Đề tài Thực trạng công tác thẩm định cho vay đối với các dự án vay vốn tín dụng ĐTPT tại ngân hàng phát triển Việt Nam giai đoạn 2006 - 2008

Doanh nghiệp vay vốn của NHPTVN với lãi suất cho vay sẽ rẻ hơn vay của các ngân hàng thương mại khác. Bởi vì Ngân hàng cho vay theo thông lệ quốc tế là lãi suất trái phiếu Chính phủ kỳ hạn 5 năm cộng thêm một khoản phí nhất định (khoảng 1%/năm), lãi suất này thấp hơn lãi suất ở các ngân hàng thương mại. Mặt khác, sự ưu đãi còn thể hiện ở chỗ thời hạn cho vay của NHPTVN dài hơn các ngân hàng khác. Hơn nữa, việc khấu hao máy móc, nhà xưởng, v.v. cũng được dài hơn nên khách hàng vay vốn có điều kiện tích lũy để tái sản xuất và mở rộng đầu tư. Thêm vào đó, điều kiện cho vay của Ngân hàng đơn giản hơn so với vay từ các ngân hàng thương mại khác như không phải thế chấp, hoặc nếu có thì tỷ lệ thế chấp ở mức tương đối thấp, bằng 30% giá trị khoản vay. Trong tương lai, ngân hàng có dự định trình Chính phủ giảm mức thế chấp xuống còn 15% giá trị khoản vay.

doc68 trang | Chia sẻ: Dung Lona | Lượt xem: 1201 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng công tác thẩm định cho vay đối với các dự án vay vốn tín dụng ĐTPT tại ngân hàng phát triển Việt Nam giai đoạn 2006 - 2008, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nguồn tái đầu tư 6.545,25 - Đề nghị vay vốn tại NHPTVN (nguồn tín dụng ĐTPT): + Tổng số vốn xin vay: 10.000 triệu đồng +Thời gian đề nghị vay vốn: 9 năm + Thời gian ân hạn: 2 năm + Lãi suất vay: 7,8%/năm 2.2.3.2. Thẩm định dự án 2.2.3.2.1. Thẩm định hồ sơ dự án, hồ sơ chủ đầu tư: Dự án đầu tư xây dựng hệ thống cấp nước KCN Nam Tân Uyên đã được nghiên cứu tương đối nghiêm túc. Căn cứ pháp lý: - Quyết định số 519/TTg ngày 08 tháng 06 năm 1996 của Thủ tướng Chính phủ về việc: phê duyệt quy hoạch tổng thể phát triển khu công nghiệp và kết cấu hạ tầng thời kỳ 1996 – 2020. - Công văn 747/UB-KHTH ngày 25/04/2003 của UBND tỉnh Bình Dương về việc: cho phép Công ty Cao su Phước Hòa được đầu tư xây dựng và kinh doanh hạ tầng KCN Nam Tân Uyên. - Quyết định số 6929/QĐ-CT ngày 07 tháng 09 năm 2004 của Chủ tịch ỦBND tỉnh Bình Dương v/v phê duyệt quy hoạch chi tiết khu dân cư (thuộc khu công nghiệp Nam Tân Uyên) xã Khánh Bình – huyện Tân Uyên – tỉnh Bình Dương. - Công văn số 774/UB-SX ngày 02/03/2004 của Chủ tịch UBND tỉnh Bình Dương v/v chấp thuận chủ trương cho phép Công ty Cấp thoát nước Bình Dương được đầu tư lắp đặt hệ thống cấp nước cho KCN Nam Tân Uyên. - Hợp đồng xây dựng số 05/HĐ-CTN ngày 22/02/2006 giữa Công ty Cấp thoát nước Bình Dương và Công ty cổ phần KCN Nam Tân Uyên v/v xây dựng và quản lý hệ thống cung cấp nước KCN Nam Tân Uyên. - Quyết định số 3436/QĐ-CT ngày 05/05/2004 của Chủ tịch UBND tỉnh Bình Dương v/v cấp phép thăm dò kết hợp khai thác nước dưới đất của Công ty Cấp thoát nước tỉnh Bình Dương. - Quy hoạch tổng thể kinh tế xã hội huyện Tân Uyên đã được UBND tỉnh Bình Dương phê duyệt năm 2001. - Các văn bản pháp lý của Nhà nước và các cấp chính quyền liên quan đến KCN Nam Tân Uyên. Các tài liệu cơ sở để lập dự án: - Bản đồ đo đạc địa hình KCN tỷ lệ 1/2000 do Công ty Tư Vấn Xây dựng Tổng hợp – Bộ Xây dựng vẽ tháng 06/2003. - Các số liệu, tài liệu, điều tra cơ bản về hiện trạng, kinh tế, xã hội, các dự án khả thi có liên quan được các ngành, các cấp có thẩm quyền phê duyệt. - Đồ án quy hoạch chung KCN Nam Tân Uyên. - Đồ án quy hoạch chi tiết khu dân cư (thuộc KCN Nam Tân Uyên). - Tiêu chuẩn thiết kế TCVN 33 – 85 - Báo cáo: kết quả thăm dò đánh giá trữ lượng nước dưới đất KCN Nam Tân Uyên – huyện Tân Uyên – tỉnh Bình Dương do Đoàn địa chất thủy văn – Địa chất công trình 802 lập tháng 08 năm 2004. - Kết quả khoan thăm dò địa chất. - Bãn vẽ thiết kế cơ sở: Hệ thống Cấp nước KCN Nam Tân Uyên - Biên bản bàn giao đất xây dựng nhà máy nước ngày 12/04/2005 giữa Công ty Cấp thoát nước Bình Dương và Công ty Cổ phần KCN Nam Tân Uyên. Nhận xét: Hồ sơ của dự án đầy đủ và hợp pháp. 2.2.3.2.2. Sự cần thiết phải đầu tư Theo kết quả tính toán thì nhu cầu nước của KCN đến năm 2007 là khoảng xấp xỉ 2.900m3/ngày/đêm, đến năm 2009 trở đi là khoảng 12.000m3/ngày/đêm. Tuy nhiên, từ trước đến nay trong khu vực này chưa có hệ thống cấp nước. Nước cho sinh hoạt và sản xuất đều khai thác nước ngầm qua các giếng đào, giếng đóng và giếng khoan với lưu lượng khai thác hạn chế. Điều này gây ra tình trạng thiếu hụt nghiêm trọng nước phục vụ sinh hoạt và sản xuất chưa nói đến nước phục vụ cho nhu cầu của KCN Nam Tân Uyên. Vì vậy, cần thiết phải xây dựng hệ thống cấp nước, khai thác nguồn nước ngầm với công suất 2.900m3/ngày/đêm để phục vụ nhu cầu trước mắt và đồng thời tiến hành xây dựng nhà máy khai thác và xử lý nước mặt với quy mô công suất 12.000m3/ngày/đêm để phục vụ nhu cầu sinh hoạt và sản xuất lâu dài của KCN, khu tái định cư cũng như các địa bàn lân cận. Do vậy, việc tiến hành thực hiện dự án là thực sự cần thiết. 2.2.3.2.3. Sản phẩm của dự án Sản phẩm của dự án là nước sạch với công suất thiết kế là 12.000m3/ngày/đêm, được khai thác từ hai nguồn: - Nước ngầm khai thác từ các giếng khoan với công suất thiết kế là 2.900m3/ngày/đêm; - Nước mặt sông Đồng Nai được lấy từ đường ống dẫn nước thô đoạn từ trạm bơm nước thô đến trạm xử lý nước của Nhà máy nước Tân Hiệp với công suất thiết kế 12.000m3/ngày/đêm. 2.2.3.2.4. Tổng mức đầu tư dự án Tổng mức đầu tư của dự án đã được tính toán lại để phù hợp với quy định trên cơ sở các hợp phần do Chủ đầu tư đề xuất. Bảng 9: Tổng mức đầu tư dự án Đơn vị tính: triệu đồng TT Khoản mục Tổng số Năm đầu tư Năm 2006 Năm 2007 Năm 2008 Quý 1 Quý 2 Quý 3 Quý 4 Quý 1 Quý 2 Quý 3 Quý 4 I Tổng mức đầu tư 48.275 1.737 4.607 4.534 4.595 4.494 7.475 7.576 6.588 6.668 1 Vốn cố định 47.836 1.737 4.607 4.534 4.595 4.494 7.475 7.576 6.588 6.668 a Chi phí xây lắp + vật tư 34.967 1.317 3.157 3.157 3.157 3.157 5.255 5.255 5.255 5.255 Chi phí lán trại 769 769 b Chi phí thiết bị SX 3.273 646 646 990 990 c Chi phí thiết bị VP 100 d Chi phí khác 4.378 262 262 318 374 429 550 642 734 806 e Dự phòng 4.349 158 419 412 418 369 680 689 599 606 2 Vốn lưu động sản xuất 439 439 Với cơ cấu các chi phí do Chủ đầu tư đề xuất, tổng mức đầu tư trên không bao gồm: Chi phí đào tạo); chi phí trưng dụng đất và tái định cư; chi phí lắp đặt đấu nối vào nhà và đồng hồ đo nước; chi phí xây dựng trạm thí nghiệm), điều này được giải thích như sau: Chi phí đào tạo nhân lực: Chủ đầu tư đã có sẵn đội ngũ cán bộ kỹ thuật lành nghề, có kinh nghiệm sử dụng các thiết bị hiện đại. Mặt khác, đội ngũ cán bộ sẽ được đào tạo nâng cao năng lực từ dự án cấp nước Tân Hiệp với chi phí phần lớn do Chính phủ Hà Lan tài trợ. Chi phí lắp đặt đấu nối vào nhà và đồng hồ nước: được tính riêng cho từng khách hàng và do khách hàng chi trả nên không tính vào tổng mức đầu tư. Chi phí đầu tư trạm thí nghiệm: do Chủ đầu tư đã có trạm thí nghiệm riêng để kiểm định chất lượng nguồn nước, tại mỗi nhà máy nước đều có cán bộ giám sát chất lượng sau khi xử lý, các chỉ tiêu thông thường thì tiến hành hàng ngày, các chỉ tiêu toàn phần thì thực hiện hàng tháng tại phòng thí nghiệm, do đó để tiết kiệm chi phí nên dự án không đầu tư thêm trạm thí nghiệm. Chi phí trưng dụng đất đền bù, tái định cư: đất để xây dựng trạm xử lý (nước ngầm và nước mặt) nằm trong KCN do Chủ đầu tư thuê dài hạn từ Ban Quản lý KCN: đất để xây dựng giếng khoan cũng nằm ngay trong phần diện tích đất thuê. Sẽ có trưng dụng đất tạm thời để xây dựng các tuyến ống truyền dẫn, phân phối và tuyến ống nước thô, nhưng do tất cả các tuyến ống đều được xây dựng dọc các tuyến đường trong KCN và khu dân cư (đất công) nên chỉ có đền bù làm lại mặt đường và vỉa hè và phần chi phí này đã là một phần công việc của nhà thầu xây dựng tuyến ống. 2.2.3.2.5. Nguồn vốn đầu tư Nguồn vốn đầu tư 48.274 triệu đồng, bao gồm: - Vốn vay tín dụng ĐTPT: 10.000 triệu đồng; - Vay Quỹ quay vòng WB: 16.000 triệu đồng; - Vốn huy động: 8.000 triệu đồng; - Vốn tự có: 14.274 triệu đồng. Một trong những yếu tố đảm bảo tính khả thi của dự án là việc huy động được nguồn vốn theo đúng cơ cấu đề xuất nêu trên. Nguồn vốn huy động cho dự án có thể được đảm bảo vì các lý do sau: Nguồn vốn tín dụng ĐTPT: Chi nhánh NHPT Bình Dương đã ký hợp đồng tín dụng cho vay vốn tín dụng ĐTPT đối với dự án; Nguồn vốn huy động: Công ty Cổ phần Khu công nghiệp Nam Tân Uyên (là chủ đầu tư của KCN Nam Tân Uyên) đã ký cam kết cho Chủ đầu tư vay 8.000 triệu đồng để đầu tư dự án với lãi suất 0%; Nguồn vốn tự có: Với lợi nhuận hàng năm khoảng hơn 5 tỷ đồng và nguồn khấu hao để lại của các dự án khác (không bao gồm các dự án đầu tư bằng vốn vay thương mại) lên tới hàng chục tỷ đồng/năm, việc tham gia vốn tự có của Chủ đầu tư với mức đề xuất nêu trên là khả thi; Nguồn vốn vay WB: thẩm quyền quyết định cuối cùng thuộc về WB, tuy nhiên mức vốn đề xuất là phù hợp với Hiệp định tín dụng giữa WB và Chính phủ Việt Nam. 2.2.3.2.6. Kỹ thuật và công nghệ Nhìn chung, quy trình công nghệ lựa chọn để xử lý nước ngầm và nước mặt đề xuất là phù hợp, các biện pháp giảm thiểu ô nhiễm môi trường trong quá trình vận hành trạm xử lý nước, như xử lý bùn cặn, nước rửa bể lọc, cũng đã được xem xét một cách thích hợp. Tuy nhiên, dây chuyền công nghệ đề xuất chưa bao gồm các phương án xử lý khi có sự cố, ví dụ như có sự thay đổi về chất lượng nước mặt sông Đồng Nai và biện pháp bảo vệ nguồn nước không bị ô nhiễm. Nhưng đây là vấn đề khó có thể giải quyết trong quy mô của dự án này do nó mang tính quản lý tổng thể lưu vực dòng sông. Dự án đề xuất xây dựng hai nhà máy xử lý nước với hai nguồn nước khác nhau. Nhà máy xử lý nước ngầm sẽ đáp ứng yêu cầu cấp bách trước mắt về dịch vụ cấp nước cho KCN Nam Tân Uyên, nhưng chỉ khai thác trong vài năm đầu sau khi xây dựng sau đó được sử dụng như là “công suất dự phòng” sẽ không có tính thuyết phục về hiệu quả vốn đầu tư. Mặt khác, Chủ đầu tư nên cân nhắc phân kỳ xây dựng trong giai đoạn 2, ví dụ, xây dựng một đơn nguyên nhà máy xử lý nước với công suất 6.000m3/ngày/đêm, sau khi sử dụng gần hết công suất đó hãy tiếp tục xây dựng đơn nguyên thứ hai cùng với công suất. Báo cáo đầu tư không đề cập và đánh giá tới chất lượng của thiết bị được lựa chọn làm cơ sở để đánh giá tính khả thi cũng như chứng minh thời gian khấu hao áp dụng là phù hợp. Vật tư đường ống được đề xuất lựa chọn xây dựng các tuyến ống nước thô, tuyến ống truyền dẫn và phân phối chưa đủ sức thuyết phục. Ví dụ như việc lựa chọn ống uPVC hay ống HDPE cho các cỡ đường ống khác nhau chưa đề cập đến các vấn đề giá cả và sự sẵn có của các phụ tùng nối ống; ống gang xám hiện nay đang rất hiếm khi được sử dụng vì hiện tại trên thị trường có rất nhiều nhà cung cấp ống gang dẻo có nhiều ưu điểm hơn mà giá lại không khác biệt nhiều. Dự án đề xuất không tính chi phí đấu nối vào nhà và đồng hồ tiêu thụ vào tổng chi phí của dự án. Điều này sẽ làm giảm tổng dự toán dự án, nhưng không làm giảm tổng chi phí để xây dựng hệ thống cấp nước. Vì hệ thống cấp nước sẽ không vận hành được nếu không có đấu nối với hộ tiêu thụ nước. Việc đấu nối hộ tiêu thụ nước được đề xuất từ chi phí đóng góp của các hộ tiêu thụ sẽ mang lại những bất lợi là không bán được nước ngay từ thời điểm đưa nhà máy nước hoạt động. 2.2.3.2.7. Nghiên cứu tác động tới môi trường và biện pháp giảm thiểu ô nhiễm Tác động tới môi trường và các biện pháp giảm thiểu được đề xuất trên các nội dung cơ bản sau: Tác động tích cực của dự án; Tác động môi trường và biện pháp giảm thiểu trong giai đoạn xây dựng dự án (nhà máy và đường ống); Tác động và biện pháp giảm thiểu trong quá trình vận hành hệ thống cấp nước. Dự án đã đề xuất được các biện pháp giảm thiểu nhằm đảm bảo hạn chế tới mức thấp nhất khả năng gây ô nhiễm, tác động tiêu cực tới môi trường. 2.2.3.2.8. Điều kiện vay vốn và các nguồn cung cấp tài chính Điều kiện vay vốn tín dụng ĐTPT của Nhà nước được ấn định như sau: - Thời gian cho vay: tối đa 09 năm, trong đó có 02 năm ân hạn, thời hạn trả nợ gốc: 07 năm - Lãi suất cho vay: theo quy định tại thời điểm ký hợp đồng tín dụng 7,8%/năm - Kỳ hạn trả nợ gốc, lãi: hàng tháng - Mức trả nợ gốc từng kỳ: bằng dư nợ thực tế chia cho số kỳ trả nợ 2.2.3.2.9. Phân tích tài chính kinh tế dự án Lợi ích kinh tế của dự án rất rõ ràng là: - Cung cấp dịch vụ cấp nước cho nhu cầu sinh hoạt cho các hộ gia đình trong khu vực xã Khánh Bình và một số khu vực lân cận góp phần nâng cao đời sống, sức khỏe của người dân và công nhân trong KCN. - Cung cấp cơ sở hạ tầng cấp nước cho KCN, cuốn hút đầu tư vào KCN, tạo công ăn việc làm cho người dân địa phương Tính khả thi về mặt tài chính của dự án được thể hiện qua các chỉ tiêu tỉ số hoàn vốn nội bộ (IRR = 12,87%) và giá trị hiện tại thuần NPV = 9.549 triệu đồng, B/C = 1,124. Do vậy, có thể nói rằng dự án là khả thi về mặt tài chính. 2.2.3.2.10. Đề xuất quyết định cho vay NHPTVN chấp thuận cho Công ty TNHH một thành viên Cấp thoát nước và Môi trường Bình Dương vay vốn từ nguồn vốn tín dụng ĐTPT của Nhà nước với tổng mức vay là 10 tỷ đồng để thực hiện dự án “Đầu tư xây dựng Hệ thống Cấp nước KCN Nam Tân Uyên” với điều kiện Chủ đầu tư cam kết khắc phục được các vấn đề sau: - Đảm bảo được nguồn vốn đối ứng (vốn tự có) như đã cam kết; - Có giấy phép khai thác nước ngầm và nước mặt của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền theo quy định hiện hành; - Cân đối được nguồn thu hợp pháp khác (lợi nhuận chưa phân phối và nguồn khấu hao tài sản hợp pháp khác) để trả nợ trong các năm đầu khi dự án đi vào hoạt động khi nguồn thu của dự án không đủ bù đắp kế hoạch trả nợ. 2.2.4. Đánh giá công tác thẩm định cho vay đối với các dự án vay vốn tín dụng ĐTPT của Nhà nước tại NHPTVN giai đoạn 2006 – 2008 2.2.4.2. Đánh giá công tác thẩm định dự án đầu tư tại NHPTVN Mặc dù NHPTVN đã quy định nhiều quy chế cho vay rất chặt chẽ và rõ ràng nhằm loại bỏ trường hợp cho vay đối với những dự án không khả thi. Tuy nhiên, không thể tránh khỏi có những dự án mà chủ đầu tư cố tình làm sai lệch các con số của dự án để nhằm có được nguồn vốn vay. Do vậy, công tác thẩm định dự án đối với NHPTVN là một công đoạn rất quan trọng trong quy trình cho vay vốn tín dụng ĐTPT. Đánh giá công tác thẩm định của NHPTVN trong thời gian qua, chúng ta có một số nét chính như sau: Bảng 10 : Số dự án NHPTVN thẩm định và quyết định cho vay Năm 2006 2007 2008 Dự án nhóm A 14 15 16 Dự án nhóm B,C 204 268 268 (Nguồn: Báo cáo thường niên NHPTVN) Năm 2006 là năm mà NHPTVN chuyển đổi mô hình hoạt động từ Quỹ Hỗ trợ phát triển sang NHPT, toàn bộ các dự án đang được triển khai thẩm định đều được tiếp nhận bàn giao sang NHPT. - Đối với dự án nhóm A: Tính đến hết năm 2006, tổng dự án nhóm A được NHPTVN thẩm định và quyết định cho vay là 14 dự án. Trong đó tập trung cho vay đối với các dự án trọng điểm phục vụ trực tiếp cho việc phát triển nền kinh tế (3 dự án thuỷ điện với tổng công suất 560 MW cung cấp cho nền kinh tế khoảng 2,5 triệu MWh điện mỗi năm và 4 dự án xi măng với tổng công suất 2950 tấn cliker/ngày cung cấp hàng năm 1,4 triệu tấn xi măng). - Đối với dự án nhóm B, C: mặc dù thay đổi mô hình hoạt động nhưng trong giai đoạn này, NHPTVN vẫn thực hiện cho vay theo danh mục đối tượng dự án được hỗ trợ tín dụng ĐTPT của NĐ số 106/2004/NĐ-CP mà Quỹ Hỗ trợ phát triển thực hiện nên số lượng dự án thẩm định chuyển tiếp và dự án mới tương đối nhiều. Giai đoạn năm 2007 là giai đoạn bản lề của NHPTVN, đây là giai đoạn có nhiều thay đổi trong công tác thẩm định. Cũng từ năm này, NHPTVN thực hiện thẩm định và quyết định cho vay theo các quy định cũng như theo danh mục dự án vay vốn tín dụng đầu tư tại NĐ số 151/2006/NĐ-CP ngày 26/12/2006. Trong năm này, NHPTVN cũng đã tiến hành ban hành Quy chế cho vay tín dụng đầu tư (được ban hành kèm theo Quyết định số 41/QD-HĐQL ngày 14/09/2007) và văn bản hướng dẫn nghiệp vụ cho vay tín dụng đầu tư. Bên cạnh đó, công tác phân cấp uỷ quyền trong công tác thẩm định và quyết định cho vay được tập trung đẩy mạnh thực hiện. NHPTVN đã tiến hành phân cấp rộng hơn cho các Chi nhánh tạo thế chủ động trong việc triển khai nhiệm vụ tín dụng đầu tư cũng như gắn trách nhiệm của Chi nhánh với trách nhiệm với cả hệ thống Ngân hàng. Do phải tiến hành chờ các văn bản hướng dẫn 151/2006/NĐ-CP cũng như việc triển khai thực hiện thẩm định và quyết định cho vay theo quy chế mới nên số lượng dự án tiếp nhận thẩm định trong năm 2007 có biến động giảm so với năm 2006. Tuy nhiên, số lượng dự án thẩm định và quyết định cho vay của hệ thống NHPTVN vẫn tăng so với năm 2006. Cụ thể, trong năm 2007, NHPTVN tiếp nhận thẩm định trên 350 dự án, trong đó có 283 dự án được duyệt quyết định cho vay, với 15 dự án được quyết định cho vay là dự án nhóm A, 268 dự án được quyết định cho vay là dự án nhóm B, C. Cũng như năm 2006, trong năm 2007 hầu như toàn bộ các dự án thuỷ điện và xi măng lớn đều được NHPTVN cấp tín dụng góp phần đảm bảo an ninh năng lượng, cân đối cung cầu về nguyên vật liệu cho nền kinh tế. Năm 2008 là năm có nhiều biến động lớn đối với nền kinh tế, tỷ lệ lạm phát tăng cao ảnh hưởng rất lớn đến việc quyết định đầu tư vào các dự án cũng như khả năng đảm bảo đủ nguồn vốn để thực hiện cho vay đối với hệ thống Ngân hàng nói chung. Bên cạnh đó, sau gần 2 năm thực hiện cho vay theo danh mục của NĐ 151/2006/NĐ-CP, đến tháng 09/2008, Chính phủ đã ban hành NĐ số 106/2008/NĐ-CP ngày 19/09/2008 sửa đổi bổ sung một số điều của NĐ số 151/2006/NĐ-CP, trong đó có việc thay đổi danh mục các dự án vay vốn tín dụng đầu tư theo hướng cắt giảm một số dự án được hưởng ưu đãi vay vốn tín dụng đầu tư của Nhà nước. Điều này đã ảnh hưởng không nhỏ đến công tác thẩm định tại Ngân hàng. Tuy nhiên, với việc tiếp tục đẩy mạnh chất lượng công tác thẩm định, tăng cường các biện pháp giám sát phân cấp cùng với sự điều hành linh hoạt của tập thể Lãnh đạo NHPTVN, năm 2008, NHPTVN đã có bước tăng trưởng tín dụng mạnh hơn so với năm 2007 và được thể hiện qua một trong các chỉ tiêu đó là số lượng dự án được thẩm định và quyết định cho vay cũng như mức vốn cho vay đối với các dự án này. Trong năm 2008, có 26 dự án nhóm A được tiếp nhận, trong đó - 16 dự án đã có ý kiến chấp thuận cho vay về nguyên tắc của NHPTVN với tổng số vốn chấp thuận cho vay là 16.594 tỷ đồng; - 01 dự án NHPTVN từ chối cho vay (dự án thuỷ điện Serepok 4 tại Đăk Lăk); - 09 dự án chưa hoàn thiện thủ tục đã được NHPTVN có ý kiến để chủ đầu tư hoàn chỉnh bổ sung. Cũng trong năm này, có 268 dự án nhóm B, C được quyết định cho vay với tổng mức đầu tư khoảng 35.979 tỷ đồng. Năm 2008 đánh dấu bước ngoặt trong công tác giám sát phân cấp, giảm rủi ro tín dụng và nâng cao chất lượng thẩm định trong toàn hệ thống thông qua các quy định về giám sát phân cấp. Qua giám sát phân cấp, Hội sở chính đã thực hiện 265 lần cảnh báo đối với 184 dự án, trong đó: - 34 dự án NHPTVN yêu cầu dừng việc cho vay vốn tín dụng đầu tư của Nhà nước với tổng mức đầu tư 2.318 tỷ đồng, tổng số vốn từ chối cho vay tín dụng ĐTPT của Nhà nước là 1.270 tỷ đồng. Trong đó: 27 dự án Lãnh đạo NHPTVN quyết định dừng ngay sau khi xem xét báo cáo thẩm định của Chi nhánh; 07 dự án Lãnh đạo NHPTVN quyết định dừng sau khi có giải trình của Chi nhánh. Các lý do dừng chủ yếu có thể kể đến: dự án thiếu hồ sơ pháp lý và không có hiệu quả kinh tế; dự án không thuộc đối tượng; Chi nhánh chưa tuân thủ các quy định của Tổng Giám đốc NHPTVN... - 39 dự án có công văn yêu cầu báo cáo, thẩm định lại phương án tài chính, phương án trả nợ vốn vay của dự án. Trong quý I năm 2009, tiếp tục theo đà phát triển của năm 2008, NHPTVN đã tiến hành tiếp nhận thẩm định 6 dự án nhóm A trong đó đã chấp thuận cho vay 2 dự án với tổng mức vốn cho vay 1.090 tỷ đồng. Tổng số dự án nhóm B, C không phân cấp được tiếp nhận và thẩm định 10 dự án. Đối với chương trình phân cấp, toàn hệ thống NHPTVN đã tiếp nhận và quyết định cho vay 14 dự án. Tổng hợp kết quả đạt được từ Quỹ Hỗ trợ phát triển, NHPTVN đã tiếp tục cho vay đối với rất nhiều ngành nghề, lĩnh vực phục vụ trực tiếp cho việc phát triển nền kinh tế. Trong đó có những dự án đặc biệt quan trọng đối với quốc gia như: dự án Thủy điện Sơn La, dự án Nhà máy lọc dầu Dung Quất. Ngoài ra, các dự án xi măng và thủy điện vay vốn NHPTVN chiếm một tỷ trọng không nhỏ, với kết quả như sau: - Dự án xi măng: NHPTVN đã tiếp nhận và thẩm định 33 dự án, trong đó đã chấp thuận cho vay 29 dự án, tổng mức vốn chấp thuận cho vay: 16.470.462 triệu đồng; - Dự án thủy điện: NHPTVN đã tiếp nhận và thẩm định 88 dự án, trong đó đã chấp thuận cho vay 51 dự án, tổng mức vốn chấp thuận cho vay: 25.352.604 triệu đồng. Như vậy, trong 3 năm hoạt động, tổng số dự án được NHPTVN chấp thuận cho vay là khoảng 785 dự án, trong đó có 45 dự án nhóm A (tăng 170% so với giai đoạn 5 năm hoạt động của Quỹ Hỗ trợ phát triển). Hiện đã có trên 3.400 dự án, trong đó có trên 30 dự án nhóm A hoàn thành toàn bộ hoặc từng phần đưa vào khai thác sử dụng, góp phần quan trọng tăng cường năng lực sản xuất của các ngành kinh tế, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Cùng với vị thế là nhà tài trợ vốn dài hạn đứng đầu hệ thống các tổ chức tài chính ngân hàng trong nước với dư nợ chiếm khoảng 17% tổng dư nợ toàn nền kinh tế, NHPTVN cũng là nhà phát hành trái phiếu Chính phủ lớn thứ hai sau Kho bạc Nhà nước. Điều này đã thể hiện vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy sự phát triển của thị trường tài chính nói chung và thị trường vốn nói riêng. Phát huy thế mạnh của mình, NHPTVN đang tiếp tục phát triển hoạt động với mục tiêu chiến lược là trở thành một ngân hàng chuyên nghiệp của Chính phủ trong lĩnh vực đầu tư phát triển và xuất khẩu, đáp ứng tốt nhất nhu cầu của các nhà đầu tư, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế bền vững; có bộ máy tinh gọn với năng lực quản lý tiên tiến trên nền tảng công nghệ hiện đại, tình hình tài chính minh bạch, đáp ứng các chuẩn mực quốc tế về an toàn vốn và tín dụng. a, Những kết quả đạt được Về mô hình tổ chức bộ máy và cán bộ Qua 3 năm hoạt động của NHPTVN, công tác tổ chức đã dần được ổn định và đảm bảo yêu cầu đặt ra đối với công tác thẩm định trong toàn hệ thống. Bên cạnh đó, mô hình phối hợp giữa các Ban nghiệp vụ trong quá trình thẩm định không có thay đổi nhiều so với Quỹ Hỗ trợ phát triển. Tuy nhiên, hiện nay, trong công tác thẩm định còn có thêm chức năng giám sát phân cấp. Việc giám sát phân cấp được thực hiện tương đối cụ thể và chặt chẽ đã khắc phục được một số các sai phạm khách quan và chủ quan khi tiến hành thực hiện phân cấp uỷ quyền cho các Chi nhánh, đồng thời nâng cao chất lượng thẩm định trong toàn hệ thống. Hiện nay, phân cấp đã mở rộng hơn và được xác định trên cơ sở năng lực thẩm định. Mặt khác, NHPTVN đã thành lập Hội đồng tín dụng tại Hội sở chính với thành phần là Lãnh đạo NHPTVN và Lãnh đạo các Ban liên quan để xem xét quyết định cho vay đối với dự án lớn, quan trọng. Sự phối hợp giữa Hội sở chính và các Chi nhánh trong việc thực hiện thẩm định đã từng bước đi vào nề nếp. Nhận thức của các đơn vị trong việc thực hiện các nội dung thẩm định liên quan đến năng lực chủ đầu tư, dự án đầu tư đã dần dần được nâng cao. Đội ngũ cán bộ thực hiện thẩm định tuy chưa hoàn toàn đồng đều nhưng đã từng bước nâng cao kiến thức và kinh nghiệm công việc. Nói chung, về cơ bản đội ngũ cán bộ hiện nay là đã đảm bảo yêu cầu đối với cán bộ thẩm định trong hệ thống các ngân hàng hoạt động tại Việt Nam. Về việc xây dựng cơ chế hướng dẫn công tác thẩm định Quy chế và Quy trình thẩm định phương án tài chính và phương án trả nợ vốn vay tiếp tục được hoàn thiện trên cơ sở quy định chi tiết các nội dung đối với việc thẩm định một dự án đầu tư. Bên cạnh đó, nội dung thẩm định trong quy trình cũng được cập nhật các quy định hiện hành về quản lý đầu tư va quản lý đầu tư xây dựng công trình và các văn bản pháp quy liên quan tạo điều kiện thuận lợi cho cán bộ trong tác nghiệp. Bên cạnh đó, để đảm bảo thuận tiện cho chủ đầu tư cũng như cho cán bộ thực hiện, nội dung thẩm định hồ sơ vốn vay cũng đã được chi tiết cụ thể. Quy trình cũng đã hướng dẫn chi tiết các bước thực hiện, phân công nhiệm vụ và thể hiện cơ chế phối hợp cụ thể giữa các đơn vị thực hiện quá trình thẩm định phương án tài chính và phương án trả nợ vốn vay. Về việc cung cấp thông tin phục vụ công tác thẩm định Việc cung cấp thông tin kinh tế - kỹ thuật cho các Chi nhánh cũng được chú trọng triển khai, khi thực hiện thẩm định dự án, Chi nhánh cần dữ liệu thông tin nào về dự án cũng như về chủ đầu tư đều có thể gửi văn bản về Hội sở chính đề nghị cung cấp. Về cơ bản các yêu cầu về thông tin kinh tế - kỹ thuận của các Chi nhánh đều được đáp ứng một cách nhanh chóng. Hội sở chính đã thực hiện việc hướng dẫn kịp thời những khó khăn, vướng mắc để các Chi nhánh triển khai thực hiẹn phù hợp với thực tế và những thay đổi về cơ chế, chính sách của Nhà nước, từng bước đưa công tác thẩm định trong hệ thống vào nề nếp và chuyên nghiệp, đi sâu hơn vào các ngành nghề, chú trọng hơn đến việc thẩm định về các chỉ tiêu kinh tế - kỹ thuật của dự án. b, Những tồn tại và nguyên nhân Tuy đạt được nhiều kết quả khả quan, NHPTVN vẫn không tránh khỏi những thiếu sót trong công tác thẩm định. Về mô hình tổ chức bộ máy và cán bộ Trong những năm đầu từ khi chuyển đổi từ Quỹ Hỗ trợ phát triển sang NHPT, mô hình tổ chức bộ máy thực hiện công tác thẩm định tỏ ra phù hợp và hiệu quả. Tuy nhiên, với việc những nhiệm vụ Chính phủ giao ngày càng nặng nề cộng với những mục tiêu, tầm nhìn chiến lược NHPTVN đã đặt ra, mô hình cũ tỏ ra còn nhiều hạn chế khi số phòng ban chưa đủ để thực hiện nhiệm vụ mới, việc thực hiện một số nội dung công việc còn chồng chéo, chưa đáp ứng đầy đủ các yêu cầu đối với việc quản trị tín dụng đối với một ngân hàng. Mặt khác, NHPTVN chưa có hệ thống lưu trữ thông tin thẩm định. Các kết quả thẩm định đều được lưu bằng văn bản, giấy tờ hoặc trên máy tính của từng cá nhân mà không chuyển về trung tâm lưu trữ dẫn tới khó kiểm soát, mất rất nhiều thời gian khi kiếm tìm số liệu, hồ sơ. Đội ngũ cán bộ nghiệp vụ thẩm định còn hạn chế cả về năng lực, khả năng, số lượng và tính trách nhiệm trong công việc; chưa có cơ chế rõ ràng phân công nhiệm vụ và giám sát các cán bộ thực hiện bảo đảm chất lượng và hiệu quả công việc. NHPTVN chưa quy định cụ thể những nội dung công việc của quá trình thẩm định trên cơ sở đó quy định phân công, phân trách nhiệm rõ ràng cho các đơn vị và cá nhân thực hiện. Thêm vào đó, cơ chế phân công, phân nhiệm, trả lương, thưởng, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ chưa khuyến khích cán bộ thẩm định phấn đấu trở thành các chuyên gia thẩm định giỏi và thực hiện tốt nhất trách nhiệm của mình đối với Hệ thống. Ý thức trách nhiệm của một bộ phận cán bộ, viên chức trong việc quản lý thẩm định, đồng hành cùng với chủ đầu tư, với doanh nghiệp chưa thật tốt. Về việc xây dựng cơ chế hướng dẫn công tác thẩm định Do chưa xây dựng được hệ thống phân loại khách hàng cũng như hệ thống thông tin kinh tế kỹ thuật nên NHPTVN chưa đưa vào quy trình thẩm định bước thẩm định sơ bộ để loại bỏ một phần đáng kể các dự án không bảo đảm điều kiện vay vốn theo quy định, hoặc đưa ra những chủ trương phù hợp đối với từng nhóm khách hàng để có thể dùng để xác định các điều kiện thẩm định như thời hạn cho vay hay đảm bảo tiền vay, tính toán trích lập dự phòng rủi ro và yêu cầu mức vốn chủ sở hữu tham gia... Về chất lượng công tác thẩm định Chất lượng thẩm định tuy về cơ bản đáp ứng được yêu cầu của công tác cho vay vốn tín dụng đầu tư, tuy nhiên còn rất hạn chế so với chất lượng thẩm định của các tổ chức tín dụng quốc tế do chưa chú trọng đến việc phân tích, đánh giá các yếu tố liên quan đến thị trường đầu vào và đầu ra của sản phẩm đặc biệt là các kết luận về kinh tế kỹ thuật có tính chuyên ngành. Bên cạnh đó, việc sử dụng các căn cứ, cơ sở để thẩm định còn chưa đa dạng, quá trình tìm tòi, khai thác các thông tin về kinh tế kỹ thuật còn ít. Việc phân tích năng lực chủ đầu tư còn tương đối sơ sài, chưa có quy định mang tính bắt buộc về các chỉ tiêu tài chính và tình hình sản xuất kinh doanh của khách hàng. Việc quy định thẩm định năng lực khách hàng đối với các khách hàng mới thành lập, chưa có hoạt động sản xuất kinh doanh gần như còn bỏ ngỏ. NHPTVN chưa hình thành hệ thống phân tích, đánh giá và xếp hạng khách hàng làm cơ sở để quyết định việc cấp tín dụng, phân cấp quyết định cho vay và tiến tới tự động hoá một phần nghiệp vụ tín dụng. Trong phương pháp thẩm định, việc phân tích độ nhạy của dự án chưa được quan tâm đúng mức hoặc nếu có tính toán thì chỉ áp dụng một cách máy móc, do đó, công tác phòng ngừa rủi ro, hệ thống các giải pháp giảm thiểu và ngăn chặn rủi ro còn rất yếu. Quá trình thẩm định còn nặng về hồ sơ giấy tờ, quá trình khảo sát tình hình triển khai dự án, thẩm định thực tế tại địa bàn, đánh giá tính khả thi của dự án thông qua các dự án tương tự còn hạn chế cả về mặt thời gian và phương pháp tiếp cận. Mặt khác, công tác thẩm định tài sản bảo đảm tiền vay chưa được hướng dẫn cụ thể mà vẫn chủ yếu do các đơn vị tự thực hiện theo các cơ chế hiện hành. Đối với các tài sản bảo đảm tiền vay của các dự án có nợ xấu, việc thẩm định đánh giá chủ yếu dựa trên cơ sở đánh giá, thẩm định của các cơ quan chuyên môn có liên quan. Một vấn đề hạn chế của công tác thẩm định ở NHPTVN là còn tồn tại áp lực của các cấp hành chình trong quá trình thẩm định và quyết định cấp tín dụng ĐTPT của Nhà nước, đặc biệt đối với một số các dự án thuộc đối tượng phân cấp. Về việc cung cấp thông tin phục vụ công tác thẩm định Công tác xây dựng hệ thống thông tin phục vụ thẩm định, quản lý tín dụng và quản lý rủi ro tín dụng chưa được triển khai mang tính chất hệ thống nên chưa đủ khả năng cung cấp thông tin đầy đủ phục vụ công tác thẩm định trong toàn hệ thống NHPTVN. Thêm vào đó, NHPTVN chưa có cơ chế phối hợp, trao đổi, mua bán thông tin phòng ngừa rủi ro với các tổ chức trong và ngoài nước. Về việc thẩm định trong và sau giải ngân Công tác thẩm định chưa được tiến hành thường xuyên trong suốt quá trình quản lý tín dụng. Công tác thẩm định mới chỉ dừng lại ở việc quy định thẩm định dự án đầu tư và năng lực chủ đầu tư trước khi quyết định cho vay. CHƯƠNG III MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA CÔNG TÁC THẨM ĐỊNH CHO VAY ĐỐI VỚI CÁC DỰ ÁN VAY VỐN TÍN DỤNG ĐTPT CỦA NHÀ NƯỚC QUA NGÂN HÀNG PHÁT TRIỂN VIỆT NAM 3.1. Định hướng công tác thẩm định của NHPTVN đến năm 2020 Sau 3 năm thành lập, đến nay NHPTVN đã dần ổn định tổ chức bộ máy hoạt động hướng tới tính chuyên nghiệp; điều kiện cơ sở vật chất, kỹ thuật, chất lượng đội ngũ cán bộ được tăng cường và củng cố. Định hướng hoạt động giai đoạn đến 2020 của NHPTVN được thể hiện qua các chỉ tiêu cụ thể như sau: - Nguồn vốn trong nước hàng năm chiếm khoảng 50 - 60% tổng nguồn vốn hoạt động giai đoạn trước năm 2010; chiếm khoảng 60 - 70% tổng nguồn vốn hoạt động giai đoạn sau năm 2010; - Tổng số vốn cung ứng (vốn trong nước và vốn ODA cho vay lại) cho nền kinh tế chiếm trung bình 7% tổng vốn đầu tư toàn xã hội hàng năm; - Số huy động mới vốn trong nước hàng năm chiếm bình quân 42% nguồn vốn trong nước. Đến cuối năm 2010, số dư nguồn vốn huy động bằng trái phiếu chiếm 80% tổng nguồn vốn trong nước. NHPTVN phấn đấu trong giai đoạn 2011- 2015, vốn huy động bằng trái phiếu chiếm khoảng 90% tổng nguồn vốn; - Tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ đạt dưới 5% (nợ xấu được xác định theo tiêu chuẩn phân loại nợ của Việt Nam, phù hợp với thông lệ quốc tế); - Tỷ lệ an toàn vốn đến năm 2020 đạt yêu cầu theo chuẩn mức quốc (≥ 8%). Để đạt được mục tiêu đề ra, định hướng công tác thẩm định tín dụng của toàn hệ thống NHPTVN trong giai đoạn tới là: - Nâng cao chất lượng thẩm định: + Lấy chất lượng thẩm định tín dụng làm thước đo để đánh giá năng lực trình độ hiệu quả đối với cán bộ thẩm định. Giảm thiểu tối đa mọi sai sót trong khâu thẩm định, kịp thời nắm bắt những thông tin liên quan đến công tác thẩm định, đảm bảo công tác thẩm định được thực hiện một cách hiệu quả; + Không quyết định cấp tín dụng cho những đơn vị làm ăn kém hiệu quả, phương án sản xuất kinh doanh không rõ ràng, có nợ nần dây dưa đối với Ngân hàng và các tổ chức tín dụng khác. - Thực hiện thẩm định các dự án đảm bảo rút ngắn dần về thời gian, với chất lượng cao nhằm đáp ứng kịp thời cho nhiệm vụ kinh doanh của doanh nghiệp; - Chú trọng công tác thẩm định sau cho vay, làm tốt công tác kiểm tra chuyên đề thẩm định; - Quán triệt tư tưởng đến cán bộ mở rộng công tác giới thiệu, quảng bá hình ảnh của NHPTVN, đi sâu học hỏi nghiệp vụ tránh cái nhìn chủ quan khi thẩm định tín dụng; - Đến năm 2020, các cán bộ thẩm định phải là những chuyên gia thẩm định trong từng lĩnh vực đầu tư hẹp. Hệ thống thông tin phục vụ công tác thẩm định tín dụng phải được xây dựng khai thác hiệu quả trong toàn ngành. Công tác thẩm định tín dụng phải được chuẩn hoá theo tiêu chuẩn thẩm định của các ngân hàng hiện đại. Sổ tay nghiệp vụ thẩm định phải được xây dựng bảo đảm cho công tác quản lý theo tiêu chuẩn chất lượng ISO 9001; - NHPTVN tham mưu được cho Chính phủ về định hướng đầu tư về ngành nghề, vùng, lãnh thổ, dự án đầu tư. 3.2. Quan điểm nâng cao chất lượng công tác thẩm định tín dụng của NHPTVN Chất lượng, hiệu quả, an toàn trong hoạt động tín dụng là điều kiện quyết định cho sự tồn tại và phát triển của một ngân hàng nói chung cũng như đối với NHPTVN. Những điều kiện đó chỉ có thể có được bắt đầu từ công tác thẩm định tín dụng và nó được quyết định bởi chất lượng thẩm định dự án. Nếu cho vay một dự án không đảm bảo hiệu quả, hậu quả đầu tiên là Ngân hàng không thu hồi được nợ gốc và lãi vay. Sau đó, dự án không hiệu quả sẽ gây ra tổn hại cho nền kinh tế. Vì vậy, chất lượng của công tác thẩm định cần phải được đặt lên hàng đầu. Là một ngân hàng của Chính phủ thực hiện chính sách tín dụng đầu tư và tín dụng xuất khẩu của Nhà nước, NHPTVN cần phải có những chính sách riêng biệt đặc thù của mình nhằm hoàn thiện các hoạt động nghiệp vụ. Việc thực hiện công tác thẩm định đảm bảo chất lượng và tiến độ sẽ giảm thiểu rủi ro trong đầu tư, đảm bảo sử dụng có hiệu quả nguồn vốn tín dụng ĐTPT của Nhà nước, đồng thời góp phần mở rộng và nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng của NHPTVN. Thời gian vừa qua NHPTVN tiếp tục đẩy mạnh và chú trọng đến chất lượng công tác thẩm định các dự án nhưng nhìn chung kết quả chưa đạt được như mong muốn. Để nâng cao chất lượng thẩm định trong thời gian tới, quan điểm của NHPTVN về công tác thẩm định được thể hiện qua các mặt sau: - Toàn hệ thống NHPTVN cần nhận thức đúng vị trí, vai trò và nội dung của công tác thẩm định dự án. Đối với hoạt động của các ngân hàng nói chung, thẩm định đóng vai trò hết sức quan trọng trong việc quyết định cho vay của các ngân hàng, điều này lại càng quan trọng đặc biệt đối với NHPTVN có đối tượng vay vốn phần lớn là các dự án đầu tư có hiệu quả kinh tế tài chính không cao, khả năng sinh lời thấp, độ rủi ro cao, nhưng mang lại nhiều lợi ích cho nền kinh tế và toàn xã hội; - Với đặc thù là ngân hàng của Chính phủ, thẩm định tín dụng trong hệ thống NHPTVN phải được thực hiện theo chế độ riêng biệt. Đó là thẩm định đối với các dự án có sử dụng vốn đầu tư của Nhà nước, phù hợp với các quy định của Nhà nước và thông lệ quốc tế; - Quan tâm củng cố, kiện toàn bộ máy tổ chức thẩm định dự án và đội ngũ cán bộ trực tiếp làm công tác thẩm định; tăng cường công tác đào tạo nghiệp vụ thẩm định cho cán bộ thẩm định và bồi dưỡng, trao đổi nghiệp vụ chuyên môn, nhằm tăng cường chất lượng của đội ngũ cán bộ thẩm định; - Qua công tác thẩm định, NHPTVN phải đánh giá được dự án trên góc độ của toàn bộ nền kinh tế, phù hợp với mục tiêu phát triển kinh tế quốc gia và đáp ứng các lợi ích kinh tế xã hội của đất nước trong một thời kỳ góp phần thực hiện nhiệm vụ điều tiết của Nhà nước trong đầu tư, bảo đảm sự cân đối hài hòa giữa lợi ích kinh tế xã hội của quốc gia và lợi ích của chủ đầu tư, cũng như đảm bảo an toàn tín dụng cho NHPTVN; - Hoàn thiện quy trình, phương pháp triển khai thực hiện công tác thẩm định trong toàn hệ thống, áp dụng các phương pháp tiên tiến hiện đại trong việc thẩm định dự án của các ngân hàng trong và ngoài nước; - Đầu tư trang thiết bị, công nghệ hiện đại để tăng tính hiệu quả của hoạt động tín dụng, thích ứng và phù hợp với xu hướng hội nhập khu vực và quốc tế; - Tổ chức các cuộc kiểm tra chuyên đề về công tác thẩm định dự án, đồng thời đẩy mạnh công tác kiểm tra, thẩm định lại dự án sau cho vay. 3.3. Các giải pháp nâng cao chất lượng thẩm định tín dụng của NHPTVN 3.3.1. Về cơ chế chính sách Trong thời gian tới, NHPTVN nên sửa đổi, hoàn thiện quy chế, sổ tay nghiệp vụ và các điều kiện khác để nâng cao chất lượng thẩm định tín dụng; nghiên cứu xây dựng quy chế, quy trình, sổ tay nghiệp vụ thẩm dịnh dự án phù hợp với các quy định mới, đồng thời khắc phục được những vướng mắc, khó khăn trong công tác thẩm định. Cụ thể như sau: - Mẫu biểu hoá các nội dung thẩm định để cán bộ thẩm định có các mẫu biểu cụ thể; có những kiến nghị chi tiết cụ thể hơn, kể từ khi tiếp nhận hồ sơ của Chủ đầu tư cho đến khi có ý kiến thẩm định chính thức của Ngân hàng; - Bổ sung báo cáo năng lực của chủ đầu tư bảo đảm có thể phản ánh tương đối đầy đủ các chỉ tiêu định tính và định lượng liên quan làm cơ sở dữ liệu để xem xét trong quá trình thẩm định; - Bổ sung hệ thống các yêu cầu nội dung cụ thể về năng lực chủ đầu tư, dùng làm tư liệu cho công tác thẩm định thông qua hệ thống các yêu cầu bắt buộc cán bộ thẩm định phải tìm hiểu về năng lực, kinh nghiệm, uy tín, tình hình đầu tư, đóng thuế ,tài chính... của chủ đầu tư. 3.3.2. Về phương pháp thẩm định Để nâng cao chất lượng thẩm định dự án đầu tư, NHPTVN cần nghiên cứu sử dụng hiệu quả các phương pháp sau quá trình thẩm định dự án: - Kết hợp so sánh hiệu quả của dự án đang thẩm định với các dự án cùng loại trong nước và nước ngoài, so sánh với mức chuẩn của Nhà nước quy định và cả chuẩn của khu vực và thế giới; các tiêu chuẩn, định mức để so sánh cần được so sánh về mặt thời gian, tập hợp theo các lĩnh vực và liên tục cập nhật; - Áp dụng hệ thống xếp hạng khách hàng để đánh giá năng lực tài chính của chủ đầu tư. Việc xếp hạng khách hàng sẽ được phân bổ theo các nhóm tương tự như việc đánh giá tín nhiệm với các khách hàng tại các ngân hàng thương mại hiện nay. Trên cơ sở phân hạng NHPTVN sẽ có các chính sách cho vay khác nhau đối với từng đối tượng. Các chính sách đó có thể là về mức vốn cho vay, tài sản đảm bảo tiền vay, phân cấp quyết định cho vay.... Việc đánh giá định mức tín nhiệm cũng sẽ là cơ sở để theo dõi, phân loại và quản lý nợ vay các dự án. Trong thời gian tới, khi NHPTVN tự chủ hoàn toàn về tài chính thì hệ thống đánh giá tín nhiệm nội bộ các doanh nghiệp của NHPTVN có thể áp dụng như đối với các ngân hàng thương mại hiện nay; - Ngoài việc thẩm định các nội dung của khách hàng vay vốn, trong chu trình thẩm định dự án nên đề cập đến các chỉ số dự báo trước khi cho vay như: giá vàng, tỷ giá, lạm phát và các biến cố có thể dự đoán trong tương lai về kinh tế, chính trị, xã hội. Trên cơ sở đó, cán bộ thẩm định cần có kiến nghị cụ thể về sự cần thiết bổ sung những nhân tố trên trong quy trình thẩm định khách hàng; - Trong thẩm định nên đưa ra nhiều tình huống rủi ro mà dự án có thể gặp phải và đưa ra biện pháp xử lý. Theo đó, trong công tác thẩm định dự án đầu tư nên xây dựng được các nhân tố rủi ro: định nghĩa, phân loại sự cố, mô phỏng các tình huống của sự cố và các hành động cụ thể để ứng phó; triển khai tiếp nhận những hỗ trợ kỹ thuật về quản trị rủi ro, trong đó bao gồm cả nâng cao trình độ quản trị rủi ro của các cán bộ trong Ngân hàng. 3.3.3. Về tổ chức, bộ máy Cũng như các hoạt động khác của NHPTVN, điều kiện về mô hình tổ chức đóng vai trò quan trọng trong công tác thẩm định các dự án đầu tư. Vì vậy, một trong các giải pháp nâng cao chất lượng thẩm định là tiếp tục đánh giá, hoàn thiện về cơ cấu tổ chức bộ máy thực hiện công tác thẩm định. Với đặc thù hoạt động của NHPTVN theo nhiệm vụ do Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ giao theo từng thời kỳ nên đối tượng, lĩnh vực các ngành nghề dự án đầu tư vay vốn tại NHPTVN thường xuyên thay đổi và hầu như được bao trùm trong tất cả các ngành kinh tế của đất nước. NHPTVN phải có đủ năng lực để thẩm định có chất lượng các dự án thuộc tất cả các chuyên ngành kinh tế. Do đó công tác thẩm định dự án nên được chuyên môn hoá theo các lĩnh vực, ngành nghề, đồng thời nên tổ chức và điều hành công tác thẩm định một cách hợp lý và khoa học trong quy trình thẩm định dự án. Có như vậy thì mới hạn chế được rất nhiều những công đoạn không cần thiết, phát huy mặt tích cực của từng cá nhân và cả tập thể, giảm thiểu những chi phí hoạt động và tiết kiệm về mặt thời gian. Thực tế hiện nay tại Hội sở chính đảm nhận công tác thẩm định có ba ban là: Ban Tín dụng đầu tư, Ban Thẩm định và Trung tâm khách hàng. Theo đó các mảng nghiệp vụ trong quy trình thẩm định đã được phân công riêng cho 3 đơn vị này thực hiện. Việc xem xét, đánh giá năng lực khách hàng, chủ đầu tư được giao cho Trung tâm khách hàng. Riêng mảng thẩm định hiệu quả kinh tế kỹ thuật của các dự án, do tính đặc thù lĩnh vực, ngành nghề đầu tư rộng nên tại Hội sở chính nên xem xét cơ cấu lại Ban Thẩm định nhằm nâng cao tính chuyên môn hóa, đảm bảo thực hiện được vai trò của mình trong công tác thẩm định dự án. Tuy nhiên, NHPTVN cần lưu ý nguyên tắc "được kiểm soát" trong mọi vấn đề từ thẩm định đến quyết định và quản lý tín dụng. Theo đó, nếu để Trung tâm khách hàng thẩm định năng lực khách hàng thì sẽ không bảo đảm tính khách quan. Thành tích của Trung tâm khách hàng được ghi nhận khi kéo được nhiều khách hàng về. Muốn vậy Trung tâm phải có chính sách "ưu ái" để lôi kéo và "giữ chân" khách hàng. Do đó trong khâu thẩm định này chắc chắn sẽ có nhiều khả năng rủi ro đạo đức và rủi ro nghề nghiệp. Chính vì vậy, nên xem xét và phân công lại trách nhiệm rõ ràng hơn trong vấn đề nhạy cảm này. Việc phân công cán bộ thẩm định phụ trách khách hàng phải theo từng lĩnh vực kinh doanh nhất định vì các dự án đầu tư rất đa dạng thuộc mọi ngành nghề khác nhau với nhiều vấn đề phát sinh không giống nhau. Một cán bộ thẩm định nên chỉ phân công phụ trách một hoặc một số ngành nghề nhất dịnh để có điều kiện đi sâu tìm hiểu các vấn đề có liên quan thuộc lĩnh vực mình đảm nhiệm. Có như vậy, khi thẩm định dự án thuộc lĩnh vực mình phụ trách, cán bộ thẩm định sẽ dễ dàng thu thập thông tin và thẩm định có chất lưọng hơn từ đó đưa ra những quyết định đúng đắn nhất trong quá trình thẩm định. 3.3.4. Tiếp nhận và thẩm định khách hàng bước đầu NHPTVN nên quy định cụ thể về việc thẩm định khách hàng bước đầu trước khi tiến hành bước thẩm định kỹ lưỡng. Việc quy định này để tránh lãng phí thời gian và công sức khi việc thẩm định sơ bộ chưa bảo đảm điều kiện vay vốn và khách hàng phải tiếp xúc với Ngân hàng nhiều lần (trong trường hợp chưa có hệ thống tư vấn tài chính đầu tư từ phía NHPTVN). Thẩm định bước đầu nên có những nội dung cơ bản khi thực hiện tìm hiểu và phỏng vấn khách hàng: - Những thông tin chung về năng lực pháp lý của khách hàng (năng lực pháp lý, quy mô, lịch sử, điều kiện địa lý, trình độ công nghệ, kỹ thuật, sản phẩm, tên tuổ, vị trí, mô hình tổ chức...); - Năng lực quản lý điều hành và uy tín của khách hàng (Ban Lãnh đạo, kinh nghiệm, mối quan hệ trong nội bộ và với bạn hàng, tổ chức tín dụng, uy tín của Ban Lãnh đạo, chủ sở hữu doanh nghiệp...). 3.3.5. Thẩm định dự án đầu tư Khi thẩm định dự án đầu tư, cán bộ thẩm định nên hướng dẫn cụ thể nội dung và trình tự của quy trình thẩm định và các chỉ tiêu hiệu quả kinh tế tài chính của dự án như: - Tổng số vốn đầu tư; - Thị trường đầu vào và đầu ra của dự án, khả năng cạnh tranh và các sản phẩm thay thế, phương án phân phối và tiêu thụ; - Tính khả thi của các nguồn vốn tham gia đầu tư dự án trong đó có nguồn vốn tự có; - Địa điểm xây dựng và các điều kiện hạ tầng kỹ thuật trong và ngoài hàng rào dự án, tiến độ thực hiện và tính đồng bộ của các cơ sở vật chất kỹ thuật ngoài hàng rào dự án; - Phân tích độ nhạy nhận biết rủi ro của dự án để đề xuất những biện pháp dự phòng và quản lý rủi ro phù hợp: rủi ro về tiến độ thực hiện, rủi ro về thị trường, rủi ro về môi trường sinh thái, lạm phát, tỷ giá, rủi ro về đạo đức... - Bổ sung một số chỉ tiêu tài chính liên quan tới kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh như các chỉ tiêu về ROA (tỷ suất lợi nhuận trước thuế kể cả lãi vay/tài sản), ROE (tỷ suất lợi nhuận trước thuế kể cả lãi vay/nguồn vốn)... - Nhận biết những mục tiêu đầu tư khác của chủ đầu tư đối với dự án này (chính trị, xã hội, môi trường,...). 3.3.6. Thẩm định năng lực khách hàng và xếp hạng tín dụng NHPTVN cần sớm hình thành cho mình hệ thống chấm điểm tín dụng và xếp hạng khách hàng. Quy trình đánh giá, xếp hạng khách hàng có thể được biểu diễn theo sơ đồ sau: Sơ đồ 6: Quy trình đánh giá, xếp hạng khách hàng tại NHPTVN Thu thập thông tin Nhập thông tin vào hệ thống dữ liệu Đề xuất xếp hạng Hoàn chỉnh, bổ sung Lưu trữ hồ sơ và hệ thống thông tin dự phòng rủi ro Ý kiến tham gia, phê chuẩn Mục đích xếp hạng tín dụng của khách hàng gồm: quyết định cấp tín dụng với các điều kiện phù hợp với đặc điểm và khả năng của từng khách hàng vay vốn và giám sát, theo dõi để có biện pháp trích lập và xử lý rủi ro kịp thời và chính xác. Trước mắt, NHPTVN nên có hệ thống đánh giá và xếp hạng tín dụng tương đối đơn giản. Sau thời gian thực hiện sẽ hoàn thiện hệ thống tiêu chí, cơ cấu điểm, điều kiện cho vay... quy mô và bài bản. 3.3.7. Thẩm định tài sản bảo đảm tiền vay Tài sản bảo đảm tiền vay phải là điều kiện quan trọng trong việc nâng cao ý thức trách nhiệm trả nợ của các khách hàng. Quy định thẩm định bảo đảm tiền vay cần bao hàm đầy đủ các nội dung có liên quan đến quá trình thực hiện. Thẩm định tài sản bảo đảm tiền vay được thực hiện cùng với quá trình thẩm định dự án đầu tư. Do đó, công tác cần được quan tâm đúng mức để đảm bảo hiệu quả của công tác thẩm định cho vay. 3.3.8. Phân cấp thẩm định và quyết định cho vay Phân cấp thẩm định cần thực hiện dần dần trên cơ sở khả năng của người được phân cấp và mức độ rủi ro của khoản vay. Nguyên tắc phân cấp thẩm định và quyết định cho vay: - Bảo đảm phù hợp với trình độ quản lý; - Hạn chế rủi ro trong hoạt động tín dụng; - Không tập trung toàn bộ quyền lực vào một người, một cá nhân; - Việc phân cấp thẩm định và quyết định cho vay phải được định kỳ hàng năm xem xét và điều chỉnh cho phù hợp với điều kiện và tình hình thực tế; - Cải cách và hạn chế tối đa thủ tục hành chính, bảo đảm phục vụ tốt nhất mục tiêu của nguồn vốn tín dụng ĐTPT của Nhà nước; - Phân cấp thẩm định và quyết định cho vay phải đảm bảo phù hợp với mức độ tín nhiệm của từng loại khách hàng trên cơ sở phân loại và chấm điểm tín dụng cho khách hàng; 3.3.9. Về đội ngũ cán bộ Trong thẩm định dự án nói chung, con người luôn là trung tâm, quyết định chất lượng thẩm định. Do đó trình độ của cán bộ thẩm định phải đáp ứng được những yêu cầu đặt ra, đó là phải có năng lực chuyên môn, kinh nghiệm thực tiến, đạo đức nghề nghiệp và bản lĩnh vững vàng. Cụ thể là: - Về năng lực chuyên môn: cán bộ thẩm định phải có trình độ đại học trở lên, có các kiến thức cơ bản về kinh tế thị trường, hoạt động tài chính và pháp luật, thông thạo ngoại ngữ và công nghệ thông tin liên quan đến lĩnh vực thẩm định. Mỗi cán bộ không những phải thường xuyên nghiên cứu, học tập nắm vững và thực hiện đúng các quy định hiện hành mà còn phải không ngừng nâng cao năng lực công tác; - Về đạo đức nghề nghiệp, cán bộ thẩm định phải luôn tự tu dưỡng về phẩm chất, đạo đức, trung thực, có tính kỷ luật cao, tinh thần trách nhiệm trong công việc, có tâm huyết với nghề nghiệp. - NHPTVN nên tăng cường công tác đào tạo nâng cao trình độ chuyên môn về thẩm định dự án, nâng cao chất lượng cán bộ; quan tâm đến việc đào tạo, bồi dưỡng, có chế độ trả lương tương xứng. Ngoài những giải pháp trên, NHPTVN cũng nên chú trọng nâng cao chất lượng thông tin thu thập phục vụ cho quá trình thẩm định, đảm bảo thông tin chính xác, đầy đủ và kịp thời. Để giải quyết vấn đề này, cần xây dựng một hệ thống thông tin hoàn diện có chiều sâu, cụ thể như sau: - Những thông tin về chủ đầu tư, doanh nghiệp: ngoài các báo cáo tài chính mà doanh nghiệp cung cấp, dự án đầu tư xây dựng công trình hoặc báo cáo nghiên cứu khả thi, cán bộ thẩm định có thể lấy thông tin bằng cách điều tra nơi hoạt động kinh doanh của chủ đầu tư và phỏng vấn trực tiếp một số cán bộ của dự án. Điều này sẽ đảm bảo khi thẩm định có được những thông tin thực tế nhất. - Những thông tin sẵn có: một ngân hàng có thể lưu trữ hồ sơ tập trung của người vay vốn, từ đó có thể nhận được thông tin về tín dụng. Ví dụ như từ sổ sách có thể cho biết việc chi trả về những khoản cho vay trước đây, số dư tài khoản tiết kiệ và tài khoản séc và cũng có thể biết được liệu người xin vay có thói quen rút quá số dư tài khoản của họ không. - Những nguồn thông tin bên ngoài: thông tin về thị trường sản phẩm, thông tin về kỹ thuật công nghệ và môi trường, từ bạn bè của người xin vay, từ các đối thủ cạnh tranh, từ báo chí, phương tiện truyền thông, các bộ ngành liên quan... Ngoài ra, NHPTVN cần tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin vào trong quá trình thẩm định bằng các máy tính hiện đại và các phần mềm chuyên dụng. Việc ứng dụng công nghệ thông tin vào các quy trình ngân hàng là một yếu tố rất quan trọng, ảnh hưởng đến sự thành công của một ngân hàng trong giai đoạn như hiện nay. Đặc biệt trong nghiệp vụ thẩm định dự án, mà ở đó việc tính toán rất khó khăn và phức tạp mà việc tính toán thủ công sẽ tốn nhiều thời gian và công sức. Bên cạnh đó, NHPTVN cần tăng cường công tác kiểm tra, giám sát tín dụng trong toàn hệ thống. Việc này nhằm tránh những sai phạm trong việc thực hiện các quy định liên quan đến hoạt động thẩm định. KẾT LUẬN Nguồn vốn đóng vai trò rất quan trọng đối với một nền kinh tế, đặc biệt là nền kinh tế đang phát triển như ở nước ta. Để xây dựng cơ sở hạ tầng đảm bảo cho sự phát triển bền vững của kinh tế, chúng ta cần một lượng vốn đủ lớn. Hiện nay, nước ta đang huy động vốn bằng nhiều nguồn, trong đó đặc biệt quan trọng là nguồn vốn từ Ngân sách Nhà nước và huy động từ các tổ chức quốc tế. Ngân hàng Phát triển Việt Nam chính là một cơ quan cấp phát vốn quan trọng cho các dự án sản xuất kinh doanh, đầu tư cơ sở hạ tầng. Để đảm bảo việc sử dụng vốn có hiệu quả, tránh thất thoát và lãng phí, công tác thẩm định trong Ngân hàng lại đặc biệt phải được chú trọng. Với tình trạng sử dụng vốn còn chưa hiệu quả như hiện nay, công tác thẩm định để chọn lựa những dự án mang lại lợi ích cao cho nền kinh tế càng nên được quan tâm đúng mức. Trong thời gian tới, với sự hoàn thiện của cơ chế hàng lang pháp luật, hy vọng công tác thẩm định sẽ phát triển lên một mức cao hơn, đáng tin cậy hơn. Chuyên đề một lần nữa muốn khẳng định tầm quan trọng của công tác thẩm định dự án trong Ngân hàng Phát triển Việt Nam nói riêng và đối với nền kinh tế nói chung. Một lần nữa, em xin chân thành cảm ơn TS. Trần Thị Mai Hương – giảng viên khoa Đầu tư cùng các cán bộ tại Hội sở chính Ngân hàng Phát triển Việt Nam đã tận tình giúp đỡ em hoàn thành chuyên đề này! DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Nội san Giới thiệu về NHPTVN 2. Báo cáo thường niên 2007 NHPTVN 3. Website của NHPTVN: 4. Giáo trình Kinh tế đầu tư, NXB Đại học Kinh tế quốc dân 2007 5. Giáo trình NHPTVN, NXB Đại học Kinh tế quốc dân 2008 6. Các văn bản hướng dẫn thực hiện tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước, NXB Xây dựng 2000 7. Website của Bộ Tài chính : 8. Luật các tổ chức tín dụng (1998), NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc2073.doc
Tài liệu liên quan