+ Đào tạo phát triển đội ngũ nhân viên : theo dõi quá trình phát triển chuyên môn nghiệp vụ , kĩ năng của nhân viên ở các bộ phận để làm cơ sở cho việc hoạch định tổ chức các chương trình đào tạo , bồi dưỡng .
+ Chương trình đề bạt , thăng tiến : Ban lãnh đạo phải tạo môi trường bình đẳng để khuyến khích nhân viên , các tiêu chuẩn tuyển chọn vào các vị trí cần được công khai.
- Hoàn thiện công tác tuyển dụng
+ Các doanh nghiệp cần dựa vào các tiêu chuẩn , chính sách tuyển dụng , quy định về tiêu chuẩn nhân viên của nhà nước để xây dựng tiêu chuẩn , chính sách tuyển dụng phù hợp với điều kiện thực tế của mình.
+ Mọi thông tin tuyển dụng , chế độ ưu đãi cần được thông báo công khai trên các phương tiện thông tin đại chúng. Quá trình tuyển dụng phải được giám sát chặt chẽ và đảm bảo tính công bằng.
56 trang |
Chia sẻ: Dung Lona | Lượt xem: 1138 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng đầu tư phát triển và tình hình quán triệt các đặc điểm của đầu tư phát triển trong công tác quản lý đầu tư ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n doanh tới 50 năm. Nhưng đi chưa hết nửa chặng đường thì liên doanh đã ở trên bờ vực phá sản với khoản nợ lên tới gần 41 triệu USD. Công ty đã gửi đơn kêu cứu lên UBND thành phố Hà Nội với đề nghị được bơm vốn vay 10 triệu USD, nhưng theo quan điểm của UBND TP thì không có cơ sở pháp lý để thực hiện điều này. Hiện phương án xử lý doanh nghiệp theo quy định của pháp luật về phá sản cũng đã được tính tới. Ông Trần Quang Hùng- Tổng thư ký Hiệp hội Doanh nghiệp điện tử Việt Nam khi trả lời báo chí đã cho rằng, kết cục này của doanh nghiệp là hoàn toàn được báo trước khi mà công nghệ sản xuất đèn hình tivi thoái trào. Xét về bề nổi, đó là sự cáo chung lần lượt của các công ty sản xuất đèn hình loại này. Bài học này liên quan đến tầm nhìn công nghệ của nhà đầu tư đã không theo kịp với sự tiến bộ về khoa học và công nghệ sản xuất.
Ngày 11/1/2007, Việt Nam chính thức gia nhập WTO. Sự kiện này đã, đang và sẽ mang lại cho doanh nghiệp Việt Nam rất nhiều cơ hội cũng như thách thức. Xét trên khía cạnh rủi ro mà các nhà đầu tư sẽ gặp phải đó là việc tự do hoá nhanh chóng thị trưòng trong nuớc sẽ khiến cho doanh nghiệp Việt Nam phải đối mặt với sự cạnh tranh khốc liệt từ các đối thủ cạnh tranh n ư ớc ngo ài Dòng vốn đổ vào có thể mang theo những rủi ro và làm trầm trọng thêm những yếu kém nội tại về cơ cấu và kinh tế vĩ mô, đặc biệt là những với những dòng vốn chảy vào do đầu cơ thì có thể dễ dàng chảy ra, nếu có những biến động về tình hình kinh doanh
II. Tình hình quán triệt các đặc điểm của đầu tư phát triển trong công tác quản lý đầu tư ở Việt Nam hiện nay.
1.1,Công tác quản lý đầu tư ở cấp độ vĩ mô.
Dựa trên việc nắm bắt các đặc điểm của đầu tư phát triển, ở mức độ vĩ mô chính phủ đã có những thay đổi cơ chế chính sách trong lĩnh vực đầu tư phát triển theo hướng ngày cnàg hợp lý hơn, góp phần quan trọng trong việc cải thiện môi trường đầu tư, khuyến khích các chủ thể trong nền kinh tế đầu tư. Xuất phát từ những đặc điểm của đầu tư phát triển: nguồn vốn đầu tư phát triển rất lớn, thời kỳ đầu tư kéo dài, thời gian phát huy tác dụng của các thành quả đầu tư kéo dài và hoạt động đầu tư phát triển có độ rủi ro cao, đòi hỏi ở cấp độ vĩ mô phải xây dựng các chính sách, quy hoạch, kế hoạch dầu tư đúng đắn, quản lý chặt chẽ tổng vốn đầu tư, bố trí vốn đầu tư, thực hiện đầu tư có trọng tâm trọng điểm.Cùng với đó phải đưa ra các phương pháp dự báo nhận diện rủi ro cho các doanh nghiệp trong nền kinh tế.
Công tác quy hoạch của nước ta trong thời gian qua đã có nhiều đổi mới, góp phần thực hiện vai trò định hướng đầu tư và là công cụ quản lý của Nhà nước.Chất lượng công tác quy hoạch đã được chú ý gắn kết với thực tế, bám sát với nhu cầu thị trường, khai thác tốt hơn tiềm năng, thế mạnh của từng địa phương. Tuy nhiên ở nước ta hiện nay công tác quy hoạch vẫn còn nhiều bất cập gây thất thoát, lãng phí trong đầu tư và làm giảm hiệu quả của hoạt động đầu tư. Ông Nguyễn Tự Nhật – Phó Vụ trưởng Vụ Kinh tế Quốc dân (Bộ KH&ĐT) cho biết: vấn đề quy hoạch còn nhiều tồn tại nên đã làm giảm đáng kể hiệu quả vốn đầu tư. Chất lượng các quy hoạch chưa cao, hầu hết các quy hoạch thiếu rõ ràng, chưa phù hợp với các giải pháp, nhất là giải pháp về huy động và sử dụng các nguồn vốn đầu tư, tổ chức thực hiện. Hiện còn có sự chồng chéo, mâu thuẫn giữa các loại quy hoạch: quy hoạch của cấp tỉnh, thành phố không tuân thủ và phù hợp với quy hoạch cấp quốc gia, quy hoạch phát triển ngành, lĩnh vực không phù hợp với quy hoạch tổng thể phát triển KTXH. Tình hình này dẫn đến việc sử dụng chưa hợp lý, kém hiệu quả các nguồn nguyên nhiên liệu, nguồn tài nguyên thiên nhiên và dẫn đến tình trạng dự án “treo” .Theo số liệu tổng hợp gần đây, cả nước có tới hơn 1700 đồ án quy hoạch “treo” gây thất thoát và lãng phí lớn.
Bên cạnh đó, việc quản lý quy hoạch lại rất “linh hoạt”, lỏng lẻo. Chưa thực hiện việc công khai các quy hoạch để mọi người dân được biết, cùng giám sát việc thực hiện quy hoạch. Kế hoạch đầu tư hàng năm của các cấp, các ngành chưa dựa vào định hướng trong quy hoạch được duyệt. Các cơ quan chức năng và quản lý Nhà nước còn rất “linh hoạt” trong việc điều chỉnh quy hoạch theo ý tưởng của nhà đầu tư, chủ đầu tư.
Tiếp theo đó trong khâu chuẩn bị dự án đầu tư (báo cáo nghiên cứu tiền khả thi, báo cáo nghiên cứu khả thi) nhiều khi lại rất kém, biểu hiện bằng việc phải phê duyệt điều chỉnh dự án nhiều lần, nhất là những dự án do địa phương quản lý, thời gian triển khai dự án thường kéo dài hơn nhiều so với phê duyệt ban đầu. Nhiều dự án phê duyệt lần đầu chỉ mang tính hình thức để được “xếp hàng” chờ vốn; có dự án được phê duyệt chỉ để đi “vận động vốn” như là dự án đưa ra để kêu gọi nguồn vốn ODA. Sau khi có tín hiệu được xem xét bố trí vốn mới hoàn chỉnh dự án để phê duyệt lại.
Chính phủ cũng đã ban hành các chính sách phù hợp huy động các nguồn lực cho đầu tư phát triển, nguồn vốn đầu tư phát triển ngày càng được đa dạng hoá, cơ chế bao cấp trong dầu tư dần được xoá bỏ. Cùng với đó đã nâng cao hiệu quả sử dụng và nỗ lực cải thiện môi trường kinh tế chính trị cho đầu tư, củng cố lòng tin đối với các nhà đầu tư trong và ngoài nước.Cơ chế quản lý vốn đầu tư phát triển đã có nhiều thay đổi. Các văn bản pháp quy trong lĩnh vực đầu tư phát triển luôn được cập nhật, đổi mới, phù hợp theo hướng phân cấp mạnh hơn trong quản lý đầu tư và xây dựng, đồng thời tăng cường vai trò kiểm tra, giám sát của các cơ quan quản lý nhà nước. Nhiều nghị định mới, văn bản luật mới được ban hành thay thế cho những nghị định không còn phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế - xã hội và xu hướng toàn cầu hoá như (luật đất đai, luật tài nguyên, luật đầu tư, luật đấu thầu).Tuy nhiên theo ông Nhật, nhà nước lại chưa thực sự kiểm soát được các hoạt động đầu tư, nhất là đối với nguồn vốn của doanh nghiệp nhà nước, nguồn vốn của khu vực tư nhân và dân cư. Việc phân bổ nguồn vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước còn nhiều vấn đề phải được nghiên cứu cải tiến. Theo đó, do chưa có định hướng đúng về cơ cấu đầu tư theo ngành và lĩnh vực, cơ cấu theo vùng lãnh thổ chưa phù hợp với mục tiêu đầu tư, dẫn đến sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế rất chậm và kém hiệu quả. Nhà nước hiện chỉ định hướng một cách rất tương đối và mang tính “hình thức” đối với nguồn vốn ngân sách nhà nước và nguồn vốn trái phiếu Chính phủ (cả 2 nguồn vốn này chỉ chiếm khoảng 20% tổng nguồn vốn xã hội). Về thực chất rất khó xác định và điều hành cơ cấu này bởi theo luật ngân sách hiện hành, ngân sách nhà nước bao gồm ngân sách TƯ, ngân sách địa phương. Nguồn ngân sách địa phương quản lý rất hạn hẹp, lại co kéo bởi nhiều mục tiêu và nhiệm vụ cấp bách của địa phương. Hội đồng nhân dân các cấp quyết định việc phân bổ cụ thể cho từng dự án cũng như cơ cấu của nguồn vốn này.
Mặt khác, hiện có khoảng 50 khoản đầu tư mang tính hỗ trợ và theo mục tiêu cụ thể. Đó là các mục tiêu rất quan trọng của nền kinh tế; tuy nhiên, chính vì vậy mà khi tổng hợp theo địa bàn tỉnh, thành phố, cơ cấu vốn đầu tư lại chưa hợp lý, các lĩnh vực được coi là quốc sách, các mục tiêu quan trọng của tỉnh, thành phố lại nhận được “tỷ trọng khiêm tốn”
Ngoài ra, việc bố trí kế hoạch vốn đầu tư hàng năm cho từng dự án cụ thể khó có thể tập trung, dứt điểm do nguồn vốn có hạn, nhưng những yêu cầu đặt ra trong cuộc sống rất lớn, nhất là đối với các tỉnh, thành phố điều kiện kinh tế còn nhiều khó khăn, hạ tầng kinh tế - xã hội còn thiếu và yếu. Do vậy, hầu hết các dự án đều phải đồng loạt triển khai để đảm bảo cân đối vùng, miền, ngành, lĩnh vực, đơn vị hành chính tương đương, đảm bảo mục tiêu về giảm nghèo, an sinh xã hội Kết quả là, mỗi năm hàng chục nghìn dự án được triển khai, vốn cân đối nhỏ giọt, hầu hết là quá thời gian qui định, số dự án hoàn thành trong năm ít, gây lãng phí vốn, dẫn đến hiệu quả đầu tư thấp.
Theo ông Nhật, để khắc phục tình trạng trên, Nhà nước cần hoàn thiện cơ chế, chính sách trong quản lý đầu tư. Tránh tình trạng “tuổi thọ” của các văn bản quá ngắn, cấp thực hiện không thể điều chỉnh kịp, ảnh hưởng tiến độ dự án, bị động trong kế hoạch vốn Tăng cường công tác quy hoạch, tránh tình trạng “độc quyền” quy hoạch. Nâng cao chất lượng các hoạt động tư vấn trong tất cả các bước như lập dự án đầu tư, thẩm định dự án, thiết kế kỹ thuật, lập tổng dự toán Khắc phục tình trạng đấu thầu hình thức, hạn chế tình trạng khép kín trong hoạt động đầu tư trong một đơn vị quản lý.
1.2, Tình hình quản lý đầu tư phát triển ở cấp độ vi mô
Cùng với công tác quản lý đầu tư ở cấp độ vĩ mô thì ở các cấp độ doanh nghiệp công tác quản lý đầu tư cũng ngày càng được chú trọng. Năm 2007 số lượng các công ty tư vấn giám sát tăng khoảng 10% so với năm 2006. Điều đó chứng tỏ các nhà quản lý đã chú trọng rất nhiều đến chất lượng công trình và tiến độ thực hiện công trình.Công tác lập dự án cũng đóng vai trò vô cùng quan trọng trong công tác đầu tư.Trong giai đoạn chuẩn bị đầu tư,quản lý hoạt động đầu tư của các doanh nghiệp được thực hiện ngay từ khi xây dựng ý tưởng dự án đến các giai đoạn lập dự án tiền khả thi và khả thi.Vì vậy trong nhiều dự án có quy mô lớn và trình độ kỹ thuật phức tạp các công ty còn thuê chuyên gia nước ngoài để tư vấn lâp và thẩm định khả thi của dự án đầu tư. Các công ty cũng sẵn sàng bỏ một số chi phí không nhỏ để thuê các tổ tư vấn để lập ra các dự án có tính khả thi cao. Xuất phát từ đặc điểm: thời gian vận hành các kết quả đầu tư kéo dài, ngay từ khâu lập dự án, các doanh nghiệp đã phải nghiên cứu tỉ mỉ về nhu cầu thị trường đối với sản phẩm đầu tư tương lai, dự kiến khả năng cung từng năm và toàn bộ vòng đời của dự án, để xây dựng được kế hoạch huy động vốn, lựa chọn phương án kỹ thuật phù hợpVà việc lựa chọn địa điểm xây dựng các công trình của dự án được các chủ đầu tư, các doanh nghiệp đặc biệt chú trọng vì cá công trình này sẽ hoạt đông ngay tại nơi mà nó được xây dựng lên.Việc lựa chọn địa điểm xây dựng không phù hợp với quy hoạch hay việc cung cấp nguyên nhiên vật liệu đầu vào, phân phối sản phẩmsẽ dẫn đến tình trạng dự án có thể phải ngừng hoạt động hay hoạt động với công suất nhỏ hơn mức dự kiến ban đầu, làm giảm lợi nhuận của doanh nghiệp.
Trong giai đoạn thực hiện đầu tư, nội dung quản lý đầu tư của các doanh nghiệp là tổ chức đấu thầu để lựa chọn nhà thầu, ký kết các hợp đồng, quản lý tiến độ, vốn đầu tư, chất lượng, rủi ro, thông tin, hoạt động mua bánTuy nhiên có một bộ phận doanh nghiệp nhà nước vẫn chưa làm tốt quá trình đầu tư. Trong đó công tác đấu thầu là bất cập nhất.Nghiên cứu cho thấy: trong tổng số 400 hợp đồng thuộc 6 khoản tín dụng đã được phân tích, có sự tham gia của 1000 công ty,1500 người, 50 ngân hang và hơn 250 giao dịch. Dựa trên kết quả phân tích ban đầu này, 110 hợp đồng đã được chọn lựa để phân tích sâu không phát hiện thấy dấu hiệu bất thường trong công tác quản lý tài chính và giải ngân. Ngoài ra chất lượng của các công trình xây dựng chấp nhận được ở phần lớn trong số 40 công trình đã được kiểm tra. Tuy nhiên phân tích sâu hơn cho thấy có dấu hiệu liên kết giữa các nhà thầu trong hầu hết các cuộc đấu thầu đã thẩm tra. Đặc biệt nghiên cứu còn cho thấy hầu hết giá bỏ thầu đều nằm trong khoảng rất hẹp . Điều đó có thể lý giải được trên cơ sở việc nhiều nhà thầu thường căn cứ vào các định mức về giá đựơc quy định chính thức vì phần lớn là các DNNN.
Nhiều chủ đầu tư ở Việt Nam do chưa có các giải pháp, nhận dạng và phòng ngừa rủi ro thích hợp, nên khi đứng trước những biến động của thị trường, lạm phát cao, giá nguyên vật liệu, lãi suất tăng cao ( kể từ cuối năm 2007,đầu năm 2008) gần như đứng trước nguy cơ phá sản, nhiều công trình thi công bị bỏ dở dang do chủ đầu tư không huy động được nguồn vốn. Qua đó cồn thể hiện sự non kém trong năng lực quản lý và sử dụng vốn của các doanh nghiệp.
2.Ưu điểm và hạn chế trong việc quán triệt các đặc điểm của đầu tư phát triển trong công tác quản lý đầu tư ở Việt Nam.
2.1.Ưu điểm
Thứ nhất:nhờ có những chính sách và phương thức huy động vốn phù hợp nên nguồn vốn huy động được cho hoạt động đầu tư phát triển trong những năm qua đã tăng đáng kể. Hàng năm vốn đầu tư phát triển toàn xã hội tăng khoảng 18%, nhờ đó, tỷ lệ vốn đầu tư so với GPD không ngừng gia tăng(đạt 38,7% GDP) Nguồn thu từ ngân sách nhà nước đã có tác động thu hút các nguồn vốn khác. Trong điều kiện nguồn vốn ngân sách còn hạn hẹp, chính phủ vẫn thực thi nhiều cơ chế để tăng cường thu hút đầu tư từ khu vực khu vực kinh tế tư nhân trong nước và nước ngoài, huy động nguồn vốn công trái , trái phiếu chính phủ, trái phiếu đô thị, trái phiếu công trình góp phần tăng nhanh tổng nguồn vốn đầu tư, thúc đẩy kinh tế phát triển.
Thứ hai: cơ cấu đầu tư đã có sự chuyển dịch theo hướng tích cực, tập trung vào các mục tiêu quan trọng về phát triển kinh tế -xã hội và chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Do các nguồn lực được huy động tốt hơn và tập trung đầu tư vào các công trình chủ yếu, quan trọng trong các ngành, lĩnh vực và địa phương, đầu tư chuyển đổi mạnh cơ cấu sản xuất theo hướng hiệu quả và phát huy được lợi thế so sánh của từng vùng, từng ngành, từng sản phẩm,từ đó giúp tăng khả năng cạnh tranh của nền kinh tế; chuyển đổi cơ cấu sản xuất nông nghiệp và sản xuất kinh tế nông thôn; đầu tư theo chiều sâu, bổ sung các thiết bị công nghệ tiên tiến trong các ngành công nghiệp, xây dựng và chuẩn bị xây dựng một số cơ sở công nghiệp,kết cấu hạ tầng kỹ thuật (giao thông vận tải, viễn thông, thuỷ lợi, công nghịêp điện), hạ tầng cơ sở nông thôn, du lịch, bảo vệ môi trường, giảm nhẹ thiên tai.Vốn đầu tư tập trung cho phát triển nguồn nhân lực, giáo dục khoa học công nghệ,môi trường, y tế xã hội, các công trình quốc gia, xoá đói giảm nghèo và ưu tiên đầu tư thực hiện phát triển kinh tế xã hội các tỉnh Tây Nguyên,Miền núi phía Bắc, Đồng bằng sông Cửu Long ,các tỉnh còn khó khăn,các vùng thường bị thiên tai bão lụt.
Thứ ba:đã có nhiều đổi mới trong cơ chế quản lý đầu tư và xây dựng.Cơ chế quản lý đầu tư đựơc cải tiến một bước quan trọng theo hướng giảm đáng kể sự can thiệp trực tiếp của nhà nước đối với hoạt động đầu tư và kinh doanh của các doanh nghiệp, tăng cường vai trò, trách nhiệm của các chủ đầu tư trong công việc quyết địmh tổ chức thực hiện và phát huy hiệu quả của các công trình đầu tư, đồng thời thực hiện phân cấp triệt để cho các bộ, ngành và các địa phương về thẩm định, quyết định, tổ chức quản lý thực hiện dự án đầu tư theo Nghị định số 07/CP của Chính Phủ.
Trong hoạt động đầu tư, Nhà nước quản lý chặt chẽ đầu tư từ nguồn ngân sách nhà nước và tạo khung pháp lý cùng các hỗ trợ cần thiết cho nhà đầu tư mà không trực tiếp quyết định đầu tư. Đồng thời Nhà nước thực hiện cơ chế giám sát, kiểm tra, đánh giá, để thực hiện hiệu quả dự án đầu tư,giảm bớt sai sót, vi phạm thất thoát. Trong quản lý đầu tư ở cấp cơ sở đã được tăng cường vai trò của hội đồng nhân dân, coi trọng sự tham gia giám sát của cộng động và các tổ chức xã hội.
Thứ tư: chúng ta đã khai thác tốt các nguồn đầu tư nước ngoài (ODA và FDI).Trong giai đoạn 2000-2007 huy động vốn nước ngoài gia tăng đáng kể, góp phần khắc phục tình trạng thiếu vốn trong nước, thúc đẩy nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn vốn đầu tư trong nước, tạo thế và lực mới cho nền kinh tế. Đầu tư nước ngoài vào Việt Nam gia tăng mạnh còn tạo điều kiện tốt cho việc mở rộng thị trường trong nước, tạo cầu nối cho các doanh nghiệp trong nước tham gia xuất khẩu tại chỗ hoặc tiếp cận với thị trường thế giới, tạo điều kiện học hỏi khoa học công nghệ, trình độ tổ chức quản lý
Chính phủ tiếp tục nỗ lực để tạo môi trường đầu tư kinh doanh hấp dẫn hơn, cởi mở minh bạch và thông thoáng hơn, đã dỡ bỏ những thủ tục pháp lý cồng kềnh.Các bộ, ngành, địa phương đang thực hiện các biện pháp chỉ đạo hữu hiệu của thủ tướng Chính phủ về kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội và tăng trưởng bền vững bằng nhiều biện pháp như bộ Kế hoạch và đầu tư đã triển khai công tác địa phương thực hiện việc điều hành đầu tư xây dựng cơ bản và chi tiêu ngân sách nhà nước nhằm phục vụ mục tiêu kiềm chế lạm phát và các đoàn công tác thúc đẩy việc giải ngân nguồn vốn FDI.
2.2.Những hạn chế
Một là, chưa huy động hết tiềm năng các nguồn vốn cho đầu tư phát triển
Nhiều bộ, ngành địa phương chưa chú trọng huy động các nguồn vốn đầu tư của các thành phần kinh tế trong và ngoài nước mà chủ yếu vẫn trông chờ vào nguồn vốn ngân sách nhà nước và nguồn vốn khác tham gia vào đầu tư, đặc biệt là khu vực tư nhân còn hạn chế rất lớn về quy mô, nhất là đầu tư những công trình cơ sở hạ tầng có khả năng thu hồi vốn.
Việc thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vẫn còn những hạn chế, chưa phục hồi được tốc độ huy động cao như những năm trước đây .Hầu hết các dự án dược cấp giấy phép gần đây đều có quy mô nhỏ, môi trường đầu tư tuy đã được cải thiện nhiều, nhưng mức độ cạnh tranh so với các nước trong khu vực chưa cao và vẫn còn nhiều bất cập như: một số chính sách hay thay đổi và khó dự báo trước, có tình trạng cạnh tranh chưa hợp lý trong việc thu hút nguồn vốn đầu tư nước ngoài giữa các địa phương.
Khối lượng giải ngân nguồn vốn ODA đật thấp so với kế hoạch, hàng năm chỉ đạt khoảng 80-90% mức đề ra. Sau 10 năm kêu gọi nguồn vốn ODA, đến nay mới giải ngân dược khoảng 13,5 tỷ USD trên tổng số 25 tỷ USD cam kết, tỷ lệ giải ngân giảm dần qua các năm, khối lượng giải ngân thấp do nhiều nguyên nhân, trong đó chủ yếu là các nguyên nhân chủ quan như công tác giải phóng mặt bằng quá chậm, các bộ ngành địa phương bố trí không đủ vốn đối ứng, năng lực của các ban ngành quản lý dự án ODA còn thấp, thủ tục chưa hài hoà trong và ngoài nước
Hai là, bố trí đầu tư còn dàn trải
Nhìn chung , bố trí đầu tư còn rất dàn trải, phân tán thể hiện ở tất cả các nguồn vốn đặc biệt là nguồn vốn đầu tư thuộc ngân sách nhà nước. Những năm gần đây đã có những tiến bộ bước đầu ( tập trung cho các dự án thuộc nhóm A); tuy nhiên nhiều bộ, ngành và nhiều địa phương vẫn cồn tình trạng bố trí vốn chua tập trungchủ yếu là đối các công trình, dự án nhóm B và C.
Số công trình dự án đầu tư từ nguồn vốn ngân sách nhà nước năm sau nhiều hơn năm trước. Năm 2001 khoảng 7000 dự án; năm 2002 tăng lên trên 8000 dự án ,năm 2003 tăng lên 10500 dự án (tăng khoảng 2500 dự án so với năm 2002).
Nguyên nhân của tình trạng trên là:
Về phía trách nhiệm của các bộ, ngành và địa phương: nhu cầu đầu tư còn có khoảng cách rất lớn so với khả năng cân đối của ngân sách nhà nước, khi bố trí cụ thể bị căng kéo bởi quá nhiều mục tiêu. Tuy nhiên, khi xem xét để quyết định dự án đầu tư mới chưa chấp hành đúng các quy định trong việc xét duyệt một dự án đầu tư. Nhiều dự án chưa được xem xét kỹ hiệu quả, tính khả thi thấp.Trên thực tế, số lượng dự án các Bộ, ngành và địa phương phê duyệt đã không phù hợp với khả năng cân đối của ngân sách nhà nước. Ngoài ra việc bố trí phân bổ đầu tư cho các dự án không đôi khi là do nể nang chứ không phải do lợi ích xã hội và nền kinh tế thu được khi thực hiện dự án, do quan niệm vốn ngân sách phải chia đều giữa các huyện, xã dẫn đến tình trạng đầu tư phân tán, dàn trải.
Về trách nhiệm của cơ quan quản lý: còn buông lỏng trong công tác quản lý đầu tư và xây dựng. Việc phân cấp quản lý trong đầu tư và xây dựng cho các bộ, ngành và địa phương đã thực hiện tương đối mạnh. Tuy nhiên, cơ chế quản đầu tư và xây dựng còn thiếu các chế tài, những quy định cụ thể (kể cả nhưng biện pháp hành chính )nhằm kiểm soát và hạn chế được việc phê duyệt các dự án đầu tư tràn lan, kém hiệu quả.
Công tác giám sát, đánh giá đầu tư chưa đáp ứng được các yêu cầu theo quy định, một mặt do đội ngũ cán bộ chưa được chuẩn bị chu đáo, cán bộ nghiệp còn thiếu kinh nghiệm, năng lực còn hạn chế, chưa có hệ thống thông tin phục vụ hoạt động giám sát. Mặt khác, lãnh đạo ở một số bộ, ngành và địa phương cũng chưa nhận thức đầy đủ được vai trò của công tác giám sát, đánh giá đầu tư trong quản lý đầu tư nói chung.
Ba là, lãng phí, thất thoát trong đầu tư còn còn lớn
Lãng phí, thất thoát trong đầu tư và xây dựng vẫn còn là vấn đề nổi cộm hiện nay. Còn có những biểu hiện tiêu cực trong quản lý đầu tư và thi công công trình. Chất lượng ở một số công trình còn thấp, gây lãng phí và kém hiệu trong đâu tư .Theo kết quả kiểm tra năm 2002 của 995 dự án với tổng số vốn đầu tư 20.736 tỷ đồng, đã phát hiện sai phạm về tài chính và sử dụng sai về vốn đầu tư là 1151 tỷ đồng, bằng khoảng 5,5% tổng vốn đầu tư các công trình được kiểm tra. Riêng 17 công trình do thanh tra Nhà nước thực hiện kiểm, phát hiện sai phạm về tài chính chiếm khoảng 13%. Đó là chưa kể tới các lãng phí do chậm triển khai công trìnhvà nhất là sai sót trong chủ trương đâu tư mà hiện chưa có đánh giá thống nhất.
Năm 2003 thanh tra nhà nứơc đã phối hợp với các bộ, ngành tiến hành nhiều hoạt động trong việcchấp hành các quy định đầu tư, đơn giá, khối lượng, chủng loại, vật tư, thết bịTrong số các dự án được thanh tra nhà nước thanh tra với số vốn là 8235 tỷ đồngthì tổng số sai phạm về tài chính là 1235 tỷ đồng chiếm trên 14% tổng số vốn.
Nguyên nhân của tình trạng lãng phí thất thoát trong đầu tư có nhiều, thể hiện ở tất cả các khâu trong quá trình đầu tư, hệ thống chính sách, pháp luật về quản lý đầu tư và xây dựng, quản lý đất đai chưa đồng bộ; chưa xác định rõ vai trò đại diện chủ sở hữu của nhà nước; phân công, phân cấp chưa rõ rang. Ngay từ khâu tính toán, xác định tổng mức vốn đâu tư cho dự án chưa quan tâm sâu sát tới việc tiết kiệm vốn đầu tư; nhiều dự án thiết kế không phù hợp với thực tế sử dụng. Nhiều dự án không tuân theo quy hoạch, điều tra khảo thị trường không kĩ, chưa quan tâm sâu sát tới đầu ra của sản phẩm, dự án hoàn thành nhưng không phát huy được hiệu quả. Ngoài ra trình độ năng lực quản lý, điều hành của các chủ đầu tư, của ban quản lý dự án, các tổ chức tư vấn còn yếu kém cũng là nguyên nhân gây lãng phí, thất thoát vốn đầu tư.
Bốn là, cơ cấu đầu tư chưa thật hợp lý
Trong nông nghiệp: chủ yếu vẫn tập trung đầu tư vào thuỷ lợi (chiếm khoảng 70% vốn đầu tư vào ngành ), mà chưa chú ý đến đầu tư nhằm nâng cao chất lượng phát triển nông nghiệp như đầu tư phát triển khoa học, công nghệ phục vụ nông nghiệp, đầu tư cho hệ thống giống, cây trồng, vật nuôi, chế biến sản, mạng lưới cơ sở hạ tầng phát triển nông nghiệp.
Chưa quan tâm đúng múc đến công nghiệp hoá nông nghiệp và nông thôn do chưa đầu tư tương xứng để phát triển các ngành nghề tiểu thủ công nghiệp ở nông thôn, phát triển trang trại, làng nghề truyền thống nhằm chuyển đổi cơ cấu sản xuất trong nông nghiệp. Ngành thuỷ sản có mức tăng trưởng cao, nhưng đầu tư vào lĩnh vực này còn khiêm tốn.
Trong công nghiệp: cơ cấu đầu tư cho công nghiệp chiếm 43% trong tổng số đầu tư toàn xã hội là thấp chưa đủ để phát triển cơ cấu lại ngành công nghiệp, chuyển dịch cơ cấu sản phẩm công nghiêp để có thể hôi nhập, trong điều kiện cạnh tranh quyết liệt, hiện tượng đầu tư theo phong trào, theo lợi nhuận trước mắt vẫn còn tồn tại, lãng phí vốn, tài nguyên làm giảm hiệu quả đầu tư.Chưa chú trọng đến công tác phát triển ngành cơ khí, đầu tư công nghiệp đóng tàu, chế biến máy công cụ, máy phục vụ nông nghiệp, chế nông sản Đầu tư chưa gắn chặt với chuyển giao công nghệ cao, hạn chế khả năng cạnh tranh của một số lĩnh vực công nghiệp chế biến.
Về giao thông vận tải: chủ yếu tập trung vào các ngành giao thông đường bộ (chiếm khoảng 70% vốn đầu tư của ngành). Trong đó lại tập trung chủ yếu hệ thống đường quốc lộ , hệ thống đường giao thông nông thôn, vùng kinh tế khó khăn chưa được đầu tư thoả đáng để phát huy hiệu quả chung; đầu tư phát triển phưong tiện vận tải còn thấp. Đầu tư cho lĩnh vực phát triển nguồn nhân lực còn thấp ,chưa gắn chặt với chiến lược phát triển các ngành kinh tế, các vùng kinh tế.
Cơ cấu vùng:mặc dù những năm qua đã có cố gắng điều chỉnh cơ cấu đầu tư giữa các vùng, nhưng tỷ lệ đầu tư cho vùng núi phía Bắc, duyên hải miền Trung, vùng tây nguyên vẫn còn khiêm tốn (chỉ ở mức 8-12% tổng mức đầu tư toàn xã hội) vốn đầu tư vẫn tập trung cao ở các vùng đồng bằng sông Hồng (khoảng 24%) các vùng Đông Nam bộ (khoảng 27%). Đầu tư cho các liên vùng liên tỉnh còn kém, bị chia cắt bởi giới hành chính địa phương.
Các công trình, dự án vay vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước giải ngân chậm, thời gian thực hiện dự án kéo dài, nợ quá hạn chưa trả được có xu hướng tăng, ảnh hưởng đến cân đối nguồn vốn; chất lượng công tác thẩm định các dự án vay vốn tại hệ thống quỹ hỗ trợ phát triển còn nhiều bất cập so với yêu cầu, đặc biệt là sự dự báo sự biên động của thị trường, ảnh hưởng đến việc xác định hiệu quả của dự án.
Năm là, công tác quy hoạch và quản lý quy hoạch còn nhiều yếu kém, chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển
Chất lượng các dự án quy họach phát triển kinh tê -xã hội còn nhiều hạn chế, các dự án quy hoạch chưa có tầm nhìn dài hạn, chưa có đủ căn cứ vững chắc, nhất là các thông tin về dự báo, dự báo cá tác động của các yếu tố bên ngoài như thị trường thế giới, tiến bộ khoa học công nghệ, sự cạnh tranh của các quốc gia và doanh nghiệp
Quản lý nhà nước về quy hoạch còn nhiều yếu kém mà biểu hiện rõ nhất là phân công, phân cấp không rõ ràng thiếu một khung pháp lý cho viêc lập, phê duyệt, quản lý quy hoạch, thiếu sự chỉ đạo và hướng dẫn thống nhất về cả vấn đề liên quan đến công tác quy hoạch trong phạm vi cả nước, thiếu kiểm tra, giám sát thực hiện quy hoạch.
Nhiều cơ quan nhà nước, nhiều cá nhân có trách nhiệm chưa quan tâm đúng mức và chưa nhận thức đúng đắn về công tác quy hoạch, trách nhiệm đối với công tác quy hoạch chưa đủ tầm.Quy hoạch hoá nền kinh tế quốc dân chưa được thể chế hoá, phương pháp lập quy hoạch chưa thống nhất, thiếu sự phối hợp giữa các cơ quan liên quan trong quá trình lập các quy hoạch ngành, nên xảy ra tình trạng chồng chéo và không ăn khớp giữa các quy hoach ngành, quy hoạch vùng và quy hoạch tỉnh; thiếu quy chế phê duyệt thống nhất.
Nhận thức về quy hoạch trong điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế còn nhiều điểm chưa thống nhất; việc phân định nội dung cũng như phạm vi giữa các quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế- xã hội các vùng lãnh thổ, quy hoạch ngành và quy hoạch xây dựng còn nhiều điểm chưa rõ.
Các quy hoạch ngành, tuy chưa xác định rõ hơn những ngành thuộc loại quy hoach, nhưng ngay đối với các ngành sản phẩm chủ lực cần được lập quy hoạch cũng như chưa xác định ở cấp nhà nước.
Nguyên nhân của tình hình trên có nhiều nhưng trước hết phải kể đến công tác điều tra cơ bản chưa đủ, thông tin phục vụ nghiên cứu quy hoạch thiếu, lực lượng nghiên cứu quy hoạch còn hạn chế, công tác dự báo và xử lý liên ngành, liên vùng yếu; công tác chỉ đạo quy hoạch chưa đúng mức.
Quy hoạch ngành và quy hoạch ngành quy hoạch vùng, quy hoạch của từng tỉnh rời rạc, ít gắn kết với nhau. Quy hoạch phát triển ngành chưa thể hiện cụ thể trên các địa bàn lãnh thổ của các tỉnh, thành phố. Mặt khác trong khi có một số quy hoạch thể hiện trên lãnh thổ nhưng quy hoạch tỉnh, thành phố chưa căn cứ vào quy hoạch ngành bố trí trên lãnh thổ của mình. Trong quá trình thực hiện quy hoạch, một số ngành, một số địa phương còn tuỳ tiện thay đổi mục tiêu của quy hoạch sau khi đã được Thủ tướng chính phủ hoặc cấp có thẩm quyền phê duyệt. Nhiều quy hoạch sau khi được cấp có thẩm quyên phê duyệt đã không kịp triển khai các quy hoạch cụ thể, quy hoạch chi tiết để tiến hành đầu tư, dẫn tới tình trạng quy hoạch “treo”. Việc thẩm định, kiểm tra, giám sát quy hoạch còn yếu, có trường hợp quy hoạch kém chất lượng vẫn được thông qua.
Sáu là, tình hình nợ đọng trong đầu tư và xây dựng còn là vấn đề bức xúc.
Nợ đọng trong đầu tư xây dựng cơ bản đang là vấn đề bức xúc hiện nay, vượt quá khả năng cân đối của ngân sách, chưa được xử lý dứt điểm. Do nhiều nguyên nhân khác nhau, tình hình thực hiện vượt kế hoạch vốn đầu tư xây dựng cơ bản của các Bộ, ngành và địa phương vẫn tiếp diễn và có hướng tăng (sau khi rà soát lại, số nợ vẫn còn trên 5 nghìn tỷ đồng, trung ương khoảng 2 nghìn tỷ đồng, địa phương khoảng 3 nghìn tỷ đồng)
Nguyên nhân của tình trạng nợ đọng:
Khả năng cân đối nguồn vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước còn rất hạn hẹp, chỉ đáp ứng được từ 40-50% nhu cầu; do sự cấp bách phải thực hiện một số mục tiêu quan trọng của các địa phương, một số công trình, dự án thuộc các ngành thuỷ lợi, giao thông phải khẩn trương thi công trước mùa mưa lũ, phải vay mượn hoặc ứng trước vốn để thi công. Do đặc thù của các công trình, dự án thuộc hạ tầng giao thông vận, thuỷ lợi bên A, cơ quan cấp phát vốn, cơ quan kiểm toán khó kiểm tra, kiểm soát về khối lượng thi công, đơn giá và định mức trong dự toán được duyệt, nên nhiều nhà thầu tích cực ứng trước vay vốn để thi công.
Các bộ, ngành, các tỉnh, thành phố còn buông lỏng trong công tác quản lý đầu tư và xây dựng, cơ chế quản lý đầu tư và xây dựng hiện hành còn thiếu những chế tài, biện pháp cụ thể nhằm kiểm soát và hạn chế việc phê duyệt các dự án đầu tư tràn lan như hiện nay.
Nhiều bộ, ngành và địa phương còn có tư tưởng nể nang, dễ dàng đối với các chủ đầu tư trong việc vay mượn vốn, cho phép các nhà thầu ứng trước vốn để thi công các công trình, dự án. Trong quá trình điều hành kế hoạch, phát hiện thực hiện vượt vốn, các cơ quan quản lý chưa kịp thời can thiệp để có biện pháp xử lý.
Bảy là, các cơ chế chính sách trong lĩnh vực đầu tư phát triển còn chậm được sửa đổi, bổ sung và hoàn chỉnh, chưa đáp ứng kịp thời yêu cầu thực tế của công tác quản lý hiện nay
.Công tác quản lý đầu tư và xây dựng còn thiếu xót, buông lỏng. Mặc dù Chính phủ đã thực hiện phân cấp mạnh cho cấp bộ, ngành tỉnh và thành phố theo quy tại nghị định 07/CP; tuy nhiên, công tác giám sát đầu tư, giám sát thi công chưa chặt chẽ, thiếu chế tài cụ thể để quy rõ trách nhiệm cá nhân và tập thể.
Cơ chế tín dụng đầu tư ưu đãi còn nhiều bất cập: đối tượng cho vay dàn trải, mở rộng quá mức, kéo dài thời gian trả nợ, dùng ngân sách để trả nợ vay. Hiện tồn tại nhiều mức lãi suất trong tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước, gây phức tạp trong quản lý, đồng thời dễ phát sinh tiêu cực. Về hình thức tín dụng chủ yếu vẫn là cho vay theo dự án, hình thức hỗ trợ lãi suất đầu tư mới được áp dụng.
Tám là, trong công tác đấu thầu vẫn còn nhiều tồn tại.Việc nhận thức công tác đấu thầu còn nhiều hạn chế cả về nội dung đấu thầu, quy trình, trình tự và các quy tắc khác. Một số cán bộ thuộc đơn vị chủ đầu tư, ban quản lý dự án thiếu tính chuyên nghiệp, chưa được đào tạo đầy đủ, thiếu kinh nghiệm nên còn nhiều hạn chế trong triển khai công tác đấu thầu.
Nhiều chủ dự án chưa chủ động, chỉ dựa vào ý kiến của tư vấn, không xem xét kỹ kết quả trước khi trình duyệt, dẫn đến những sai sót không đáng có trong quá trong quá trình thực hiện.Cấp có thẩm quyền chưa dược chỉ đạo sát sao, quản lý công tác đấu thầu chưa chặt chẽ. Nhiều trường hợp không thực hiện đúng quy chế đấu thầu như mở thầu chậm, chỉ định thầu vượt mức cho phép, tổ chức đấu thầu mang tính hình thức, đặc biệt là hình thức đấu thầu hạn chếChất lượng của công tác phục vụ đấu thầu (trực tiếp hoặc gián tiếp) như chất lượng của báo cáo nghiên cứu khả thi, thiêt kế kỹ thuật, tổng dự toán còn thấp. Một số trường hợp xây dựng dự toán quá thấp gây khó khăn trong quá trình xét kết quả trúng thầu, phải chào lại giá, phải điều chỉnh dự toán làm kéo dài thời gian. Nhiều trường hợp thiết kế ban đầu không chuẩn xác, trong quá trình thực hiện phải thay đổi bổ sung dẫn đến làm gia tăng giá trị hợp đồng, kéo dài thời gian thực hiện. Đây cũng là yếu tố dẫn tới lãng phí thất thoát trong đầu tư xây dựng. Trong một số trường hợp chỉ định thầu thì dự toán cao là cơ sở kí hợp đồng sẽ có thể dẫn tới thất thoát. Hiện nay còn thiếu nhiều các quy định về chế tài, trách nhiệm lập và duyệt đối với báo cáo nghiên cứu khả thi, thiết kế kỹ thuật, dự toán. Các quy định trong một số hợp đồng thầu quá đơn giản, chưa đủ chặt chẽ, chưa gắn trách nhiệm giữa chủ đầu tư và nhà thầu, dồn ép vào một phía, thiếu các điều kiện chi tiết gây khó khăn cho việc thực hiện.
Chín là,còn nhiều tồn tại trong công tác giám sát và đánh giá đầu tư.
Công tác giám sát và đánh giá đầu tư chưa được tất cả các bộ, ngành và địa phương quan tâm đúng mức và thực hiện nghiêm túc theo quy định; chỉ có khoảng 30% các đơn vị Bộ, ngành; 40% các tỉnh, thành phố có báo cáo về giám sát và đánh giá đầu tư. Đối với việc đánh giá và giám sát đầu tư của các chủ đầu tủ còn rất hạn chế, chỉ khoảng 30% các chủ dự án sử dụng vốn ngân sách có báo cáo về giám sát và đánh giá đầu tư. Chất lưọng báo cáo về đánh giá đầu tư còn sơ sài, chưa đủ thông tin cần thiết để tổng hợp báo cáo.Công tác giám sát còn chưa thường xuyên ,bị động và chủ yếu tổng hợp từ các báo cáo theo quy định, chưa cố tác dụng phát hiện kịp thời và xử lý các vi phạm. Công tác giám sát cộng đồng chưa được chú trọng.
Mười là, thanh, quyết toán công trình còn chậm do thủ tục phức tạp.Việc giải ngân, thanh toán khối lượng vốn đầu tư hoàn thành còn chậm, chủ yếu do các thủ tục thanh toán phức tạp, công tác nghiệm thu của các chủ đầu tư và các ban quản lý công trình còn chậm. Chất lượng công tác tư vấn thiết kế chưa đảm bảo yêu cầu, nên trong qua trình triển khai thi công đã phát sinh nhiều chi phí chủ đầu tư bổ sung kịp thời, ảnh hưởng tới công tác thanh toán. Các chủ đầu tư, các ban quản lý dự án sử dụng nguồn vốn ngân sách nhà nước chưa khẩn trương cùng các nhà thầu hoàn tất các thủ tục nghiệm thu, đưa vào sử dụng trong nhiều năm nhưng không quyết toán công trình.
Chương III. Giải pháp nâng cao hiệu quả của việc quán triệt đặc điểm đầu tư phát triển trong công tác quản lý đầu tư ở Việt Nam hiện nay
I. Các giải pháp được đưa ra với mục đích gì ?
1. Khắc phục những hạn chế của thực trạng ở Việt Nam hiện nay.
2. Phát huy những ưu điểm .
II. Nội dung các giải pháp.
1. Cải tiến chất lượng quy hoạch.
- Nâng cao chất lượng quy hoạch, quản lý quy hoạch , tiến độ và chất lượng lập quy hoạch xây dựng
+ Đa dạng hóa các đồ án quy hoạch
+ Không ngừng nâng cao chất lượng quy hoạch thông qua công tác nghiên cứu và quản lý quy hoạch thể hiện bản vẽ , ý tưởng thiết kế đem lại những ý tưởng mới mẻ , sáng tạo về quy hoạch đô thị và vẫn giữ gìn giá trị truyền thống.
+ Tăng cường đầu tư nguồn nhân lực cho công tác lập quy hoạch xây dựng, nâng cao chất lượng các đồ án quy hoạch xây dựng
+ Tăng cường phối hợp giữa quy hoạch xây dựng và quy hoạch ngành , quy hoạch phát triển kinh tế xã hội ở các địa phương nhằm thu hút vốn đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng kỹ thuật tại các đô thị lớn và các vùng kinh tế trọng điểm.
- Đẩy nhanh công tác quy hoạch đô thị
+ Nâng cao năng lực chuyên môn của chủ đầu tư, đơn vị tư vấn, cải cách quy trình thẩm định hồ sơ, thẩm định đồ án quy hoạch.
+ Xây dựng mối liên kết phối hợp giữa các cơ quan quản lý nhà nước với các ngành, chủ đầu tư và đơn vị tư vấn nhằm rút ngắn thời gian lập, thẩm định hồ sơ quy hoạch , thiết kế, tăng cường kiểm tra, khắc phục tình trạng vi phạm lấn chiếm sau quy hoạch. Hạn chế tình trạng quy hoạch treo.
- Tăng cường công tác quy hoạch , tránh tình trạng độc quyền quy hoạch
- Cải tiến công tác kế hoạch đầu tư phát triển trên cơ sở kế hoạch trung hạn hoặc kế hoạch 5 năm thay vì kế hoạch hàng năm như hiện nay
2. Thu hút và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn đầu tư cho phát triển.
- Sử dụng có hiệu quả vốn đầu tư trong nước :
+ Nâng cao hiệu quả quản lý, sử dụng và đầu tư vốn và tài sản nhà nước.
+ Chuyển việc quản lý doanh nghiệp có vốn của nhà nước từ phương thức hành chính sang phương thức kinh doanh vốn , chuyển từ hình thức bao cấp về vốn sang hình thức đầu tư tài chính vào doanh nghiệp.
+ Tách biệt giữa chức năng quản lý nhà nước của các Bộ chủ quản và các UBND các cấp với chức năng kinh doanh của các doanh nghiệp.
+ Thúc đẩy việc áp dụng các chuẩn mực quốc tế về quản trị doanh nghiệp.
+ Đầu tư vốn vào những ngành , lĩnh vực quan trọng mà nhà nước cần chi phối để thành lập doanh nghiệp mới. Đầu tư vốn liên doanh , liên kết góp vốn cổ phần với các doanh nghiệp khác
- Nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn vốn ODA
+ Nâng cao nhận thức và hiểu biết đúng về bản chất của ODA.
+ Sử dụng ODA có chọn lọc : việc huy động và sử dụng vốn ODA cần phải căn cứ vào các yếu tố kinh tế - xã hội và phải đánh giá kĩ các lợi ích mang lại từ việc chuyển giao vốn , kiến thức công nghệ , kĩ năng và kinh nghiệm quản lý tiên tiến.
+ Đẩy nhanh tốc độ giải ngân ODA : chính phủ cần đơn giản hóa văn bản pháp lý và thủ tục liên quan đến ODA để tạo điều kiện cho việc giải ngân được nhanh chóng và hiệu quả.
+ Tối đa hóa hiệu quả và tác động lan tỏa của ODA
+ Mở rộng diện thụ hưởng ODA tới khu vực tư nhân để thực hiện các chương trình và dự án phục vụ các lợi ích công cộng.
+ Xây dựng kế hoạch hợp lý cho việc phân cấp ODA : cần phải xác định được phân cấp tới mức độ nào và những dự án nào cần được phân cấp.
+ Tăng cường theo dõi và quản lý ODA : đảm bảo tính đồng bộ , nhất quán , rõ ràng , đơn giản minh bạch của hệ thống pháp lý liên quan đến việc quản lý và sử dụng ODA. Chống tham nhũng , đẩy nhanh cải cách hành chính và hiệu quả hành chính nhà nước
+ Xây dựng kế hoạch giảm dần ODA với thời gian trả nợ ngắn hạn và điều kiện chặt chẽ.
- Đẩy mạnh hiệu quả sử dụng vốn FDI
+ Sửa đổi các quy định còn bất cập , chưa rõ ràng liên quan đến thủ tục đầu tư và kinh doanh. Ban hành các ưu đãi khuyến khích đầu tư đối với các dự án xây dựng các công trình phúc lợi trong các khu công nghiệp, khu chế xuất. Thực hiện các biện pháp thúc đẩy giải ngân , không cấp phép cho các dự án công nghệ lạc hậu , dự án tác động xấu đến môi trường.
+ Đẩy nhanh tiến độ xây dựng và phê duyệt các quy hoạch còn thiếu. Quán triệt và thực hiện thống nhất các quy định mới của Luật đầu tư trong công tác quy hoạch
+ Tổng rà soát , điều chỉnh , phê duyệt công bố các quy hoạch về kết cấu hạ tầng làm cơ sở thu hút đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng.
+ Một số giải pháp khác : Tăng cường phối hợp với các Bộ , ngành , địa phương xử lý các vấn đề môi trường , vấn đề công trái pháp luật của các doanh nghiệp FDI. Tiếp tục nâng cao hiệu quả việc chống tham nhũng , tiêu cực , tình trạng nhũng nhiễu đối với nhà đầu tư
3. Tăng cường công tác giám sát đầu tư
- Tăng cường công tác giám sát đầu tư của cộng đồng
+ Các cơ quan nhà nước , cơ quan chuyên môn phải kịp thời công khai các thông tin về quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội, kế hoạch sử dụng đất, quy hoạch phát triển kết cấu hạ tầng, quy hoạch xây dựng chi tiết các khu đô thị, khu dân cư, khu công nghiệp...
+ Các chủ đầu tư công khai hóa thông tin về quyết định đầu tư, tiến độ và kế hoạch đầu tư, diện tích sử dụng đất, việc đền bù giải phóng mặt bằng, phương án tái định cư...
+ Ban Giám sát đầu tư của cộng đồng có trách nhiệm lập, quản lý và thực hiện kế hoạch giám sát đầu tư; thu thập ý kiến, kiến nghị và yêu cầu cơ quan, tổ chức, chủ đầu tư, nhà thầu báo cáo, giải trình, cung cấp thông tin làm rõ những vấn đề mà cộng đồng có ý kiến.
- Giám sát hoạt động đầu tư ngoài ngành
+ Đưa ra các nguyên tắc rà soát để loại bỏ , hoãn , giãn tiến độ các dự án đầu tư xây dựng cơ bản.
+ Đối với các đơn vị sử dụng vốn ngân sách thì các Bộ , ngành , địa phương phải rà soát , sắp xếp lại các dự án trong kế hoạch và đưa khỏi danh mục những dự án không phù hợp , không hiệu quả , tiến độ quá chậm hoặc chưa rõ nguồn vốn.
- Giám sát đầu tư công : 3 ưu tiên lựa chọn
+ Thứ nhất là hiệu suất đầu tư của dự án
+ Thứ hai là hiệu ứng của dự án khi đi vào sử dụng là như thế nào.
+ Thứ ba là các dự án được sử dụng sớm nhất có thể , tránh đầu tư dàn trải , không thực hiện được.
4. Triển khai công tác quản lý về đấu thầu
- Tăng cường năng lực thực hiện công tác đấu thầu
+ Tăng cường phổ biến, hướng dẫn thực hiện Quy chế Đấu thầu thông qua tổ chức tập huấn bồi dưỡng nghiệp vụ đấu thầu cho các tổ chức/cá nhân được giao nhiệm vụ thực hiện công tác đấu thầu, đồng thời lựa chọn và bố trí cán bộ đủ phẩm chất, năng lực và am hiểu các quy định của Nhà nước về đấu thầu để tham gia thực hiện công tác đấu thầu.
- Tăng cường quản lý nhà nước về đấu thầu
+ Nâng cao chất lượng công tác thẩm định kế hoạch đấu thầu, hồ sơ mời thầu và kết quả lựa chọn nhà thầu của các đơn vị thẩm định.
+ Đối với các dự án do Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh phê duyệt, Sở Kế hoạch và Đầu tư phải là cơ quan thẩm định kế hoạch đấu thầu và kết quả lựa chọn nhà thầu trước khi người có thẩm quyền phê duyệt; trong trường hợp thẩm định hồ sơ mời thầu, cơ quan thẩm định có thể là Sở Kế hoạch và Đầu tư hoặc một đơn vị chuyên ngành của địa phương (điểm 2 khoản 20 Điều 1 Nghị định 66/2003/NĐ-CP ngày12/06/2002 của Chính phủ và mục V phần 8 Thông tư 01/2004/TT-BKH ngày 02/02/2004 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư).
+ Đối với việc thực hiện công tác đấu thầu tại các công ty cổ phần, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã có văn bản số 2035/BKH-QLĐT ngày 07/04/2004 gửi các Bộ, ngành và địa phương về việc yêu cầu chấn chỉnh kịp thời các hoạt động đấu thầu trong lĩnh vực này
- Tăng cường công tác kiểm tra , thanh tra đấu thầu
+ Các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương phải thành lập Thanh tra Sở tại Sở Kế hoạch và Đầu tư theo yêu cầu của Chỉ thị 29/2003/CT-TTg ngày 23/12/2003 của Thủ tướng Chính phủ (về việc chấn chỉnh quản lý đầu tư xây dựng bằng nguồn vốn nhà nước) và văn bản hướng dẫn số 1895 BKH/TTr-TCCB ngày 02/04/2004 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư.
+ Đề nghị các Bộ, ngành và địa phương chỉ đạo tăng cường kiểm tra, thanh tra công tác đấu thầu trong phạm vi ngành, địa phương mình để kịp thời ngăn chặn, phát hiện và xử lý các sai phạm (nếu có).
+ Bộ Kế hoạch và Đầu tư đề nghị Lãnh đạo các Bộ, ngành và địa phương tập trung chỉ đạo chấn chỉnh công tác đấu thầu trong phạm vi ngành và địa phương mình, đảm bảo mục tiêu của công tác đấu thầu là cạnh tranh, công bằng, minh bạch và hiệu quả kinh tế.
5. Nâng cao năng lực khoa học công nghệ và nguồn nhân lực
* Giải pháp phát triển nguồn nhân lực
- Xây dựng chương trình phát triển nguồn nhân lực trong doanh nghiệp
+ Định hướng công việc và phát triển nhân viên mới : tạo điều kiện cho nhân viên mới tìm hiểu về doanh nghiệp , ý thức được vị trí , vai trò của mình.
+ Đào tạo phát triển đội ngũ nhân viên : theo dõi quá trình phát triển chuyên môn nghiệp vụ , kĩ năng của nhân viên ở các bộ phận để làm cơ sở cho việc hoạch định tổ chức các chương trình đào tạo , bồi dưỡng .
+ Chương trình đề bạt , thăng tiến : Ban lãnh đạo phải tạo môi trường bình đẳng để khuyến khích nhân viên , các tiêu chuẩn tuyển chọn vào các vị trí cần được công khai.
- Hoàn thiện công tác tuyển dụng
+ Các doanh nghiệp cần dựa vào các tiêu chuẩn , chính sách tuyển dụng , quy định về tiêu chuẩn nhân viên của nhà nước để xây dựng tiêu chuẩn , chính sách tuyển dụng phù hợp với điều kiện thực tế của mình.
+ Mọi thông tin tuyển dụng , chế độ ưu đãi cần được thông báo công khai trên các phương tiện thông tin đại chúng. Quá trình tuyển dụng phải được giám sát chặt chẽ và đảm bảo tính công bằng.
+ Ứng viên trúng tuyển cần được trải qua thời gian thử việc. Sau thời gian thử việc nhân viên mới được xét tuyển dụng với hợp đồng lao động giữa nhân viên và doanh nghiệp theo quy định của Bộ luật Lao Động.
- Nâng cao năng lực đào tạo , bồi dưỡng nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực
+ Nâng cao tính chủ động trong công tác đào tạo , bồi dưỡng tại chỗ.
+ Tăng cường sự liên kết , hợp tác với các cơ sở đào tạo
+ Thành lập quỹ đào tạo , bồi dưỡng và phát triển nguồn nhân lực.
+ Đẩy mạnh sự hợp tác với các doanh nghiệp khác trong công tác đào tạo
- Cải thiện điều kiện lao động và nâng cao chất lượng môi trường làm việc trong doanh nghiệp
+ Hoàn thiện công tác tổ chức phục vụ nơi làm việc theo yêu cầu của công việc, tạo ra môi trường thuận lợi về tâm sinh lý cho người lao động
+ Xây dựng môi trường văn hoá doanh nghiệp
+ Thường xuyên tổ chức kiểm tra sức khoẻ, có kế hoạch chăm sóc sức khoẻ cho nhân viên.
- Hoàn thiện chế độ đãi ngộ , đánh giá khen thưởng người lao động
+ Hoàn thiện công tác tiền lương của doanh nghiệp
+ Phát triển các hình thức thưởng và đãi ngộ khác đối với người lao động
- Hoàn thiện hệ thống nội quy , tăng cường kỉ luật lao động
+ Các doanh nghiệp cần củng cố và hoàn thiện nội qui lao động theo Nghị định 41 CP ngày 6/7/1999 của chính phủ
+ Các doanh nghiệp cần qui định rõ các các điều khoản vi phạm nội qui lao động và hình thức kỷ luật đi kèm
- Bố trí và phân công lao động thích hợp tại các bộ phận doanh nghiệp
+ Phải xem xét, đánh giá trình độ chuyên môn của nhân viên , xem những người nào phù hợp với những công việc gì, từ đó bố trí đảm bảo “đúng người đúng việc”.
+ Bố trí sắp xếp nhân viên làm việc ở các bộ phận cùng tính cách, cùng tâm lý vào một nhóm làm việc, lúc đó họ phải thúc đẩy nhau làm việc, cùng kết hợp, trao đổi để hoàn thiện công việc
+ Trên cở sở đánh giá trình độ nhân viên thì cần mạnh dạn giao công việc cũng như quyền hạn và trách nhiệm cho nhân viên để họ có thể độc lập tự chủ trong công việc.
* Giải pháp nâng cao năng lực khoa học công nghệ
- Tăng đầu tư cho hoạt động KHCN để có điều kiện thu hút cán bộ KHCN, đồng thời hình thành một cơ chế khuyến khích phù hợp nhằm đa dạng hoá các nguồn vốn cho KHCN
- Đổi mới cơ chế quản lý và tổ chức hoạt động KHCN nhằm tập hợp và tạo điều kiện cho đội ngũ cán bộ KHCN phát huy năng lực phục vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
- Bộ KH-CN cần phối hợp với Bộ Giáo dục - Đào tạo đề ra những biện pháp cụ thể hơn nhằm thu hút thế hệ trẻ ham mê khoa học, phấn đấu trở thành những cán bộ đầu ngành
- Thực hiện chế độ ưu đãi vật chất và tinh thần cho các nhà khoa học đầu đàn, các tài năng đặc biệt
- Nhà nước cần có chính sách hỗ trợ: miễn giảm thuế thu nhập cho những viện nghiên cứu bán kết quả nghiên cứu công nghệ, chuyển giao công nghệ, đào tạo liên quan đến công nghệ; nhanh chóng hoàn thiện hệ thống thông tin công nghệ cho những ngành công nghiệp chủ lực để giúp DN lựa chọn công nghệ tiên tiến
- Ngoài ra, cần có những khuyến khích các DN nghiên cứu và ứng dụng tiến bộ KH-CN vào sản xuất, kinh doanh: Cho phép và khuyến khích DN lập quỹ nghiên cứu đổi mới công nghệ, phát triển sản phẩm, cho phép tính chi phí nghiên cứu khoa học vào giá thành sản xuất. Sớm đưa Quỹ đầu tư mạo hiểm vào hoạt động để hỗ trợ DN ươm tạo, đổi mới công nghệ.
6. Tăng cường , đổi mới công tác quản lý hoạt động xây dựng
- Nâng cao năng lực và trách nhiệm của các tổ chức tư vấn đầu tư.
+ Nâng cao năng lực , khả năng cập nhật thông tin KHKT của các cá nhân , tập thể tham gia hoạt động tư vấn.
+ Có thể mời các công ty tư vấn quốc tế tham gia công tác tư vấn theo hướng hiện đại văn minh , đáp ứng nhu cầu hội nhập quốc tế trong giai đoạn hiện nay và tương lai.
+ Nhanh chóng đổi mới nội dung đào tạo , hoạt động ngoại khóa , tập huấn tại các trường Đại học , Cao đẳng và hội xây dựng để khắc phục tình trạng 3 thiếu của ngành xây dựng là : thiếu tính chuyên nghiệp , thiếu kinh nghiệm thực tiễn và thiếu kiến thức tổng hợp.
+ Công tác tư vấn cần được nâng cao thêm một bước cả về nhận thức và tư duy. Bộ Xây Dựng cũng cần phải nắm lại vấn đề tư vấn về quản lý nhà nước để các doanh nghiệp tư vấn dù hoạt động độc lập nhưng vẫn đạt hiệu quả.
- Tăng cường công tác kiểm tra , kiểm soát các chủ đầu tư , các nhà thầu.
+ Đối với chủ đầu tư : Những chủ đầu tư không đủ năng lực , không tuân thủ đúng yêu cầu và cam kết thì thu hồi nhiệm vụ chủ đầu tư , giao cho các đơn vị khác có năng lực và điều kiện để thực hiện.
Phải kiểm tra , hướng dẫn ngay chủ đầu tư lập và phê duyệt phương án phá dỡ , thiết kế cơ sở và các thủ tục quản lý đầu tư xây dựng đáp ứng kịp thời tiến độ.
Giám sát quá trình thi công xây dựng công trình của chủ đầu tư , giúp đỡ cho chủ đầu tư trong những trường hợp khó khăn , tạo thuận lợi tối đa để chủ đầu tư phát huy khả năng nhưng cũng kịp thời chấn chỉnh , xử phạt để đảm bảo tính nghiêm túc trong quá trình thi công xây dựng.
+ Đối với các nhà thầu : Kiểm tra điều kiện năng lực của nhà thầu tham gia xây dựng công trình. Với những công trình có tầng hầm thì phải kiểm tra kinh nghiệm của nhà thầu. Với công tác khảo sát thì phải kiểm tra sự tuân thủ các quy định về khảo sát.
Tư vấn thiết kế phải thực hiện giám sát thường xuyên để kịp thời xử lý những phát sinh trong quá trình thi công xây dựng.
Chỉ cho phép khởi công xây dựng khi đã có giải pháp thi công đảm bảo an toàn và đủ các điều kiện khác theo quy định hiện hành.
7. Một số giải pháp khác
- Về cơ cấu vốn đầu tư
+ Đảm bảo bố trí vốn cho các công trình dự án phù hợp với cơ cấu đầu tư đã được giao.
+ Việc phân bổ nguồn vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước phải được nghiên cứu cải tiến. Theo đó, phải định hướng đúng về cơ cấu đầu tư theo ngành và lĩnh vực, cơ cấu theo vùng lãnh thổ phù hợp với mục tiêu đầu tư.
+ Điều chỉnh cơ cấu vốn đầu tư đảm bảo đúng tiến độ và hiệu quả vốn đầu tư.
- Về thời gian thực hiện dự án
+ Đảm bảo hoàn thành các dự án đúng thời hạn quy định.
+ Kiểm soát được thời gian thực hiện đầu tư xây dựng , tiến độ thi công dự án để dự án không bị vượt quá dự toán.
+ Phân bổ thời gian thực hiện các bước của dự án hợp lý dựa vào quy mô , tính chất của từng giai đoạn để đem lại hiệu quả cao nhất , ít tốn chi phí nhất.
- Giải pháp cho các chương trình mục tiêu quốc gia
+ Tăng ngân sách quốc gia cho các chương trình mục tiêu quốc gia đảm bảo các vùng nghèo tiếp cận được các nguồn vốn để giảm bớt khó khăn
+ Các cơ quan quản lý tăng cường hướng dẫn nghiệp vụ , đôn đốc kiểm tra giám sát.
+ Các UBND địa phương có nhiệm vụ triển khai thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia trên địa bàn , chủ động lồng ghép các chương trình , bố trí mức kinh phí và kế hoạch phân bổ kinh phí cho từng chương trình cụ thể.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Giáo trình Kinh Tế Đầu Tư – PGS.TS. Nguyễn Bạch Nguyệt, TS. Từ Quang Phương.
Quyết định Dự Toán Vốn Dầu tư – Harold Bierman,JR. Seymour Smidt Nxb Thống Kê 1995.
GT Lập Dự Án Đầu tư - PGS.TS. Nguyễn Bạch Nguyệt.
4. Thông tin tham khảo từ các trang web:
www.gso.gov.vn
www.mot.gov.vn
www.moi.gov.vn
www.saga.com
5. Báo:
Thời báo kinh tế Việt Nam
Báo đầu tư
6. Nâng cao hiệu quả đầu tư ở Việt Nam - Trung âm thông tin và dự báo kinh tế - xã hội quốc gia - Bộ Kế Hoạch và Đầu Tư
7. Báo cáo Tình hình Kinh tế - Xã hội năm 2007 và Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 2008. ( Báo cáo của Chính phủ tại Kỳ họp thứ hai, Quốc hội khoá XII.
8. Kế hoạch và định hướng phát triển Kinh tế - Xã hội giai đoạn 2006 -2010 – NXB Tổng cục thống kê.
MỤC LỤC
Trang
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 6285.doc