy nhiên sự gia tăng này không được bù đắp bằng sự gia tăng tương ứng của doanh thu do khách hàng vẫn còn chưa biết tới hoặc là chưa gắn bó với các sản phẩm mới của Thời báo . Vì vậy công ty cần xem xét lại kế hoạch đầu tư vốn của mình để điều chỉnh lượng vốn cho phù hợp, đảm bảo vốn không bị thất thoát hay sử dụng lãng phí đồng thời không ngừng nâng cao chất lượng thông tin trong các ấn phẩm của mình để thu hút người đọc. Điều này không chỉ giúp công ty gia tăng nhanh chóng doanh thu phát hành mà quan trọng hơn là gia tăng doanh thu về quảng cáo-Một nguồn thu không phải từ hoạt động kinh doanh chính của công ty (phát hành và bán báo) song lại có ý nghĩa quan trọng đối với sự tồn tại và phát triển của công ty.
Năm 99
Trong năm 99 sự gia tăng của vốn lưu động bình quân(114,85) là nhân tố làm giảm vòng quay của vốn lưu động (0,06 vòng) tuy rằng ảnh hưởng này có phần giảm đi so với năm 98. Tuy nhiên nhờ tăng doanh thu khá cao năm 99 (1.228,9) đã làm cho tốc độ quay của vốn lưu động tăng lên (0,18 vòng-gấp 3 lần so với ảnh hưởng của vốn lưu động bình quân). Tổng hợp ảnh hưởng của 2 yếu tố này làm cho tốc độ quay của vốn lưu động tăng lên 0,12 vòng. Tốc độ quay của vốn lưu động tăng lên cho thấy vốn lưu động của công ty đã được sử dụng có hiệu quả hơn. Sự gia tăng này phải kể tới ảnh hưởng tích cực của việc gia tăng doanh thu thuần của công ty. Thực sự thì sự gia tăng của doanh thu thuần chủ yếu là do tăng nhanh khối lượng phát hành cũng như doanh thu về quảng cáo. Kết quả này chứng tỏ người đọc đã thực sự quan tâm tới các sản phẩm của Thời báo, các doanh nghiệp đã tin cậy khi quảng cáo trên các ấn phẩm của Thời báo. Những gì đạt được trong năm 99 phải chăng xuất phát từ những khoản đầu tư tái SX mở rộng của năm 98 ?. Tuy nhiên phải thừa nhận năm 99 là một năm vốn lưu động của công ty được sử dụng có hiệu quả nhất trong mấy năm trở lại đây. Trong năm tới đây Thời báo cần xem xét để duy trì và không ngừng nâng cao nâng cao doanh thu và điều chỉnh sự gia tăng của vốn lưu động theo một tỷ lệ sao cho phù hợp với sự gia tăng của doanh thu, có như vậy công ty mới có thể duy trì và không ngừng nâng cao được hiệu quả của đồng vốn.
3.2 Đánh giá tình hình quản lý và sử dụng vốn lưu động tại Thời báo kinh tế Việt nam
Nội dung của phần này thực chất là sự tổng kết lại những mặt tích cực của Thời báo trong công tác quản lý và sử dụng vốn lưu động mà ta đã đề cập trong phần đánh giá hiệu quả sử dụng vốn lưu động. Nhìn chung trong 3 năm qua Thời báo đã đạt được những thành tựu về quản lý vốn lưu động trên các mặt sau:
Công tác huy động nguồn đáp ứng nhu cầu vốn lưu động
Căn cứ vào những đánh giá về tình hình nguồn vốn nói chung và nguồn vốn lưu động nói riêng ta có nhận xét công ty đã biết lựa chọn cho mình một mô hình tài trợ phù hợp trên cơ sở đánh giá chi phí-lợi ích. Mô hình này cho thấy TSLĐ của Thời báo được tài trợ phần lớn là nguồn vốn ngắn hạn và phần còn lại là nguồn dài hạn. Điều này cho phép công ty có khả năng thanh toán được các khoản nợ ngắn hạn đồng thời đảm bảo cho TSCĐ được đầu tư chắc chắn bằng nguồn vốn dài hạn. Mô hình này đem lại cho Thời báo một mức an toàn trung bình với mức chi phí trung bình.
Công tác bảo toàn vốn lưu động
Như phần trên đã đề cập trong giai đoạn từ 96-99 vốn lưu động của công ty nếu không xét tới hệ số trượt giá (không thực tế, chính xác) luôn được bảo toàn và gia tăng qua các năm . Đây là điều đáng mừng cho công ty, nó không chỉ chứng tỏ vốn lưu động của công ty đủ để duy trì nhịp độ SX như cũ mà còn cho thấy quy mô SXKD của công ty đang ngày càng được mở rộng.
Công tác quản lý sử dụng vốn lưu động
Sử dụng vốn lưu động được thể hiện ở nhiều mặt. Song thành công lớn nhất có thể kể tới của công ty trong mấy năm qua tập trung chủ yếu ở kết quả kinh doanh của công ty. Tình hình kinh doanh của Thời báo nhìn chung là khả quan. Nếu như từ năm 96 về trước Ringer đã phải bù lỗ để duy trì hoạt động thì hiện nay Ringer không những không phải rót thêm vốn mà còn thu được lãi từ hoạt động đầu tư. Thực vậy doanh thu và lợi nhuận hàng năm đều tăng lên. Tuy rằng tốc độ gia tăng của 2 chỉ tiêu trên không ổn định và có xu hướng giảm dần qua các năm song điều này là không đáng ngại vì về mặt số tuyệt đối các chỉ tiêu này rất lớn. Về chi phí tốc độ tăng của chi phí ngày một giảm dần (<10%) thậm chí năm 98 chi phí còn giảm đi (99.5% so với năm 97). Mặt khác khi phân tích các nhân tố ảnh hưởng tới hệ số luân chuyển và hệ số sinh lời vốn lưu động ta nhận thấy các tỷ lệ này tuy có thể không cao so với các doanh nghiệp khác song sự tăng lên của các hệ số này qua các năm phản ánh phần nào hiệu quả kinh doanh được cải thiện của công ty. Một kết quả đáng ghi nhận khác của công ty đó là tỷ lệ thanh toán của công ty luôn lớn hơn 1 và ngày càng gia tăng cho thấy công ty có đủ khả năng thanh toàn nợ ngắn hạn và điều này cũng hoàn toàn phù hợp với mô hình tài trợ vốn lưu động mà công ty lựa chọn.
Trên đây là những thành tựu nổi bật của công ty trong vài năm qua. Để đạt được những thành tựu này toàn thể cán bộ, nhân viên của công ty đã có những nỗ lực lớn trong công tác quản lý, tổ chức, lao động sản xuất... Tuy không đề cập cụ thể những mặt đạt được trong các công tác trên song có thể hiểu quản lý, sử dụng vốn lưu động khó có thể đạt hiệu quả mong muốn nếu khâu tổ chức quản lý không được đổi mới và ngày một kiện toàn.
Chương III
Một số biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động tại Thời báo kinh tế Việt nam
Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động luôn là mục tiêu phấn đấu của bất kỳ doanh nghiệp nào đặc biệt trong điều kiện kinh doanh hiện nay. Để thực hiện mục tiêu này mỗi doanh nghiệp cần không ngừng nghiên cứu, tìm ra những phương cách mới để sử dụng vốn lưu động một cách có hiệu quả nhất. Là một đơn vị độc lập tự chủ trong SXKD Thời báo kinh tế Việt nam cũng không phải là một ngoại lệ.
Xem xét tình hình quản lý và sử dụng vốn lưu động tại Thời báo trong những năm qua, phải thừa nhận rằng công ty đã đạt được những thành quả đáng khích lệ trong việc quản lý hoạt động SXKD, sử dụng hiệu quả vốn lưu động, phát huy tính năng động sáng tạo trong cơ chế thị trường, đóng góp dáng kể cho Ngân sách Nhà nước, đồng thời không ngừng nâng cao đời sống của cán bộ, nhân viên. Tuy vậy bên cạnh những kết quả, thành tích đạt được công ty còn bộc lộ một số hạn chế cần khắc phục. Trong phạm vi đề tài này, em xin mạnh dạn nêu ra một số ý kiến cá nhân được rút ra trong quá trình thực tập tại Thời báo trên cơ sở những hiểu biết chung về vốn lưu động. Những ý kiến này đều xoay quanh việc giải quyết các tồn tại đã đề cập tới ở các phần trên.
1.Quản lý doanh thu
Quản lý doanh thu được hiểu là các hoạt động làm tăng doanh thu cho doanh nghiệp hay nói cách khác đó cũng chính là những biện pháp nhằm đẩy nhanh hàng hoá ra thị trường. Những biện pháp này được xem xét ở các khía cạnh: hàng hoá, thị trường, dịch vụ, xúc tiến bán... Hiện nay doanh thu của Thời báo đang gia tăng dần qua các năm song không có gì đảm bảo rằng doanh thu này sẽ tăng vững chắc trong các năm tiếp theo nếu công ty không áp dụng các biện pháp để quản lý doanh thu. Với các hàng hoá là ấn phẩm báo chí những biện pháp quản lý doanh thu ở Thời báo cần được thực hiện trên các mặt sau
Về sản phẩm – Công ty cần nâng cao trình độ của đội ngũ biên tập viên, viết báo đảm bảo số lượng và chất lượng thông tin đem đến cho người đọc. Cụ thể tờ báo cần đưa ra những thông tin mới nhất về tình hình kinh tế VN, các chuyên mục như hỏi đáp, hướng dẫn..đặc biệt để chuẩn bị cho sự ra đời của thị trường chứng khoán VN , Thời báo nên tập trung hơn nữa vào vào chuyên mục này... Có như vậy tờ báo mới đáp ứng được nhu cầu của bạn đọc gần xa trên cơ sở đó mà không ngừng duy trì và gia tăng lượng bán hàng trong tương lai. Mặt khác không giống như các hàng hoá thông thường, ấn phẩm của Thời báo giữ 2 chức năng vừa là hàng hoá, vừa là hình thức cung ứng dịch vụ quảng cáo của Thời báo cho khách hàng. Như ta đã biết khi xem xét kết quả kinh doanh của Thời báo thì đây là nguồn chủ yếu tạo ra doanh thu của công ty. Vì vậy tờ báo được độc giả yêu thích không chỉ phản ánh chất lượng nội dung của nó mà còn là điều kiện thuận lợi giúp cho Thời báo có được những hợp đồng quảng cáo lớn. Hiện nay các ấn phẩm của Thời báo đặc biệt là tờ Thời báo kinh tế Việt nam bằng tiếng Việt đang được sự ủng hộ nhiệt tình của bạn đọc. Nhưng hiện tại và trong tương lai Thời báo đang phải đối mặt với cạnh tranh gay gắt không chỉ trong lĩnh vực báo chí kinh tế nói riêng (tờ đầu tư, kinh tế việt nam...) mà trong lĩnh vực báo chí nói chung. Do đó không ngừng nâng cao chất lượng của tờ báo là điều không thể thiếu trong chiến lược kinh doanh của Thời báo giai đoạn tới.
Về giá cả- Hiện nay giá cả các ấn phẩm bằng tiếng Việt của Thời báo là tương đối phù hợp tuy nhiên với các ấn phẩm bằng tiếng Anh thì mức giá còn quá cao so với thu nhập của người Việt nam. Kết quả là lượng bán của ấn phẩm loại này rất thấp. Như ta đã biết một trong những bất lợi của sản phẩm báo chí là tính thời điểm của nó. Vì vậy các sản phẩm này cũng giống như dịch vụ không thể dự trữ được cho chu kỳ SX sau và như vậy công ty đã bị lãng phí vốn. Do đó để giảm tới mức thấp nhất lượng hàng không bán được này vấn đề đặt ra không chỉ xác định đúng nhu cầu thị trường mà còn phải định giá phù hợp.
Về thị trường: Mặc dù tờ thời báo là một tờ báo được nhiều độc giả yêu thích nhưng mạng lưới phân phối của Thời báo còn hạn hẹp chủ yếu tập trung ở các thành phố lớn. Vì vậy một giải pháp quan trọng để tăng doanh thu là mở rộng thị trường. Để làm được điều này công ty nên mở thêm văn phòng, đại lý của mình ở các thành phố khác. Các đại lý này chính là cầu nối giữa công ty và khách hàng qua đó công ty có thể nhận được thông tin phản hồi từ khách hàng về sản phẩm của mình. Mặt khác công ty cũng cần mở rộng số lượng cộng tác viên không chỉ trong lĩnh vực viết báo mà cả trong lĩnh vực bán hàng
2.Quản lý chi phí
Giảm chi phí tăng lợi nhuận nhằm mục đích nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động là điều mà tất cả các doanh nghiệp đều mong muốn. Qua quá trình thực tập tại Thời báo kinh tế Việt nam em nhận thấy công tác quản lý chi phí của Thời báo còn một số hạn chế. Trong khuôn khổ luận văn này em chỉ xin nêu ra một ý kiến nhỏ góp phần giúp công ty quản lý tốt các khoản chi phí, tránh lãng phí.
Do tính chất hoạt động kinh doanh nên công ty thường phát sinh các khoản tạm ứng cho nhân viên, những khoản này nhìn chung đang tăng qua các năm. Thực tế cho thấy công ty chưa quản lý các khoản tạm ứng này một cách hiệu quả, thường xảy ra tình trạng nhân viên sử dụng bừa bãi, không phục vụ mục đích kinh doanh. Vì vậy trong thời gian tới Thời báo phải quản lý chặt chẽ hơn các khoản chi phí này, phải hoàn tạm ứng đợt trước rồi mới tạm ứng cho đợt sau. Tránh tình trạng tạm ứng nhiều đợt cùng một lúc mà không hoàn tạm ứng khiến cho công ty khó quản lý mà bản thân người nhận tạm ứng cũng không nhớ hết mình đã tiêu những khoản gì.
Như vậy các biện pháp tăng doanh thu giảm chi phi góp phần làm tăng lợi nhuận của công ty đồng thời hạn chế tới mức thấp nhất lượng vốn cần thiết cho SXKD, tránh lãng phí kết quả là sẽ nâng cao được hiệu quả sử dụng của vốn lưu động. Việc sử dụng vốn lưu động nói riêng và vốn nói chung sẽ không đạt hiệu quả tốt nhất nếu công ty chỉ tác động vào một trong hai yếu tố là doanh thu hay chi phí. Do đó yêu cầu đặt ra đối với Thời báo trong giai đoạn tới là cần thiết phải áp dụng những biện pháp quản lý tích cực đối với cả doanh thu và chi phí.
3.Về quản lý tiền mặt
Hiên nay công ty chưa xây dựng cho mình một kế hoạch sử dụng tiền mặt hợp lý. Mặc dù công ty cũng có biện pháp làm cho đồng tiền sinh sôi nảy nở như gửi Ngân hàng, song thực tế cho thấy để nâng cao hiệu quả quản lý vốn lưu động công ty cần xác định một cách tương đối chính xác nhu cầu tiền mặt trong từng thời kỳ, từ đó quyết định nên giữ tiền mặt trong két là bao nhiêu để vừa đảm bảo mức tối thiểu nhất vừa đảm bảo tăng tối đa lượng tiền mặt sử dụng vào các mục đích kiếm lời khác. Để làm được điều này công ty cần xây dựng cho mình một kế hoạch thu chi tiền mặt.
Kế hoạch thu chi tiền mặt của công ty phụ thuộc vào những yếu tố sau:
Quy mô kinh doanh của công ty tại từng thời điểm
Chính sách tín dụng thương mại của công ty
Chính sách tín dụng thương mại của khách hàng mà công ty được hưởng
Quy định Nhà nước về các phải nộp
Chế độ lương thưởng của công ty và các yếu tố khác
Căn cứ vào nguồn hình thành thu chi bằng tiền ta có thu chi ngân quỹ cuả công ty bao gồm
Thu/ chi từ hoạt động SXKD
Thu/ chi từ hoạt động đầu tư
Thu/ chi từ hoạt động tài chính
Công ty cần so sánh thu chi bằng tiền để tìm nguồn tài trợ (chủ yếu là ngắn hạn) nếu thâm hụt và đầu tư nếu dư thừa. Các biện pháp liên quan tới nguồn tài trợ đã được đề cập tới trong phần 2. ở đây ta chỉ xem xét các biện pháp nhằm đa dạng hoá các hình thức đầu tư cho công ty khi dư thừa tiền mặt. Hiện tại công ty chỉ áp dụng một hình thức đầu tư duy nhất đó là gửi tiền vào Ngân hàng. Tuy nhiên hiện tại và nhất là trong tương lai khi thị trường chứng khoán ra đời thì ngoài tiền gửi Ngân hàng công ty có thể đầu tư vào các chứng khoán thanh khoản cao như tín phiếu kho bạc, trái phiếu Chính phủ để thu thêm lợi tức từ hoạt động tài chính, tránh ứ đọng tiền mặt mà vẫn đảm bảo khả năng thanh khoản bằng tiền mặt bởi các loại chứng khoán này cũng rất dễ chuyển đổi thành tiền mặt.
4. Một số kiến nghị nhằm tạo điều kiện thực hiện các giải pháp trên
Trên đây là một số biện pháp cơ bản nhằm tăng hiệu quả sử dụng vốn lưu động ở Thời báo kinh tế Việt nam. Tuy nhiên nhữn biện pháp này muồn đạt được hiệu quả toàn diện cần kết hợp với một số chính sách của Nhà nước trong quản lý tài chính doanh nghiệp, đặc biệt trong lĩnh vực quản lý vốn lưu động. Dưới đây là một số kiến nghị nhỏ đối với công tác quản lý vốn lưu động ở doanh nghiệp:
Nhà nước nên quy định cụ thể về việc bảo toàn vốn lưu động trong doanh nghiệp trên cơ sở xác định rõ hệ số trượt giá
Nhà nước nên có quy định cụ thể trong việc tính toán các chỉ tiêu liên quan đến hiệu quả sử dụng vốn lưu động sao cho phù hợp với yêu cầu quản lý và sử dụng vốn lưu động trong thời gian tới (cụ thể để tính chỉ tiêu khả năng sinh lời của vốn lưu động thì nên sử dụng lợi nhuận trước thuế, lãi gộp hay lợi nhuận sau thuế, thực tế hiện nay cho thấy các doanh nghiệp không thống nhất trong việc đánh giá các chỉ tiêu này)
Đối với các doanh nghiệp liên doanh như Thời báo kinh tế Việt nam, Nhà nước cần có những chính sách ưu đãi hơn nữa như giảm các thủ tục giấy tờ phiền hà, tạo điều kiện thuận lợi trong việc vay vốn khi các doanh nghiệp này có nhu cầu... Có như vậy mới khuyến khích, duy trì hoạt động của các doanh nghiệp nước ngoài đầu tư vào Việt nam.
Kết luận
Vốn lưu động và việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động không phải là một vấn đề mới mẻ nhưng nó luôn là mối quan tâm hàng đầu của mỗi doanh nghiệp bởi hiệu quả sử dụng vốn lưu động gắn liền với hiệu quả sản xuất kinh doanh.
Trong nền kinh tế thị trường luôn có sự cạnh tranh gay gắt giữa các doanh nghiệp với nhau, để đứng vững được trên thị trường là một vấn đề hết sức khó khăn. Thời báo kinh tế Việt nam là một công ty với số vốn kinh doanh không lớn, còn non trẻ nên công ty cũng không tránh khỏi phải đối đầu với những khó khăn và cạnh tranh gay gắt trên thị trường. Vì vậy nâng cao hiệu quả sử dụng vốn nói chung và vốn lưu động nói riêng không phải là một vấn đề giải quyết ngày một ngày hai mà nó là mục tiêu phấn đấu lâu dài của công ty. Những năm qua công ty đã có nhiều cố gắng, tích cực vươn lên trong SXKD, làm ăn có lãi. Tuy nhiên công ty vẫn còn tồn tại không ít khó khăn trong việc quản lý và sử dụng vốn lưu động.
Với đề tài này em muốn đưa ra một số vấn đề cơ bản và thực tiễn về hiệu quả công tác quản lý vốn lưu động ở Thời báo . Thông qua đó đề xuất một số ý kiến nhằm hoàn thiện công tác này của công ty. Đề tài trình bày và đề cập vấn đề trên khía cạnh đổi mới nhận thức và biện pháp hoàn thiện. Hy vọng rằng các giải pháp này sẽ góp phần thúc đẩy hoạt động kinh doanh của công ty nói chung và công tác quản lý vốn lưu động nói riêng.
Do hạn chế về thời gian và trình độ nên đề tài cũng không thể tránh khỏi những sai sót và hạn chế, rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến, phê bình của thầy cô giáo và các bạn đọc để đề tài được hoàn thiện và có giá trị thực tiễn hơn.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 29675.doc