Đề tài Thực trạng của kinh tế tư nhân trong nền kinh tế thi trường định hướng XHCN

Hơn hai mươi năm thực hiện công cuộc đổi mới kinh tế- xã hội, kinh tế tư nhân đã phát triển mạnh mẽ và chiếm vị trí quan trọng trong nền kinh tế nhiều thành phần định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Nhìn chung, chặng đường trước mắt của kinh tế tư nhân còn rất dài và nhiều gian nan. Tuy nhiên với quyết tâm cao và đường lối, chính sách đúng đắn củ Đảng và Nhà nước trong việc phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, với lực lượng doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế đang trưởng thành, đâỳ ý chí vươn lên làm giàu cho mình và cho đất nước , với bản lĩnh và tài năng của mình, với sự liên kết, hợp tác ngày càng phát triển giữa các doanh nghiệp Việt Nam với nhau và với các cộng đồng kinh doanh quốc tế, chắc chắn khu vực kinh tế tư nhân Viêt Nam sẽ vượt qua mọi thách thức, giành những thắnh lợi lớn hơn trong kinh doanh, phát triển nhanh và vững chắc để làm một động lực mạnh đưa nền kinh tế nước ta phát triển và hội nhập.

doc20 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1710 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Thực trạng của kinh tế tư nhân trong nền kinh tế thi trường định hướng XHCN, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ựa trên cơ sở chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất và bóc lột sức lao động làm thuê. Kinh tế tư nhân là tổng thể các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế ra đời và tồn tại trên cơ sở sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, và được gọi là khu vực kinh tế tư nhân. Nó tồn tại dưới các hình thức tổ chức kinh tế được thành lập hợp pháp, có tư cách pháp nhân, đăng ký sản xuất kinh doanh ở những lĩnh vực, ngành nghề nhất định, như: doanh nghiệp tư nhân, công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn, hộ kinh doanh cá thể…Sự tồn tại và phát triển kinh tế tư nhân trong thời kỳ quá độ là một tất yếu khách quan, hợp quy luật. Yêu cầu của quy luật là: Quan hệ sản xuất phải phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Mà ở Việt Nam hiện nay, trình độ lực lượng sản xuất(nhất là xã hội hoá lao động và sản xuất) còn thấp kém và không đồng đều giữa các ngành lĩnh vực… nên thích ứng với nó phải là một quan hệ sản xuất có nhiều hình thức sở hữu, với trình độ xẫ hội hoá khác nhau. C.Mác đã từng chỉ rõ rằng: không thể tuỳ tiện xoá bỏ một quan hệ sản xuất nào đó khi lực lượng sản xuất chưa đòi hỏi. Đại hội Đảng lần thứ VI cũng khẳng định: “ Lực lượng sản xuất không chỉ bị kìm hãm khi quan hệ sản xuất lạc hậu, mà nó cũng bị kì hãm khi quan hệ sản xuất bị đẩy lên vượt trước yêu cầu của lực lượng sản xuất “. Sự tồn tại khách quan của kinh tế hàng hoá cùng với xu thế và đặc điểm thời đại về mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế là môi trường và điều kiện cho kinh tế tư nhân phát huy các ưu thế, hiệu quả của mình cho nền kinh tế, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Đặc điểm của kinh tế tư nhân : Về sở hữu: nó đại biểu cho sở hữu tư nhân (tư hữu nhỏ và sở hữu tư nhân tư bản nhà nước) Về cơ cấu : kinh tế tư nhân gồm có +Kinh tế cá thể: là hình thức kinh tế dựa trên tư hữu nhỏ về tư liệu sản xuất, và khả năng lao động của bản thân người lao động và gia đình +Kinh tế tiểu chủ: là hình thức kinh tế dựa trên tư hữu về tư liệu sản xuất, nhưng có thuê mướn lao động, tuy nhiên thu nhập vẫn dựa vào sức lao động và vốn của bản thân và gia đinh. +Kinh tế tư bản tư nhân: là hình thức kinh tế mà sản xuất kinh doanh dựa trên cơ sở chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất và bóc lột sức lao động làm thuê. Về hình thức : kinh tế tư nhân tồn tại dưới hình thức là các hộ kinh doanh cá thể, tiểu chủ, doanh nghịêp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần mà vốn thuộc sở hữu tư nhân. Về phân phối : kinh tế tư nhân dược phân phối dưới những hình thức đặc thù gắn với sở hữu tư nhân.Với người lao động thì phân phối phụ thuộc vào sức lao động. Đối với chủ lao động thì phân phối theo tài sản, vốn, và năng lực kinh doanh. Vai trò của kinh tế tư nhân : Kinh tế tư nhân góp phần vào huy động vốn cho đầu tư phát triển và tạo công ăn việc làm cho người lao động. Kinh tế tư nhân giúp thúc đẩy sản xuất và phát huy tiềm năng về các ngành nghề ở các địa phương đóng góp vào ngân sách nhà nước. Góp phần tích cực vào chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo phương hướng hợp lý, hiệu quả, hiện đại. Kinh tế tư nhân cũng làm phong phú thêm đội ngũ các chủ thể kinh tế tham gia vào thị trường , duy trì môi trường làm ăn lành mạnh. Kinh tế tư nhân thúc đẩy nhanh quá trình hội nhập kinh tế quốc tế ở Việt Nam với kinh tế thế giới và hiện đại hoá sản xuất. Quan điểm của Đảng và Nhà nước về kinh tế tư nhân Trước đây, do nhận thức sai lầm về mô hình CNXH và con đường tiến lên CNXH ở Việt Nam nên Đảng ta đã từng đề ra đường lối xây dựng CNXH với chủ trương “công hữu hoá, xóa tư hữu”, coi tư hữu, kinh tế tư nhân là “phi chủ nghĩa xã hội” là đối tượng của cách mạng XHCN cần phải cải tạo, loại bỏ. Từ đường lối đổi mới (đại hội Đảng VI 1986) nhất là đổi mới tư duy lý luận về mô hình CNXH và con đường tiến lên CNXH ở Việt Nam với tinh thần khoa học và cách mạng, Đảng ta chủ trương: xây dựng và phát triển nền kinh tế hang hoá định hướng XHCN với cơ cấu nhiều thành phần kinh tế tham gia. Trong đó, kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo và cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng của nền kinh tế nước nhà; kinh tế tư nhân (bao gồm kinh tế cá thể, tiểu chủ và tư bản tư nhân) là bộ phận quan trọng cấu thành nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, tồn tại lâu dài, bình đẳng trước pháp luật, không phân biệt đối xử, quan hệ với các thành phần kinh tế khác trong cơ chế thị trường bằng hợp tác và cạnh tranh lành mạnh, được tự do đầu tư hoạt động kinh doanh theo pháp luật, không bị giới hạn về quy mô, địa bàn, trình độ công nghệ, được nhà nước tạo điều kiện và khuyến khích phát triển trong lĩnh vực sản xuất có lợi cho quốc kế dân sinh mà pháp luật không cấm để làm giàu cho mình và cho đất nước. Theo tinh thần đó, các ngành, các địa phương thực hiện nhất quán chính sách đối với điều kiện thuận lợi, an toàn, tin cậy, hấp dẫn để thu hút các nguồn đầu tư của kinh tế tư nhân (cả ở trong nước và ngoài nước) để thúc đẩy phát triển sản xuất, công nghiệp hoá, hiện đại hóa, tăng trưởng và phát triển kinh tế-xã hội theo phương hướng và mục tiêu đã định. Tiềm năng phát triển kinh tế tư nhân còn rất lớn, cả về nguồn vốn đầu tư, lao động , ngành nghề, quan hệ thị trường (ước tính nguồn vốn tư nhân có thể huy động còn khoảng 8 tỷ USD, chưa kể mỗi năm than nhân gửi về nước 2.4 tỷ USD). Trong khi khẳng định những mặt tích cực của kinh tế tư nhân ở nước ta , cũng cần thấy rõ những hạn chế, những khuyết tật của nó trong quá trình phát triển như tính chất tự phát, vô chính phủ trong sản xuất, kinh doanh, tình trạng chấp hành không nghiêm luật pháp, kỷ cương…Đặc biệt không ít các doanh nghiệp tư bản tư nhân trốn, lậu thuế, kinh doanh bất hợp pháp, bóc lột công nhân như thời tích luỹ nguyên thủy của chủ nghĩa tư bản, móc ngoặc làm tha hoá một số cán bộ có chức, có quyền trong bộ máy nhà nước, các tổ chức và cơ quan kinh tế nhà nước; chiếm dụng rút ruột hang trăm tỷ đồng của Nhà nước…Một số còn kinh doanh hàng giả hàng nhái gây tổn hại đối với môi trường văn hoá xã hội và môi trường sinh thái…nên rất cần tăng cường hiệu lực và hiệu quả quản lý của nhà nước các cấp, các cơ quan chức năng bằng các công cụ quản lý vĩ mô(luật pháp, chính sách, kế hoạch… với các phương pháp: hành chính, kinh tế, tư tưởng,….) để kinh tế tư nhân hoạt động lành mạnh, đúng hướng, thực hiện mục tiêu chung mà Đảng và nhà nước đề ra. II Thực trạng của kinh tế tư nhân trong nền kinh tế thi trường định hướng XHCN. 2.1 Những thành tựu: Sau 20 năm thực hiện đường lối đổi mới, nền kinh tế nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, trong đó có sự đóng góp của kinh tế tư nhân. Sự phát triển của kinh tế tư nhân đã góp phần quan trọng trong việc huy động các nguồn lực của xã hội vào sản xuất, kinh doanh, tạo thêm việc làm, tăng thu cho ngân sách nhà nước, cải thiện đời sống nhân dân, thúc đẩy phân công lao động xã hội, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá... 2.1.1 Về cơ cấu loại hình doanh nghiệp và vốn đầu tư:. Tỷ trọng doanh nghiệp tư nhân trong tổng số doanh nghiệp đăng ký giảm từ 64% trong giai đoạn 1991 đến 1999 xuống còn 34% giai đoạn 2000-2004. Trong khi đó cùng với khoảng thời gian trên, tỷ trọng công ty trách nhiệm hữu hạn và công tỷ cổ phần tăng từ 36% lên 66%. Trong hơn 4 năm qua, có khoảng 7165 công ty cổ phần đăng ký thành lập, gấp 10 lần so với giai đoạn 1991-1999. Thực tế nói trên phần nào chứng tỏ các nhà đầu tư đa tin tưởng vào đường lối, luật pháp và cơ chế chính sách có xu hướng đầu tư dài hạn hơn, công khai hơn và quy mô lớn hơn. Tổng nguồn vốn đầu tư toàn xã hội trong năm 2006 đạt khoảng 41% GDP, là mức cao nhất trong nhiều năm qua. Đáng chú ý là trong mức ấn tượng trên, nguồn vốn của doanh nghiệp dân doanh đã chiếm tới gần một phần ba. Hơn nữa, số lượng vốn huy động được qua đăng ký thành lập mới và mở rộng quy mô kinh doanh tăng mạnh mẽ. Trong đăng 4 năm 2000-2004 các doanh nghiệp đa đầu tư (gồm có đăng ký mới và đăng ký bổ sung) đạt trên 12715 tỷ đồng (tương đương khoảng 12.1 tỷ USD cao hơn số vốn đầu tư nước ngoài đăng ký cùng thời kỳ); và hết tháng 5-2004 khoảng 1.8 tỷ USD. Xét về tỷ lệ gia tăng vốn, đăng ký mới các tỉnh thành phố phía Bắc cũng tăng nhanh nhiều cao hơn so với các tỉnh thành phố khác, nhất là các tỉnh vùng Đồng bằng song Cửu Long và miền Trung.Kết quả là tỷ trọng đầu tư của dân cư và doanh nghiệp trong tổng đầu tư toàn xã hội đã tăng từ 20% năm 2000 lên 23% năm 2001 và 25.3% năm 2002 và năm 2003 trên 27%. Tỷ trọng đầu tư của các doanh nghiệp tư nhân trong nước liên tục tăng và đã vượt lên hơn hẳn tỷ trọng đầu tư của doanh nghiệp nhà nước, gần bằng tổng vốn đầu tư của doanh nghiệp nhà nước và tín dụng nhà nước. Vốn đầu tư của các doanh nghiệp dân doanh đã đóng vai trò quan trọng, thậm chí là nguồn vốn đầu tư chủ yếu đối với phát triển kinh tế địa phương. Ví dụ, đầu tư của các doanh nghiệp dân doanh năm 2002 ở thành phố Hồ Chí Minh đã chiếm 38% tổng số vốn đầu tư toàn xã hội, cao hơn tỷ trọng vốn đầu tư của doanh nghiệp nhà nước và ngân sách nhà nước gộp lại ( 36.5%) Quy mô doanh nghiệp ngày càng tăng. Thời kỳ 1991-1999 vốn đăng ký bình quân/doanh nghiệp là gần 0.57 tỷ đồng, năm 2000 là 0.96 tỷ đồng, năm 2001 là 1.3 tỷ đồng, năm 2002 là 1.8 tỷ đồng, 7 tháng đầu năm 2003 là 2.12 tỷ đồng. Vốn đầu tư thực tế: đây là một vấn đề khó xác định được chính xác, nhưng qua phản ảnh từ nhiều nguồn thong tin cho thấy số vốn đầu tư thực tế cao hơn nhiều so với số vốn đăng ký. Đánh giá này được thực hiện qua các tỉnh. Ví dụ ở Nam Định số vố đăng ký kinh doanh của các doanh nghiệp năm 2002 là 84.5 tỷ đồng thì số vốn đầu tư của các doanh nghiệp tại khu công nghiệp Hoà Xá đã lên tới gần 700 tỷ đồng trong cùng thời kỳ; ở Lào Cai trong khi vốn đăng ký của các doanh nghiệp vào khoảng 93 tỷ đồng thì vốn đầu tư thực hiện của các doanh nghiệp là 422 tỷ đồng, trong đó thành phần quan trọng nhất là khu vực kinh tế tư nhân. 2.1.2 Tạo nhiều công ăn việc làm mới Khu vực kinh tế tư nhân chiếm tỷ trọng cao trong tổng số lao động đang làm việc (88.8%), cao hơn rất nhiều so với tỷ trọng 9.7% của khu vực Nhà nước. Trong tổng số lao động làm việc ở khu vực doanh nghiệp (5175 nghìn lao động ), thì doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân chiếm 42.9%, cao hơn tỷ trọng 39.3% của khu vực doanh nghiệp Nhà nước. Nước ta hang năm có thêm khoảng 1.4 đến 1.5 triệu người đến tuổi tham gia vào thị trường lao động. Ngoài ra số lao động nông nghiệp có nhu cầu chuyển sang làm trong các ngành phi nông nghiệp cũng không nhỏ. Nhu cầu hàng năm phải tạo thêm được hàng triệu việc làm đang là một áp lực xã hội mạnh đối với chính phủ và các cấp chính quyền địa phương. Kết quả tổng hợp sơ bộ tình hình thực hiện Luật KKĐTTN cho thấy, trog 9 năm thực hiện đã có trên 1.5 triệu lao động được làm việc trong các dự án thực hiện theo Luật. Riêng khu vực kinh tế dân doanh đã tạo ra hơn 1 triệu việc làm trực tiếp và hang nghìn lao động gián tiếp, đua tổng số lao động trực tiếp làm việc trong các doanh nghiệp dân doanh xấp xỉ bằng tổng số lao động trực tiếp làm việc trong các doanh nghiệp nhà nước; và đưa tổng số lao động làm việc trong doanh nghiệp của khu vực kinh tế tư nhân lên hơn 7 triệu người. Đây là sự đóng góp tích cực vào ổn định chính trị xã hội, xoá đói giảm nghèo nâng cao nhận thức của lao động ở nông thôn. 2.1.3 Góp phần cân bằng ngoại tệ thông qua xuất khẩu. Nhiều sản phẩm xuất khẩu của nước ta hiện nay đều do khu vực kinh tế tư nhân sản xuất, như: hang may mặc, giầy dép, đồ da, hang thuỷ hải sản, cà phê, cao su, hạt điều, hạt tiêu… Theo đánh giá của Bộ thương mại, khu vực kinh tế tư nhân mà chủ ếu ở các vùng kinh tế trọng điểm và thành phố trực thuộc trung ương, đóng góp gần một nửa tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước trong các năm qua. Với xu thế phát triển này, kinh tế tư nhân sẽ là khu vực tạo nguồn thu ngoại tệ lớn nhất cho đất nước trong tương lai. Tuy vậy, xuất khẩu của các doanh nghiệp khu vực kinh tế tư nhân ở nhiều địa phương còn nhỏ và có tỷ lệ chênh lệch khá lớn giữa các vùng và các tỉnh. Doanh nghiệo ở các tỉnh phía Nam đóng góp nhiều hơn vào kim ngạch xuất khẩu ở địa phương, trong lúc đó ở các tỉnh phía Bắc nhìn chung còn chưa đáng kể. Các doanh nghiệp khu vực kinh tế tư nhân ở Hà Nội chỉ chiếm khoảng 25% tổng kim ngạch xuất khẩu của thành phố khoảng hơn 7% tổng giá trị xuất khẩu của cả nước (thành phố Hồ Chí Minh là 12.5%). Nhìn chung tỷ lệ này ở các địa phương là khá thấp dưới 10% tuy nhiên cũng có 1 số cá biệt như: Hà Giang chiếm 60 xuất khẩu của địa phương, Quảng Ngãi 34%, Bình Thuận 45%. 2.1.4 Đóng góp vào nguồn thu ngân sách cho nhà nước. Khu vực kinh tế tư nhân có vai trò quan trọng trong nền kinh tế nước ta. Khu vực kinh tế tư nhân năm 2005 đã chiếm 38.5% GDP, cao gấp 5.4 lần tỷ trọng 7.11% của khu vực kinh tế tập thể, cao gấp hơn 2.5 lần tỷ trọng 15.17% của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài và đạt xấp xỉ với tỷ trọng 39.22% của khu vực kinh tế nhà nước. Riêng tỷ trọng trong GDP của các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân nhìn chung đã tăng lên qua các năm : nếu năm 2000 mới chỉ chiếm 7.31% thì năm 2005 là 8.91%. Đáng lưu ý, tốc độ tăng trưởng GDP do các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân luôn cao gấp rưỡi, gấp đôi tốc độ tăng trưởng chung cũng như cao hơn tốc độ tăng trưởng của các khu vực khác. So với ngân sách trung ương, đóng góp của các doanh nghiệp dân doanh trong nguồn thu của ngân sách địa phương lớn hơn nhiều. Ví dụ, ở thành phố Hồ Chí Minh đóng góp của doanh nghiệp dân doanh trong tổng thu ngân sách địa phương là khoảng 15%, Tiền Giang 24%, Đồng Tháp là 16%, Gia Lai 22%. Ngoài đóng góp trực tiếp vào ngân sách, doanh nghiệp, hiệp hội doanh nghiệp còn tích cực tham gia đóng góp xây dựng các công trình văn hoá, trường học, đường giao thông nông thôn, nhà tình nghĩa và những đóng góp phúc lợi xã hội khác ở các địa phương trong cả nước. 2.1.5 Góp phần phục hồi và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Từ năm 2000 đến nay, thực hiện Luật doanh nghiệp, Luật KKĐTTN và các cơ chế chính sách của nhà nước hỗ trợ phát triển các ngành kinh tế mũi nhọn, khu vực kinh tế tư nhân phát triển mạnh cả về số lượng, vố đầu tư đến quy mô hoạt đoọng, đã góp phần không nhỏ vào phục hồi và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Tác động tích cực này làm tăng thêm vốn đầu tư, thu hút thêm lao động, phát huy được trí tuệ và sức sáng tạo của người dân, tăng cầu thị trường nội địa, tăng hiệu quả nền kinh tế nhờ tăng thêm cạnh tranh trên thị trường… Về sản xuất công nghiệp, giai đoạn 2001-2005, giá trị sản xuất công nghiệp tăng bình quân 16%/năm; giá trị gia tăng bình quân 10,1%; tỷ lệ đóng góp vào tăng trưởng tăng từ 36,7% lên 4%. nhằm phục vụ mục tiêu tăng trưởng kinh tế bình quân từ 2006-2010 đạt 7,5-8%, ngành công nghiệp đặt chỉ tiêu phấn đấu đến năm 2010, tỷ trong công nghiệp-xây dựng chiếm 43-44% GDP cả nước. Doanh nghiệp tư nhân hiện đang chiếm một phần không nhỏ trong hầu hết các ngành công nghiệp chủ yếu:chiếm 50% giá trị công nghiệp chế biến thuỷ hải sản, công nghiệp giấy bìa, 30% công nghiệp may mặc…Đến nay doanh nghiệp tư nhân trong công nghiệp chiếm 26.5% tổng giá trị sản xuất công nghiệp cả nước, tăng 4.85 điểm phần trăm so với số thực hiện ở thời điểm cuối tháng 12 năm 2002 và 4 điểm phần trăm so với kết quả đạt được vào cuối năm 2000, năm đầu tiên thực hiện Luật Doanh nghiệp. 2.1.6 Góp phần thúc đẩy đổi mới công nghệ. Trong những năm gần đây đầu tư đổi mới của doanh nghiệp đã có dấu hiệu gia tăng, chủ yếu do sự xuất hiện của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Đầu tư nước ngoài vào Việt Nam mang theo những công nghệ và kỹ năng quản lý mới, đồng thời tạo ra sức ép thúc đẩy các doanh nghiệp trong nước ứng dụng các công nghệ tiên tiến để duy trì thị phần của mình trên thị trường. Mức độ đầu tư đổi mới công nghệ của doanh nghiệp Việt Nam còn rất thấp so với yêu cầu phát triển. Khu vực kinh tế tư nhân hầu như chưa tham gia hoạt động nghiên cứu và triển khai. Trong ba giai đoạn phát triển công nghệ là tiếp thu công nghệ, làm chủ công nghệ và sang tạo công nghệ, hầu hết các doanh nghiệp Việt Nam mới chỉ dừng lại ở giai đoạn tiếp thu công nghệ một cách thụ động thông qua nhập khẩu máy móc và thiết bị. Trong công nghệ nhập khẩu, tỷ trọng giá trị phần mềm công nghệ chỉ chiếm khoảng 17% tổng giá trị nhập khẩu, còn lại chủ yếu là phần cứng và máy móc, thiết bị. Các doanh nghiệp hiện chưa có động lực nghiên cứu đổi mới công nghệ để tiếp cận dần tới khả năng sang tạo công nghệ. Hàm lượng công nghệ và chất xám trong hang hoá của doanh nghiệp Việt Nam còn thấp, sản phẩm được làm ra chủ yếu mới dựa vào vốn và lao động. 2.1.7 Góp phần nâng cao trình độ lao động và quản lý doanh nghiệp : Doanh nghiệp tư nhân trở thành nơi đào tạo một đội ngũ những nhà kinh doanh chuyên nghiệp, những tài năng kinh doanh trong nước và vươn ra thế giới của đất nước. Nhân tài quản lý kinh tế chỉ có thể tồn tại trong quá trình vật lộn trên thương trường, trưởng thành trong quá trình đấu tranh gay gắt. Vì vậy kinh tế tư nhân đã góp phần đào tạo nhân tài cho công cuộc quản trị kinh tế đất nước trong tương lai. 2.2 Tiềm năng và lợi thế của kinh tế tư nhân 2.2.1 Tiềm năng: Kinh tế tư nhân nước ta mới được khôi phục và vẫn ở trình độ phát triển thấp nên nhiều khả năng của nó vẫn chưa được khai thác, còn nằm dưới dạng tiềm năng. - Tiềm năng quan trọng nhất của kinh tế tư nhân là khả năng vô tận của sáng kiến cá nhân trong nhân dân. Kinh nghiệm của các nước và lãnh thổ có nhiều thành công trong phát triển kinh tế (Xingapo, Hồng Kông, Hàn Quốc, Nhật Bản …) cho thấy: các tiềm năng bên trong như đất đai, lao động, vốn trong thời kỳ đầu của sự phát triển ở các nước này đều rất hạn chế. Nhưng nhờ sự phát huy được các sáng kiến cá nhân cũng như sự đóng góp tiền của và công sức của đông đảo nhân dân vào việc xây dựng kinh tế, đầu tư kinh doanh; đồng thời có sự quản lý đúng đắn của Nhà nước, nên chỉ sau một thời gian không dài đã làm nên những kỳ tích trong phát triển kinh tế. Từ khi công cuộc đổi mới ở nước ta tiến hành, nhiều sáng kiến cá nhân của đông đảo nhân dân đang được phát huy cả trong lao động sản xuất cũng như trong việc tìm tòi các hình thức kinh doanh năng động, từng bước đáp ứng nhu cầu của thị trường. Tuy nhiên, nguồn tiềm năng này vẫn chưa được chú ý đúng mức nên cần phải có chiến lược đúng đắn để phát huy sáng kiến cá nhân và huy động được mọi nhân tài vật lực cho công cuộc “dân giàu, nước mạnh” như chúng ta đã làm trong chiến tranh trước đây. - Tiềm năng về trí tuệ, kinh nghiệm quản lý, tay nghề và những kinh nghiệm sản xuất – kinh doanh bí truyền được tích luỹ qua nhiều đời trong khu vực kinh tế tư nhân là nguồn tiềm năng vô cùng to lớn cho sự tăng trưởng kinh tế nếu biết khơi dậy được những tiềm năng này. - Sự đa dạng của các hình thức tổ chức sản xuất, kinh doanh và sự phong phú của sản phẩm là một tiềm năng quan trọng của kinh tế tư nhân. Thực tế nhiều năm qua ở các nước xã hội chủ nghĩa và ở Việt Nam đều cho thấy: do ngân sách nhà nước bị hạn chế nên số doanh nghiệp nhà nước cũng bị hạn chế vế số lượng và rất nghèo về hình thức tổ chức sản xuất. Sự năng động thích ứng với thị trường nhằm đáp ứng các nhu cầu vô cùng đa dạng và phong phú của thị trường đã tạo ra sự đa dạng của hàng hóa. - Khu vực kinh tế tư nhân có tiềm năng lớn về vốn. Khu vực kinh tế tư nhân, nối tiếp từ thế hệ này sang thế hệ khác đã tích luỹ được những nguồn vốn rất lớn. Nếu các chính phủ có chính sách đúng đắn, tạo được môi trường thuận lợi và tạo được lòng tin trong nhân dân thì nhất định họ sẽ sẵn sàng bỏ vốn để đầu tư, mở rộng sản xuất kinh doanh, góp phần thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng. - Khu vực kinh tế tư nhân còn có một tiềm năng lao động to lớn và góp phần đáng kể vào việc giải quyết việc làm cho xã hội.Ở nước ta, hàng năm có khoảng 1,5 triệu người đến độ tuổi lao động. Ngoài ra, còn có những người lao động bị thất nghiệp do sắp xếp lại sản xuất trong các ngành kinh tế quốc dân. Đó là chưa kể số lượng lớn những người bán thất nghiệp ở nông thôn và thành phố.Đây là nguồn lao động rất dồi dào mà quốc gia chưa khai thác hết được. - Khu vực kinh tế tư nhân còn là môi trường thuận lợi để mở rộng hợp tác kinh tế với nước ngoài. Trong nền kinh tế mở hiện nay, sự giao lưu giữa các nước phát triển mạnh. Ở các nước,liên doanh với nước ngoài chủ yếu là do tư nhân thực hiện, bởi vì kinh tế tư nhân là khu vực năng động và có hiệu quả cao cho nên nó là những đối tác quan trọng trong các liên doanh với nước ngoài - Tiềm năng về thị trường.Với số dân tương đối lớn, Việt Nam là thị trường hấp dẫn đối với nhiều nhà kinh doanh trên thế giới. Nhu cầu tiêu dùng của người dân cũng rất phong phú, đa dạng. Vì vậy, có thể sản xuất những mặt hàng cao cấp để xuất khẩu, cũng có thể sản xuất những mặt hàng thích hợp với giá cả dễ tiêu thụ trong nước. Tuy nhiên, để khai thác tiềm năng của kinh tế tư nhân, điều quan trọng là phải tạo một trường đầu tư thuận lợi, hiệu quả. 2.2.2. Lợi thế - Kinh tế tư nhân gắn với sở hữu tư nhân là sở hữu có chủ đích nên cho phép xác định rõ ràng mối quan hệ giữa quyền hạn, trách nhiệm, quyền lợi. Hơn nữa, do tài sản có chủ nên việc giải quyết những vấn đề như thế chấp, tranh chấp … trong kinh tế thị trường dễ dàng và sòng phẳng. - Kinh tế tư nhân gắn với sở hữu tư nhân nên có thể truyền lại cho thế hệ con cháu cả kinh nghiệm, kiến thức và tài sản. Đó là một trong những động lực thúc đẩy nó phát triển không giới hạn. - Mục đích của hoạt động kinh doanh tư nhân thường rõ ràng và đơn giản là thu lợi nhuận. - Các nhà kinh doanh tư nhân phải bỏ tiền của mình vào hoạt động kinh doanh nên phải suy tính cân nhắc kỹ theo cách: “bảy lần đo, một lần cắt”, nhưng lại phải kịp thời để không bỏ qua cơ hội kinh doanh. Đây là vấn đề mà các doanh nghiệp nhà nước khó thực hiện. - Quy mô, hình thức tổ chức sản xuất và loại hình sản xuất rất đa dạng nhằm đáp ứng mọi nhu cầu của thị trường. - Tổ chức bộ máy quản lý rất gọn nhẹ, linh hoạt. Khác với doanh nghiệp nhà nước: nếu quản lý quá chặt chẽ sẽ mất tính năng động, nếu buông lỏng sẽ thất thoát. - Hình thức và khả năng thu hút vốn, lao động rất phong phú. - Đứng về phía quản lý nhà nước thì quản lý kinh tế tư nhân đơn giản hơn, phạm vi tác động rộng hơn và hiệu quả hơn. Thay vì Nhà nước phải nắm bắt tài sản cụ thể của từng doanh nghiệp, tổ chức bộ máy và cán bộ quản lý doanh nghiệp…như đối với các doanh nghiệp nhà nước thì việc quản lý kinh tế tư nhân chỉ cần ban hành luật, chiến lược, chính sách và kiểm soát sự hoạt động của nó. 2.3 Hạn chế của kinh tế tư nhân 2.3.1. Những hạn chế của kinh tế tư nhân - Kinh tế tư nhân gắn với lợi ích và động lực cá nhân, nên nếu quản lý không tốt thì dễ chạy theo lợi ích trước mắt, lợi ích cá nhân mà quên lợi ích cộng đồng và lâu dài. - Mang trong mình tính tự phát vô chính phủ nên dễ dẫn đến đổ vỡ nếu quản lý nhà nước không tốt (cuộc đại khủng hoảng kinh tế tư bản chủ nghĩa năm 1929-1933 là một ví dụ điển hình). - Kinh tế tư nhân mang tính chất tối ưu hóa cục bộ, tìm cách cực đại hóa lợi nhuận nên dễ bỏ qua những lĩnh vực không có lợi về kinh tế nhưng lại rất cần cho xã hội, đồng thời dễ triệt tiêu lẫn nhau trong cạnh tranh. - Ngoài ra kinh tế tư nhân Việt Nam có đặc điểm là quy mô nhỏ, phân tán nên khả năng cạnh tranh trên thị trường, đặc biệt là thị trường quốc tế còn nhiều hạn chế và hoạt động kinh doanh trên thị trường còn mang nhiều yếu tố chụp dật, kinh doanh thiếu văn minh. - Trình độ kỹ thuật và kỹ năng quản lý còn hạn chế, khó phản ứng được trước những tác động từ bên ngoài hạn chế về khả năng ngoại ngữ, thiên thong về thị trường. - Khả năng tài chính còn hạn chế, dẫn đến quy mô kinh doanh nhỏ bé, không đủ sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế. - Kém hiểu biết pháp luật 2.3.2 Những vấn đề bức xúc cần giải quyết. - Mặc dù nhiều giấy phép và các quy định về điều kiện kinh doanh không còn phù hợp với nền kinh tế thị trường đã bị bãi bỏ, song vẫn còn nhiều loại giấy phép đang tồn tại và một số giấy phép được ban hành dưới những hình thức trá hình như giấy chứng nhận đạt tiêu chuẩn; - Một số cơ quan, cá nhân thực thi pháp luật chưa làm đúng chức trách, bổn phân của mình còn gây sách nhiễu cho hoạt động của doanh nghiệp. - Một số doanh nghiệp đã đăng ký kinh doanh nhưng trên thực tế không hoạt động kinh doanh và được gọi là các “doanh nghiệp ma” được thành lập với mục tiêu “kinh doanh tên tuổi”,”kinh doanh con dấu” với những hợp đồng ma, buôn bán hoá đơn. - Vấn đề hậu kiểm được quy định trong Luật Doanh nghiệp nhưng trên thực tế vẫn chưa được thực hiện tốt, còn nhiều hạn chế. - Về hỗ trợ mặt bằng sản xuất kinh doanh, nhìn chung chất lượng quy hoạch của nhiều địa phương kém, do vậy các chính sách hỗ trợ, tạo điều kiện cho doanh nghiệp có mặt bằng sản xuất kinh doanh vẫn là cấn đề bức xúc. Nhiều địa phương áp dụng các chính sách ưu đãi về tiền thuê đất, thuế sử dụng đất, thuế chuyển mục đích sử dụng đất với các mức chênh lệch tương đối cao nhằm thu hút đầu tư đã gây ra tình trạng cạnh tranh không đáng có. Bên cạnh đó sự phối hợp giữa các cơ quan trong lĩnh vực đất đai còn rất hạn chế, do quy định về phân cấp quản lý đất đai chưa rõ ràng. - Vấn đề chuyển đổi đất đai, nhất là đất canh tác sang làm mặt bằng sản xuất kinh doanh cho doanh nghiệp đang là vấn đề nan giải, phức tạp chưa được tháo gỡ, làm ảnh hưởng đến môi trường đầu tư chung của nhiều tỉnh - Về phía doanh nghiệp,lợi dụng chính sách thu hút đầu tư, công tác quản lý chưa chặt chẽ, không thiếu doanh nghiệp cố gắng bằng mọi cách có được đất và đầu tư cầm chừng chờ đợi biến động giá đất để kiếm lời. - Doanh nghiệp khó tiếp cận được tín dụng ưu đãi đầu tư của Nhà nước. Quỹ hỗ trợ phát triển là tổ chức tài chính nhà nước, thực hiện chính sách hỗ trợ đầu tư phát triển của nhà nước, hỗ trợ xuất khẩu và một số nhiệm vụ khác, Các hình thức hỗ trợ chủ yếu của Quỹ là: cho vay đầu tư, hỗ trợ lãi suất sau đầu tư, bảo lãnh tín dụng đầu tư, cho vay tín dụng ngắn hạn hỗ trợ xuất khẩu và bảo lãnh dự thầu, bảo lãnh thực hiện hợp đồng. - Theo phản ánh của nhiều địa phương đến nay thủ tục hồ sơ đề nghị cấp tín dụng ưu đãi vẫn còn rườm rà, phức tạp, quy trình xét cấp kéo dài do phải di qua nhiều đầu mối, một số quy định về thủ tục không thiết thực đối với doanh nghiệp. Việc phải có tài sản thế chấp làm cho nhà đầu tư, đặc biệt các chủ doanh nghiệp nhỏ khó tiếp cận được đến nguồn tín dụng của quỹ HTPT. Một thực tế diễn ra là thời gian phê duyệt thủ tục vay ưu đãi kéo dài , làm cho các nhà đầu tư mất cơ hội kinh doanh. Theo quy định, thời gian phê duyệt thủ tục vay ưu đãi là 20 ngày, nhưng trên thực tế thì nhà đầu tư phải chờ đợi nhiều tháng. Tình trạng các dự án đã được cấp ưu đãi đầu tư năm trước, đến năm sau mới được xem xét về tín dụng ưu đãi còn diễn ra phổ biến trong quy trình xét cấp ưu đãi. Hầu hết các dự án được vay ưu đãi đều phải quy quỹ HTPT của trung ương thẩm định lại rồi mới được giải ngân, do vậy gây ảnh hưởng rất lớn đến kế hoạch đầu tư của doanh nghiệp. Nhìn chung, việc cho vay đầu tư của hệ thống quỹ HTPT chỉ được thực hiện đối với các dự án đầu tư thuộc một số ngành, lĩnh vực chương trình kinh tế lớn của nhà nước và các vùng khó khăn cần khuyến khích đầu tư. Doanh nghiệp dân doanh bị hạn chế khả năng tiếp cận nguồn vốn vay ưu đãi của nhà nước. Ngoài nguyên nhân trên, kinh tế tư nhân không vay đ­îc vốn tín dụng ưu đãi của nhà nước chủ yếu do thủ tục vay còn quá rườm rà, khó khăn, thời gian quá lâu khiến doanh nghiệp dân doanh không thể chờ được. Nhiều tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương chưa phát huy hết vai trò của quỹ HTPT. Số dự án được vay từ quỹ không nhiều. Hình thức hỗ trợ lãi suất sau đầu tư và bảo lãnh tín dụng còn chưa được phổ biến rộng rãi đến doanh nghiệp. - Thay đổi chính sách thuế gây nhiều khó khăn cho doanh nghiệp. Từ cuối năm 2002 do tác động của thuế môn bài tăng cao bất hợp lý, hang trăm doanh nghiệp tư nhân đã giải thể chuyển thành hộ kinh doanh cá thể, thuế môn vài ở mức cao cũng đã hạn chế phần nào việc mở rộng quy mô kinh doanh qua việc giảm mở thêm chi nhánh của hang mới, giải thể, đóng cửa các chi nhánh… ở những vùng khó khăn kinh doanh chưa có lãi. - Thủ tục hành chính phức tạp gây nhiều khó khăn cho doanh nghiệp nhiều doanh nghiệp phải chạy vòng vèo nhiều thủ tục trong vòng 1 năm thậm chí 2 năm trong khi luật quy đinh chỉ là 2 tháng. 2.4 Nguyên nhân của tình hình. 2.4.1 Vẫn tồn tại sự phân biệt đối xử đối với khu vực tư nhân. Một yếu tố không thể không nói đến là các nhà kinh doanh tư nhân vẫn có tâm lý dè dặt trong đầu tư và sản xuất kinh doanh. Sự lo ngại này có nguồn gốc sâu xa từ những biến cố trong lịc sử chính sách phát triển kinh tế của đất nước, cũng như từ thực tế diễn ra hang ngày ở các cấp khác nhau hiện nay. Giữa doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp tư nhân còn tồn tại nhiều phân biệt đối xử, cả trong việc đề ra chính sách lẫn trong việc thực hiện chính sách, chẳng hạn như doanh nghiệp nhf nước có các lợi thế hơn so với doanh nghiệp tư nhân trong vay vốn ngân hang như thủ tục và điều kiện vay dễ dàng hơn, không phải thế chấp, dễ dàng thuê đất hơn, tiếp cận tín dụng ưu đãi của chính phủ dễ dàng hơn. Luật doanh nghiệp quy định rõ việc cấm và hạn chế một số lĩnh vực kinh doanh, Tuy vậy khái niệm “các lĩnh vực kinh doanh nhạy cảm” đang bị lạm dụng bở một số cơ quan có thẩm quyền nhằm cản trở dân kinh doanh các ngành nghề mới. 2.4.2 Những nguyên nhân từ cơ chế chính sách. Hiện nay có 4 rào cản chính đang hạn chế sự phát triển của khu vực kinh tế tư nhân. Đó là: - Hiện đang tồn tại mâu thuẫn: đổi mới kinh tế đang được đẩy mạnh, Đảng và nhà nước đã đề ra những quyết sách để phát huy tiềm năng của cá thành phần kinh tế, hâm nóng lại môi trường đầu tư trong nhân dân và doanh nghiệp, nhưng bộ máy quản lý nhà nước và công chức chuyển không kịp. Bộ máy chưa được sắp xếp theo yêu cầu của thể chế mới, đang còn nhiều trường hợp bộ máy trùng lặp, nhiều cơ quan cùng làm một việc nhưng đùn đẩy, trách nhiệm không rõ rang. Vẫn còn không ít công chức lưu luyến cung cách quản lý cũ, không chịu rời bỏ thứ quyền lực đã nhiều năm gây phiền hà cho doanh nghiệp - Còn tồn tại nhiểu thủ tục hành chính rườm rà, không cần thiết hoặc bất cập với yêu cầu thực tiễn, dẫn đến không những tạo cơ hội phát triển tệ sách nhiễu, tham nhũng của các cơ quan và công chức hành chính, mà còn có thể khiến doanh nghiệp mất cơ hội kinh doanh tốt, hoặc phải trả giá đắt hơn các giao dịch làm ăn của mình. - Hiện nay có hiện tượng là văn bản pháp quy do bộ, ngành nào dự thảo thì thường nghiêng về quyền lực và lợi ích của bộ, ngành đó, không đứng về phía người thi hành là doanh nghiệp, thậm chí không đứng về lợi ích của toàn xã hội, do đó nhiều văn bản không khả thi, không di vào cuộc sống, ngược lại, gò bó trói buộc người dân và doanh nghiệp. - Trên lĩnh vực thanh tra, kiểm tra, chính phủ đã có Nghị định 64, ngày 15-8-1998 quy định rõ về công tác thanh tra, kiểm tra của các cơ quan có thẩm quyền. Tuy nhiên, thực tế cho thấy không nhiều doanh nghiệp dám thực hiện quyền “từ chối” của mình trong trường hợp thanh tra, kiểm tra không đúng pháp luật. Bởi lẽ, doanh nghiệp kiện cơ quan hành chính là việc “dân kiện quan” rất không dễ dàng, nên phần lớn đều tìm giải pháp mềm dẻo hơn để được việc và khỏi mất thời gian. Nguyên nhân chính của tình trạng này là cơ cấu tổ chức, chức năng, nhiệm vụ và bộ máy của Toà Hành chính đang còn nhiều bất cập. 2.4.3 Nguyên nhân của bản thân doanh nghiệp. 2.4.3.1 Khó khăn về vốn Vốn của doanh nghiệp tư nhân là ít nhất, 85% doanh nghiệp hoạt động với số vốn dưới 1 tỷ.Tình trạng thiếu vốn diễn ra rất phổ biến do bản thân doanh nghiệp của tư nhân mới được thành lập và phát triển nên vốn đầu tư và tài sản ít. Mặt khác, các doanh nghiệp tư nhân cũng rất khó tiếp cận các nguồn vốn cho vay của ngân hàng thương mại nhất, tiếp cận nguồn vốn cho vay ưu đãi còn khó hơn. Đơn giản chỉ vì họ không có tài sản có giá trị tương ứng để thế chấp. Vì thế, để có vốn, họ thường xuyên phải vay với lãi suất cao. 2.3.3.2 Khó khăn về mặt bằng sản xuất. Khó tìm kiếm mặt bằng sản xuất cũng như thiếu các điều kiện hạ tầng sản xuất cần thiết là tình trạng chung của khu vực kinh tế tư nhân. Vì chậm trong việc quy hoach mặt bằng dành cho các hoạt động sản xuất công nghiệp, nên các doanh nghiệp tư nhân thường không có cơ hội thuê được đất địa phương để xây dựng nhà xưởng. Các khu công nghiệp lớn, có cơ sở hạ tầng hiện đại, giá thuê đất cao, thường chỉ thích hợp cho các doanh nghiệp lớn và doanh nghiệp nhà nước mà không phù hợp cho các doanh nghiệp ở khu vực kinh tế tư nhân , vốn chủ yếu có quy mô nhỏ và eo hẹp về tài chính. Trước tình hình giá đất luôn cao như hiện bay cùng với việc doanh nghiệp tư nhân thường là đi thuê đất ngắn hạn(đất nhà ở hoặc mặt bằng doanh nghiệp nhà nước) để sản xuất làm cho các doanh nghiệp không dám đầu tư dài hạn cho máy móc và thiết bị dẫn đến qui mô sản xuất nhỏ. 2.3.3.3 Khó khăn về tìm kiếm nguồn nguyên liệu đặc biệt là nguồn nguyên liệu nhập. Môi trường kinh doanh quốc tế chứa đựng nhiều điều kiện không thuận lợi cho các nước phát triển như nước ta. Sự bất công bất bình đảng không những không giảm mà còn có chiều hướng tăng lên trong nhiều lĩnh vực trong đó có nguồn nguyên liệu. Các nước lớn, các công ty đa quốc gia luôn tìm cách lái thị trường theo họ do vậy chúng ta gặp khá nhiều khó khăn trong việc tìm kiếm nguồn nguyên liệu đặc biệt là nguồn nguyên liệu ngoại nhập. 2.4.3.4 Khó khăn về thị trường tiêu thụ sản phẩm và xuất khẩu. Thị trường tiêu thụ sản phẩm trong nước còn quá nhỏ bé và tăng trưởng chậm do thu nhập của dân cư còn quá thấp và tăng chậm. Chiến lược công nghiệp hoá mà thay thế nhập khẩu với các dự án đầu tư lớn, ít việc làm đã làm cho thu nhập của tầng lớp dân cư chậm được cải thiện. Kết quả là thị trường tiêu thụ trong nước đối với các sản phẩm của họ phát triển chậm. Về xuất khẩu, doanh nghiệp tư nhân gặp phải những khó khăn chính là: tiếp cận hạn ngạch xuất khẩu còn hạn chế (doanh nghiệp nhà nước vẫn có ưu thế hơn); thiếu thông tin về thị trường và đối tác nước ngoài, tiếp thị chưa đạt hiệu quả cao; tín dụng xuất khẩu và bảo hiểm xuất khẩu chưa đáp ứng được nhu cầu của doanh nghiệp tư nhân; thủ tục hải quan còn phức tạp, phiền toái, việc thực hiện thuế xuất nhập khẩu không rõ ràng do mã thuế không đầy đủ. Về xúc tiến thương mại, các doanh nghiệp tư nhân gặp phải các khó khăn là: ít được tham gia vào các đoàn doanh nghiệp ra nước ngoài, không có điều kiện trưng bày và quảng cáo sản phẩm để xuất khẩu, thiếu nhân viên có năng lực, kiến thức và kinh nghiệm thương mại quốc tế. 2.4.3.5 Khó khăn về quản lý,nguồn nhân lực. Đội ngũ các nhà kinh doanh tư nhân ở Việt Nam chủ yếu được hình thành trong những năm 90. Vì vậy, họ còn thiếu kinh nghiệm về nhiều mặt, từ kỹ năng quản lý đến hiểu biết về công nghệ và thị trường… Khó khăn chính về nguồn nhân lực là thiếu cán bộ kỹ thuật như kỹ sư có trình độ và thợ lành nghề bậc cao. Do thái độ của xã hội là chưa coi trọng khu vực kinh tế tư nhân, nên nhiều người có trình độ cao ngại làm việc cho khu vực này. Đối với doanh nghiệp tư nhân việc tiếp cận các dich vụ đào tạo nguồn nhân lực do Nhà nước cung cấp có nhiều hạn chế, chủ yếu là do nguồn ngân sách cho việc đào tạo này còn rất hạn hẹp. III. Các giải pháp để phát triển kinh tế tư nhân trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam 3.1 Thống nhất quan điểm. Hội nghị trung ương đảng 5 khoá IX khẳng định kinh tế tư nhân là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế quốc dân, vì vậy cần thống nhất một số quan điểm sau: Cầu quán triệt quan điểm: Tạo sự bình đẳng thực sự tức là không có bất kỳ sự phân biệt nào giữa kinh tế tư nhân với các khu vực, các thành phần kinh tế khác trong tiếp cận các yếu tố đầu vào: đất đai, vốn, lao động, công nghệ… Nếu không có sự bình đẳng thực sự sẽ hạn chế, thực tế có thể dẫn đến triệt tiêu mất động lực phát triển của kinh tế thị trường. Mặt khác kinh tế tư nhân là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế quốc dân, phát triển kinh tế tư nhân là chiến lược lâu dài trong phát triển kinh tế nhiều thành phân định hướng xã hội chủ nghĩa. Để kinh tế tư nhân làm tốt vai trò trên thì không thể không tạo ra sự bình đẳng thực sự giữa kinh tế tư nhân và các khu vực các thành phần khác trong nền kinh tế. Tiếp tục thực hiện một cách nhất quán chính sách phát triển kinh tế tư nhân nhiều thành phần, không nên có thái độ định kiến và kỳ thị đối với bất kỳ thành phần kinh tế nào. Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân, là nhân tố mở đường cho sự phát triển kinh tế. Điều cần lưu ý là doanh nghiệp nhà nước cần cạnh tranh bình đẳng trên thương trường. Không nên dựa vào giữ vai trò chủ đạo của nền kinh tế mà lấn át để hưởng nhiều chế độ ưu đãi, làm ảnh hưởng tới các thành phần kinh tế khác. Cần có cái nhìn mới về “bóc lột” là vấn đề cơ bản trong lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin về kinh tế sản xuất hang hoá trong chế độ TBCN. Thực tế trong những năm qua đang đặt ra hang loạt các vấn đề cần giải đáp hợp lý. Quan niệm bóc lột trong quá trình xây dựng kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa cần có sự thay đổi. Bóc lột chỉ xảy ra khi người phải làm việc trong môi trường lao động không có đủ điều kiện về vệ sinh và an toàn như quy định của pháp luật và không được trả lương tương xứng với sức lao động bỏ ra. Hiện tượng bóc lột theo quan niệm như vậy có thể xảy ra ở trong các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế tại cùng một doanh nghiệp, hôm nay không có bóc lột nhưng hôm sau do điều kiện thay đổi thì có thể xảy ra bóc lột. Do đó cách xử lý về vấn đề bóc lột cần có cách nhìn mới phù hợp với sự phát triển xã hội trên tinh thần công bằng xã hội. Trong báo cáo chính trị khoá X, Đảng đã chủ trương Đảng viên có thể tham gia vào thành phần kinh tế tư nhân. Đây là một mốc lớn trong quá trình phát triển kinh tế, phù hợp với yêu cầu khách quan và hợp với lòng dân. Vì vậy phải đòi hỏi các cấp uỷ tăng cường lãnh đạo kinh tế, thông qua hoạt động kinh tế mà “đổi mới chỉnh đốn Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng” Cần có cái nhìn về chế độ cân đối lớn và đổi mới công tác quy hoạch. Nên xoá bỏ chế độ “cân đối lớn”, bởi thực chất đây là biện pháp bảo hộ bằng quota nhập khẩu và độc quyền kinh doanh. Biện pháp này không phù hợp với chủ trương và định hướng thay đổi phương thức quản lý nhà nước, không phù hợp với cam kết và xu thế hội nhập kinh tế quốc tế. Nếu xét thấy cần thiết, phải xem xét sử dụng thuế quan để tiếp tục bảo hộ thêm 1 thời gian. Đối với công tác quy hoạch, cần phân biệt các quy hoạch khác nhau. Các quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội chỉ là định hướng cho công tác điều hành phát triển kinh tế xã hội của các cấp chính quyền. Bãi bỏ quy hoach phát triển ngành đang áp dụng phổ biến như hiện nay. Đối với một số sản phẩm, nếu xét thấy cần phải có quy hoạch để phối hợp đầu tư, thì quy hoạch đó chỉ áp dụng cho đầu tư nhà nước và đầu tư của các doanh nghiệp nhà nước mà thôi. 3.2 Kiến nghị một số biện pháp - Cần quán triệt sâu rộng quan điểm của Đảng và Nhà nước về kinh tế tư nhân cho mọi tầng lớp nhân dân lao động, đặc biệt một số cán bộ lãnh đạo của các địa phương cần nhận thức rõ và coi việc phát triển kinh tế tư nhân là nội dung quan trọng trong phát triển kinh tế xã hội của các địa phương; phải xoá bỏ ngay sự phân biệt bất bình đẳng giữa các thành phần kinh tế. - Quan điểm phát triển kinh tế tư nhân phải được thể hiện trong phương thức làm việc thống nhất, trong nhận thức của các cơ quan quản lý nhà nước tại địa phương. - Cần có các cơ quan đầu mối theo dõi, tổng hợp tình hình thực hiện và đề xuất những biện pháp tháo gỡ khó khăn và chủ động uốn nắn những sai phạm của kinh tế tư nhân; tạo mặt bằng pháp lý chung cho mọi loại hình doanh nghiệp. - Cần có chính sách đào tạo, nâng cao trình độ cho cán bộ quản lý nhà nước và người lao động. Các địa phương cần có chính sách trợ giúp đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ hiểu biết đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. - Nâng cấp và mở rộng các trung tâm dạy nghề của tỉnh; khuyến khích hỗ trợ các tổ chức cá nhân trong và ngoài nước mở các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng cán bộ quản lý, cán bộ kỹ thuật cho doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, trong đó có kinh tế tư nhân và dạy nghề cho người lao động. - Sớm có các nghị định hướng dẫn và quy định cụ thể đối với đất ở, đất chuyên dụng, đất nhận chuyển nhượng hợp pháp, vấn đề thuê chuyển quyền sử dụng đất, thuê chuyên mục đích sử dụng, tiền thuế đất, quy hoạch đất, tái định cư. Sửa đổi quy định để các doanh nghiệp có thể mua hoặc thuê đất trong thời gian dài. Chính thức hoá các giao dịch trên thị trường nhầ đất. Nhà nước thu hồi và tiến hành đền bù những diện tích bỏ hoang, sử dụng sai mục đích theo quy định của Luật Đất đai để cho danh nghiệp thuê làm mặt bằng sản xuất kinh doanh phù hợp quy hoạch chung của địa phương. - Tiếp tục nghiên cứu ban hành chính sách khuyến khích việc sử dụng đất ở những vùng còn nhiều đất chưa được sử dụng. Đẩy nhanh tiến đọ cấp giấy chứng nhân quyền sử dụng đất cho nhân dân để giải quyết việc cho các doanh nghiệp thuê đất hình thành nên cụm công nghiệp cũng như các cụm làng nghề. Kiên quyết xử lý những vụ tiêu cực trong việc giao và cho thuê đất. - Nhà nước quy hoạch dành đất xây dựng các khu công nghiệp trong nước, các chợ, siêu thị, văn phòng, nhà kho; sử dụng một phần vốn ngân sách và huy động thêm của các thành phần kinh tế để xây dựng kết cấu hạ tần cho các hộ kinh doanh cá thể, doanh nghiệp nhoe và vừa thuê được giá phù hợp. Về chính sách về khu công nghiệp, cụm công nghiệp. Nhà nước cần sớm có những quy định quản lý nhà nước về xây dựng phát triển các khu công nghiệp, cụm công nghiệp, điểm công nghiệp do địa phương tổ chức thực hiện tạo điều kiện cho các loại hình kinh tế được đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh. - Cần sớm ban hành cơ chế quản lý tài chính đối với doanh nghiệp dân doanh, bổ sung chế độ kế toán cho phù hợp với trình độ doanh nghiệp vừa và nhỏ, vừa chống thất thu thuế vừa đảm bảo công tác quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp; tạo điều kiện cho doanh nghiệp dân doanh sử dụng dịch vụ kiểm toán, thực hiện công khai tài chính doanh nghiệp hàng năm. Thực hiện chính sách tài chính tín dụng bình đẳng giữa các thành phần kinh tế; bảo đảm kinh tế tư nhân tiếp cận và được hưởng các ưu đãi. Nhà nước hỗ trợ về cơ sở hạ tầng (giao thông, điện nước, thông tin liên lạc…) tạo điều kiện thuận lợi cho kinh tế tư nhân phát triển. Nghiên cứu ban hành chính sách bảo hiểm rủi roc do hoạt động của kinh tế tư nhân trong kinh tế thị trường - Ban hành quy định về sở hữu tài sản tạo cơ sở pháp lý cho hoạt động kinh doanh. Doanh nghiệp khu vực tư nhân được dung tài sản hình thành từ nguồn vốn vay để thế chấp vay vốn ngân hàng. Đơn giản hoá các thủ tục cho vay đi liền với tăng cường các dịch vụ thanh toán, bảo lãnh, tư vấn cho kinh tế tư nhân; bổ sung sửa đổi một số quyết định để tạo nguồn thuận lợi cho việc xử lý tài sản thế chấp người vay không trả được bên nợ. - Sớm thành lập các quỹ bảo lãnh tín dụng doanh nghiệp nhỏ và vừa theo tinh thần hướng dẫn tại nghị định số 90/200/NĐ-CP ngày 23-11-2001 của Chính phủ về trợ giúp phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ. Cơ chế hoạt động, đối tượng được vay vốn từ Quỹ Hỗ trợ đầu tư phát riển đã được Chính Phủ sửa đổi, bổ sung bằng nghị định 106/2004/NĐ-CP, tuy nhiên vẫn tồn tại một số vấn đề: đối tượng được vay bị thu hẹp (lý do, phục vụ đầu tư trọng điểm, tập trung); mức lãi suất áp dụng chưa được phù hợp, cần có mức ưu đãi hơn cho các dự án đầu tư tại các địa bàn kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn. - Cần hình thành các chương trình trợi giúp phát triển những doanh nghiệp nhỏ và vừa trên địa bàn tỉnh theo tinh thần Nghị định số 30/2001/NĐ-CP. - Khuyến khích hình thành các tổ chức khoa học công nghệ để tư vấn hỗ trợ, cung cấp thông tin cho doanh nghiệp về ứng dụng công nghệ và bồi dưỡng kiến thức khoa học. Mở rộng hệ thống dịch vụ tư vấn khoa học, công nghệ cho kinh tế tư nhân. Các địa phương cần có những chính sách hỗ trợ như: mở các lớp ngắn hạn miễn phí bồi dưỡng kiến thức khoa học công nghệ cho hộ kinh doanh, doanh nghiệp tư nhân; hỗ trợ các doanh nghiệp ứng dụng công nghệ thồn tin thuê, mua trả góp thiết bị để đổi mới công nghệ, thực hiện tốt việc bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp; khen thưởng các cá nhân và doanh nghiệp áp dụng có hiệu quả công nghệ tiên tiến. - Cần ưu tiên đầu tư cơ sở hạ tầng cho vùng sâu vùng xa; thực hiện đầy đủ và nghiêm chỉnh những ưu đãi đối với các dự án đầu tư vào các vùng kinh tế khó khăn và đặc biệt khó khăn. Nghiên cứu điều chỉnh các quy định ưu đãi đầu tư vào những lĩnh vực ngành, nghề cần khuyến khích, thủ tục giải quyết hỗ trợ về vốn cho các doanh nghiệp và hộ kinh doanh. - Nhà nước cần tôn trọng quyền tự do kinh doanh, quyền bình đẳng trước pháp luật của các chủ đầu tư tư nhân. Khuyến khích, hỗ trợ và quản lý sự phát triển của kinh tế tư nhân bằng pháp luật Nhà nước cần tạo dựng cơ chế nhằm khuyến khích tối đa sự phát triển của kinh tế tư nhân trong những ngành, những lĩnh vực mà pháp luật không cấm, khuyến khích ứng dụng công nghệ tiên tiến để nâng cao sức cạnh tranh trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế. Các hộ kinh doanh cá thể cần được Nhà nước tạo điều kiện thuận lợi và giúp đỡ để phát triển để phát triển ở cả nông thôn và thành thị, các hộ này trong quá trình phát triển có thể hợp tác tự nguyện thành tổ hợp tác, hợp tác xã, làm vệ tinh cho các doanh nghiệp hoặc phát triển lớn hơn thành doanh nghiệp tư nhân. Các doanh nghiệp tư nhân cần được nhà nước tạo môi trường kinh doanh thuận lợi về chính sách, pháp lý, tâm lý xã hội để phát triển rộng rãi, không hạn chế quy mô, nhất là trên nhưng định hướng ưu tiên của Nhà nước, đồng thời khuyến khích chuyển thành các doanh nghiệp cổ phần, bán cổ phần cho người lao động, thực hiện liên doanh, liên kết với nhau, có thể với các HTX hoặc với các doanh nghiệp Nhà nước. - Nhà nước cần tiếp tục bổ sung, sửa đổi cơ chế, chính sách, bảo đảm sự bình đẳng giữa các thành phần kinh tế. Tiếp tục tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc để kinh tế tư nhân có thể được hưởng thụ những ưu đãi của Nhà nước đối với các ngành, vùng, các sản phẩm, dịch vụ cần ưu tiên hoặc khuyến khích phát triển không phân biệt thành phần kinh tế. Nhà nước tạo điều kiện về kết cấu hạ tầng, tạo môi trường pháp lý và chính sách ổn định, thông thoáng phù hợp với nhiều trình độ phát triển; khuyến khích phát huy quyền tự chủ sáng tạo, tự do kinh doanh theo pháp luật, đồng thời với việc xây dựng chế tài xử lý vi phạm nghiêm minh. - Bảo vệ lợi ích hợp pháp của cả người lao động và người sử dụng lao động trong khu vực kinh tế tư nhân, xây dựng mối quan hệ tốt đẹp giữa chủ và thợ. Theo hướng này Nhà nước cần có chính sách đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn nghề nghiệp, thực hiện chính sách xã hội nhằm đảm bảo cuộc sống cho người lao động trong khu vực tư nhân. Khuyến khích, tôn trọng các chủ doanh nghiệp tư nhân làm ăn chân chính,thực hiện tốt các quy định của pháp luật, đồng thời chăm lo bồi dưỡng, giáo dục lòng yêu nước, ý thức dân tộc, xây dựng văn hoá và đạo đức kinh doanhcho các chủ doanh nghiệp. Có chính sách bảo hiểm rủi ro cho kinh tế tư nhân, vì đây là một thành phần mới được khôi phục và phát triển trở lại, kinh nghiệm kinh doanh chưa nhiều và môi trường kinh doanh của ta hiện nay vẫn còn thiếu đồng bộ. - Tăng cường sự lãnh đạo và sự tham gia của các tổ chức Đảng Cộng sản, Đoàn thanh niên, các tổ chức Công đoàn… trong các cơ sở kinh tế tư nhân. Phát huy vai trò của Mặt trận tổ quốc, các đoàn thể nhân dân và các hiệp hội doanh nghiệp đối với sự phát triển của khu vực tư nhân. Do trong một số chủ doanh nghiệp tư nhân không thực hiện đúng cam kết trong hợp đồng lao động như: Nợ lương kéo dài, tăng thêm giờ lao động mà không có thù lao tương xứng, trốn nghĩa vụ đóng bảo hiểm cho người lao động…dẫn đến tình trạng công nhân đình công, bãi công… đã tác động xấu đến hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp và làm xấu đi hình ảnh của khu vực tư nhân. Tuy nhiên còn có một nguyên nhân nữa cũng không kém phần quan trọng là do nhiều doanh nghiệp không có một tổ chức công đoàn thực sư hiệu qủa nên khi bi xâm phạm quyền lợi quá mức họ đã tự phát đình công, bãi công.Vì vậy, để ngăn chặn những hiện tượng không lành mạnh trong kinh doanh và để bảo vệ quyền lợi chính đáng của những người lao động cần thiết phải hình thành công đoàn tại mỗi doanh nghiệp. - Mở rộng quan hệ liên doanh, liên kết giữa các doanh nghiệp trước hết là giữa các doanh nghiệp kinh doanh cùng một mặt hàng. Muốn vậy cần phải phát triển hơn nữa các hội, hiệp hội nghề nghiệp qua đó thúc đẩy liên doanh, liên kết giữa các doanh nghiệp tạo thêm sức mạnh cho kinh tế tư nhân. Trên đây chỉ là một số giải pháp được đề ra nhằm giúp đỡ nâng cao hơn nữa vai trò quản lý của nhà nước đối với các doanh nghiệp kinh tế tư nhân và tự bản than doanh nghiệp kinh tế tư nhân làm ăn có hiệu quả tuân theo đúng pháp luật. C. Kết luận Hơn hai mươi năm thực hiện công cuộc đổi mới kinh tế- xã hội, kinh tế tư nhân đã phát triển mạnh mẽ và chiếm vị trí quan trọng trong nền kinh tế nhiều thành phần định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Nhìn chung, chặng đường trước mắt của kinh tế tư nhân còn rất dài và nhiều gian nan. Tuy nhiên với quyết tâm cao và đường lối, chính sách đúng đắn củ Đảng và Nhà nước trong việc phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, với lực lượng doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế đang trưởng thành, đâỳ ý chí vươn lên làm giàu cho mình và cho đất nước , với bản lĩnh và tài năng của mình, với sự liên kết, hợp tác ngày càng phát triển giữa các doanh nghiệp Việt Nam với nhau và với các cộng đồng kinh doanh quốc tế, chắc chắn khu vực kinh tế tư nhân Viêt Nam sẽ vượt qua mọi thách thức, giành những thắnh lợi lớn hơn trong kinh doanh, phát triển nhanh và vững chắc để làm một động lực mạnh đưa nền kinh tế nước ta phát triển và hội nhập. TÀI LIỆU THAM KHẢO : Giáo trình kinh tế chính trị Mác-Lênin, Bộ giáo dục và đào tạo, NXB giáo dục, HN năm 2003 tái bản năm 2004. Giáo trình kinh tế chính trị Mác-Lênin về thời kỳ quá độ lên CNXH, NXB Chính trị quốc gia, hà nội năm 2001. Thành phần kinh tế cá thể, tiểu chủ và tư bản tư nhân lý luận và chính sách-TS Hà Huy Thành, NXB chính trị quốc gia Hà Nội 2002 Tổng hợp một số tạp chí cũng như sách báo về kinh tế các năm 2004,2005,2006 Các trang web về kinh tế , trang web của Đảng Cộng sản . Một số tài liệu khác về kinh tế. Mục lục

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35831.doc
Tài liệu liên quan