Đề tài Thực trạng công tác thẩm định dự án tại Cục đầu tư phát triển Hà Nội

Trong quá trình từng bước nâng cao chất lượng thẩm định dự án tại Cục đầu tư phát triển Hà Nội, ngoài những nỗ lực của toàn thể lãnh đạo và cán bộ công nhân viên Cục đầu tư Hà Nội thì vai trò của Nhà nước cũng có phần đặc biệt quan trọng. Các cơ chế chính sách của Nhà nước có ảnh hưởng rất lớn đến quy trình, nội dung cũng như đến kết luận thẩm định dự án. Vì vậy chuyên đề cũng đề cập đến một số kiến nghị để các văn bản pháp quy của Nhà nước ngày càng hoàn thiện hơn và phù hợp với tình hình của đất nước.

doc84 trang | Chia sẻ: ndson | Lượt xem: 1252 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng công tác thẩm định dự án tại Cục đầu tư phát triển Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
.36 179.23 196.52 Tổng CF CĐ 1809.59 1881.36 1964.93 2051.82 2124.90 2142.19 Tổng 11062.2 11845.72 13352.78 14863.1 14936.2 16377 Bảng 6: Giá bán sản phẩm (đồng) Moayơ Khung Khung Xe địa hình 26000 145000 Địa hình xuất khẩu 160000 Xe thông dụng 24000 100000 Xe thông dụng xuất khẩu 125000 Xe mini 26000 95000 Xe lăn, xe lắc 27000 Bảng 7: Doanh thu của dự án (triệu đồng) 2 3 4 5 6 7á15 Moay ơ Xe địa hình 2112.5 2275 2600 2925 2925 3250 Xe thông dụng 3900 4200 4800 5400 5400 6000 Xe mini 1690 1820 2080 2340 2340 2600 Xe lăn, xe lắc 438.75 472.5 540 607.5 607.5 675 Khung Xe địa hình 1990.29 2143.29 2449.29 2755.29 2755.29 3061.29 - Nội tiêu 1886.45 2031.45 2321.45 2611.45 2611.45 2901.45 - Xuất khẩu 103.84 111.84 127.84 143.84 143.84 159.84 Xe thông dụng 5018.75 5404.75 6176.75 6949 6949 7721 - Nội tiêu 2675 2881 3293 3704 3704 4116 - Xuất khẩu 2343.75 2523.75 2883.75 3245 3245 3605 Xe mini 1235 1330 1520 1710 1710 1900 Tổng doanh thu 163853 17645.5 20166.04 22686.79 22686.79 25207.3 6) Đánh giá hiệu quả tài chính của dự án Để đánh giá hiệu quả tài chính của dự án, trước hết ta tính toán lãi suất chiết khấu theo công thức sau: .................................................. Trong đó: IVK là số vốn vay từ mỗi nguồn rk là lãi suất vay từ mỗi nguồn m là số nguồn vay. 28777*0.084 + 789*0.144 Vậy: r = = 8.6% 29565 Bảng 11: Bảng tính thời gian thu hồi vốn đầu tư Năm Vốn đầu tư Khấu hao cơ bản Lợi nhuận thuần Luỹ kế chênh lệch 1 -29565 2 2252.01 300.74 -27012.25 3 2252.01 990.28 -23769.96 4 2252.01 1808.66 -19709.29 5 2481.36 2608.59 -14619.34 6 2481.36 2163.1 -9974.88 7 2481.36 2987.51 -4506.01 8 2710.71 2993.78 1198.48 9 2710.71 3149.13 10 2710.71 3304.48 11 2710.71 3459.83 12 2481.36 3725.26 13 417.21 5066.96 14 417.21 5066.96 15 417.21 5066.96 Vậy thời gian thu hồi vốn đầu tư của dự án là 7 năm. Theo đánh giá của các cán bộ thẩm định phòng thẩm định kinh tế kỹ thuật thì đây là thời gian hoàn vốn hợp lý đối với dự án. Bảng12: Bảng tính hệ số hoàn vốn nội bộ Tỉ suất chiết khấu (r) NPV 0.088 8228.51 0.089 7987.86 0.09 7749.40 0.10 5480.06 0.11 3404.92 0.12 1504.07 0.13 -240.13 1504.07 IRR = 0.12 + (0.13-0.12) = 0.129 = 12.9% > 8.6% 1504.07 + ẵ-240ẵ Như vậy: IRR = 12.9% > 8.6% tức là tỉ suất hoàn vốn nội bộ của dự án lớn hơn chi phí cơ hội của vốn đầu tư. Do đó mức lãi suất của dự án cao hơn mức lãi suất thực tế phải trả cho vốn sử dụng trong dự án. Vậy dự án khả thi về mặt tài chính. Kết luận chung của cán bộ thẩm định về dự án "đầu tư đổi mới thiết bị và công nghệ công ty xe đạp Viha" Sau khi thẩm định các nội dung của dự án "đầu tư đổi mới thiết bị và công nghệ công ty xe đạp Viha" các cán bộ thẩm định đưa ra kết luận và đề nghị sau Thống nhất chủ trương đầu tư của dự án: Chủ trương của dự án phù hợp với chương trình phát triển sản xuất xe đạp của đất nước trong những năm tới Về thiết bị của dự án: Đề nghị doanh nghiệp xem xét lại chi phí tính cho thiết bị để điều chỉnh phù hợp (tính thiếu chi phí bảo hiểm cho thiết bị sản xuất moayơ sắt mạ và khung xe đạp) Về xây lắp: Đề nghị làm rõ vấn đề điện nước, và cấp thoát nước với hiện trạng xung quanh. Đề nghị phân tích rõ hơn về giá trị đền bù giải phóng mặt bằng. Về tính toán hiệu quả tài chính: Nhìn chung phần tính toán hiệu quả tài chính là khá tốt, phản ánh được tính khả thi của dự án. Tuy nhiên, cần bổ xung tính toán hiệu quả của dự án khi có những thay đổi bất lợi của các yếu tố. Kết luận chính thức: Đồng ý thông qua dự án sau khi dự án đã bổ xung hoàn thiện các vấn đề nêu trên. IV) Những tồn tại trong công tác thẩm định dự án tại Cục đầu tư phát triển Hà Nội 1) Những tồn tại trong quá trình thực hiện thẩm định dự án tại Cục đầu tư phát triển Hà Nội nói chung Trong thời gian vừa qua, lĩnh vực xây dựng cơ bản đã không ngừng phát triển tạo tiền đề cho tăng trưởng và phát triển nền kinh tế quốc dân. Tốc độ của các dự án đầu tư tăng cao cả về đầu tư chiều rộng và đầu tư chiều sâu. Công tác thẩm định dự án đầu tư cũng ngày càng hoàn thiện và đổi mới theo hướng cải cách hành chính và đạt hiệu quả. Song trong quá trình thực hiện cũng không thể tránh khỏi những hạn chế sau cần được khắc phục: Về cơ cấu quản lý của Cục đầu tư phát triển Hà Nội: Trong hơn 4 năm qua, bộ máy quản lý của Cục đầu tư phát triển Hà Nội đã từng bước được sắp xếp theo hướng cải cách hành chính gọn nhẹ, phát huy năng lực hoạt động của các phòng chức năng. Biểu hiện qua việc thành lập phòng Tín dụng đầu tư, sát nhập phòng đầu tư phát triển Thanh Trì và phòng đầu tư phát triển Gia Lâm thành phòng đầu tư phát triển khu vực Gia Lâm, tách bộ phận thẩm định của phòng Tổng hợp thành phòng Thẩm định Kinh tế kỹ thuật. Với cơ cấu bộ máy đã được sắp xếp như hiện nay, bộ máy Cục đầu tư phát triển Hà Nội vẫn bộc lộ những hạn chế như: Các phòng đầu tư phát triển khu vực chưa bám sát địa bàn quản lý, chưa thực hiện đủ chức năng nhiệm vụ của phòng địa bàn thực hiện công tác tín dụng. Phòng Tín dụng và phòng Thẩm định kinh tế - kỹ thuật chưa tiến hành chuyên môn hoá, chuyên sâu nghiệp vụ về thẩm định dự án. Các thủ tục hành chính giữa chủ đầu tư với các bộ phận thẩm định còn rườm rà, nội dung thẩm định giữa các bộ phận thẩm định còn chồng chéo gây mất thời gian cho chủ đầu tư. Ngoài ra năng lực hoạt động của các phòng chưa đều nhau về số lượng cán bộ, chất lượng cán bộ nên một số khâu quản lý, thẩm định dự án hiệu quả còn chưa cao. Về mối quan hệ giữa các phòng trong công tác thẩm định: Mặc dù đã có công văn số 1480. ĐTPT/ TĐKT-KT của Tổng cục đầu tư phát triển quy định về mối quan hệ giữa các phòng trong công tác thẩm định, song chưa phân định rõ mối liên hệ trong việc giao nhận và lưu hồ sơ, trách nhiệm của các phòng, của công chức thừa hành nhiệm vụ và của lãnh đạo Cục trong quá trình thẩm định dự án. Về thu thập và xử lý thông tin liên quan đến dự án: Đây là công việc rất quan trọng quyết định đến việc đánh giá khách quan và đúng đắn các mặt của dự án cũng như ra quyết định đầu tư dự án. Tại Cục đầu tư phát triển Hà Nội, việc thu thập và xử lý thông tin liên quan đến dự án cần thẩm định còn chưa thực sự đầy đủ và chi tiết. Một mặt do hạn chế về hệ thống thông tin liên lạc, trang thiết bị phương tiện phục vụ cho việc đi lại, nắm bắt tình hình. Mặt khác do hạn chế về thời gian, các cán bộ thẩm định khó có thể vừa đi thu thập thông tin vừa đánh giá và ra kết luận về các nội dung của dự án. Ngoài ra số lượng các dự án đầu tư thường tập trung vào giai đoạn giữa và cuối năm nên với khối lượng công việc quá nhiều và đa dạng cán bộ thẩm định không thể nắm bắt được đầy đủ thông tin thực tế về các dự án, do đó chất lượng thẩm định còn chưa cao. Về các chính sách và quy định của Nhà nước: Trong những năm qua, cơ chế tín dụng đầu tư đã từng bước thực hiện vai trò là đòn bẩy quan trọng để đổi mới quản lý đầu tư và xây dựng. Các doanh nghiệp nâng cao vai trò tự chịu trách nhiệm về việc vay trả và hoàn vốn đầu tư thay cho cơ chế cấp phát trước đây. Cục đầu tư phát triển Hà Nội đã thấy rõ hơn trách nhiệm của mình trong khâu thẩm định, phê duyệt, ra quyết định cho vay cũng như trong cả quá trình điều hành tiến độ dự án Qua hơn 4 năm thực hiện cơ chế tín dụng ưu đãi, Cục đầu tư phát triển Hà Nội đã tích luỹ được nhiều kinh nghiệm trong khâu thẩm định dự án, ký kết hợp đồng tín dụng, triển khai thực hiện dự án, theo dõi và quản lý dự án. Đặc biệt là về kinh nghiệm hướng dẫn cho các doanh nghiệp biết nên hướng việc đầu tư vốn vào lĩnh vực nào và đầu tư như thế nào cho có hiệu quả. Từ năm 2003 - 2006, cơ cấu ngành cho vay tín dụng đầu tư tại Cục đầu tư Hà Nội như sau: Các dự án thuộc ngành điện, than chiếm 24% Chế biến mía đường chiếm 8% Sản xuất hàng xuất khẩu chiếm 8,9% Trồng rừng nguyên liệu cao su, cà phê chiếm 3,5% Đánh cá xa bờ chiếm 5,33% Các nhà máy gạch chiếm 6,1% Các nhà máy xi măng chiếm 3,26% Du lịch chiếm 4,5% Tuy nhiên do có sự chồng chéo và bất ổn định trong các quy định chính sách của Nhà nước nên ảnh hưởng không ít đến công tác thẩm định dự án tại Cục đầu tư Hà Nội. Biểu hiện: Những lĩnh vực ưu tiên để vay vốn tín dụng ưu đãi Nhà nước mỗi năm một khác nhau, có năm đến hơn 20 lĩnh vực ưu tiên, có năm lại chưa đầy 10 lĩnh vực. Điều này gây cho các doanh nghiệp không chuẩn bị kịp các dự án đầu tư. Hơn nữa do không áp dụng tính kế thừa nên nhiều doanh nghiệp không có các phương án xử lý kịp thời khi nguồn vốn bị cắt. Vì vậy ảnh hưởng đến hiệu quả của dự án nói riêng và chất lượng thẩm định dự án nói chung. Cơ chế tín dụng ưu đãi có năm thực hiện theo quyết định của Thủ tướng chính phủ, có năm lại thực hiện theo thông tư hướng dẫn các bộ (như năm 2002). Sự không nhất quán về triển khai cơ chế tín dụng ưu đãi đã làm ảnh hưởng không ít tới tâm lý của nhà đầu tư và của cán bộ làm công tác thẩm định Do có nhiều mức lãi suất với từng loại vốn khác nhau ở từng thời điểm khác nhau cũng là khó khăn cho khâu hạch toán theo dõi cũng như tính toán hiệu quả của dự án. Công tác quy hoạch nói chung chưa đáp ứng được yêu cầu định hướng cho kế hoạch đầu tư. Chất lượng của quy hoạch phát triển kém, nội dung sơ sài do đó nhiều dự án phải thẩm định nhiều lần do thay đổi chủ trương đầu tư, gây ra nhiều tranh cãi đặc biệt là làm lãng phí vốn, hiệu quả đầu tư thấp Thời gian trả nợ của dự án trước đây quy định là không quá 5 năm, gần đây lại thay đổi là không quá 10 năm, trường hợp quá 10 năm phải có ý kiến của Thủ tướng chính phủ. Trong thực tế, nhiều dự án lớn như trồng rừng, trồng cây công nghiệp dài ngày... không thể đáp ứng được yêu cầu này. Có một số dự án sử dụng nguồn vốn vay là ngoại tệ mạnh, thời gian thực hiện dự án dài, khi tỉ giá thay dổi, tính hiệu quả và thời gian hoàn trả cũng phải thay đổi theo. Các kết luận thẩm định sẽ không còn tính đúng đắn nếu không dự tính được sự thay đổi này. Thực tế, các dự án thường vi phạm các hợp đồng vay trả thậm chí dẫn đến việc xem xét lại chủ trương đầu tư, một số dự án đang trong trường hợp không trả được nợ phải yêu cầu Nhà nước can thiệp và hỗ trợ. Về Thời gian thẩm định dự án: Theo quy trình nghiệp vụ quản lý vốn tín dụng đầu tư theo kế hoạch Nhà nước trong hệ thống Tổng cục đầu tư phát triển, thời gian thẩm định dự án và ra quyết định cho vay hay không cho vay là không quá 10 ngày kể từ khi nhận đủ hồ sơ. Trong đó phòng Thẩm định kinh tế - kỹ thuật thẩm định dự án trong vòng 5 ngày làm việc, phòng Tín dụng thẩm định dự án trong vòng 6 ngày làm việc. Với số ngày quy định như trên thì không thể đảm bảo việc đánh giá chính xác và đầy đủ về các nội dung của dự án. Việc tổ chức thẩm định dự án còn mang tính hình thức (thường dồn vào cuối năm để kịp có phê duyệt dự án để bố trí kế hoạch năm sau, số lượng duyệt dự án một buổi quá nhiều (có buổi 3 - 4 dự án), việc gửi hồ sơ để thẩm định còn chậm nên không đủ thời gian xem và đóng góp ý kiến về các mặt của dự án. Những tồn tại trong khi thẩm định dự án "Đầu tư đổi mới thiết bị và công nghệ công ty xe đạp Viha" Do hạn chế về nhiều mặt trong quá trình thẩm định dự án như phương tiện kỹ thuật và thông tin không đầy đủ về dự án, hơn nữa, thẩm định dự án vẫn là một lĩnh vực tương đối mới nên các cán bộ thẩm định chưa thể có ngay được kinh nghiệm trong công tác này. Vì thế, trong khi đánh giá hiệu quả của dự án còn nhiều vấn đề quan trọng mà cán bộ thẩm định chưa xét đến hoặc xem xét chưa đúng mức. Một phần là do nguyên nhân chủ quan từ năng lực, trình độ của cán bộ thẩm đinh, một phần là do những nguyên nhân khách quan như các quy định về thời gian, nội dung thẩm định còn chưa hợp lý,hay chưa có quy chuẩn chung để có thể so sánh, đánh giá và ra quyết định thống nhất đối với dự án... Thể hiện: Về nội dung thẩm định: Khi thẩm định dự án “ đầu tư đổi mới thiết bị và công nghệ công ty xe đạp Viha” chúng ta mới chỉ xem xét và phân tích các nội dung về tài chính là chủ yếu, còn về vấn đề kinh tế - xã hội thì chưa có điều kiện để đi sâu phân tích. Đây là vấn đề quan trọng cần phải được xem xét lại, đặc biệt đối với các dự án tầm cỡ quốc gia sử dụng vốn đầu tư ưu đãi của Nhà nước như dự án này. Việc xem xét đánh giá các yếu tố kinh tế - xã hội còn nhiều hạn chế về thông tin, thiếu tiêu chuẩn quy phạm cần thiết nên kết luận đưa ra vẫn là cảm tính , thiếu khách quan. Các đánh giá định lượng, tính toán, phân tích, so sánh không được chú ý trong khi thẩm định dự án. Ví dụ: thiếu quy phạm để đánh giá trình độ công nghệ, tính toán công suất của dự án cũng như thiếu quy phạm tính toán mức độ gây ô nhiễm môi trường... Trong từng nội dung thẩm dịnh còn nhiều vấn đề chưa được làm sáng tỏ hoặc chưa được đề cập nghiên cứu và thực hiện ở mức cần thiết. Cán bộ thẩm định chưa đánh giá được mức độ ổn định của dự án trước những biến động của các yếu tố như lạm phát, thay đổi trong giá nguyên vật liệu, năng lượng, chính sách của chính phủ... Về phương pháp thẩm định: Nhìn chung phương pháp thẩm định dự án “đầu tư đổi mới thiết bị và công nghệ công ty xe đạp Viha” tại Cục đầu tư phát triển hà Nội là phù hợp với điều kiện hiện nay và phù hợp với thông lệ quốc tế. Các chỉ tiêu thẩm định hiệu quả của dự án có nhiều điểm giống với các chỉ tiêu sử dụng khi lập và thẩm định dự án đầu tư ở các nước trên thế giới. Tuy nhiên, trong phương pháp thẩm định dự án tại Cục vẫn còn một số hạn chế nhất định. Những hạn chế này xuất phát chủ yếu từ các nguyên nhân khách quan: Do thiếu hoặc chưa đạt được sự thống nhất giữa các ngành, các cấp, các địa phương về phương pháp phân tích đánh giá. Các chỉ tiêu, tiêu chuẩn đưa ra phân tích đánh giá còn thiếu và chưa thống nhất. Thể hiện trong khi tính toán các chỉ tiêu hiệu quả tài chính (NPV, IRR, thời gian hoàn vốn...) chưa có số đo hiệu quả tiêu chuẩn . Điều này gây khó khăn cho việc ra kết luận thẩm định của các cán bộ thẩm định đối với từng loại dự án thuộc nhiều ngành, lĩnh vực. Trên thực tế, việc lập và thẩm định dự án đầu tư của các nước, người ta thường dùng các chỉ tiêu cho riêng mình tuỳ thuộc vào đặc điểm của mỗi nước, của mỗi ngành và mỗi thời đoạn. Tức là khi chuyển đổi các dòng tiền tệ hàng năm về cùng một thời điểm người ta phải sử dụng đến hệ số chuyển đổi hay hệ số chiết khấu phù hợp, khi đánh giá hiệu quả dự án cần thiết phải có một giá trị chuẩn của số đo hiệu quả đối với từng loại dự án để so sánh. Chương 3: Một số biện pháp chủ yếu nâng cao chất lượng thẩm định dự án tại Cục đầu tư phát triển Hà Nội I) Một số biện pháp chủ yếu nâng cao chất lượng thẩm định dự án đầu tư tại Cục đầu tư phát triển Hà Nội Cải tiến cơ cấu bộ máy quản lý của Cục đầu tư phát triển Hà Nội Theo cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý hiện nay, Cục đầu tư phát triển Hà Nội đã phân công rõ nhiệm vụ của các phòng ban liên quan trong công tác thẩm định dự án: Phòng Tín dụng đầu tư tiến hành công tác tín dụng, cho vay quỹ hỗ trợ đầu tư quốc gia, các dự án trung ương và địa phương trên địa bàn Hà Nội, thực hiện công tác tiếp nhận hồ sơ và thẩm định dự án theo đúng nội dung quy định của Cục. Phòng Thẩm định kinh tế - kỹ thuật tiếp nhận các dự án đầu tư từ phòng Tín dụng và cũng tiến hành thẩm định dự án theo các nội dung quy định của Cục. Đồng thời phòng Thẩm định kinh tế kỹ thuật còn là đầu mối tổ tư vấn tham gia thẩm định các dự án, xét duyệt các dự án đấu chọn thầu của thành phố. Nhìn chung việc phân công thẩm định dự án tại Cục đầu tư Hà Nội có nhiều ưu điểm: phòng Tín dụng và phòng Thẩm định kinh tế - kỹ thuật có thể phối hợp và bổ xung cho nhau về các thông tin liên quan đến dự án, ngoài ra do cách thức làm việc độc lập nên kết quả thẩm định của hai phòng sẽ là những căn cứ quan trọng để lãnh đạo Cục xem xét và ra quyết định đầu tư. Tuy nhiên sự phân công này cũng bộc lộ những mặt tồn tại cần được khắc phục: Bản thân phòng Tín dụng, ngoài công tác tín dụng, thẩm định dự án đầu tư còn có nhiệm vụ quản lý vốn cấp phát, thậm chí số lượng dự án và số vốn quản lý còn tương đương với phòng cấp phát. Điều này thể hiện việc chưa phân định rõ chức năng, nhiệm vụ giữa cấp phát và tín dụng, chưa tạo điều kiện để tín dụng chuyên môn hoá. Ngoài ra trong công tác tiếp nhận hồ sơ và thẩm định dự án thủ tục còn khá rườm rà. Phòng Thẩm định và phòng Tín dụng chưa được phân công trách nhiệm cụ thể khi thẩm định dự án đầu tư vì vậy chất lượng thẩm định dự án còn chưa cao. Từ những ưu điểm và những hạn chế trong cơ cấu bộ máy quản lý của Cục đầu tư phát triển Hà Nội, em xin đưa ra một số giải pháp như sau: Hiện nay, cơ cấu bộ máy quản lý của Cục đầu tư phát triển Hà Nội gồm có lãnh đạo Cục và 11 phòng ban và chi cục. Cần phải tách công tác quản lý cấp phát của phòng Tín dụng trả về các phòng cấp phát quản lý. Phòng Tín dụng chỉ thực hiện chức năng cho vay vốn tín dụng Nhà nước và quỹ hỗ trợ đầu tư quốc gia, tiếp nhận và thẩm định các dự án theo nội dung quy định của Cục. Tại phòng Thẩm định kinh tế - kỹ thuật cần biên chế lại cán bộ một cách phù hợp, tránh tình trạng không sắp xếp đủ cán bộ vừa làm công tác thẩm định dự án tín dụng, thẩm định dự toán, quyết toán vừa tham gia tư vấn, tham gia hội đồng xét chọn thầu, hội đồng đền bù giải phóng mặt bằng của thành phố. Nhất là hiện nay, phòng Thẩm định kinh tế kỹ thuật vừa có 4 cán bộ biệt phái trên Tổng cục đầu tư phát triển, 1 cán bộ công tác biệt phái trong hội đồng xét thầu dự án Bắc Thăng Long - Vân Trì. Cần đặc biệt trú trọng cán bộ am hiểu công tác tín dụng đầu tư, công tác thẩm định dự án cũng như có phẩm chất đạo đức, tinh thần trách nhiệm đảm bảo công tác thẩm định dự án đạt chất lượng và hiệu quả. Hàng năm căn cứ vào chức năng nhiệm vụ của phòng Tín dụng và phòng Thẩm định, căn cứ vào kế hoạch tín dụng đầu tư của Tổng cục đầu tư phát triển và của UBND thành phố Hà Nội, căn cứ vào số lượng và giá trị của dự án dự kiến phân bổ kế hoạch, lãnh đạo Cục phải gửi thông báo rõ ràng tới hai phòng Tín dụng và Thẩm định để đảm bảo cho việc quản lý và thẩm định các dự án đầu tư theo đúng quy trình và phù hợp với kế hoạch của Nhà nước, đảm bảo thực hiện sự điều tiết của Nhà nước đến cơ cấu đầu tư và cơ cấu ngành đầu tư ưu đãi của đất nước trong thời kỳ mới. Thông qua đó, lãnh đạo Cục cũng dễ dàng đánh giá từng mặt công tác của từng phòng để quản lý, chỉ đạo một cách kịp thời nhằm không ngừng nâng cao chất lượng thẩm định dự án đầu tư tại Cục đầu tư phát triển Hà Nội. Tăng cường mối quan hệ và trách nhiệm giữa các phòng trong công tác thẩm định dự án Để đảm bảo công tác thẩm định dự án đạt hiệu quả cao thì sau khi xây dựng hoàn chỉnh cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý của Cục đầu tư phát triển Hà Nội, cần phải thiết lập mối quan hệ và trách nhiệm giữa các phòng trong công tác thẩm định dự án. Căn cứ vào các chế độ của Nhà nước trong lĩnh vực đầu tư xây dựng cơ bản, căn cứ vào quy trình thẩm định dự án đầu tư trong toàn bộ hệ thống tổng cục đầu tư phát triển có thể xây dựng mối quan hệ giữa các phòng trong công tác thẩm định dụ án tại Cục đầu tư phát triển Hà Nội như sau: Đơn vị vay vốn lập và gửi một bộ hồ sơ vay vốn đến phòng Tín dụng - Cục đầu tư phát triển Hà Nội (bản chính hoặc bản sao có công chứng). Hồ sơ gồm có: Dự án đầu tư và quyết định đầu tư của cấp có thẩm quyền. Văn bản phê duyệt thiết kế kỹ thuật và tổng dự toán hoặc thiết kế kỹ thuật và dự toán của hạng mục được đầu tư trong năm của dự án mà hạng mục đó đã được xác định mức vốn trong quyết định đầu tư. Phương án vay vốn (lập theo mẫu số 01 -TD quyết định 48/QĐ/ĐTPT ngày 15/4/2006 của Tổng cục trưởng Tổng cục đầu tư phát triển). Các hợp đồng kinh tế (nếu có) Sau khi nhận hồ sơ nêu trên, cán bộ tín dụng lập phiếu giao nhận hồ sơ theo mẫu quy định. Trong thời gian một ngày làm việc, cán bộ tín dụng phải kiểm tra hồ sơ về các mặt: tính đầy đủ, tính hợp thức, hợp pháp của hồ sơ và báo cáo kết quả với trưởng phòng Tín dụng để yêu cầu đơn vị vay vốn bổ xung ngay các hồ sơ còn thiếu (nếu có).Trưởng phòng Tín dụng có trách nhiệm nắm chắc kế hoạch vốn và số lượng dự án cần thẩm định của từng năm, đồng thời hiểu rõ về nghiệp vụ tín dụng cũng như quy trình thẩm định dự án theo quy định của Tổng cục. Khi nhận đủ hồ sơ theo quy định, phòng Tín dụng có trách nhiệm giữ một bộ có xác nhận và đóng dấu của Cục “sao y bản chính” gửi cho phòng thẩm định, sau đó sẽ gửi bộ này cho Tổng cục để kiểm tra và lưu lại Tổng cục. Cán bộ tín dụng chịu trách nhiệm thẩm định đơn vị vay vốn và dự án đầu tư theo các nội dung: Phương pháp tính toán và cơ sở pháp lý của các số liệu trong phương án vay vốn Các căn cứ điều kiện để thực hiện dự án (nguồn vốn đầu tư, nguồn cung cấp nguyên liệu, thị trường tiêu thụ sản phẩm...) Tình hình tài chính của đơn vị vay vốn, khả năng trả nợ, thời gian trả nợ và mức trả nợ... Sau khi kiểm tra, cán bộ Tín dụng phải có nhận xét rõ ràng, cụ thể về tình hình sản xuất kinh doanh của đơn vị vay vốn, tình hình tài chính và quan hệ tín dụng của đơn vị vay vốn, đánh giá xem dự án có trả được nợ vay hay không. Cán bộ tín dụng phải chịu hoàn toàn trách nhiệm đối với các kết luận thẩm định của mình về các nội dung nêu trên. Tại phòng Thẩm định Kinh tế - Kỹ thuật: Cán bộ phòng Thẩm định chịu trách nhiệm thẩm định dự án theo đúng quy trình, nội dung thẩm định dự án (đánh giá các chỉ tiêu kinh tế - tài chính của dự án, hiệu quả của dự án, nguồn vốn trả nợ, thời gian thu hồi vốn... Bộ phận thẩm định phải có ý kiến nhận xét đánh giá dự án bằng văn bản theo mẫu quy định để trình lãnh đạo Cục qua phòng Tín dụng. Trên cơ sở báo cáo kết quả thẩm định của hai phòng Thẩm định và Tín dụng, Cục trưởng Cục đầu tư phát triển Hà Nội xem xét, ra quyết định cho vay hay từ chối cho vay đối với từng dự án. Trường hợp cho vay cục trưởng xác định mức vốn cho vay, lãi suất cho vay, nội dung sử dụng vốn vay, thời hạn cho vay, thời điểm bắt đầu trả nợ vay (gốc và lãi) và chỉ đạo phòng Tín dụng dự thảo tờ trình Tổng cục cục đầu tư phát triển theo mẫu quy định đối với những dự án do tổng cục xem xét, quyết định. Đối với dự án thuộc thẩm quyền xét duyệt của Cục trưởng, chậm nhất trong phạm vi 10 ngày kể từ khi nhận đủ hồ sơ, Cục trưởng phải có quyết định chấp thuận cho vay hay không cho vay. Trường hợp không chấp thuận cho vay, cục trưởng chỉ đạo phòng Tín dụng thảo công văn gửi đơn vị vay vốn, cơ quan cấp trên của đơn vị vay vốn và Tổng cục đầu tư phát triển để nói rõ lý do không cho vay. Trong trường hợp dự án được chấp thuận cho vay thì sau khi nhận được thông báo chỉ tiêu tín dụng của Tổng cục đầu tư phát triển (đối với dự án do Tổng cục quyết định) hoặc quyết định cho vay của Cục trưởng (đối với dự án thuộc thẩm quyền xét duyệt của Cục trưởng), cán bộ Tín dụng hướng dẫn đơn vị vay vốn hoàn tất những điểm cần bổ xung và yêu cầu đơn vị vay vốn gửi các tài liệu để mở tài khoản. Ta biết rằng thẩm định dự án đầu tư là việc xem xét một cách khách quan, toàn diện các nội dung của dự án để từ đó ra quyết định đầu tư hay không đầu tư cho dự án. Vì vậy khi thẩm định dự án, cán bộ của hai phòng Tín dụng và Thẩm định phải chú ý xem xét các đặc điểm của dự án, tính đơn chiếc của dự án để có cách thẩm định cho phù hợp. Có những dự án phải chú trọng đến hiệu quả tài chính, có những dự án phải đặc biệt chú trọng đến hiệu quả kinh tế xã hội. Tính chính xác của dự án chỉ là tương đối vì dự án chứa đựng hàng loạt các tính toán dự kiến về những gì sẽ phải thực hiện và những gì sẽ đạt được. Thẩm định dự án như là một quá trình kiểm tra tính đúng đắn của các tính toán trên cơ sở xem xét độ vững chắc của dự án trước những bất lợi trong tương lai. Do đó, đòi hỏi các phòng ban liên quan đến thẩm định dự án phải thường xuyên có sự trao đổi thông tin với nhau và với bên ngoài (cả trong và ngoài nước) để có thể đánh giá chính xác xu hướng vận động của đầu tư và những bất trắc có thể xảy ra để đảm bảo các kết luận thẩm định đúng đắn và phù hợp với thực tế. Đồng thời cần phải thắt chặt mối quan hệ giữa các phòng trong công tác thẩm định dự án thông qua việc tổ chức học tập nâng cao nghiệp vụ, thực hiện báo cáo hàng tuần, quý, năm, quy định rõ trách nhiệm của các phòng trong công tác thẩm định... Tổ chức nâng cao và bồi dưỡng kiến thức cho đội ngũ cán bộ thẩm định Thực tế cho thấy rằng, vấn đề nhân sự luôn là vấn đề trọng tâm vì con người là nhân tố quyết định mọi sự thành công của các công cuộc đầu tư. Để một công cuộc đầu tư đạt hiệu quả thì liên quan đến nhiều vấn đề như vốn, trình độ công nghệ, thị trường tiêu thụ, kinh nghiệm...trong đó không thể không tính đến sự đóng góp to lớn của con người. Đặc biệt, thẩm định dự án là một mắt xích quan trọng trong giai đoạn chuẩn bị đầu tư của dự án thì càng đòi hỏi đội ngũ lãnh đạo, cán bộ thẩm định dự án phải có năng lực, trình độ, kinh nghiệm để đánh giá đúng đắn hiệu quả thực tế của dự án đối với sự phát triển doanh nghiệp và của đất nước. Hàng năm số lượng dự án tín dụng Nhà nước cần thẩm định tại Cục đầu tư phát triển Hà Nội đều tăng lên cùng với sự tăng lên về cầu đầu tư của thành phố và của cả nước.Thông qua đó, Cục đầu tư phát triển Hà Nội đã có những bước phát triển nhất định về nâng cao năng lực cán bộ trong công tác thẩm định dự án. Tuy nhiên trong thời gian tới, cùng với sự phát triển ngày càng mạnh mẽ và đa dạng của các hoạt động đầu tư thì đòi hỏi đội ngũ cán bộ thẩm định phải được chú trọng đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ đáp ứng yêu cầu của tình hình mới. Có thể đưa ra một số giải pháp về nâng cao và bồi dưỡng kiến thức cho đội ngũ cán bộ thẩm định ở Cục đầu tư phát triển Hà Nội như sau: - Đối với đội ngũ lãnh đạo Đội ngũ lãnh đạo là những người vừa có khả năng về nghiệp vụ, vừa có khả năng về quản lý. Những người này thường là những cán bộ giỏi được đào tạo kỹ lưỡng, họ có trình độ và nhiều kinh nghiệm. Tuy nhiên để đáp ứng đòi hỏi ngày càng cao trong công tác thẩm định dự án thời gian tới thì không phải tất cả họ đều có khả năng. Vì vậy cần phải xây dựng các tiêu chuẩn cụ thể đối với các lãnh đạo Cục như có năng lực điều hành tổ chức, nắm được quy trình nghiệp vụ thẩm định dự án, ra quyết định chính xác về đầu tư hay không đầu tư cho dự án, nắm được các chủ trương, chính sách của Nhà nước về thẩm định dự án cũng như quản lý các nguồn vốn tại Cục... Cán bộ lãnh đạo phải đề ra được cách thức quản lý điều hành tối ưu nhất sao cho các chủ trương, chính sách của Nhà nước, các quyết định của Tổng cục đầu tư phát triển và ý kiến chỉ đạo của lãnh đạo Cục nhanh chóng được phổ biến xuống các phòng ban. Đồng thời thu thập và xử lý và giải đáp các thông tin phản hồi từ các phòng ban và từ khách hàng theo đúng quy định của Tổng cục đầu tư phát triển và đạt hiệu quả cao nhất. Chính vì vậy, trong thời gian tới Cục đầu tư phát triển Hà Nội nên liên hệ với các trường, các tổ chức trong và ngoài nước... để mời các chuyên gia về giảng để bồi dưỡng những kiến thức về quản lý về nghiệp vụ đồng thời đưa các cán bộ có năng lực đi tập huấn ở nước ngoài. - Đối với đội ngũ cán bộ thẩm định dự án Đây là những người trực tiếp tham gia thẩm định dự án tại Cục đầu tư phát triển Hà Nội và tham gia đóng góp ý kiến thẩm định các dự án của thành phố. Yêu cầu đối với đội ngũ cán bộ thẩm định dự án là phải có năng lực, trình độ và nắm vững quy trình nghiệp vụ thẩm định dự án. Đồng thời, phải có phẩm chất đạo đức tốt, nghiêm túc trong công việc và luôn đặt mục tiêu chất lượng thẩm định dự án lên hàng đầu. Hiện nay đội ngũ cán bộ thẩm định dự án tại Cục đầu tư phát triển Hà Nội đều là những người có trình độ đại học, trên đại học, trình độ vi tính, tiếng Anh... Cục đầu tư phát triển Hà Nội cần phải xây dựng kế hoạch nâng cao năng lực của cán bộ thẩm định dự án như: tăng cường tổ chức các buổi hội thảo, học tập, tập huấn nghiệp vụ, mời các chuyên gia chuyên ngành truyền đạt về công tác quản lý, định mức, đơn giá xây dựng cơ bản... để giúp cho cán bộ công nhân viên nắm vững các chế độ, chính sách của Nhà nước và giải quyết công việc tốt hơn trong công tác thẩm định, cho vay vốn đầu tư xây dựng cơ bản, khuyến khích phát huy các sáng kiến của cán bộ trong toàn Cục để nâng cao chất lượng thẩm định dự án, điều chỉnh mức lương, thưởng cho cán bộ thẩm định một cách hợp lý, tổ chức phát động các đợt thi đua trong từng năm và tổng kết khen thưởng kịp thời trong từng đợt... Ngoài ra Cục đầu tư phát triển Hà Nội cần có các quy dịnh cụ thể về xử lý các trường hợp vi phạm nội quy, vi phạm quy chế thẩm định dự án để nâng cao ý thức kỉ luật, tinh thần trách nhiệm của toàn thể cán bộ, công nhân viên trong toàn Cục. Cần đưa công tác kiểm tra giám sát thành công tác trọng tâm để giúp lãnh đạo Cục điều hành công việc, chỉ đạo kịp thời bộ phận thẩm định tránh sơ hở trong khi thẩm định dự án, giúp chủ đầu tư lựa chọn phương án đầu tư đúng đắn nhất. Tăng cường cập nhật và xử lý thông tin kịp thời, đầy đủ để đảm bảo chất lượng thẩm định dự án Trong thời đại bùng nổ thông in như hiện nay, với sự đa dạng của các nguồn thông tin cùng với các cách thức xử lý thông tin ngày càng hiện đại, việc thu thập chính xác và kịp thời nguồn thông tin để phục vụ cho công tác thẩm định dự án là khá phức tạp song vô cùng cần thiết. Nếu như người thẩm định dự án có đầy đủ các thông tin liên quan đến dự án như thị trường tiêu thụ trong và ngoài nước, nguồn cung cấp nguyên vật liệu, giá cả thực tế của các yếu tố đầu vào, các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả dự án ở các nước phát triển, xu hướng biến động của các yếu tố bất ổn định ở Việt Nam và ở các nước trên thế giới... thì việc thẩm định dự án sẽ đạt chất lượng, các đánh giá và kết luận mà người thẩm định dự án đưa ra mang tính đúng đắn cao và phù hợp với tình hình thực tế. Điều này đặc biệt có ý nghĩa trong công tác thẩm định dự án tại Cục đầu tư phát triển Hà Nội bởi lẽ các dự án tín dụng ở đây là các dự án sử dụng nguồn vốn tín dụng ưu đãi của Nhà nước với lãi suất thấp hơn so với các ngân hàng thương mại. Việc thẩm định dự án đạt chất lượng không chỉ đảm bảo hiệu quả thực hiện dự án, tăng năng lực sản xuất của doanh nghiệp sản xuất kinh doanh mà còn đảm bảo cơ cấu đầu tư ưu đãi của Nhà nước phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế, góp phần đưa nền kinh tế thoát khỏi khủng hoảng Vấn đề đặt ra là cần phải thu thập các nguồn thông tin, phân loại, xử lý và đánh giá thông tin như thế nào để thấy được tính đúng đắn của từng loại thông tin. Một trong những hướng giải quyết là cần sử dụng rộng rãi máy vi tính và các phần mềm ứng dụng trong phân tích đánh giá dự án. Bởi lẽ, ngoài chức năng lưu giữ, cập nhật, truy nhập thông tin, máy vi tính cho những khả năng vô cùng mạnh mẽ trong tính toán, kiểm tra, phân tích các dự án. Cần đặc biệt lưu ý tránh sử dụng các nguồn thông tin mang tính một chiều, tức là ngoài những dữ liệu mà doanh nghiệp xin vay trình ra, cán bộ thẩm định dự án phải thu thập thông tin từ nhiều nguồn khác (kể cả thông tin trái ngược) để phân tích đánh giá từ đó ra kết luận thẩm định một cách khách quan, toàn diện về các nội dung của dự án. Các nguồn thông tin mà cán bộ thẩm định có thể và cần phải thu thập là: Thông tin do điều tra trực tiếp và thông tin do thu thập từ bên ngoài. 4.1 - Thông tin do điều tra trực tiếp từ doanh nghiệp xin vay vốn Trong thực tế, nguồn thông tin do doanh nghiệp vay vốn tín dụng trình lên Cục đầu tư phát triển Hà Nội thường có nhiều thiếu sót. Một số thông tin cần thiết cho công tác thẩm định nhưng bất lợi cho phía doanh nghiệp thì sẽ không được doanh nghiệp cho biết đầy đủ thậm chí không cho người thẩm định biết. Vì vậy Cục đầu tư phát triển Hà Nội chỉ có thể nắm bắt được những thông tin này bằng cách điều tra về doanh nghiệp thông qua các cuộc phỏng vấn trực tiếp với ban lãnh đạo của doanh nghiệp. Nhờ tính chất linh hoạt của việc phỏng vấn, cán bộ thẩm định có thể tìm ra những thông tin cần thiết phục vụ cho công tác thẩm định dự án mà trong hồ sơ xin vay vốn doanh nghiệp không đề cập đến hoặc có thể phát hiện ra những thông tin gian lận trong hồ sơ xin vay để có biện pháp xử lý. Cán bộ thẩm định trước khi tìm hiểu thông tin qua tiếp xúc trực tiếp với lãnh đạo doanh nghiệp cần phải chuẩn bị sẵn một chương trình chi tiết, bao gồm một loạt những vấn đề cần được tìm hiểu hoặc cần được giải đáp về tình hình của doanh nghiệp. Cán bộ thẩm định cần phải không khéo hướng người được hỏi theo ý của mình để thông qua đó nắm bắt được những thông tin mà mình cần thu thập. Từ đó nhanh chóng phân tích, nối ghép các thông tin để đánh giá đúng đắn tình hình của doanh nghiệp. 4.2 - Thông tin thu thập từ bên ngoài Ngoài việc thu thập thông tin trực tiếp nêu trên, cán bộ thẩm định còn có thể thu thập các thông tin từ bên ngoài. Các nguồn thông tin đó bao gồm: Thông tin từ các công ty kiểm toán: Các công ty kiểm toán có thể cung cấp những số liệu chính xác về hoạt động tài chính của doanh nghiệp giúp cán bộ thẩm định dự án có thể đánh giá về khả năng tài chính trong việc vay, trả, khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp và xu hướng phát triển của doanh nghiệp trong tương lai... Thông tin từ các chủ trương, chính sách của Nhà nước, các quyết định của Tổng cục đầu tư phát triển: Các tài liệu này là cơ sở pháp lý hướng dẫn công tác cho vay tín dụng Nhà nước tại Cục. Cán bộ thẩm định sẽ đánh giá sự phù hợp của dự án về mặt tính toán ( mục tiêu đầu tư, mức lãi suất, quy mô đầu tư, thời gian trả nợ, các chỉ tiêu hiệu quả...) đối với kế hoạch tín dụng đầu tư hàng năm và với quy định của Tổng cục đầu tư phát triển về cách thức thẩm định các nội dung của dự án đầu tư. Thông tin từ các loại báo chí, phát thanh, truyền hình... về các vấn đề liên quan đến nội dung thẩm định dự án. Đây là những nguồn cung cấp thông tin hàng ngày rất quan trọng đối với công tác thẩm định. Việc cập nhật và xử lý chính xác các nguồn thông tin này sẽ đảm bảo cho dự án sát thực hơn với tình hình thực tế. Ngoài ra Cục đầu tư phát triển Hà Nội cần phải xây dựng một hệ thống thông tin liên lạc hiện đại đảm bảo cung cấp đầy đủ, kịp thời các nguồn thông tin cần thiết. Bằng cách nối mạng vi tính giữa các phòng trong toàn Cục và với bên ngoài để trao đổi tìm kiếm thông tin một cách nhanh nhất. Đảm bảo sắp xếp các phương tiện đi lại thuận tiện để các cán bộ thẩm định có thể trực tiếp đi xem xét và tìm hiểu tình hình của doanh nghiệp. Đặc biệt, chú trọng nâng cao trình độ của cán bộ thẩm định trong việc sử dụng vi tính, sử lý số liệu góp phần rút ngắn thời gian thẩm định cũng như tiết kiệm chi phí và công sức cho chủ đầu tư. Tham gia xây dựng các chính sách của Nhà nước về thẩm định dự án đầu tư theo hướng ngày càng phù hợp Cục đầu tư phát triển Hà Nội là đầu mối cho vay tín dụng ưu đãi của Nhà nước trên địa bàn Hà Nội. Nguồn vốn tín dụng đầu tư kể từ năm 2003 đến nay đã không ngừng tăng lên cả về quy mô và số lượng các dự án. Cơ chế huy động và sử dụng các nguồn vốn, thời gian cho vay, lãi suất cho vay được thay đổi theo từng thời kỳ, từng năm cho phù hợp với chủ trương của Đảng và Nhà nước. Cơ chế tín dụng đầu tư đã huy động được nhiều nguồn lực tham gia đầu tư phát triển kinh tế - xã hội, chấm dứt tình trạng bao cấp tràn lan trước kia, chuyển một bộ phận quan trọng các ngành sản xuất kinh doanh có khả năng thu hồi vốn sang cơ chế vay tín dụng đầu tư để phát triển sản xuất. Với chính sách khuyến khích một số ngành, lĩnh vực ưu đãi, nhiều doanh nghiệp nhà nước đã có khả năng tự vay, tự trả, tự chịu trách nhiệm về các phương án vay, phương án sản xuất, tự chủ về tài chính của doanh nghiệp mình. Tuy nhiên sự bất ổn định về chính sách tín dụng đầu tư biểu hiện qua đối tượng cho vay, thời gian vay trả, lãi suất cho vay, thế chấp vốn vay... thay đổi theo các năm đã gây ra những khó khăn nhất định đối với doanh nghiệp nói chung và công tác thẩm định nói riêng. Vì vậy, em xin nêu ra một số biện pháp nhằm tăng cường tham gia xây dựng các chính sách của Nhà nước về thẩm định dự án theo hướng ngày càng phù hợp tại Cục đầu tư phát triển Hà Nội như sau: Cục đầu tư phát triển Hà Nội cần phải tham gia tích cực, có hiệu quả trong việc xây dựng các chủ trương đầu tư của Nhà nước và của thành phố. Từ khâu thẩm định dự án, xét duyệt dự án, xây dựng kế hoạch đầu tư và điều chỉnh kế hoạch kịp thời, chính xác...) Thường xuyên tổ chức các buổi hội thảo về nâng cao chất lượng thẩm định và quản lý dự án. Qua đó lãnh đạo Cục tổng hợp ý kiến tham gia của các cán bộ, các phòng ban về xây dựng các chính sách của Nhà nước để trình cục trưởng. Cục trưởng sẽ gửi công văn đến Tổng cục đầu tư phát triển để chủ động đề xuất ý kiến cải tiến, tham gia sửa đổi bổ xung hoàn chỉnh quy trình nghiệp vụ kế hoạch, thẩm định dự án... đảm bảo vừa chặt chẽ và hiệu quả trong công tác thẩm định vừa thực hiện triệt để cải cách hành chính, giảm bớt phiền hà tiêu cực trong quá trình thẩm định dự án tại Cục. Thường xuyên báo cáo và xin ý kiến chỉ đạo của Uỷ ban nhân dân thành phố và Tổng cục đầu tư phát triển để chỉ đạo kịp thời trong khi thẩm định các nội dung của từng dự án. Phối hợp với các bộ, ban, ngành của thành phố (sở tài chính - vật giá, sở kế hoạch - đầu tư...) để giải quyết công việc được thuận lợi, hiệu quả. Hoàn thiện về tiêu chuẩn, giới hạn áp dụng trong phân tích Kinh tế - tài chính dư án: Trong khi phân tích đánh giá kinh tế-tài chính của dự án có một số chỉ tiêu cần có những tiêu chuẩn hoặc giới hạn so sánh như: Suất chiết khấu tiêu chuẩn để đánh giá chỉ tiêu IRR. Thời hạn hoàn vốn tiêu chuẩn khi đánh giá dự án theo chỉ tiêu thời gian hoàn vốn Hiện nay cách đo lường các chỉ tiêu trên trong khi phân tích kinh tế - tài chính là chưa thống nhất nên việc tính toán và đánh giá các chỉ tiêu này còn nhiều thiếu sót. Để phục vụ cho viêc thẩm định dự án được tốt hơn luận văn xin đưa ra một số biện pháp khắc phục tình trạng trên như sau: Đối với suất chiết khấu tính toán: Cần phân tích giá vốn trên thị trường vốn ở nước ta để xác định một giá vốn hợp lý, phản ánh tương đối đúng đắn suất sinh lợi của tiền vốn hiện nay. Do mức chiết khấu tính toán phụ thuộc vào hoàn cảnh cụ thể của việc sử dụng các nguồn vốn, các chính sách tài chính - tiền tệ của quốc gia và của ngành, địa phương. Vì vậy qua việc thu thập thông tin về quy mô của thị trường vốn, giá vốn của các nguồn tham gia trong thị trường và nhu cầu sử dụng nguồn vốn có thể xác định được suất chiết khấu tính toán. Theo cách xác định này, suất chiết khấu được tính toán từ mức lãi suất được ngân hàng công bố, xuất phát từ quan niệm mức lãi suất ngân hàng phản ánh tương đối chính xác khả năng sinh lợi của tiền vốn. Tuy nhiên ở nước ta hiên nay tình hình tài chính và tiền tệ chưa ổn định. Đó là hệ quả của việc chuyển đổi cơ chế từ quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường, nền kinh tế chịu ảnh hưởng to lớn của lạm phát, thiếu vốn và thiếu tiền mặt... Mức lãi suất phải thường xuyên thay đổi để phù hợp với tình hình. Mặt khác thị trường vốn ở nước ta chưa hoàn chỉnh, hệ thống tín dụng ngân hàng còn yếu kếm nên chưa thể lấy mức lãi suất ngân hàng làm đại diện cho hiệu suất vốn nói chung. Xử lý mâu thuẫn này, tạm thời có thể sử dụng mức lãi suất cho vay ưu đãi hiện nay đối với các công trình đầu tư để xác định hiệu suất vốn điều đó xuất phát từ các lí do sau: Mức lãi suất ưu đãi trước hết đảm bảo được yêu cầu duy trì vốn và không chứa đựng lợi tức ngân hàng. Mức lãi suất này được áp dụng chủ yếu đối với các dự án đầu tư ưu đãi theo kế hoạch của Nhà nước vì vậy nó không chịu ảnh hưởng của thị trường vốn. Mức lãi suất này được xác định từ mức lãi suất cơ bản, phần nào đã loại trừ các yếu tố lạm phát. Tuy nhiên, cách sử dụng lãi suất cho vay đầu tư ưu đãi để xác định suất chiết khấu định mức cũng chỉ là một hướng giải quyết hạn chế của vấn đề, vì theo cách này, việc ấn định mức lãi suất hiện nay còn mang nhiều tính chất chủ quan, kinh nghiệm, ngoài ra nó không phản ánh đầy đủ toàn bộ các nguồn vốn hoạt động trên thị trường vốn. Xác định suất chiết khấu trên cơ sở hiệu quả của nền kinh tế quốc dân xuất phát từ quan điểm cho rằng kết quả tăng thêm trong một thời gian cuả toàn bộ nền kinh tế quốc dân là do sự tác động tổng hợp của các hoạt động đầu tư ở tất cả các ngành, các thành phần kinh tế. Vì vậy tỉ lệ giữa mức tăng kinh tế với số vốn đầu tư trong kỳ đặc trưng cho khả năng sinh lợi của tiền vốn. Theo hướng giải quyết này, mặc dù có nhiều ưu điểm do xác định suất chiết khấu tư không chịu ảnh hưởng của các yếu tố trên thị trường vốn song cách xác định này còn hạn chế do mức tăng kinh tế trong một thời kỳ còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác ngoài vốn đầu tư. Tức là kết quả kinh tế tăng lên ở một thời kỳ không phải là kết quả riêng của vốn đầu tư bỏ vào thời kỳ đó. Đối với suất chiết khấu tiêu chuẩn: Suất chiết khấu tiêu chuẩn sử dụng để đánh giá chỉ tiêu IRR của từng dự án đầu tư cá biệt. Chỉ tiêu này tuỳ thuộc vào đặc điểm riêng của từng dự án, tuỳ thuộc vào mục đích ý nghĩa của nó đối với nền kinh tế. Đối với các khoản vốn đầu tư ưu đãi của Nhà nước nói chung, suất chiết khấu tiêu chuẩn có thể lấy như sau: RRN ³ WACC Trong đó: RRN là suất chiết khấu tiêu chuẩn của toàn bộ nền kinh tế quốc dân. WACC là giá bình quân của các nguồn vốn Một số biện pháp nâng cao chất lượng thẩm định dự án “ Đầu tư đổi mới thiết bị và công nghệ công ty xe đạp Viha” Để ra quyết định thẩm định chính xác về tính khả thi của dự án, cán bộ thẩm định cần tiến hành phân tích thêm về độ nhạy của dự án và ảnh hưởng của lạm phát đến hiệu quả của dự án Phân tích rủi ro của dự án Khi thẩm định dự án, cán bộ thẩm định phải sử dụng thêm phương pháp phân tích độ nhạy để đánh giá đúng đắn hơn về dự án. Bởi lẽ dự án có vòng đời tương đối dài và tất yếu chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố bất định. Mục đích của phân tích độ nhạy là kiểm tra mức độ nhạy cảm của dự án đối với sự biến động của từng yếu tố trong tương lai hay nhằm xác định mức độ của các yếu tố rủi ro và chiều hướng tác động của các yếu tố đó đến hiệu quả của dự án. Bảng 1: Phân tích độ nhạy của dự án STT Nội dung Chỉ tiêu tài chính NPV IRR I Biến động một nhân tố 1 Doanh thu giảm 5% 2231.088 9.27% 2 Doanh thu giảm 6% 934.011 9.07% 3 Chi phí sản xuất tăng 5% 6105.961 10.23% 4 Chi phí sản xuất tăng 7% 2625.282 9.91% II Biến động đồng thời 2 yếu tố 1 Doanh thu giảm 2% và chi phí SX tăng 3% 3511.808 10.36% 2 Doanh thu giảm 3% và chi phí SX tăng 3% 2214.732 9.72% Qua xác định mối quan hệ động giữa các yếu tố tham gia trong hoạt động đầu tư bằng cách xác định các chỉ tiêu NPV, IRR khi có các thay đổi bất lợi về doanh thu và chi phí của dự án trong tương lai. Ta thấy rằng dự án vẫn đảm bảo tính khả thi về mặt tài chính hay dự án chịu ảnh hưởng rất ít của các biến động đó. Xử lý lạm phát trong thẩm định tài chính Lạm phát là vấn đề có tính chất vĩ mô do nhiều nguyên nhân khác nhau. Vì vậy phân tích dự án coi lạm phát như là một yếu tố khách quan mà bản thân các dự án không thể khắc phục được. Trong những năm qua chúng ta đã gặp phải tình trạng một số công trình sau khi duyệt quyết toán, tổng vốn đầu tư tăng lên thậm chí gấp 2 đến 3 lần vốn đầu tư dự tính. Nguyên nhân của thực trạng này là trong khi thẩm định dự án, chúng ta chưa xem xét đến sự tác động của lạm phát đối với những thành quả tài chính và kinh tế của dự án. Hầu như trong quá trình thẩm định mới chỉ xem xét tác động của những thay đổi về mặt bằng giá cả và thường tính theo mặt bằng giá cả của một năm nào đó. Vì thế có không ít trường hợp mắc sai lầm khi xem xét và đánh giá hiệu quả của dự án. Đối với dự án “Đầu tư đổi mới thiết bị và công nghệ công ty xe đạp Viha” ta nhận thấy rằng,việc thực hiện dự án tiến hành trong một thời gian dài, lượng tiền đầu tư lớn và sẽ phụ thuộc vào mức độ lạm phát. Nếu như mức lạm phát càng cao thì nhu cầu tiền tệ để thực hiện đầu tư trong tương lai càng lớn so với tính toán theo giá hiện thời, tương ứng với nó là hiệu quả đầu tư của dự án càng thấp. Vì vậy việc xử lý lạm phát trong quá trình tính toán là hết sức cần thiết. Khi xem xét và đánh giá về thực trạng và dự báo về mức độ lạm phát ở nước ta trong thời gian tới, cán bộ thẩm định cần đưa vào tính toán trong dự án mức độ lạm phát hàng năm là 7% để đảm bảo tính an toàn về tài chính cho dự án. Trong quá trình tính toán, ta phải xác định dòng tiền khử lạm phát của dự án và tỉ lệ chiết khấu thực để tính toán các chỉ tiêu NPV, IRR... của dự án. Tỉ lệ chiết khấu thực được tính theo công thức: 1+r 1+ 0.086 R = -1 = -1 = 0.015 1+j 1+0.07 Ta có bảng sau:................................(trang) Bảng 2: Hệ số hoàn vốn nội bộ Các giá trị r NPV 0.09 6662.57 0.11 4459.33 0.12 599.14 0.13 -1094.25 599.14 IRR = 0.12 + (0.13 - 0.12) = 12.35% 599.14+|-1094.25| Ta thấy: IRR = 12.35% > 8.6% . Vậy có thể kết luận dự án có tính khả thi. Như vậy, qua xem xét sự biến động của các chỉ tiêu NPV, IRR của dự án khi tính đến mức lạm phát 0.07%/ năm ta thấy NPV > 0, IRR > 8.6% tức là dự án vẫn mang tính khả thi và có độ ổn định cao trước những thay đổi bất lợi trong tương lai. II) Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện công tác thẩm định dự án tại Cục đầu tư phát triển Hà Nội Cục đầu tư phát triển Hà Nội là cơ quan xử lý các nghiệp vụ dựa trên các văn bản Nhà nước ban hành trong quản lý đầu tư và xây dựng. Các văn bản này tạo nên một đường dẫn để Cục tổ chức, điều hành thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của mình. Vấn đề đặt ra là các văn bản phải có tính thống nhất, tránh tình trạng quy định trùng lắp và không rõ ràng. Vì vậy để nâng cao chất lượng quản lý dự án cũng như chất lượng thẩm định dự án, luận văn có một số kiến nghị sau: Đối với chi phí lập báo cáo nghiên cứu tiền khả thi và nghiên cứu khả thi: căn cứ theo thông tư 09 BKH/ VPTĐ ngày 21/9/2004 của Bộ kế hoạch và đầu tư và công văn số 1683/ BXD.VKT ngày 7/12/2004 của Bộ xây dựng gửi Cục đầu tư phát triển Hà Nội hướng dẫn thực hiện điều lệ quản lý đầu tư và xây dựng, thì chi phí lập báo cáo nghiên cứu tiền khả thi và khả thi bao gồm: Chi phí điều tra khảo sát sơ bộ (tiền tầu xe, lưu trú, giao dịch...) Chi phí thu thập số liệu, điều tra cơ bản (điều tra thu thập hoặc mua tài liệu kinh tế, xã hội, số liệu về các công trình, tài liệu địa chất thuỷ văn, tài nguyên...) Đánh giá tác động môi trường đối với dự án Tuy nhiên dự án được duyệt của nhiều bộ, ngành vẫn tính thêm các chi phí kể trên ngoài chi phí đã tính theo quyết định 501 BXD. Công tác khảo sát trong giai đoạn lập dự án hiện nay chưa có văn bản pháp quy nào quy định việc khảo sát đến đâu là hợp lý nên có rất nhiều vướng mắc, khó đánh giá và kiểm tra chất lượng công tác này. Trong quy định 498/ BXD ngày 18/9/2004, Bộ xây dựng đưa ra quy chế quản lý chất lượng công trình rất chặt chẽ, quy định về an toàn lao động trong xây dựng cơ bản. Song khi xây dựng định mức đơn giá lại không hề đề cập đến các việc đó. Những văn bản không đồng nhất đó sẽ gây cho các bên A, B và cơ quan quản lý gặp nhiều phiền toái Đối với nguồn vốn tín dụng đầu tư: Trong giai đoạn hiện nay, do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ nên việc huy động nguồn vốn trong nước còn khó khăn, các doanh nghiệp sợ rủi ro nên không muốn vay ngoại tệ để nhập thiết bị đầu tư, trong khi các đơn vị cung cấp tín dụng đầu tư thì lại thừa nguồn vốn bằng ngoại tệ và thiếu nguồn vốn bằng nội tệ, cơ chế tín dụng chưa thực sự ổn định để đảm bảo an toàn cho người vay. Do vậy Nhà nước cần phải có cơ chế chính sách và biện pháp tháo gỡ triệt để nhằm tăng cường khả năng huy động nguồn từ trong nước và vay từ nước ngoài. Đồng thời đổi mới cơ chế vay trả để nguồn vốn sử dụng có hiệu quả. Trong quy hoạch và lập kế hoạch đầu tư, Nhà nước cần chú ý kết hợp đầu tư mới với đầu tư chiều sâu và hiện đại hoá. Muốn vậy Nhà nước phải sớm cải thiện các quy chế hiện hành để nâng cao chất lượng hồ sơ dự án, tính khả thi của dự án các thủ tục phê duyệt, thẩm định dự án để nâng cao chất lượng thẩm định, quản lý cũng như nâng cao hiệu quả đầu tư của dự án. Kết luận Thẩm định dự án là một khâu hết sức quan trọng trong công tác chuẩn bị đầu tư. Thẩm định dự án nhằm phân tích, đánh giá các yếu tố có liên quan đến dự án để đưa ra kết luận đúng đắn về tính khả thi của dự án. Thông qua đó, chủ đầu tư cũng như cơ quan có thẩm quyền quyết định đầu tư sẽ lựa chọn được một phương án đầu tư tối ưu nhất đảm bảo hiệu quả tài chính và hiệu quả kinh tế - xã hội, đồng thời loại bỏ được những phương án đầu tư không hiệu quả. Trong những năm qua, mặc dù Cục đầu tư phát triển Hà Nội đã có những bước đi thích hợp nhằm ngày càng hoàn thiện chất lượng thẩm định dự án. Song nếu nhìn nhận từ nhiều góc độ khác nhau, ta thấy rằng công tác thẩm định ở đây còn nhiều mặt tồn tại cần có biện pháp hữu hiệu để giải quyết. Các biện pháp nêu ra trong chuyên đề này là những vấn đề bức thiết hiện nay và đòi hỏi phải được thực hiện đồng bộ. Tuy nhiên, đây không phải là những vấn đề dễ giải quyết trong thời gian ngắn trước mắt mà đòi hỏi phải có thời gian dài với một hệ thống các bước đi thống nhất. Trong quá trình từng bước nâng cao chất lượng thẩm định dự án tại Cục đầu tư phát triển Hà Nội, ngoài những nỗ lực của toàn thể lãnh đạo và cán bộ công nhân viên Cục đầu tư Hà Nội thì vai trò của Nhà nước cũng có phần đặc biệt quan trọng. Các cơ chế chính sách của Nhà nước có ảnh hưởng rất lớn đến quy trình, nội dung cũng như đến kết luận thẩm định dự án. Vì vậy chuyên đề cũng đề cập đến một số kiến nghị để các văn bản pháp quy của Nhà nước ngày càng hoàn thiện hơn và phù hợp với tình hình của đất nước. Tuy nhiên, với tầm hiểu biết còn hạn chế, chuyên đề này không thể tránh khỏi những khiếm khuyết nhất định. Vì vậy em rất mong nhận được sự góp ý của các thầy cô để chuyên đề được nâng cao hơn cả về lý luận và thực tiễn. Tài liệu tham khảo Giáo trình lập và quản lý dự án đầu tư, PGS - PTS Nguyễn Ngọc Mai chủ biên, Trường đại học Kinh tế Quốc dân, 2006. Vũ Công Tuấn, Thẩm định dự án đầu tư, NXB thành phố Hồ Chí Minh,2006. Cẩm nang hướng dẫn quản lý đầu tư xây dựng và đấu thầu, NXB thành phố Hồ Chí Minh, 2006. Báo cáo tổng kết năm 2003, 2004, 2005, 2006 của Cục đầu tư phát triển Hà Nội. Đoàn văn Hạnh, Yêu cầu đối với một dự án đầu tư vốn cho XDCB hiện nay, nghiên cứu tra đổi số 5/ 2004 PTS Thái Bá Cẩn, Thẩm định kinh tế - tài chính dự án đầu tư, Tạp chí Tài chính 3/ 2004. Quyết định số 1198 TC/ QĐ/ TCCB ngày 10/12/2002 của Bộ trưởng Bộ tài chính về việc thành lập Cục đầu tư phát triển tại các tỉnh, thành phố. Quyết định số 1404/ QĐ/ ĐTPT, quyết định số 1427/ĐTPT/ KH của Tổng cục trưởng về nội dung công tác thẩm định trong toàn hệ thống Tổng cục đầu tư phát triển.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docL0198.doc
Tài liệu liên quan