Như đã biết, một trong những nhiệm vụ trung tâm cơ bản của Ngân hàng Nhà nước điều hành chính sách lãi suất để thực hiện mục tiêu chính sách tiền tệ. Để thực hiện nhiệm vụ này Ngân hàng nhà nước phải sử dụng các công cụ chính sách tiền tệ .
Trong giai đoạn đầu, khi nền kinh tế kém phát triển, thì chính sách tiền tệ nói chung và việc điều tiết lãi suất trong nền kinh tế nói riêng mang ý chí chủ quan của Nhà nước. Khi ấy, các qui luật kinh tế không phát huy tác dụng. Trong bối cảnh đó cơ quan quản lý Nhà nước (cụ thể là Ngân hàng nhà nước) thường phải sử dụng các công cụ mang tính chất mệnh lệnh hành chính trực tiếp. Ngày nay những tiến bộ đã đạt được trong công cuộc đổi mới tạo được tiền đề để Ngân hàng nhà nước dần chuyển sang các công cụ điều hành gián tiếp. Mục đích của sử dụng điều hành công cụ gián tiếp nhằm thực hiện chính sách tiền tệ trong đó có điều tiết lãi suất thị trường thông qua một số biện pháp như:
38 trang |
Chia sẻ: Dung Lona | Lượt xem: 1296 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng điều hành lãi suất ở Việt nam, kinh nghiệm thế giới và bài học đối với Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
uất:
- Chuyển từ cơ chế lãi suất thực âm sang cơ chế lãi suất thực dương để đảm bảo cho người dân gửi tiền và ngân hàng là người cho vay đều được lợi;
- Xoá bỏ về cơ bản sự chênh lệch lãi suất cho vay giữa các thành phần kinh tế, thay vì ấn định lãi suất cụ thể bằng quản lý lãi suất theo một khung, bao gồm lãi suất tối thiểu về tiền gửi và lãi suất tối đa về tiền vay.
- NHNN cho phép Ngân hàng thương mại (NHTM) được thoả thuận lãi suất với khách hàng (áp dụng trong trường hợp huy động vốn bằng phát hành kỳ phiếu- lãi suất huy động có thể cao hơn lãi suất tiết kiệm cùng kỳ hạn 0,2%/tháng và cho vay cao hơn mức trần 2,1%/ tháng);
- Lãi suất đã bắt đầu được sử dụng như một công cụ của CSTT cùng với lãi suất tái cấp vốn được hình thành vào đầu năm 1991 khi hai Pháp lệnh ngân hàng có hiệu lực. Lãi suất tái cấp vốn được tính bằng % so với lãi suất cho vay của TCTD. Tuy nhiên hiệu quả của công cụ này còn nhiều hạn chế.
Những thay đổi trên thể hiện chính sách lãi suất đã được cải cách theo hướng linh hoạt hơn và phù hợp hơn với cơ chế thị trường. Sự thay đổi từ việc ấn định các mức lãi suất cụ thể sang quy định trần và sàn lãi suất, cho phép các TCTD chủ động, tự quyết định mức lãi cụ thể của đơn vị mình là bước chuyển biến quan trọng để tiến tới quá trình tự do hoá lãi suất, làm cho lãi suất linh hoạt hơn, hạn chế đến mức thấp nhất sự can thiệp trực tiếp của NHNN vào hoạt động của NHTM. Mặc dù vậy, cơ chế này vẫn khống chế trực tiếp lãi suất trên thị trường, làm giảm tác dụng kích thích và điều tiết hoạt động kinh doanh của các ngân hàng.
2.1.3. Giai đoạn từ năm 1996 đến tháng 7/2000
NHNN tiếp tục ấn định mức lãi suất tái cấp vốn và có những đổi mới căn bản về điều hành lãi suất:
- Thay vì qui định khung lãi suất tối thiểu về tiền gửi - lãi suất tối đa về tiền vay, NHNN chỉ qui định các mức lãi suất “trần” theo thời hạn cho vay và khống chế chênh lệch giữa lãi suất cho vay và lãi suất huy động vốn bình quân là 0,35%/tháng (4,2%/năm) để khắc phục tình trạng hầu hết các ngân hàng thương mại đều có mức lợi nhuận cao trong khi các doanh nghiệp lại gặp khó khăn về tài chính (khi thực hiện cơ chế lãi suất thoả thuận ở giai đoạn trước).
- Đến cuối tháng 1/1998, NHNN xoá bỏ qui định chênh lệch lãi suất, chỉ còn qui định trần lãi suất cho vay. Cùng với nới lỏng sự kiểm soát lãi suất, NHNN liên tục điều chỉnh trần lãi suất cho vay theo hướng giảm cơ cấu trần và mức khống chế, đặc biệt trong năm các năm 1998, 1999.
- Trong năm1997, NHNN đã thay đổi hình thức qui định lãi suất tái cấp vốn, chuyển sang qui định mức lãi suất cụ thể. Mức lãi suất tái cấp vốn cũng được điều chỉnh giảm xuống trong thời gian này (từ 1,1% năm 1997 xuống 0,7%/tháng từ 4/9/ 99) để phù hợp với chỉ số lạm phát, quan hệ cung- cầu vốn trên thị trường và thực hiện giải pháp kích cầu về đầu tư của Chính phủ.
- Để bổ sung thêm công cụ điều hành lãi suất, tháng 11/1999 NHNN đưa vào sử dụng nghiệp vụ chiết khấu, tái chiết khấu giấy tờ có giá cho các NHTM, lãi suất tái chiết khấu được qui định ở mức thấp hơn 0,05%/tháng so lãi suất tái cấp vốn;
- Tháng 7/2000, NHNN đưa vào sử dụng nghiệp vụ thị trường mở, lãi suất thị trường mở được hình thành qua các phiên giao dịch.
Việc điều chỉnh chính sách lãi suất như trên nhằm tiến tới việc duy trì một trần lãi suất cho vay, tạo điều kiện để áp dụng mức lãi suất cơ bản và từng bước tự do hoá lãi suất, mặt khác nhằm mục đích kích cầu thúc đẩy đầu tư và tiêu dùng. Tuy nhiên ảnh hưởng của lãi suất đối với tổng cầu của nền kinh tế Việt Nam rất hạn chế. Có hai lý do: trước hết, việc giảm phát trong thời gian từ 1996 xuất phát từ sự suy giảm các yếu tố sản xuất liên quan đến tổng cung nhiều hơn tổng cầu, vì thế các chính sách vĩ mô tác động vào tổng cầu sẽ chỉ đem lại hiệu quả hạn chế; thứ hai, sự điều chỉnh lãi suất thường là chậm so với thị trường, nên mất đi lợi thế bất ngờ của sự thay đổi lãi suất. Hơn nữa việc sử dụng các công cụ gián tiếp khác chưa thực sự có hiệu quả; việc điều hành trần lãi suất vẫn là một biện pháp can thiệp hành chính của Nhà nước do vậy đã hạn chế tính chủ động, linh hoạt trong kinh doanh của các TCTD, hạn chế việc hình thành và phát triển của các công cụ tài chính, có nguy cơ làm suy yếu năng lực tài chính của TCTD
2.1.4. Giai đoạn từ năm 2000 đến nay
Tháng 8/2000, NHNN đưa ra một cơ chế lãi suất mới trong đó lãi suất cho vay nội tệ của ngân hàng được điều chỉnh theo lãi suất cơ bản do NHNN. Tuy nhiên, các ngân hàng không được tính lãi suất cho vay vượt quá lãi suất cơ bản + 0,3%/tháng đối với vốn ngắn hạn và + 0,5%/tháng đối với vốn trung, dài hạn.
Cơ chế giới hạn biên độ lãi suất so với lãi suất cơ bản về bản chất không khác gì so với trần lãi suất áp dụng trước đây. Tuy nhiên, trên thực tế mức trần (lãi suất cơ bản cộng biên độ) được định ở mức cao hơn trần lãi suất theo cơ chế cũ rất nhiều. Hình 1 cho thấy lãi suất cho vay của ngân hàng luôn thấp hơn giới hạn biên độ cho phép. Trước thời điểm áp dụng lãi suất cơ bản, lãi suất cho vay bình quân của bốn ngân hàng thương mại quốc doanh đã kịch trần (0,85%/tháng). Thực tế là trong năm 1999, các NHTM không theo kịp 5 đợt hạ trần lãi suất của NHNN, và kết quả, như trên Hình 1, là LSCV ngắn hạn bình quân vượt trên trần lãi suất.
Từ tháng 8/2000, lãi suất cơ bản được đặt ở mức mà khi cộng với biên độ 0,3%/tháng đã cao hơn hẳn lãi suất cho vay thực tế. Như vậy, từ khi có cơ chế lãi suất cơ bản, các ngân hàng đã bắt đầu ấn định lãi suất trên cơ sở thỏa thuận với khách hàng.
Một điểm đáng chú ý nữa là LSCV của các NHTM, mặc dù luôn cao hơn lãi suất cơ bản, nhưng thay đổi theo lãi suất cơ bản. Trong năm 2000 và 2001, cả hai mức lãi suất này đều giảm. Nhưng trong thời gian đó, lãi suất tiền gửi lại tăng lên. Cạnh tranh giữa các ngân hàng đã dẫn tới gia tăng lãi suất huy động vốn, nhưng LSCV vẫn không tăng và nằm trong biên độ lãi suất cơ bản. Chênh lệch lãi suất, do vậy, đã giảm đi rõ rệt.
Hình 1: Từ trần lãi suất đến lãi suất cơ bản rồi tự do hóa lãi suất, 1998-2002
Nguồn: Tính toán từ cơ sở dữ liệu tài chính quốc tế IFS của IMF.
Nhận xét về cơ chế điều hành lãi suất bằng lãi suất cơ bản của NHNN có nhiều ý kiến khác nhau, Nhìn chung có ba ý kiến sau:
Ý kiến thứ nhất cho rằng lãi suất cơ bản + biên độ không có gì khác với trần lãi suất trước đây và, do vậy, sẽ không tạo ra tác động gì nhiều tới các mức lãi suất cũng như hành vi huy động và cho vay vốn của các ngân hàng. Đặc biệt, chính sách này cũng như trần lãi suất, hoàn toàn loại bỏ những người vay vốn nhỏ (như tiểu thương, hộ sản xuất nhỏ và cá nhân) ra khỏi thị trường tài chính chính thức. Đó là do chi phí cho vay các đối tượng này thường lớn nên không thể cho vay trong khuôn khổ trần lãi suất hay lãi suất cơ bản cộng biên độ.
Ý kiến thứ hai nhấn mạnh tính tích cực của cơ chế lãi suất cơ bản. Trong phạm vi biên độ cho phép, các ngân hàng giờ đây có thể định mức LSCV khác nhau tùy theo mức độ rủi ro, chứ không còn áp dụng một mức chung cho tất cả các khách hàng như trước đây. Như vậy, cạnh tranh trong hệ thống các tổ chức tín dụng sẽ gia tăng và hiệu quả phân bổ vốn cũng sẽ được cải thiện. Hơn thế nữa, LSCV thực tế của ngân hàng mặc dù không đụng giới hạn biên độ nhưng có xu hướng thay đổi cùng với lãi suất cơ bản. Thực ra, NHNN trong nhiều trường hợp đã thay đổi lãi suất cơ bản theo tình hình thay đổi lãi suất trên thị trường. Đây là tín hiệu để có thế tiến tới tự do hóa hoàn toàn lãi suất.
Ý kiến thứ ba lại mang tính bi quan trước cơ chế lãi suất mới. Theo ý kiến này, việc các ngân hàng được tự do định đoạt lãi suất trong khi các doanh nghiệp nhà nước chậm đổi mới sẽ chỉ làm trầm trọng thêm quan hệ tài chính vốn không được lành mạnh giữa hai thực thể này. Đó là vì, ngân hàng sẽ sẵn sàng cho những doanh nghiệp nhà nước được chính phủ bảo lãnh ngầm vay vốn với lãi suất trong khoảng 0,6-0,65%/tháng trong khi khu vực tư nhân có thể phải trả lãi suất tới 0,75-0,8%/tháng vì các ngân hàng coi cho khu vực này vay vốn là rủi ro hơn.
Vào tháng 11/2001, trần lãi suất cho vay ngoại tệ được xóa bỏ, từ đó cho phép những người vay ngoại tệ trong nước có thể thương lượng lãi suất với các ngân hàng nội địa và ngân hàng nước ngoài. Vào tháng 6/2002, lãi suất được tự do hóa hoàn toàn với việc các ngân hàng được phép xác định lãi suất cho vay trên cơ sở tự thẩm định và thương lượng với khách hàng.
Như đã trình bày, các ngân hàng đã chủ động xác định LSTG và LSCV từ thời điểm áp dụng lãi suất cơ bản. Với việc chính thức tự do hóa lãi suất thì lãi suất cơ bản do NHNN công bố chỉ còn tính chất tham khảo. LSTG tiếp tục gia tăng. Đồng thời, ngay sau khi ra quyết định tự do hóa, lãi suất cho vay của các ngân hàng đã lập tức nhích lên. Quan điểm hoài nghi về tự do hóa lãi suất cho rằng, cạnh tranh giữa các ngân hàng khi không còn kiểm soát lãi suất sẽ dẫn tới tình trạng “cá lớn nuốt cá bé”. Các ngân hàng nhỏ khó có khả năng cho vay với lãi suất thấp để cạnh tranh với các ngân hàng lớn. Đặc biệt, các NHTM cổ phần dường như không thể giảm LSTG để giảm LSCV vì sẽ ngay lập tức bị người tiết kiệm rút tiền. Ngược lại, khi không còn trần về lãi suất hay giới hạn lãi suất cơ bản + biên độ, họ có thể có xu hướng tăng lãi suất huy động rồi đầu tư rủi ro cao (do tác động của lựa chọn bất lợi và tâm lý ỷ lại) trước sức ép cạnh tranh. Trong khi đó, những người ủng hộ đưa ra các lập luận tương tự như các lý lẽ ủng hộ cơ chế lãi suất cơ bản trước đây. Các nhà hoạch định chính sách hy vọng rằng lãi suất giờ đây sẽ phản ánh cung cầu trên thị trường vốn vay. Hơn thế nữa, khi lãi suất cơ bản chỉ còn tính chất tham khảo thì các ngân hàng hoàn toàn có thể cho các đối tượng kinh doanh nhỏ hay nông dân vay với lãi suất phản ánh các chí phí cho vay và rủi ro.
Cơ chế do hóa lãi suất này đã tạo điều kiện cho các tổ chức tín dụng mở rộng mạng lưới để huy động cho vay vốn với mức lãi suất phù hợp; đáp ứng đầy đủ và nhanh hơn vốn cho người cần vay ... Hơn thế nữa, nó tạo thuận lợi cho việc cải cách hệ thống ngân hàng theo định hướng thị trường, nâng cao năng lực tài chính, khả năng cạnh tranh, các tiêu chuẩn an toàn và khả năng hội nhập với thị trường tài chính tiền tệ quốc tế của các tổ chức tín dụng Việt Nam.
Thực tế từ khi cơ chế lãi suất thỏa thuận được đưa vào thực hiện cho thấy, lãi suất vẫn còn thiếu tính thị trường. Nguyên nhân chủ yếu vì tính độc quyền của các NHTM nhà nước và những ưu đãi trong cho vay chỉ định của Chỉnh phủ. Trong mảng tín dụng thì “bốn đại gia” NHTM nhà nước đã chiếm trên 70% thị phần nên chưa tránh được việc lãi suất bị các ngân hàng này chi phối. Trong khi đó, Chính phủ hạn chế việc tiếp cận thị trường ngân hàng của các Ngân hàng liên doanh và chi nhánh Ngân hàng nước ngoài ở Việt Nam. Hiện nay theo qui định các Ngân hàng liên doanh và chi nhánh Ngân hàng nước ngoài (trừ các ngân hàng Mỹ), không được phép huy động tiền gửi tiết kiệm VND từ tổ chức và cá nhân Việt Nam, lượng huy động tiền gửi VND không kỳ hạn không được quá 50% /tổng số vốn của chi nhánh. Thêm vào đó, quá nhiều ưu đãi về lãi suất của Chỉnh phủ thông qua con đường cho vay chỉ định cũng làm mất đi tính thị trường của lãi suất.
Việc cho phép TCTD được tự thoả thuận lãi suất cho vay bằng VND dựa theo quan hệ cung-cầu vốn và mức độ tín nhiệm đối với khách hàng trong điều kiện môi trường cạnh tranh giữa các TCTD chưa bình đẳng, một số vùng nông thôn còn chưa đa dạng về loại hình TCTD cần có các giải pháp hỗ trợ tránh việc lãi suất có thể bị đẩy lên cao do sự độc quyền của một số TCTD có nguồn vốn lớn, làm mất tác dụng của cơ chế tự do hoá lãi suất. NHNN và Hiệp hội ngân hàng cần phát huy vai trò của mình tránh để việc này xảy ra. Nên chăng nới rộng, tiến tới xóa bỏ các qui định về huy động tiền gửi VND cho các Ngân hàng liên doanh và chi nhánh ngân hàng nước ngoài, điều này cũng phù hợp với tiến trình hội nhập. Nếu nới lỏng các hạn chế như: không được phép huy động tiền gửi tiết kiệm VND từ tổ chức và cá nhân Việt Nam, lượng huy động tiền gửi VND không kỳ hạn không được quá 50% /tổng số vốn của chi nhánh, các Ngân hàng liên doanh và chi nhánh ngân hàng nước ngoài sẽ giảm được tình trạng thiếu nguồn vốn VND và do vậy có thể tham gia tích cực hơn vào nghiệp vụ thị trường mở. Bên cạnh đó thì việc nâng cao hiệu ứng tác động của lãi suất tái cấp vốn đến lãi suất liên ngân hàng và lãi suất thị trường cũng cần được chú ý đúng mức.
Từ năm 2003, lãi suất cho vay cầm cố được điều chỉnh dần để đóng vai trò là lãi suất trần của thị trường liên ngân hàng. Lãi suất tái chiết khấu được qui định làm sàn của thị trường liên ngân hàng. Mức chênh lệch giữa lãi suất trần và lãi suất sàn đã được nới rộng từ 0,05%/tháng tức là 0,6%/năm (tháng 3/2003) lên 2,4%/năm (tháng 6/2003) và từ tháng 9/2003 là 2%/năm phù hợp với thông lệ quốc tế và tạo ra một khung lãi suất để cho các mức lãi suất liên ngân hàng biến động. Lãi suất thị trường mở được điều hành linh hoạt trong khung lãi suất cho vay cầm cố và lãi suất tái chiết khấu. Từ khi thực hiện cơ chế lãi suất thỏa thuận, lãi suất thị trường có lúc tăng lên, rồi lại giảm do NHNN đã điều chỉnh giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc, giảm lãi suất cho vay cầm cố và lãi suất tái chiết khấu, sửa đổi cơ chế cho vay ngắn hạn, chiết khấu giấy tờ có giá của NHNN đối với NHTM để mở rộng khả năng tiếp cận kênh tái cấp vốn cho các NHTM, các NHTM Nhà Nước đã hiệp thương thoả thuận thống nhất việc giảm LSTG và khống chế chung mức trần LSTG, các NHTM khống chế tăng trưởng tín dụng phù hợp với mục tiêu tăng trưởng chung và trên cơ sở nguồn vốn huy động. Như vậy, lãi suất tái cấp vốn đã bước đầu có tác động đến lãi suất thị trường. Song tác động này còn hạn chế. Do qui mô, độ sâu của thị trường tiền tệ ở mức thấp và trong điều kiện dư thừa vốn khả dụng thì việc điều chỉnh giảm lãi suất chiết khấu, lãi suất tái cấp vốn cũng chỉ có tác dụng phát tín hiệu nới lỏng tiền tệ để định hướng lãi suất thị trường, ít có tác động đến khối lượng tiền cung ứng và cung cầu vốn ngắn hạn trên thị trường. Dầu vậy, việc thường xuyên điều chỉnh lãi suất tái cấp vốn căn cứ vào mục tiêu CSTT trong từng thời kỳ để hoàn thiện khung lãi suất chỉ đạo của NHNN vẫn rất cần thiết để lãi suất tái cấp vốn phát huy tác động hiệu ứng của nó.
Năm 2008 là năm thị trường ngân hàng tài chính nước ta có nhiều biến động, và Ngân hàng nhà nước đã có những động thái mạnh trong điều hành để tác động vào thị trường.
Những tháng đầu năm 2008, các ngân hàng thương mại, nhất là khối ngân hàng cổ phần đã cùng nhau xô vào những cuộc chạy đua huy động vốn với các mức lãi suất được điều chỉnh tăng mỗi ngày, thậm chí ở một số ngân hàng, lãi suất được điều chỉnh tăng vài lần trong ngày.Các phòng giao dịch của các ngân hàng luôn đông nghẹt khách đến gửi tiền vì lãi suất huy động của các ngân hàng đang từ 9% nhanh chóng tăng lên 18% rồi có lúc còn lên đến 20%. Lãi suất huy động tăng kéo theo lãi suất cho vay tăng, gây khó khăn cho doanh nghiệp – tới mức có những doanh nghiệp mang cả vốn gửi vào ngân hàng để hưởng lãi suất. Trong khi sự tăng trưởng của nền kinh tế còn đang hạn hẹp mà đồng vốn của doanh nghiệp không được đưa vào sản xuất kinh doanh mà lại được gửi vào trong ngân hàng để hưởng lãi thì quả là không ổn. Ngân hàng Nhà nước đã kịp thời đưa ra quyết định trần lãi suất cho vay của các ngân hàng thương mại chỉ được phép ở mức 150% mức lãi suất cơ bản (theo quy định của Luật Dân sự)
Nhưng có thời điểm với lãi suất vốn vay ở mức trần - cho dù được Ngân hàng nhà nước khống chế ở 21%/năm nhưng thực tế thì lại cao hơn thế bởi những khoản phí kèm theo do các ngân hàng thương mại tự đặt ra, thì khó có ngành sản xuất kinh doanh nào kham nổi. Cũng có thể hiểu một phần nguyên nhân là các ngân hàng thương mại buộc phải đứng ở tình thế đó, khi lượng vốn bị thắt chặt bởi tỷ lệ dự trữ bắt buộc tăng lên, phải mua tín phiếu bắt buộc, và trước đó phải điều hoà mức cho vay đầu tư chứng khoán về tỷ lệ theo quy định của NHNN và còn phải giữ khách hàng, giữ tên tuổi trên thị trường...
Cuộc đua tranh huy động vốn với lãi suất cao cứ thế được đẩy lên và ngay cả khi các ngân hàng đã cam kết trong Hiệp hội của mình rằng chỉ giữ lãi suất ở mức nào đấy thôi thì chính mỗi thành viên ngân hàng ấy lại lẳng lặng phá vỡ cam kết của mình.
Khi từng tháng từng quý trôi qua, tốc độ lạm phát liên tục tăng, các chính sách điều hành của NHNN đã linh hoạt tuỳ vào mục tiêu của nền kinh tế trong từng thời gian, thời điểm để có những biện pháp thắt chặt hay nới lỏng chính sách tiền tệ. Ngay trong những ngày cuối năm 2008, khi chỉ còn mấy ngày nữa là kết thúc năm tài chính của nền kinh tế, cũng là kết thúc một năm đầy những biến động không những của nền kinh tế thế giới mà còn đầy biến động của nền kinh tế đất nước, Thống đốc NHNN Nguyễn Văn Giàu vẫn kịp đưa ra quyết định điều chỉnh giảm hàng loạt lãi suất cơ bản.
Chỉ trong vòng hơn 2 tháng (T11, T12/2008), NHNN đã 5 lần giảm lãi suất cơ bản cùng hàng loạt lãi suất khác và 4 lần giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc của các ngân hàng thương mại. Vào thời điểm cao nhất trong năm, lãi suất cơ bản là 14%/năm, tỉ lệ dự trữ bắt buộc đối với tiền đồng Việt Nam là 11%/năm, còn hiện nay lãi suất cơ bản đã về mức 8,5% và tỷ lệ dự trữ bắt buộc chỉ còn 5%. Những quyết định điều chỉnh liên tiếp của Ngân hàng nhà nước và các mức lãi suất chênh lệch khá lớn ấy cho thấy lĩnh vực ngân hàng tài chính năm nay đầy biến động, căng thẳng, phức tạp nhưng cũng rất linh hoạt.
2.2. Những kết quả đạt được
Những biện pháp của Chính phủ và sự điều hành của ngân hàng nhà nước đã dần tác động đến thị trường và nền kinh tế, lạm phát dần được khống chế, mức tăng chỉ số giá tiêu dùng thậm chí còn ở mức âm. Ngân hàng Nhà nước liên tiếp đưa ra các quyết định nới lỏng chính sách tiền tệ. Trong khoảng từ tháng 11- tháng 12, dưới tác động của các biện pháp ấy, lãi suất cho vay của các ngân hàng thương mại hạ rất nhanh, mở cơ hội để các doanh nghiệp có thể tiếp cận dễ dàng hơn để đầu tư sản xuất kinh doanh. Ngay trong những ngày này, thực hiện chỉ đạo của Ngân hàng nhà nước, nhiều ngân hàng thương mại đang triển khai cho vay vốn thu mua lúa gạo tồn đọng ở khu vực ĐBSCL, hỗ trợ nông dân tiêu thụ lúa vụ cũ để vào vụ sản xuất mới. Và cũng bắt đầu từ 22/12, với lãi suất cơ bản bằng đồng Việt Nam giảm còn 8,5%/năm thì lãi suất cho vay tối đa của các ngân hàng thương mại giảm còn 12,75%/năm. Đấy cũng là một trong những yếu tố góp phần thực hiện các biện pháp kích cầu đầu tư mà Chính phủ đang đặt ra, nhằm khắc phục những dấu hiệu suy giảm kinh tế.
Nhiều chuyên gia ngân hàng nước ngoài bình luận rằng chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đang đi đúng hướng và kịp thời. Ông Hisatsugu Furukawa, Chuyên gia Chính sách tiền tệ của Văn phòng hợp tác quốc tế Nhật Bản (JICA) nhận xét: lãi suất đã được thay đổi linh hoạt và kịp thời, chính sách tiền tệ thắt chặt đã kiểm soát lạm phát một cách thành công, còn chính sách nới lỏng tiền tệ cho thấy sự điều một cách linh hoạt.
Và khi quyết định giảm các mức lãi suất cơ bản lần mới nhất này, Ngân hàng Nhà nước cũng chỉ rõ mục đích là nhằm tạo điều kiện cho các doanh nghiệp, hộ sản xuất tiếp cận vốn tín dụng ngân hàng; để các ngân hàng mở rộng tín dụng đối với sản xuất, xuất khẩu, nhập khẩu mặt hàng thiết yếu, doanh nghiệp nhỏ và vừa, các dự án đầu tư sản xuất, kinh doanh và kể cả các dự án đầu tư bất động sản khả thi, có hiệu và có khả năng trả nợ đúng hạn.
2.3. Một số hạn chế còn tồn tại của chính sách lãi suất
Có thể nói, trong thực tiễn đối phó với lạm phát ở nước ta năm 2007 và 2008, chính sách lãi suất có những bất cập, những nghịch lý kéo dài, và vì vậy, đã và đang có những tác động tiêu cực đến kết quả chống lạm phát trong thời gian qua.
Trước hết, chính sách lãi suất “nửa âm - nửa dương” khiến cả người gửi và doanh nghiệp đều chịu thiệt, nhiều ngân hàng thu lợi lớn, trong khi nguy cơ giảm tính thanh khoản và ngưng trệ hoạt động cho vay lại tăng
Các ngân hàng đã vào cuộc chống lạm phát (thể hiện qua việc tăng dự trữ bắt buộc, thắt chặt hạn mức tín dụng và nâng lãi suất cơ bản và chiết khấu, cũng như sử dụng một số công cụ nghiệp vụ thị trường mở khác để hút tiền thừa từ lưu thông), nhưng chậm so với chỉ đạo của Chính phủ là phải bảo đảm lãi suất thực dương.
Trong năm 2007 và thời gian đầu năm 2008, các ngân hàng ở Việt Nam mới thực hiện được một nửa “đơn thuốc”, tức chỉ thực hiện lãi suất tín dụng cho vay cao hơn hẳn lãi suất huy động, cũng như luôn cao hơn mức lạm phát, trong khi trần lãi suất cho vay dường như bị thả nổi. Các ngân hàng thương mại đều thống nhất thực hiện lãi suất huy động thấp hơn nhiều mức lạm phát (nhất là năm 2007). Kết quả là dư lượng tiền thừa trong lưu thông vẫn quá nhiều, trong khi nhiều ngân hàng không huy động đủ tiền mặt để bảo đảm tính thanh khoản và cho vay cần thiết. Rõ ràng là, trong bối cảnh tính độc quyền còn cao thì trách nhiệm xã hội, cạnh tranh thị trường và thực hiện các đơn thuốc chống lạm phát theo đúng nguyên tắc thị trường còn là “quả đắng”.
Trong khi “ mua rẻ - bán đắt” các nguồn vốn đang dồi dào của xã hội thông qua vay tín dụng với lãi suất thấp, còn cho vay với lãi suất cao, các ngân hàng đã thu được các khoản lợi nhuận từ chênh lệch lãi suất vay và cho vay, cũng như từ chênh lệch giá ảo với giá thực khởi điểm của các chứng khoán ngân hàng và cả từ nguồn thu phí dịch vụ kinh doanh chứng khoán các loại được tung ra ào ạt, thiếu sự kiểm soát chặt chẽ, nhất là trong 2 năm 2006 và 2007...
Ngoài ra, việc lạm dụng cho vay thiếu bảo đảm hoặc cho vay mang tính đầu cơ cao trong lĩnh vực kinh doanh bất động sản và kinh doanh chứng khoán, cũng như các kỹ năng nghiệp vụ hạch toán “lãi giả - lỗ thật” trong hoạt động của một số ngân hàng nếu không được nhận diện và xử lý kịp thời, hiệu quả sẽ rất dễ tạo “ngòi nổ” nhạy cảm cho các chấn động tài chính trong tương lai ở nước ta.
Chính sách “2 tỷ giá” đã khiến tạo lốc xoáy đột ngột về đầu cơ trên thị trường ngoại tệ, từ dư thừa chuyển nhanh sang khan hiếm giả tạo đồng USD, khiến cả người dân và doanh nghiệp đều chịu thiệt, trong khi một số ngân hàng và giới đầu cơ lại thu lời.
Sự bất cập trong điều hành chính sách “giá cả đồng tiền” trong thời gian gần đây được thể hiện ở chính sách “2 tỷ giá”, tức có sự chênh biệt lớn giữa tỷ giá niêm yết chính thức và tỷ giá chợ “đen”. Một mặt, các ngân hàng thương mại, theo quy định, chỉ được mua vào đồng USD đang dồi dào với giá sàn đắt hơn nhiều so với giá trên thị trường để duy trì tỷ giá VND danh nghĩa theo mục tiêu được nêu là duy trì sức cạnh tranh cho hàng xuất khẩu, trong khi đó, Ngân hàng Nhà nước không mua lại số USD này, dù là ở mức giá sàn theo quy định trên, khiến các ngân hàng thương mại “chê” USD (điều chưa từng có trong nhiều thập kỷ qua ở nước ta). Từ đó, xuất hiện tình huống thực tế đầy nghịch lý là lạm phát cao, trong khi các nhà đầu tư nước ngoài khan hiếm VND và dư thừa USD, còn dự trữ ngoại tệ quốc gia cũng chưa phải thực sự vững chắc. Cuộc săn lùng VND của các ngân hàng và nhà đầu tư nước ngoài trở nên nóng bỏng hơn, gây nên tình trạng “bán tháo” USD và nghẽn mạch lưu thông tiền tệ không đáng có, gây tổn hại chung cho nền kinh tế đất nước.
Tình huống này trên thực tế là hệ quả của một bất cập khác trước đó, trong năm 2007, khi Ngân hàng Nhà nước mua vào dự trữ gần 10 tỉ USD, nhưng chưa có giải pháp trung hòa cần thiết lượng dư tạm thời của VND trong lưu thông, khiến gia tăng xung lực lạm phát tiền tệ trong nền kinh tế. Tiếp đó, khi nhu cầu ngoại tệ tăng vọt trên thị trường do yêu cầu kinh doanh, để đáp ứng quy định về vốn, dự trữ của các ngân hàng, cũng như do phản ứng của thị trường trước việc tăng lãi suất cơ bản và cả do tỷ giá có xu hướng định giá quá cao, kéo dài VND, thì các ngân hàng lại đã có những quy định không hợp lý, quy định người dân và doanh nghiệp bán ngoại tệ theo giá của Ngân hàng Nhà nước, còn mua vào theo giá thị trường chợ "đen", làm tổn hại đến lợi ích của cá nhân và doanh nghiệp. Kết cục, chỉ một thời gian ngắn sau đó, một cơn lốc xoáy mới đảo chiều làm tăng giá và khan hiếm USD bùng lên dữ dội, khiến các doanh nghiệp lao đao và tác động xấu đến đời sống kinh tế - xã hội nước ta.
Trong cuộc chạy đua lãi suất năm vừa qua của các ngân hàng, nhờ có chính sách kịp thời của Ngân hàng nhà nước mà cuộc chạy đua đó đã dừng lại và đang dần trở về trạng thái ban đầu. Tuy nhiên, ban đầu chính sách lãi suất của NHNN vẫn chưa thực sự chặt chẽ và có biện pháp xử lý nghiêm khắc đối với các ngân hàng dùng những hình thức khuyến mại, tặng quà để nâng mức lãi suất huy động lên cao hơn mức trần quy định của NHH dẫn tới lãi suất của các ngân hàng thi nhau tăng lên. Vì nếu ngân hàng nào không theo kịp tốc độ chạy đua đó thì nguồn vốn huy động của họ sẽ bị giảm rất lớn. Và cứ như vậy, lãi suất huy động của các ngân hàng cứ thế tăng lên đến 20%/năm kéo theo là lãi suất cho vay cũng lên đến 21%/năm chưa kể các loại phí mà ngân hàng thu thêm. Điều đó gây khó khăn cho các doanh nghiệp trong việc tiếp cận nguồn vốn và ngay cả sản xuất kinh doanh.
Thế nhưng, giờ đây Ngân hàng nhà nước ra chính sách giảm mức lãi suất cả huy động và cho vay xuống mức rất thấp và đưa các ngân hàng đứng trước một thử thách mới: thị trường lãi suất sẽ diễn biến ra sao khi trần lãi suất cho vay dựa trên lãi suất cơ bản mới chỉ là 12,75%/năm trong khi lượng vốn huy động trước đó với lãi suất quá cao nay vẫn tồn đọng khá lớn. Liệu các doanh nghiệp có tiếp cận dễ dàng với nguồn vốn của các ngân hàng thương mại hay không, để thực hiện các giải pháp của Chính phủ đang đẩy mạnh kích cầu đầu tư, chống lại những dấu hiệu suy giảm kinh tế.
Đối với Việt Nam, thị trường tài chính đang trong giai đoạn phát triển, song mức độ phát triển còn thấp, thị trường còn có sự phân đoạn, vốn luân chuyển chưa thông suốt, giữa các thành viên thị trường thiếu sự gắn kết chặt chẽ, rủi ro đạo đức nhiều... do vậy mà sự phản ứng chính sách còn méo mó, thiếu đồng thuận. Thêm vào đó, năng lực giám sát thị trường tài chính của các cơ quan quản lý còn hạn chế. Cú sốc trên thị trường tiền tệ vào cuối tháng 2/2008 càng minh chứng cho sự yếu kém của các thành viên thị trường. Do vậy việc điều tiết lãi suất thị trường của NHNN là rất khó khăn. Mặc dù, NHNN đã từng bước đổi mới cơ chế điều hành lãi suất, bước đầu hình thành hành lang dao động cho lãi suất thị trường liên ngân hàng, trong đó lãi suất tái cấp vốn được điều chỉnh dần thành lãi suất trần, lãi suất chiết khấu được điều chỉnh làm lãi suất sàn. Cùng với khung lãi suất trên, lãi suất nghiệp vụ thị trường mở được NHNN sử dụng để định hướng lãi suất thị trường. Thực tế cho thấy các lãi suất tái cấp vốn, lãi suất chiết khấu, lãi suất nghiệp vụ thị trường mở đã được điều hành để phát tín hiệu về quan điểm chính sách tiền tệ trong từng thời kỳ (thắt chặt hay nới lỏng) thời gian qua có tác động hạn chế đến lãi suất thị trường. Trong thời gian qua, các lãi suất trên chưa thực sự phát huy được vai trò định hướng lãi suất thị trường, mối quan hệ giữa các lãi suất của NHNN và lãi suất thị trường còn chưa thực sự gắn kết chặt chẽ. Sự thay đổi các lãi suất của NHNN có tác động hiệu ứng hạn chế đến sự thay đổi lãi suất thị trường tiền tệ (xem đồ thị 5).
Qua đồ thị 5, cho thấy lãi suất chỉ đạo của NHNN thấp hơn lãi suất thị trường, đây là một điều rất phi lý. Đối với thị trường tiền tệ phát triển, lãi suất huy động ngắn hạn từ các TCKT và dân cư của các NHTM phải thấp hơn lãi suất trên thị trường liên ngân hàng, và lãi suất trên thị trường liên ngân hàng xoay quanh mức lãi suất chỉ đạo của NHTƯ.
Việc lãi suất tái cấp vốn và lãi suất chiết khấu, lãi suất nghiệp vụ thị trường mở hiện nay thấp hơn lãi suất huy động và cho vay trên thị trường tiền tệ, nên khi các ngân hàng thiếu vốn đều muốn tiếp cận nguồn vốn từ NHNN. Điều này dễ dẫn đến tình trạng lợi dụng các kênh hỗ trợ vốn từ NHNN, làm cho NHNN xác định tình trạng dư thừa hay thiếu hụt vốn khả dụng của các NHTM qua hoạt động thị trường mở là khó khăn.
Tuy nhiên, từ tháng 5/2008, NHNN đã thay đổi cơ chế điều hành lãi suất lãi suất cơ bản là cơ sở để các NHTM định lãi suất cho vay không quá 150% lãi suất cơ bản theo qui định của Bộ luật dân sự. Lãi suất tái cấp vốn, lãi suất tái chiết khấu và lãi suất thị trường mở là lãi suất định hướng liên ngân hàng. Với qui định như vậy, trong bối cảnh thị trường như hiện nay, lãi suất cơ bản đã thực sự là lãi suất tham chiếu của các NHTM trong cho vay nền kinh tế, và các mức lãi suất chỉ đạo khác đang đóng vai trò là lãi suất định hướng thị trường liên ngân hàng.
Theo người viết, những tác động xấu của các quyết định hôm 19/12/2008 có thể kể đến trước hết là áp lực lỗ đối với hệ thống ngân hàng.
Trong thời kỳ thực hiện chính sách thắt chặt tiền tệ, các ngân hàng đã phải chấp nhận huy động VND lãi suất cao để đảm bảo thanh khoản và lợi ích của người gửi tiền. Nay lãi suất trần cho vay giảm nhanh và mạnh (lần này từ 15%/năm xuống 12,75%/năm) chắc chắn sẽ gây áp lực thua lỗ lớn.
Thứ hai là nguy cơ tăng nợ xấu. Việc giảm dự trữ bắt buộc giúp các ngân hàng có nhiều tiền hơn để sử dụng. Lãi suất tái cấp vốn, lãi suất tái chiết khấu, lãi suất cho vay qua đêm trong thanh toán điện tử liên ngân hàng và cho vay bù đắp thiếu hụt vốn trong thanh toán bù trừ của Ngân hàng Nhà nước đối với các ngân hàng thương mại giảm, khiến việc xin viện trợ từ Ngân hàng Nhà nước trở nên rẻ hơn.
Lãi suất tín phiếu Ngân hàng Nhà nước bằng đồng Việt Nam dưới hình thức bắt buộc giảm từ 13%/năm xuống 4,5%/năm cũng đồng nghĩa với việc khuyến khích các ngân hàng rút tiền mua tín phiếu trước hạn. Lãi suất tiền gửi dự trữ bắt buộc bằng đồng Việt Nam đối với tổ chức tín dụng giảm từ 9%/năm xuống 8,5%/năm (như vậy lợi suất từ khoản dự trữ bắt buộc bị giảm xuống).
Tất cả những điều đó có thể dẫn đến tình trạng các ngân hàng các vay một cách tràn lan, coi nhẹ việc thẩm định, dẫn đến cho vay cả những khách hàng không có khả năng trả nợ (nhất là khi đã phải chịu áp lực lỗ kể trên).
Thứ ba, với mức lãi suất cho vay trần, các ngân hàng không thể áp dụng lãi suất cho vay linh hoạt với từng khách hàng.
Chính sách lãi suất trần buộc các ngân hàng phải cho vay các khách hàng có mức độ rủi ro khác nhau với cùng lãi suất không vượt quá 12,5%. Chính sách này vô tình khiến người vay, trong một số trường hợp, có thể khó tiếp cận vốn, trong khi ngân hàng vẫn sẵn sàng cho khách hàng vay nếu mức lãi suất cao hơn lãi suất trần (tương ứng với độ rủi ro, thời hạn vay của khách).
Đồng Việt Nam kém hấp dẫn hơn
Thứ tư, việc giảm lãi suất cơ bản khiến đồng Việt Nam trở nên kém hấp dẫn hơn. Trong khi đó, thị trường ngoại hối vẫn tồn tại những bất ổn. Bên cạnh những biểu hiện thường được nhắc đến nhiều như giá mua bán USD của các ngân hàng đều niêm yết kịch trần, giá USD trên thị trường tự do trồi sụt thất thường thì còn những biểu hiện khác rất đáng được lưu tâm.
Trước hết, đó là hiện tượng trong khi các ngân hàng chỉ cho vay được khoảng 50-60% so với lượng USD huy động được nhưng lãi suất USD vẫn cao. Có ý kiến cho rằng vì các ngân hàng sợ giảm lãi suất sẽ mất khách, không đạt chỉ tiêu huy động. Tuy nhiên, đó chỉ là bề nổi.
Phần chìm của vấn đề, có lẽ là ở chỗ lượng USD huy động không đơn thuần chỉ là cho vay, mà hiện nay còn đang gánh một "trách nhiệm" khác là bù đắp lượng ngoại tệ đã bán cho khách hàng nhưng không mua được để bù đắp (tức là các ngân hàng đang dùng USD đi vay để bán cho khách hàng còn bản thân ngân hàng thì không có tiền - trạng thái âm ngoại tệ).
Hơn nữa, trên thị trường liên ngân hàng, có những thời điểm dường như không thể thực hiện được việc mua ngoại tệ bằng đồng Việt Nam, cho dù những ngoại tệ đó không bị khống chế bởi giá trần hay sàn của Ngân hàng Nhà nước. Điều này phần nào cho thấy tính chuyển đổi của đồng Việt Nam đang giảm sút. Thông thường, khả năng chuyển đổi của VND phụ thuộc vào nguồn USD của các ngân hàng do USD mới có khả năng chuyển đổi trên thị trường quốc tế. Nhưng nay, vì khan hiếm USD nên khả năng chuyển đổi của VND cũng giảm theo.
Thứ năm, việc ra các quyết định có mục đích tăng mức cung tiền cho nền kinh tế nếu không cẩn thận có thể dẫn đến lạm phát đình đốn (stagflation) hoặc tăng trưởng kinh tế về số lượng nhưng không đảm bảo về chất lượng.
CHƯƠNG 3
KIẾN NGHỊ VÀ GIẢI PHÁP ĐIỀU HÀNH CHÍNH SÁCH
LÃI SUẤT TẠI VIỆT NAM
3.1. Kết luận về chính sách điều hành lãi suất của Việt Nam trong năm 2008
Năm 2008, trước những diễn biến của cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới và tác động của nó tới thị trường trong nước, ngành ngân hàng Việt Nam đã trải qua những biến động lớn về lãi suất, tỷ giá... Thực hiện chính sách tài chính tiền tệ linh hoạt, hiệu quả, lúc thắt chặt, lúc nới lỏng, ngành ngân hàng cả nước đã góp phần quan trọng trong việc kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội, tạo đà cho năm 2009-năm được dự báo sẽ có nhiều khó khăn thách thức đối với kinh tế Việt Nam.
Theo đánh giá, năm 2008 là năm hệ thống Ngân hàng Việt Nam phải đối mặt với những khó khăn, thách thức chưa từng có trong hơn hai mươi năm đổi mới.Trong 6 tháng đầu năm 2008, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã có những phản ứng kịp thời, sử dụng đồng bộ và quyết liệt về điều hành chính sách tiền tệ thắt chặt nhằm kiềm chế lạm phát có hiệu quả và ổn định kinh tế vĩ mô. Các công cụ chính sách tiền tệ được điều hành linh hoạt để hút tiền từ lưu thông nhưng vẫn đảm bảo tính thanh khoản cho nền kinh tế, điều hành linh hoạt tỷ giá theo tín hiệu thị trường. Ngân hàng Nhà nước đã tăng cường công tác thanh tra, giám sát hoạt động của thị trường ngoại hối và của các tổ chức tín dụng, hạn chế tăng trưởng tín dụng quá nóng có thể gây mất an toàn hệ thống của các tổ chức tín dụng. Đến cuối năm 2008, để chủ động ngăn chặn suy giảm kinh tế, chính sách tiền tệ thắt chặt được chuyển dần sang nới lỏng một cách thận trọng.
Tính chung cả năm, Ngân hàng Nhà nước đã 3 lần tăng và 5 lần giảm lãi suất cơ bản. Lãi suất tái cấp vốn, lãi suất tái chiết khấu cũng có tần suất điều chỉnh tương ứng. Cơ chế điều hành tỷ giá ghi nhận những điều chỉnh chưa từng có trong lịch sử. Biên độ có 3 lần nới rộng, từ +/-1 % lên +/-2% rồi sau đó lên +/-3%; tỷ giá bình quân liên ngân hàng có 2 lần điều chỉnh mạnh, vào tháng 6 và cuối tháng 12.
Cho đến nay, Ngân hàng Nhà nước đã có giai đoạn thay đổi về chiều hướng lãi suất rất khác nhau nhưng đều hướng tới mục tiêu chung là ổn định nền kinh tế vĩ mô và làm giảm ảnh hưởng tiêu cực của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu tới sự phát triển của kinh tế trong nước.
3.1.1 Giai đoạn tăng lãi suất với mục kiềm chế lạm phát đặt lên hàng đầu.
Thi trường tài chính Việt Nam trong giai đoạn đầu năm 2008 đòi hỏi các nhà điều hành chính sách tiền tệ cần thi hành nhiều giải pháp nhằm đạt được cùng một lúc nhiều mục tiêu kiềm chế lạm phát dưới mức tăng trưởng kinh tế, hỗ trợ TTCK phục hồi, kìm hãm sự tăng trưởng nóng của thị trường bất động sản và đảm bảo an toàn cho hệ thống ngân hàng.
Những diễn biến ban đầu cho thấy để đạt được mục tiêu trên là rất khó. Cụ thể, chỉ số giá tiêu dùng năm 2007 tăng 12,6%, tháng 1/2008 tăng 2,38% và dự báo tăng cao hơn trong tháng 2/2008. Thị trường bất động sản chỉ trong vài tháng đã tăng chóng mặt, thậm chí giá tăng tới 2-3 lần chỉ tính từ giữa năm 2007 đến giáp Tết. TTCK từ đầu tháng 4 năm 2007 đến đầu năm 2008 diễn biến trồi sụt thất thường, nhưng với xu hướng sụt giảm mạnh, tới hơn 30%. Nền kinh tế Việt Năm tăng trưởng 8,44% trong năm 2007 và Chính phủ đặt mục tiêu tăng 9,0% trong năm 2008. Tất cả các mục tiêu và giải pháp nói trên đang được đặt lên “vai” chính sách tiền tệ.
Đứng trên góc độ quản lý kinh tế vĩ mô, với nhận thức tầm quan trọng của việc kiềm chế lạm phát trong ngắn hạn để duy trì được tốc độ phát triển lành mạnh và bền vững trong dài hạn, Chính phủ đã đặt ra mục tiêu hàng đầu là kiềm chế lạm phát. Chỉ trong 3 tuần đầu tháng 2/2008, các Ngân hàng thương mại (NHTM) phải thực hiện đồng thời 4 quyết định thắt chặt điều hành chính sách tiền tệ của NHNN.
Quyết định tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc từ 10% lên 11% , mở rộng thêm phạm vi tiền gửi dự trữ bắt buộc và NH Nông nghiệp & Phát triển Nông thôn cũng phải thực hiện tỷ lệ dự trữ bắt buộc mới. Theo ó từ đầu tháng 2/2008 tổng cộng có gần 20.000 tỷ đồng các NHTM phải nộp dự trữ bắt buộc tăng thêm cho NHNN.
Ngày 15/2/2008 NHNN công bố quyết định phát hành 20.300 tỷ đồng tín phiếu NHNN bắt buộc. Ba NHTM Nhà nước có quy mô lớn nhất mỗi ngân hàng phải mua tới 3.000 tỷ đồng. Hai NHTM cổ phần thuộc tốp đứng đầu phải mua 1.200 tỷ đồng và 1.500 tỷ đồng. Các NHTM cổ phần thuộc nhóm giữa phải mua 400 - 500 tỷ đồng/ngân hàng. Khối Ngân hàng nước ngoài có 9 chi nhánh phải mua từ 100 tỷ đồng đến 400 tỷ đồng. Hai ngân hàng liên doanh phải mua 150 tỷ đồng/ngân hàng. Không chỉ những vậy, các NH phải mua 20.300 tỷ đồng trái phiếu cùng một lúc, gấp từ 20 đến 40 lần so với mức 500 tỷ - 1.000 tỷ đồng tín phiếu trong các phiên đấu thầu thường kỳ. Điều đặc biệt nữa, nếu như các loại tín phiếu trước đây được giao dịch trên thị trường mở với NHNN để được vay tái cấp vốn thì quyết định lần này NHNN nói rõ là không được vay tái cấp vốn. Do đó các NHTM khi thiếu hụt tạm thời thanh khoản không thể sử dụng tín phiếu mình đang sở hữu để vay tái cấp vốn ngắn hạn 1-2 tuần tại NHNN. Kỳ hạn của tín phiếu lại khá dài tới 364 ngày, hay gần 1 năm.
Từ tháng 2/2008, các loại lãi suất chủ đạo của NHNN tăng cao hơn trước. Theo đó, lãi suất cơ bản tăng từ 8,25%/năm lên 8,75%/năm; lãi suất tái cấp vốn tăng từ 6,5%/năm lên 7,5%/năm và lãi suất chiết khấu tăng từ 4,5%/năm lên 6,0%/năm.
NHNN ban hành Quyết định số 03/2008/QĐ-NHNN, ngày 1/2/2008 về sửa đổi Chỉ thị 03 về cho vay chứng khoán. Trái với mong đợi của các NHTM, Quyết định 03 còn thắt chặt cho vay chứng khoán hơn so với Chỉ thị 03 trước đây.
Với 4 quyết định được coi là cứng rắn và kiên quyết nói trên trong điều hành chính sách tiền tệ của NHNN đã gây ra các tác động sốc và phản ứng tức thì của thị trường tiền tệ và hoạt động của NHTM. Lãi suất nghiệp vụ thị trường mở và lãi suất liên ngân hàng tăng cao chóng mặt. Đặc biệt lãi suất liên ngân hàng ngày 15/2/2008 lên tới 30,1%/năm; ngày 18/2/2008 lập một kỷ lục mới khi lên tới 33%/năm, ngày 19/2/2008 kỷ lục cao hơn nữa lên tới 43%/năm. Lãi suất thị trường mở qua đấu thầu giấy tờ có giá ngắn hạn tại NHNN lên tới 10% thậm chí 15%/năm cho kỳ hạn vay chỉ có 2 tuần, gấp 2-3 lần mức lãi suất bình thường.
Giữa tháng 5 năm 2008, đứng trước việc lạm phát trong nước tăng cao và giá USD tăng cao so với VND, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNNVN) công bố cơ chế điều hành lãi suất mới với việc bỏ trần lãi suất huy động, bỏ cơ chế lãi suất thỏa thuận được áp dụng trước đây. Theo đó, các tổ chức tín dụng ấn định lãi suất kinh doanh bằng đồng Việt Nam đối với khách hàng không vượt quá 150% của lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố định kỳ hàng tháng. Trong trường hợp cần thiết, Ngân hàng Nhà nước sẽ điều chỉnh lãi suất cơ bản.
Nếu chỉ nhìn sơ qua bên ngoài, có thể nhận định, NHNNVN đã thụt lùi trong cơ chế điều hành lãi suất bởi cơ chế lãi suất thỏa thuận theo thị trường giữa các tổ chức tín dụng và khách hàng là một bước tiến lớn trong hoạt động ngân hàng, trần lãi suất là sự phát triển trước đó. Thế nhưng thực tế lại không phải như vậy.
Nếu như trước đây, mức trần lãi suất huy động 12%/năm đã đẩy rất nhiều người gửi tiền, đặc biệt là những người có số tiền gửi không lớn rời xa ngân hàng thì giờ đây, việc bỏ trần lãi suất huy động 12%/năm sẽ đưa họ quay trở lại bởi mức lãi suất huy động sẽ trở nên hợp lý hơn. Khi một lượng lớn người gửi tiền đã quay trở lại ngân hàng, tính thanh khoản của các ngân hàng sẽ dần trở về bình thường.
Việc bỏ trần lãi suất huy động này, theo thị trường và các nhà quản lý kinh tế vĩ mô sẽ không tạo ra một cuộc đua lãi suất không có điểm dừng bởi lãi suất cho vay tối đa 18%/năm chính là chốt chặn. Khi lãi suất cho vay tối đa đã là 18%/năm, mức lãi suất huy động cũng căn cứ vào đó mà hình thành. Và thông qua mức lãi suất 18%/năm này, NHNNVN phát đi một tín hiệu cực kỳ quan trọng cho người gửi tiền: ngân hàng nào huy động sát hoặc bằng với mức 18%/năm (mức lãi suất cho vay tối đa) sẽ là một ngân hàng có tình hình tài chính không lành mạnh. Thông qua tín hiệu này, NHNNVN sẽ ngăn ngừa được một cuộc đua lãi suất gây mất kiểm soát thị trường, xuất phát từ một vài ngân hàng quá khó khăn về thanh khoản vì người gửi tiền lo lắng cho tính an toàn của đồng vốn sẽ không chuyển tiền sang gửi ở ngân hàng có mức lãi suất huy động quá cao, sát gần so với mức lãi suất cho vay tối đa.
Tuy nhiên, thực tế đã diễn ra theo đúng quy luật thị trường. Hiện nay, mặt bằng lãi suất thị trường tăng so với tháng 05/2008; đồng thời, dự báo xu hướng biến động trong thời gian tới của lạm phát, cung- cầu vốn thị trường, tỷ giá..., để tiếp tục thực thi chính sách tiền tệ “thắt chặt” nhằm kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước đã ban hành các Quyết định có hiệu lực thi hành kể từ ngày 11/6/2008 (Quyết định số 1316/QĐ-NHNN ngày 10/06/2008 và Quyết định số 1317/QĐ-NHNN ngày 10/6/2008) điều chỉnh lãi suất cơ bản từ 12%/năm tăng lên 14%/năm, lãi suất tái cấp vốn từ 13%/năm tăng lên 15%/năm, lãi suất tái chiết khấu từ 11%/năm tăng lên 13%/năm và có hiệu lực thực hiện kể từ ngày 11/6/2008. Theo đó, các tổ chức tín dụng ấn định lãi suất huy động và cho vay bằng Đồng Việt Nam ở mức hợp lý, để tăng khả năng huy động và cho vay vốn. Về lý thuyết, ngân hàng có thể huy động vốn với mức lãi suất 20% một năm, gần bằng trần cho vay (21% một năm) nếu nhà băng đó cần tiền để đầu tư vào nguồn khác có khả năng sinh lợi cao hơn cho vay. Để đảm bảo thi hành nghiêm túc cơ chế điều hành lãi suất cơ bản, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước yêu cầu các tổ chức tín dụng thực hiện việc không được thu phí liên quan đến hoạt động cho vay; giao các Ngân hàng Nhà nước chi nhánh tỉnh, thành phố kiểm tra, giám sát các tổ chức tín dụng trên địa bàn thực hiện nghiêm túc quy định này.
3.1.1 Giai đoạn giảm lãi suất với mục chống suy thoái kinh tế đi kèm với việc tiếp tục kiềm chế lạm phát đặt lên hàng đầu.
Theo các quyết định mới của Ngân hàng Nhà nước, kể từ ngày 5/11, lãi suất cơ bản bằng đồng Việt Nam giảm từ 13%/năm xuống 12%/năm; theo đó, lãi suất cho vay tối đa bằng đồng Việt Nam của các tổ chức tín dụng đối với khách hàng giảm từ 19,5%/năm xuống 18%/năm. Ngân hàng Nhà nước cũng quyết định điều chỉnh giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc bằng đồng Việt Nam thêm 1% và bằng ngoại tệ giảm thêm 2% đối với các loại tiền gửi so với quy định cũ.
Chiều 19/12, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước ra Quyết định số 3161/QĐ-NHNN, giảm lãi suất cơ bản bằng đồng Việt Nam giảm từ 10%/năm xuống 8,5%/năm. Ngay sau đó, Quyết định số 172/QĐ-NHNN ngày 23/01/2009 về mức lãi suất cơ bản bằng đồng Việt Nam. Theo đó, lãi suất cơ bản bằng đồng Việt Nam giảm từ 8,5%/năm xuống 7%/năm; lãi suất cho vay tối đa của các tổ chức tín dụng bằng đồng Việt Nam đối với khách hàng giảm từ 12,75%/năm xuống 10,5%/năm, Quyết định số 173/QĐ-NHNN ngày 23/01/2009 về lãi suất tái cấp vốn, lãi suất tái chiết khấu, lãi suất cho vay qua đêm trong thanh toán điện tử liên ngân hàng và cho vay bù đắp thiếu hụt vốn trong thanh toán bù trừ của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đối với các ngân hàng. Theo đó, lãi suất tái cấp vốn giảm từ 9,5%/năm xuống 8%/năm; lãi suất tái chiết khấu giảm từ 7,5%/năm xuống 6%/năm; lãi suất cho vay qua đêm trong thanh toán điện tử liên ngân hàng và cho vay bù đắp thiếu hụt trong thanh toán bù trừ của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đối với các ngân hàng giảm từ 9,5%/năm xuống 8%/năm
Theo đó, lãi suất cho vay tối đa của các tổ chức tín dụng bằng đồng Việt Nam đối với khách hàng giảm từ 15%/năm xuống 12,75%/năm.
Cùng thời điểm, Thống đốc có Quyết định số 3159/QĐ-NHNN điều chỉnh lãi suất tái cấp vốn, lãi suất tái chiết khấu, lãi suất cho vay qua đêm trong thanh toán điện tử liên ngân hàng và cho vay bù đắp thiếu hụt vốn trong thanh toán bù trừ của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đối với các ngân hàng. Theo quyết định trên, lãi suất tái cấp vốn giảm từ 11%/năm xuống 9,5%/năm; lãi suất tái chiết khấu giảm từ 9,0%/năm xuống 7,5%/năm; lãi suất cho vay qua đêm trong thanh toán điện tử liên ngân hàng và cho vay bù đắp thiếu hụt trong thanh toán bù trừ của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đối với các ngân hàng giảm từ 11%/năm xuống 9,5%/năm.
Với Quyết định số 3162/QĐ-NHNN ngày 19/12, lãi suất tiền gửi dự trữ bắt buộc bằng đồng Việt Nam đối với tổ chức tín dụng tiếp tục giảm từ 9%/năm xuống 8,5%/năm.
Ngoài những mức lãi suất trên, trong loạt điều chỉnh lần này có Quyết định số 3160/QĐ-NHNN, giảm mạnh lãi suất tín phiếu Ngân hàng Nhà nước bằng đồng Việt Nam dưới hình thức bắt buộc từ 13%/năm xuống 4,5%/năm.
Với Quyết định số 3158/QĐ-NHNN cùng ngày, tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn dưới 12 tháng của các ngân hàng thương mại nhà nước (không bao gồm Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn - Agribank), Ngân hàng Thương mại Cổ phần Ngoại thương Việt Nam (Vietcombank), ngân hàng thương mại cổ phần đô thị, ngân hàng liên doanh, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, công ty tài chính là 5% trên tổng số dư tiền gửi phải dự trữ bắt buộc; với Agribank là 2% trên tổng số dư tiền gửi phải dự trữ bắt buộc; ngân hàng thương mại cổ phần nông thôn, quỹ tín dụng nhân dân trung ương, ngân hàng hợp tác là 1%.
Trong điều hành chính sách kinh tế vĩ mô với mục tiêu nền kinh tế tăng trưởng cao, ổn định với tỷ lệ lạm phát ở mức vừa phải thì phải áp dụng lãi suất thực dương nhưng không quá cao. Tuy nhiên, để điều hành mức này không bị sai lệch và lạc hậu khi tỷ lệ lạm phát thay đổi thì lãi suất danh nghĩa phải được điều chỉnh linh hoạt, thường xuyên, có khi một tháng một lần theo chỉ số giá hàng tiêu dùng hàng tháng. Nguyên tắc, lãi suất thực dương bằng 20% tỷ lệ lạm phát một cách ổn định, còn lãi suất danh nghĩa thì lên, xuống theo mức thay đổi của tỷ lệ lạm phát hàng tháng.
Các biện pháp khác:
Cần có chính sách kiểm soát chặt chẽ các NHTM cổ phần để khống chế việc các ngân hàng này cố tình đẩy lãi suất cho vay lên cao. NHNN phải kiểm soát các dự án, công trình vay vốn với lãi suất cao về tính hiệu quả, tính khả thi, khả năng trả nợ, tránh xẩy ra sự đổ bể sau này. Kiểm tra và khống chế hạn mức tín dụng của các NHTM cổ phần, dư nợ tín dụng trên vốn để bảo đảm các ngân hàng này hoạt động, làm ăn lành mạnh.
Kiểm tra, kiểm soát và hạn chế việc cho vay kinh doanh và đầu cơ có bất động sản và kinh doanh chứng khoán. Bảo đảm dư nợ tín dụng ở các loại hình này thấp, trong tầm kiểm soát được khi nền kinh tế có biến động.
Hạn chế và không cho vay tái cấp vốn đối với những NHTM đã có mức dư nợ tín dụng cao gần mức khống chế của nhà nước 30%. Đồng thời không cho vay tái cấp vốn đối với các NHTM cổ phần có tỷ lệ cho vay kinh doanh bất động và chứng khoán cao.
KẾT LUẬN
Ngành Ngân hàng nói chung và Ngân hàng Nhà nước trong năm 2008 đã thực hiện tốt 8 nhóm giải pháp của Chính phủ về ưu tiên kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, duy trì tăng trưởng và bảo đảm an sinh xã hội. Trong bối cảnh gặp nhiều khó khăn và biến động nhưng ngành vẫn bảo đảm an toàn hệ thống, .
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, quá trình thực thi các giải pháp điều hành tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước có thời điểm còn thiếu đồng bộ; thị trường tiền tệ, ngoại hối trong những tháng đầu năm còn có những biến động gây khó khăn nhất định cho hoạt động của các tổ chức tín dụng và doanh nghiệp; chất lượng dịch vụ ngân hàng còn có những bất cập, chưa đáp ứng được nhu cầu của xã hội.
Sử dụng đồng bộ các công cụ để ngăn chặn suy giảm kinh tế
Để chủ động ngăn chặn suy giảm kinh tế, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô và bảo đảm an sinh xã hội, ngành Ngân hàng đã xác định 9 nhóm giải pháp chủ yếu trong năm 2009, trong đó sẽ tập trung xây dựng và hoàn thiện thể chế pháp luật về ngân hàng phù hợp với định hướng, chiến lược phát triển ngành Ngân hàng và lộ trình thực hiện các cam kết quốc tế trong lĩnh vực tiền tệ ngân hàng. Chính sách tiền tệ trong năm 2009 sẽ bám sát mục tiêu ngăn chặn suy giảm kinh tế, kiểm soát lạm phát ở mức hợp lý, ổn định thị trường tiền tệ và bảo đảm an toàn hệ thống ngân hàng trướcnhững biến động của tình hình tài chính quốc tế. Để đạt đượcmục tiêu đó, Ngân hàng Nhà nước tiếp tục điều hành linh hoạt, đồng bộ các công cụ chính sách tiền tệ, kết hợp hài hòa, linh hoạt giữa điều hành tỷ giá và lãi suất; tăng cường phối hợp với các bộ, ngành để bảo đảm nhất quán giữa các chính sách kinh tế vĩ mô, nhất là giữa chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa; nâng cao hiệu quả công tác thống kê, dự báo, phản ứng kịp thời trước những diễn biến kinh tế, tiền tệ trong nước và quốc tế; bảo đảm tính thanh khoản của các tổ chức tín dụng.
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã nhất trí với các mục tiêu, giải pháp của ngành Ngân hàng trong năm 2009 và đề nghị ngành xác định rõ trọng tâm để tập trung sức mạnh tổng hợp cùng với cả nước ngăn chặn suy giảm kinh tế, duy trì tăng trưởng hợp lý và bảo đảm an sinh xã hội. Thủ tướng yêu cầu toàn ngành thực hiện có hiệu quả các chính sách tiền tệ, nhất là các nguồn vốn đầu tư cho phát triển sản xuất và xuất khẩu, kích cầu đầu tư, kích cầu tiêu dùng, các chính sách tài chính cho phục vụ nông nghiệp, nông thôn Ngân hàng Nhà nước cần tiếp tục điều hành tỷ giá và lãi suất phù hợp với điều kiện thực tiễn của đất nước và bảo đảm tính thanh khoản của ngân hàng. Trong điều kiện hiện nay, cần phải tính toán lãi suất cho phù hợp để doanh nghiệp phát triển và ngành huy động được vốn.
Thủ tướng nhấn mạnh, ngân hàng là tổ chức kinh doanh đặc biệt, Nhà nước phải kiểm soát chặt chẽ để vừa bảo đảm hoạt động năng động trong cơ chế thị trường vừa bảo đảm an toàn của hệ thống phục vụ tích cực phát triển kinh tế-xã hội.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Trang web sbv.gov.vn của ngân hàng nhà nước Việt Nam
Luật các tổ chức tín dụng
www.laodong.com.vn
www.moj.gov.vn
www,vnecônmy.com.vn
www.vnba.org.vn
www.hochiminhcity.gov.vn
www.vnmedia.vn
www.vinafinance.net
www.saigonnews.vn
MỤC LỤC
Trang
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 6112.doc