Trong nền kinh tế hiện đại, cùng với tiến trình hội nhập diễn ra mạnh mẽ, quá trình tự do hóa tài chính liên tục, các luồng tài chính dòng vốn được giao lưu tự do và xuyên suốt từ quốc gia này sang quốc gia khác. Trong bối cảnh đó nền kinh tế mỗi quốc gia càng gắn liền với tình hình biến động kinh tế chính trị diễn ra trong toàn cầu, Việt Nam chúng ta đã gia nhập WTO, cũng chịu sự tác động to lớn trong xu thế đó. Một nền kinh tế phát triển ổn định bền vững, tự chủ về tài chính sẽ giúp nền kinh tế đất nước có sức đề kháng trước những cú sốc kinh tế bên ngoài nhất là các cuộc khủng hoảng kinh tế. “Chẩn đoán” ra các căn bệnh của nền kinh tế và tìm cách “chữa trị” nó là cách hữu hiệu để đứng vững trên con đường hội nhập, trong đó vấn đề đặt ra đối với hệ thống tài chính cũng như nền kinh tế hiện nay là tình hình “đôla hóa” mà theo các chuyên gia “đôla hóa Việt Nam đang ở mức báo động” có thể ảnh hưởng rất sâu sắc đối với nền kinh tế Việt Nam.
Hiện tượng đôla hóa bắt nguồn từ cơ chế tiền tệ thế giới hiện đại, trong đó tiền tệ của một số quốc gia phát triển, đặc biệt là đôla Mỹ, được sử dụng trong giao lưu quốc tế làm vai trò của "tiền tệ thế giới". Cho nên người ta thường gọi hiện tượng ngoại tệ hóa là "đôla hóa". Trong phạm vi đề tài này, chúng ta giả định chỉ nghiên cứu nền kinh tế bị đôla hóa bằng đồng USD mà cụ thể là nên kinh tế Việt Nam trong giai đoạn từ sau cải cách kinh tế đến nay
=========================
CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ
HIỆN TƯỢNG ĐÔ LA HÓA
1.1 Khái niệm
1.2 Phân loại
1.2.1 Căn cứ vào hình thức
1.2.2 Căn cứ vào phạm vi:
1.1 Nguyên nhân
1.2 Tác động của Đô la hóa
1.3 Nguyên nhân
1.4 Tác động của Đô la hóa
1.4.1. Những tác động tích cực:
1.4.2. Những tác động tiêu cực:
CHƯƠNG 2:THỰC TRẠNG ĐÔ LA HÓA TẠI VIỆT NAM
2.1 Tổng quan:
2.2 Nguyên nhân:
CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP KHẮC PHỤC TÁC ĐỘNG TIÊU CỰC CỦA ĐÔ LA HÓA
1. Nâng cao vị thế của VND:
2. Tạo môi trường đầu tư trong nước có khả năng hấp thụ được số vốn ngoại tệ hiện có trong dân:
3. Các giải pháp khác:
Kết luận
21 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1844 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng đô la hóa tại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Trong nền kinh tế hiện đại, cùng với tiến trình hội nhập diễn ra mạnh mẽ, quá trình tự do hóa tài chính liên tục, các luồng tài chính dòng vốn được giao lưu tự do và xuyên suốt từ quốc gia này sang quốc gia khác. Trong bối cảnh đó nền kinh tế mỗi quốc gia càng gắn liền với tình hình biến động kinh tế chính trị diễn ra trong toàn cầu, Việt Nam chúng ta đã gia nhập WTO, cũng chịu sự tác động to lớn trong xu thế đó. Một nền kinh tế phát triển ổn định bền vững, tự chủ về tài chính sẽ giúp nền kinh tế đất nước có sức đề kháng trước những cú sốc kinh tế bên ngoài nhất là các cuộc khủng hoảng kinh tế. “Chẩn đoán” ra các căn bệnh của nền kinh tế và tìm cách “chữa trị” nó là cách hữu hiệu để đứng vững trên con đường hội nhập, trong đó vấn đề đặt ra đối với hệ thống tài chính cũng như nền kinh tế hiện nay là tình hình “đôla hóa” mà theo các chuyên gia “đôla hóa Việt Nam đang ở mức báo động” có thể ảnh hưởng rất sâu sắc đối với nền kinh tế Việt Nam.
Hiện tượng đôla hóa bắt nguồn từ cơ chế tiền tệ thế giới hiện đại, trong đó tiền tệ của một số quốc gia phát triển, đặc biệt là đôla Mỹ, được sử dụng trong giao lưu quốc tế làm vai trò của "tiền tệ thế giới". Cho nên người ta thường gọi hiện tượng ngoại tệ hóa là "đôla hóa". Trong phạm vi đề tài này, chúng ta giả định chỉ nghiên cứu nền kinh tế bị đôla hóa bằng đồng USD mà cụ thể là nên kinh tế Việt Nam trong giai đoạn từ sau cải cách kinh tế đến nay.
CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ
HIỆN TƯỢNG ĐÔ LA HÓA
Khái niệm
Đôla hóa (tiếng Anh: dollarization) là một hiện tượng phổ biến ở khá nhiều nước trên thế giới, đặc biệt là ở Mỹ Latinh. Quan điểm chung cho rằng, Đô la hóa là việc sử dụng một ngoại tệ (thường là các ngoại tệ mạnh và có khả năng tự do chuyển đổi) thay thế đồng nội tệ để thực hiện một số chức năng của tiền tệ (lưu thông, thanh toán hay cất trữ).
Bất kỳ một ngoại tệ nào (như đôla Mỹ, Euro, Yên Nhật) có khả năng thay thế đồng nội tệ cũng dẫn đến hiện tượng “Đô la hóa”. Tuy nhiên trong tình hình hiện nay, nói đến Đô la hóa, người ta chỉ nghĩ đến một đồng tiền duy nhất đó là Đô la Mỹ (USD). Mặc dù hiệp ước Bretton Wood đã phá sản nhưng từ lâu USD đã trở thành phương tiện thanh toán quốc tế mà không có đồng tiền nào có thể thay thế được. Mặt khác, Mỹ luôn lợi dụng sự lớn mạnh của nền kinh tế đã gây sức ép với nhiều quốc gia trên thế giới, trong đó hệ thống tiền tệ vốn chưa “hoàn thiện”, và còn rất “nhạy cảm” ở các nước đang phát triển.
Theo tiêu chí của IMF đưa ra, một nền kinh tế được coi là có tình trạng đô la hóa cao khi mà tỷ trọng tiền gửi bằng ngoại tệ chiếm từ 30% trở lên trong tổng khối tiền tệ mở rộng (M2); bao gồm: tiền mặt trong lưu thông, tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn, và tiền gửi ngoại tệ.
Phân loại
1.2.1 Căn cứ vào hình thức: Đô la hóa được thể hiện dưới 3 hình thức sau:
Đô la hóa thay thế tài sản: Thể hiện qua tỷ lệ tiền gửi ngoại tệ trên tổng phương tiện thanh toán (FCD/M2). Theo IMF, khi tỷ lệ này trên 30% thì nền kinh tế đó được cho là có tình trạng đô la hóa cao, tạo ra các lệch lạc trong điều hành tài chính tiền tệ vĩ mô. Nhìn chung đối với các nền kinh tế chuyển đổi, tỷ lệ đô la hóa hiện nay bình quân là 29%.
Đô la hóa phương tiện thanh toán: Là mức độ sử dụng ngoại tệ trong thanh toán. Các giao dịch thanh toán bất hợp pháp bằng ngoại tệ rất khó đánh giá nhất là đối với những nền kinh tế tiền mặt như Việt Nam.
Đô la hóa định giá, niêm yết giá: Là việc niêm yết, quảng cáo, định giá bằng ngoại tệ.
1.2.2 Căn cứ vào phạm vi:
Tùy theo mức độ sử dụng rộng rãi đồng USD trong nền kinh tế và thái độ của quốc gia đó đối với việc thừa nhận hay không thừa nhận đồng Đô la mà Đô la hóa được chia làm 3 mức độ:
Đô la hóa không chính thức (unofficial dollarization) là trường hợp đồng đô la được sử dụng rộng rãi trong nền kinh tế, mặc dù không được quốc gia đó chính thức thừa nhận. Đô la hóa không chính thức có thể bao gồm các loại sau:
• Các trái phiếu ngoại tệ và các tài sản phi tiền tệ ở nước ngoài.
• Tiền gửi bằng ngoại tệ ở nước ngoài.
• Tiền gửi ngoại tệ ở các ngân hàng trong nước.
• Trái phiếu hay các giấy tờ có giá bằng ngoại tệ cất trong túi.
Đô la hóa bán chính thức (đôla hóa từng phần) (semiofficial dollarization) là những nước có hệ thống lưu hành chính thức hai đồng tiền: đồng ngoại tệ và đồng tiền bản tệ. Chính phủ các nước này không chính thức công nhận đôla hóa bằng việc dùng đôla Mỹ (hoặc một ngoại tệ mạnh khác) thay cho bản tệ, nhưng cho phép khu vực kinh tế bị đôla hóa tồn tại song song với khu vực kinh tế sử dụng bản tệ. Biểu hiện của nó là việc dân chúng có thể gửi tiền ở ngân hàng bằng ngoại tệ hoặc cất trữ Đô la tiền mặt nhưng vẫn tiếp tục ưa thích nắm giữ và thanh toán bằng đôla trong lĩnh vực mua bán hàng ngày. Đó như là một hành động thay thế tài sản vì dân chúng luôn muốn đảm bảo an toàn cho tài sản của mình nhất là trong tình trạng hệ thống tiền tệ chưa ổn định, lạm phát dễ xảy ra với đồng nội tệ. Lúc này dân chúng có thể cất trữ tài sản của mình dưới nhiều hình thức: chứng khóan nước ngoài hoặc bất cứ tài sản nào của nước ngoài, tiền gửi ngoại tệ ở nước ngoài, tiền gửi ngoại tệ tại các ngân hàng trong nước hay ngoại tệ mặt (foreign bank note). Hành động gửi tiền bằng ngoại tệ vào ngân hàng là một dạng đôla hóa nền kinh tế (đôla hóa tiền gửi ở các ngân hàng trong nước).
Đồng ngoại tệ là đồng tiền lưu hành hợp pháp, và thậm chí có thể chiếm ưu thế trong các khoản tiền gửi ngân hàng, nhưng đóng vai trò thứ cấp trong việc trả lương, thuế và những chi tiêu hàng ngày. Các nước này vẫn duy trì một ngân hàng trung ương để thực hiện chính sách tiền tệ của họ.
Việt Nam được xếp vào nhóm những nước Đô la hóa không chính thức.
Đô la hóa chính thức (hay còn gọi là đô la hóa hoàn toàn) (official dollarization) xẩy ra khi đồng ngoại tệ là đồng tiền hợp pháp duy nhất được lưu hành. Nếu một quốc gia thực hiện đôla hóa chính thức có nghĩa là quốc gia đó đơn phương lấy đôla Mỹ (hoặc một ngoại tệ mạnh nào đó) làm phương tiện thanh toán, tích trữ tài sản, và đơn vị tính toán thay cho bản tệ (đồng tiền riêng của nước đó). Nghĩa là đồng ngoại tệ không chỉ được sử dụng hợp pháp trong các hợp đồng giữa các bên tư nhân, mà còn hợp pháp trong các khoản thanh toán của Chính phủ. Theo đó, toàn bộ tài sản Có, tài sản Nợ, các hợp đồng giao dịch, giá cả hàng hóa và dịch vụ, tiền lương sẽ, hoàn toàn (hoặc một phần), được niêm yết bằng (hoặc gán theo) đôla một cách công khai hoặc ngầm định. Thông thường các nước chỉ áp dụng đô la hóa chính thức sau khi đã thất bại trong việc thực thi các chương trình ổn định kinh tế và thường chỉ chọn 1 ngoại tệ làm đồng tiền hợp pháp.
Nguyên nhân
Trước hết, đôla hóa là hiện tượng phổ biến xảy ra ở nhiều nước, đặc biệt là ở các nước chậm phát triển. Một nguyên nhân chính được nhiều người công nhận là do nhu cầu phòng chống rủi ro các loại, trong đó có rủi ro do lạm phát và bản tệ bị mất giá so với ngoại tệ, rủi ro sụp đổ một thể chế tiền tệ, rủi ro gắn với sự yếu kém của các cơ quan chức năng của chính phủ mà vì đó, chính phủ không thể đưa ra những cam kết về ổn định và an toàn của hệ thống và thể chế kinh tế. Đô la hóa thường gặp khi một nền kinh tế có tỷ lệ lạm phát cao, đồng nội tệ bị mất giá thì người dân phải tìm các công cụ dự trữ giá trị khác, trong đó có các đồng ngoại tệ có uy tín. Với chức năng ban đầu làm phương tiện cất giữ giá trị, dần dần đồng ngoại tệ sẽ cạnh tranh với đồng nội tệ trong chức năng làm phương tiện thanh toán hay làm thước đo giá trị.
Thứ hai, đô la hóa bắt nguồn từ cơ chế tiền tệ thế giới hiện đại, trong đó tiền tệ của một số quốc gia phát triển, đặc biệt là đô la Mỹ, được sử dụng trong giao lưu quốc tế làm vai trò của "tiền tệ thế giới". Nói cách khác, đô la Mỹ là một loại tiền mạnh, được tự do chuyển đổi đã được lưu hành khắp thế giới và từ đầu thế kỷ XX đã dần thay thế vàng, thực hiện vai trò tiền tệ thế giới.
Ngoài đồng đô la Mỹ, còn có một số đồng tiền của các quốc gia khác cũng được quốc tế hóa như: bảng Anh, mác Đức, yên Nhật, Franc Thụy Sỹ, euro của EU... nhưng vị thế của các đồng tiền này trong giao lưu quốc tế không lớn; chỉ có đô la Mỹ là chiếm tỷ trọng cao nhất (khoảng 70% kim ngạch giao dịch thương mại thế giới). Cho nên người ta thường gọi hiện tượng ngoại tệ hóa là "đô la hóa".
Trong điều kiện của thế giới ngày nay, hầu hết các nước đều thực thi cơ chế kinh tế thị trường mở cửa; quá trình quốc tế hóa giao lưu thương mại, đầu tư và hợp tác kinh tế ngày càng tác động trực tiếp vào nền kinh tế và tiền tệ của mỗi nước, nên trong từng nước xuất hiện nhu cầu khách quan sử dụng đơn vị tiền tệ thế giới để thực hiện một số chức năng của tiền tệ. Đô la hóa ở đây có khi là nhu cầu, trở thành thói quen thông lệ ở các nước.
Thứ ba, một quốc gia có trình độ phát triển nền kinh tế, trình độ dân trí và tâm lý người dân, trình độ phát triển của hệ thống ngân hàng, chính sách tiền tệ và cơ chế quản lý ngoại hối, khả năng chuyển đổi của đồng tiền quốc gia thấp thì quốc gia đó sẽ có mức độ đô la hóa càng cao.
Tác động của Đô la hóa
Tình trạng "đô la hóa" nền kinh tế có tác động tích cực và tác động tiêu cực.
1.4.1. Những tác động tích cực:
Tạo một cái van giảm áp lực đối với nền kinh tế trong những thời kỳ lạm phát cao, bị mất cân đối và các điều kiện kinh tế vĩ mô không ổn định. Do có một lượng lớn ngoại tệ trong hệ thống ngân hàng, sẽ là một công cụ tự bảo vệ chống lại lạm phát và là phương tiện để mua hàng hóa ở thị trường phi chính thức.
Ở các nước đô la hóa chính thức, bằng việc sử dụng đồng ngoại tệ, họ sẽ duy trì được tỷ lệ lạm phát gần với mức lạm phát thấp làm tăng sự an toàn đối với tài sản tư nhân, khuyến khích tiết kiệm và cho vay dài hạn. Hơn nữa, ở những nước này ngân hàng trung ương sẽ không còn khả năng phát hành nhiều tiền và gây ra lạm phát, đồng thời ngân sách nhà nước sẽ không thể trông chờ vào nguồn phát hành này để trang trải thâm hụt ngân sách, kỷ luật về tiền tệ và ngân sách được thắt chặt. Do vậy, các chương trình ngân sách sẽ mang tính tích cực hơn.
Đôla hóa cũng được cho là có tác dụng thúc đẩy phát triển ngành Ngân hàng và nâng cao vai trò của nó trong nền kinh tế, phản ánh dưới góc độ tỷ trọng tiền gửi trong hệ thống ngân hàng trong GDP (thuật ngữ chuyên môn gọi là “độ sâu tài chính”) tăng lên khi có đôla hóa. Điều này có được là do người gửi tiền thay vì chuyển tài sản của mình bằng ngoại tệ ra nước ngoài trong bối cảnh rủi ro lạm phát cao nay được phép, và có thể yên tâm, gửi tài sản (bằng ngoại tệ) của mình vào hệ thống ngân hàng trong nước và hưởng lãi tính theo ngoại tệ mà không phải bận tâm đến lạm phát của bản tệ. Nói cách khác, đôla hóa giúp cung cấp “dinh dưỡng” nuôi sống hệ thống ngân hàng trong nước.
Tăng cường khả năng cho vay ngọai tệ của ngân hàng. Với một lượng lớn ngoại tệ thu được từ tiền gửi tại ngân hàng, các ngân hàng sẽ có điều kiện cho vay nền kinh tế bằng ngoại tệ, qua đó hạn chế việc phải vay nợ nước ngoài. Đồng thời, các ngân hàng sẽ có điều kiện mở rộng các hoạt động đối ngoại, thúc đẩy quá trình hội nhập của thị trường trong nước với thị trường quốc tế.
Hạ thấp chi phí giao dịch. Ở những nước đô la hóa chính thức, các chi phí như chênh lệch giữa tỷ giá mua và bán khi chuyển từ đồng tiền này sang đồng tiền khác được xoá bỏ. Các chi phí dự phòng cho rủi ro tỷ giá cũng không cần thiết, các ngân hàng có thể hạ thấp lượng dự trữ, vì thế giảm được chi phí kinh doanh.
Thúc đẩy thương mại và đầu tư. Các nước thực hiện đô la hóa chính thức có thể loại bỏ rủi ro cán cân thanh toán và những kiểm soát mua ngoại tệ, khuyến khích tự do thương mại và đầu tư quốc tế. Các nền kinh tế đôla hóa có thể được, chênh lệch lãi suất đối với vay nợ nước ngoài thấp hơn, chi ngân sách giảm xuống và thúc đẩy tăng trưởng và đầu tư.
Đô la hóa có thể giúp người ta dự đoán tỷ giá hối đoái dễ dàng hơn. Đối với những nước áp dụng cơ chế tỷ giá thả nổi thuộc khu vực sử dụng đồng Đô la sẽ giúp cho họ giảm được những bất ổn trong mua bán và đầu tư quốc tế nảy sinh do biến động tỷ giá giữa đồng nội tệ và các đồng tiền ngoài khu vực, làm giảm rủi ro tỷ giá (người ta không còn phải lo đến việc bản tệ bị mất giá hay lên giá nữa), và do đó, thúc đẩy thương mại quốc tế; điều này lại góp phần thúc đẩy tăng trưởng
Đô la hóa cũng là một trong những giải pháp giúp giảm lạm phát, từ đó có thể giảm lạm phát, từ đó có thể giảm lãi suất thực nền kinh tế và kích thích đầu tư, và do đó sẽ thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Thu hẹp chênh lệch tỷ giá trên hai thị trường chính thức và phí chính thức. Tỷ giá chính thức càng sát với thị trường phi chính thức, tạo ra động cơ để chuyển các hoạt động từ thị trường phi chính thức (bất hợp pháp) sang thị trường chính thức (thị trường hợp pháp).
Ngoài ra Đô la hóa cũng giúp cho đồng tiền có khả năng tự do chuyển đổi hoàn toàn ở những nước mà tiền tệ chưa có khả năng chuyển đổi.
1.4.2. Những tác động tiêu cực:
Khi bị đôla hóa, nền kinh tế trong nước phụ thuộc rất lớn vào đồng đôla, đặc biệt là hệ thống tài chính. Sự ổn định của hê thống tài chính cột chặt vào đồng đô la. Điều này dẫn tới, một cuộc khủng hoảng kinh tế bên ngoài có thể ảnh hưởng nặng nề tới hệ thống tài chính của nước có hệ thống tài chính dựa trên hai đồng tiền. Đôla hóa sẽ làm cho các nước rất khó phản ứng thành công với các bất ổn, biến động từ bên ngoài (vì đã mất đi một công cụ hữu hiệu chống sốc là chính sách tiền tệ). Điều này làm cho các nền kinh tế đôla hóa dễ bị tổn thương bởi các cú sốc ngoại lai và thậm chí còn làm giảm tăng trưởng.
Làm giảm hiệu quả điều hành của chính sách tiền tệ. Chính sách tiền tệ của ngân hàng trung ương không phát huy được hiệu quả, bị mất tính độc lập và chịu nhiều ảnh hưởng từ diễn biến kinh tế quốc tế, nhất là khi xảy ra các cuộc khủng hoảng kinh tế, cụ thể:
Gây khó khăn trong việc dự đoán diễn biến tổng phương tiện thanh toán, do đó dẫn đến việc đưa ra các quyết định về việc tăng hoặc giảm lượng tiền trong lưu thông kém chính xác và kịp thời.
Ở trong các nước đô la hóa không chính thức, nhu cầu về nội tệ không ổn định. Trong trường hợp có biến động, mọi người bất ngờ chuyển sang ngoại tệ có thể làm cho đồng nội tệ mất giá và bắt đầu một chu kỳ lạm phát. Khi người dân giữ một khối lượng lớn tiền gửi bằng ngoại tệ, những thay đổi về lãi suất trong nước hay nước ngoài có thể gây ra sự chuyển dịch lớn từ đồng tiền này sang đồng tiền khác (hoạt động đầu cơ tỷ giá). Những thay đổi này sẽ gây khó khăn cho ngân hàng trung ương trong việc đặt mục tiêu cung tiền trong nước và có thể gây ra những bất ổn định trong hệ thống ngân hàng.
Trường hợp tiền gửi của dân cư bằng ngoại tệ cao, nếu khi có biến động làm cho người dân đổ xô đi rút ngoại tệ, trong khi số ngoại tệ này đã được ngân hàng cho vay, đặc biệt là cho vay dài hạn, khi đó ngân hàng nhà nước của nước bị đô la hóa cũng không thể hỗ trợ được vì không có chức năng phát hành đô la Mỹ.
Làm cho đồng nội tệ nhậy cảm hơn đối với các thay đổi từ bên ngoài, do đó những cố gắng của chính sách tiền tệ nhằm tác động đến tổng cầu nền kinh tế thông qua việc điều chỉnh lãi suất cho vay trở nên kém hiệu quả.
Tác động đến việc hoạch định và thực thi chính sách tỷ giá. Đô la hóa có thể làm cho cầu tiền trong nước không ổn định, do người dân có xu hướng chuyển từ đồng nội tệ sang đô la Mỹ, làm cho cầu của đồng đô la Mỹ tăng mạnh gây sức ép đến tỷ giá.
Khi các đối thủ cạnh tranh trên thị trường thế giới thực hiện phá giá đồng tiền, thì quốc gia bị đô la hóa sẽ không còn khả năng để bảo vệ sức cạnh tranh của khu vực xuất khẩu thông qua việc điều chỉnh lại tỷ giá hối đoái. Ngân hàng không có sức đề kháng trước những biến động về tỷ giá có thể dẫn đến khủng hoảng hệ thống ngân hàng.
Đôla hóa chính thức sẽ làm mất đi chức năng của ngân hàng trung ương là người cho vay cuối cùng. Trong các nước đang phát triển chưa bị đôla hóa hoàn toàn, mặc dù các ngân hàng có vốn tự có thấp, song công chúng vẫn tin tưởng vào sự an toàn đối với các khoản tiền gửi của họ tại các ngân hàng. Nguyên nhân là do có sự bảo lãnh ngầm của Nhà nước đối với các khoản tiền này. Điều này chỉ có thể làm được đối với đồng tiền nội tệ, chứ không thể áp dụng được đối với đô la Mỹ. Đối với vác nước đô la hóa hoàn toàn, khu vực ngân hàng sẽ trở nên bất ổn hơn trong trường hợp ngân hàng thương mại bị phá sản và sẽ phải đóng cửa khi chức năng người cho vay cuối cùng của ngân hàng trung ương đã bị mất.
Chính sách tiền tệ bị phụ thuộc nặng nề vào nước Mỹ. Trong trường hợp đô la hóa chính thức, chính sách tiền tệ và chính sách lãi suất của đồng tiền khi đó sẽ do nước Mỹ quyết định. Trong khi các nước đang phát triển và một nước phát triển như Mỹ không có chu kỳ tăng trưởng kinh tế giống nhau, sự khác biệt về chu kỳ tăng trưởng kinh tế tại hai khu vực kinh tế khác nhau đòi hỏi phải có những chính sách tiền tệ khác nhau.
Hệ thống ngân hàng bị đôla hóa được coi là nguyên nhân của những cuộc khủng hoảng tài chính trong 2 thập kỷ qua. Một hệ thống như thế này sẽ có rủi ro cao về thanh khoản và khả năng chi trả. Rủi ro về khả năng chi trả phát sinh bởi sự khác biệt về đồng tiền huy động và cho vay. Các ngân hàng với một lượng vốn lớn bằng ngoại tệ có được từ huy động tiền gửi ngoại tệ của công chúng trong nước buộc phải tìm cách cho vay một phần trong số này cho các đối tượng trong nước, và như vậy là đã chuyển giao rủi ro tiền tệ sang khách hàng không có biện pháp phòng hộ rủi ro này, đồng thời vẫn còn giữ lại rủi ro về tín dụng cho mình. Khi bản tệ bị phá giá, các con nợ của ngân hàng dễ bị mất khả năng thanh toán vì các khoản thu của họ phần lớn bằng bản tệ, trong khi họ đi vay ngân hàng bằng ngoại tệ, những khoản vay này nay đã “phình to” ra nếu tính theo bản tệ bị mất giá. Đối với người gửi ngoại tệ vào ngân hàng, nếu họ lo ngại rằng ngân hàng mà họ gửi tiền đang có vấn đề với những khoản cho vay mất khả năng thu hồi của nó, họ sẽ thi nhau rút tiền của mình ra khỏi ngân hàng. Để đáp ứng được sự rút ồ ạt đó, ngân hàng buộc phải có một nguồn tài sản ngoại tệ có tính thanh khoản cao đủ lớn hoặc đi vay của ngân hàng trung ương và các ngân hàng khác. Nhưng những nguồn trên đều có hạn, nhất là vào thời điểm mà các ngân hàng khác cũng bị rơi vào tình trạng này. Kết cục là sự sụp đổ của cả một hệ thống ngân hàng.
TÓM LẠI
Như vậy, ta có thể kết luận rằng đôla hóa không phải là một hiện tượng tốt, nhưng cũng không phải là một hiện tượng hoàn toàn xấu (hay không có lợi), và cần phải tránh bằng mọi cách, tùy theo cách nhìn nhận, lựa chọn, cũng như năng lực thực thi của mỗi quốc gia, những mục tiêu ưu tiên, trong từng thời kỳ cụ thể. Và thực tế là, dù muốn hay không, gửi ngoại tệ vào ngân hàng là một trong những lựa chọn hấp dẫn đối với nhà đầu tư ở mọi nơi và trở thành phổ biến, không thể thiếu (hoặc cấm đoán được) cùng với quá trình toàn cầu hóa.
CHƯƠNG 2:THỰC TRẠNG ĐÔ LA HÓA TẠI VIỆT NAM
Tổng quan:
Đôla hóa có thể là một giải pháp hiệu quả đối với các nền kinh tế mở, khá nhỏ và có mối quan hệ thương mại cũng như tài chính chặt chẽ đối với quốc gia cung cấp đồng tiền thay thế. Việt Nam rõ ràng không phải là ứng cử viên được hưởng lợi từ đô-la hóa do khác biệt lớn so với Mỹ về sự giàu có, cơ cấu kinh tế và sự hội nhập thấp về thị trường vốn, lao động. Ngoài ra, mặc dù đô-la là đồng tiền quốc tế chủ yếu, được ưu tiên trong cán cân của Việt Nam, chứ không phải là đồng euro hay yen Nhật, nhưng Việt Nam lại có quan hệ thương mại đa dạng với các nước khác trên thế giới. Mặc dù buôn bán với Mỹ đang tăng nhanh song buôn bán với các nước châu Á, đặc biệt là Nhật Bản và châu Âu cũng chiếm một tỷ trọng đáng kể.
Bức tranh tổng quát về tình hình đôla hóa ở Việt Nam qua các năm được biểu hiện cụ thể qua số liệu sau:
Biểu 2.1
Nguồn: VNEconomy.
Hiện tượng nền kinh tế Việt Nam sử dụng rộng rãi đồng đô la Mỹ trong giao dịch buôn bán... bắt đầu được chú ý đến từ năm 1988 khi các ngân hàng được phép nhận tiền gửi bằng đồng đô la. Đến năm 1992, tình trạng đô la hóa đã tăng lên mạnh với hơn 41% lượng tiền gửi vào các ngân hàng là bằng đô la Mỹ. Trước tình trạng này, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã cố gắng đảo ngược quá trình đô la hóa nền kinh tế và đã khá thành công khi giảm mạnh mức tiền gửi bằng đô la Mỹ vào các ngân hàng xuống còn 20% vào năm 1996. Nhưng tiếp theo đó cuộc khủng hoảng tài chính châu Á đã khiến cho đồng tiền Việt Nam giảm giá trị, và Việt Nam lại tiếp tục chịu sức ép của tình trạng đô la hóa. Đến cuối năm 2001, tỷ lệ đồng đô la Mỹ được gửi vào các ngân hàng tăng lên đến 31,7%. Tỷ lệ này có xu hướng giảm đáng kể trong những năm tiếp theo, đến năm 2003 còn 23,6% và 9 tháng đầu năm 2004 là 22%. Đây là xu hướng tích cực, cho thấy tình trạng đô la hóa tài sản nợ trong hệ thống ngân hàng thương mại đang được kiềm chế một cách có hiệu quả. Người dân đã có niềm tin vào đồng tiền nội địa nhiều hơn. Tuy nhiên về số tiền gửi tuyệt đối bằng đô la thì không ngừng tăng lên, cuối năm 2005 con số này khoảng 8 tỷ USD, một mặt cho thấy tiềm lực nguồn vốn nhàn rỗi trong dân mà hệ thống ngân hàng có thể huy động được cho đầu tư phát triển kinh tế, những mặt khác cũng đáng quan tâm ở góc độ đô la hóa.
Nếu căn cứ theo số liệu trên, theo phân loại của IMF, Việt Nam thuộc diện có hiện tượng đôla hóa không chính thức tương tự như Nga, một số nước Đông Âu khác và hầu hết các nước thuộc Mỹ Latinh, còn sắp xếp theo mức độ đôla hóa nền kinh tế, Việt Nam thuộc diện những nền kinh tế có hiện tượng đôla hóa vừa phải. Tuy nhiên ở các nước không phải là nền kinh tế tiền mặt thì mức độ đôla hóa thể hiện qua tỷ lệ FCD/M2 trên là khá chính xác. Còn ở Việt Nam, bên cạnh đôla hóa thay thế tài sản còn có đôla hóa phương tiện thanh tóan và đôla hóa niêm yết, chưa kể đến một số lượng ngoại tệ dưới hình thức cất trữ trong dân chúng chưa đưa vào lưu thông, do đó theo nhận định của các chuyên gia tình hình đô la hóa ở Việt Nam khá trầm trọng.
Một nền kinh tế bị đôla hóa thì trước hết nền kinh tế phải có nguồn đôla, hiện nay các kênh ngoại tệ được chuyển vào Việt Nam như:
Thứ nhất là nguồn kiều hối (chưa kể kiều hối chuyển lậu, ngoại tệ người Việt Nam nhập cảnh không khai báo,..) chuyển về Việt Nam mỗi năm một tăng với mức tăng bình quân trên 10% mỗi năm, cụ thể:
Bảng 2.1:
Năm
Kiều hối (Triệu USD)
1991
31
1995
285
1999
1.200
2000
1.757
2001
1.820
2002
2.154
2003
2.700
2004
3.200
2005
4.000
Nguồn: Tổng cục thống kê.
Các khoản kiều hối sau khi đi qua hệ thống ngân hàng nếu không được khuyến khích chuyển thành nội tệ sẽ phát tán trong dân cư dưới hình thức ngoại tệ và làm tăng khả năng đô la hóa nền kinh tế.
Thứ hai là, số lượng khách du lịch quốc tế đến Việt Nam ngày càng tăng nhanh. Khách du lịch mang theo ngoại tệ và chi tiêu bằng ngoại tệ tiền mặt rất lớn tại các cở sở kinh doanh tư nhân. Khách du lịch cũng có hoạt động đổi tiền tại các quầy đổi tiền nhưng thông thường chi tiêu đến đâu họ đổi tiền đến đó và khi việc đổi tiền không mấy thuận lợi do địa bàn, đường xá, họ thỏa thuận với người bán để thanh toán bằng đô la Mỹ.
Bảng 2.2:
Năm
1996
2000
2003
2004
2005
2010
(dự đoán)
Số lượng (triệu lượt người)
1,6
2,1
2,4
2,9
3,4
5,0
Nguồn: Tổng cục thống kê.
Thứ ba là, tiền lương và thu nhập của người Việt Nam làm việc trong các dự án liên doanh, dự án 100% vốn nước ngoài, dự án quốc tế, cơ quan nước ngoài ở Việt Nam, được trả bằng ngoại tệ.
Thứ tư là, số lượng người nước ngoài đến Việt Nam làm việc, sinh sống, làm ăn, học tập... ngày càng tăng, chi tiêu ngoại tệ tiền mặt rất lớn, nhất là tiền thuê nhà của các hộ gia đình người Việt Nam và chi trả các dịch vụ khác.
Thứ năm là, tiền viện trợ không hoàn lại, tiền của các tổ chức tài chính vi mô, tổ chức từ thiện quốc tế, tổ chức phi chính phủ nước ngoài... Bên cạnh đó là nguồn vốn tài trợ của các tổ chức tài chính - tiền tệ quốc tế, Chính phủ các nước. Năm 2005 số vốn cam kết tài trợ (ODA) lên tới 3,44 tỷ USD, so với 2,7 tỷ USD năm 2003.
Thứ sáu là, ngoại tệ từ các hoạt động buôn lậu và một số nguồn ngoại tệ qua các hoạt động kinh tế ngầm khác. Đây là kênh ngoại tệ chuyển vào nước ta mà nhà nước không thể kiểm soát được, có thể gây lũng đoạn nền kinh tế, đó là chưa kể tới nền kinh tế nước ta là nền kinh tế tiền mặt, các tổ chức phi pháp nước ngoài có thể bơm đôla vào nền kinh tế Việt Nam cho các hoạt động rửa tiền.
Thứ bảy là, hoạt động đầu tư nước ngoài vào Việt Nam tiếp tục tăng trưởng khá, cũng thu hút một lượng ngoại tệ lớn vào nền kinh tế.
Bảng 2.3:
Năm
1992
1995
2000
2005
FDI/GDP (%)
2%
6.3%
12.7%
15%
Nguồn: Bộ Kế hoạch Đầu tư.
Thứ tám là, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam cũng ngày càng tăng nhanh, đánh dấu sự lớn mạnh của các doanh nghiệp Việt Nam trên con đường công nghiệp hóa hiện đại hóa.
Bảng 2.4:
Năm
2001
2002
2003
2004
2005
Kim ngạch XK (Tỷ USD)
15
16.4
20
26
32.2
Nguồn: Tổng cục thống kê.
Nguyên nhân:
Bất cứ một nền kinh tế nào bị đôla hóa đều có căn nguyên từ phát từ người dân mất lòng tin vào chính sách tiền tệ do tỷ lệ lạm phát không ổn định trong một thời gian dài và đồng nội tệ bị mất giá, điều này làm gia tăng phí bảo hiểm rủi ro đối với tài sản danh nghĩa bằng đồng nội tệ.
Người dân mất lòng tin vào chính sách tiền tệ do tỷ lệ lạm phát không ốn định trong một thời gian dài, tỷ giá hối đoái giảm, làm gia tăng các chi phí bảo hiểm rủi ro đối với tài sản danh nghĩa bằng đồng nội tệ. Do vậy, công chúng chuyển các tài sản danh nghĩa sang một đồng tiền ổn định hơn hoặc các tài sản thực. Tại Việt Nam là vàng và kể từ năm 1990 là đô la Mỹ.
Việc phá giá VND vào năm 1985 và những năm 1997 – 1998 đã làm cho người giữ tiền đồng cảm thấy bị thiệt hại hơn so với giữ ngoại tệ.
Do nền kinh tế còn nằm trong tình trạng nghèo nàn lạc hậu gặp phải những sai lầm trong cải tạo các thành phần kinh tế nhất là cải tạo giới công thương nghiệp miền Nam để áp dụng cơ chế bao cấp giống như ở miền Bắc nên lạm phát tiếp tục gia tăng, từ chỗ giá trị đồng tiền (đồng NHNN VN được đổi ngày 2/5/1978) sát với sức mua của đô la Mỹ (1,25đ/1USD) đã nhanh chóng bị dãn ra, đồng tiền NHNN VN mất giá mạnh so với đồng USD, tháng 9/1985 tỷ giá giữa tiền đồng và USD là 150đ/USD.
Trước tình hình đó, 14/9/1985 Nhà nước tiến hành đổi tiền lần 4 theo tỷ lệ 10đ tiền NHNN cũ ăn 1đ tiền NHNN mới. Đây là cuộc cách mạng tiền tệ theo trật tự ngược Tiền – Lương – Giá. Sau đổi tiền tình trạng lạm phát càng tăng cao, 1986 lạm phát đạt 774%. Tháng 3 năm 1989 Việt Nam duy trì một hệ thống tỷ giá hối đoái có nhiều mức khác nhau đều có lợi cho nhập khẩu. Để hỗ trợ hoạt động xuất khẩu (năm 1989 Việt Nam đẩy mạnh đổi mới nền kinh tế nhằm mở rộng tự do hóa nền kinh tế và thay đổi sản xuất công nghiệp từ thay thế nhập khẩu sang định hướng xuất khẩu), tỷ giá VND so với USD được phá giá cho các giao dịch thương mại trong khuôn khổ các kế hoạch Trung ương. Biến động tỷ giá được thể hiện qua bảng sau:
Bảng 2.5
Năm
Tỷ giá cũ
Tỷ giá mới
9/1988
225
900
1989
4.000
1992
11.500
1993
10.750
1995
10.800
1995
11.000
Chỉ số giá hàng tiêu dùng ở Việt Nam rất không ổn định. Tỷ lệ lạm phát năm 1998 là 7.8%, giảm dần trong một số năm tiếp theo thậm chí nền kinh tế nằm trong tình trạng giảm phát trong năm 2000 (tỷ lệ lạm phát -1,7%), tăng đột biến đạt 9.5% năm 2004.
Bảng 2.6: Chỉ số giá từ 1998 – 2005 tại Việt Nam
Năm
1998
1999
2000
2001
2002
2003
2004
2005
CPI (%)
7.8
4.1
-1.7
0.8
1.5
3
9.5
8.4
Nguồn: Tổng cục thống kê.
Ở Việt Nam, tuy lạm phát trong những năm qua đã duy trì ở mức thấp không vượt quan 2 con số, tuy nhiên trong thời gian qua tình hình thế giới có nhiều biến động, khủng hoảng khu vực, giá dầu leo thang, giá vàng nhiều biến động, điều này dẫn đến tâm lý người dân bất an khi nắm giữ tài sản bằng VND. Năm 2005, 2006 giá vàng và các mặt hàng chủ yếu như xăng, điện, thép… đều tăng, giá lương thực tiêu dùng trong nước cũng tăng đáng kể, tin nóng hổi nhất là ngành than cũng đang dự kiến tăng giá kéo theo dự kiến tăng giá của ngành sản xuất xi măng..
Xét khía cạnh các doanh nghiệp, các doanh nghiệp xuất nhập khẩu trong nước - nguồn thu chi chủ yếu bằng ngoại tệ vẫn găm giữ ngoại tệ. Do rủi ro biến động tỷ giá, các doanh nghiệp có nguồn thu bằng ngoại tệ thì giữ ngoại tệ e ngại tỷ giá tăng hay phải dùng ngọai tệ nhập hàng trong tương lai hay các doanh nghiệp nhập hàng về bán chi ngoại tệ thì vẫn thích có nguồn thu bằng ngoại tệ để tránh rủi to tỷ giá. Bao quát hơn, ngay khi chính bản thân chính sách của mỗi quốc gia trong khu vực cũng đang tự bảo vệ mình bằng một khối lượng dự trữ ngọai tệ khổng lồ (Trung Quốc gần 1000 tỷ USD), thì ta thấy rằng đại bộ phận của nhiều tầng lớp nhiều thành phần kinh tế trong nền kinh tế thì họ chuyển VND sang các hình thức đầu tư cất trữ khác như ngoại tệ, bất động sản … là tất yếu.
Ngoài ra một nguyên nhân khác cũng rất quan trọng, nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế tiền mặt, rất dễ dàng cho hoạt động mua bán sử dụng ngoại tệ công khai. Hiện tượng niêm yết, quảng cáo sản phẩm bằng ngoại tệ vẫn còn phổ biến công khai tuy NHNN đã có quy định cấm niêm yết quảng cáo bằng ngoại tệ đối với các doanh nghiệp không có thu bằng ngoại tệ (Số 985/NHNN-QLNH). Trong thời gian gần đây hoạt động niêm yết mua bán ngoại tệ tự do không còn công khai nhưng hoạt động mua bán ngọai tệ ngầm vẫn tiếp diễn. Các quầy thu đổi chính thức không kiếm chác được bao nhiêu nếu theo đúng nghĩa vụ với ngân hàng,do đó họ làm theo kiểu thỏa thuận với nhau, họ đổi ngoại tệ cho cả những người lý ra không được đổi, bán cho những người lẽ ra không được bán. Bên cạnh đó, tâm lý người dân và các doanh nghiệp thích vẫn thích mua bán trên thị trường chợ đen, đã làm cho một số lớn ngoại tệ chui vào túi tư nhân. Ngân hàng muốn thu mua ngoại tệ mà không được vì ba lý do:
Tỷ giá hối đoái của VND/USD cố định và biên độ giao động thấp khoảng 0.25%, điều này tạo một khoảng cách giữa thị trường ngọai tệ tự do và tỷ giá công bố của ngân hàng thương mại nên người dân có đôla thường đi đổi tại các nơi đổi tiền của tư nhân có lợi hơn là ra ngân hàng.
Bảng 2.7: Tỷ giá giữa USD và VND năm 2005 (số liệu ngày cuối tháng)
Đvt: Đồng/USD
Thời gian
Ngân hàng Ngoại thương
Thị trường tự do Hà Nội
Mua vào
Bán ra
Mua vào
Bán ra
Tháng 1
15788
15790
15790
15810
Tháng 2
15802
15804
15800
15820
Tháng 3
15822
15824
15810
15830
Tháng 4
15831
15833
15820
15850
Tháng 5
15850
15852
15840
15860
Tháng 6
15854
15856
15850
15870
Tháng 7
15861
15863
15870
15880
Tháng 8
15877
15879
15880
15890
Tháng 9
15894
15896
15880
15900
Tháng 10
15904
15906
15900
15900
Tháng 11
15909
15911
15940
15960
Tháng 12
15915
15917
15900
15930
Nguồn: Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
Thứ hai là đổi tiền tại các địa điểm tư thường dễ dàng và nhanh chóng hơn và không bị các thủ tục hành chánh rườm rà chi phối. Theo quy định hiện nay của NHNN, ở các ngân hàng cá nhân doanh nghiệp khi mua ngoại tệ phải có mục đích rõ ràng và có các chứng từ chứng minh cho mục đích hợp pháp.
Thứ ba là Ngân hàng nhà nước hay những ngân hàng được phép kinh doanh ngoại tệ thường không đủ đôla để cấp cho các doanh nghiệp có nhu cầu nhập cảng hàng hóa hay dịch vụ nên các cơ sở này phải mua đôla của tư nhân.
Bên cạnh đó, ta phải nhận thức ra tâm lý thích sử dụng, cất trữ ngoại tệ đã ngấm sâu vào tưu tưởng của một bộ phận tầng lớp dân cư. Có thể sử dụng ngoại tệ tiện lợi, gọn gàng hơn so với VND. Thực tế, nếu trong một chuyến công cán, một người cần chi tiêu khoảng 30 triệu đồng, thì người đó cần phải mang theo 60 tờ 500.000 hoặc 300 tờ 100.000. Nhưng nếu mang bằng USD chỉ cần khoảng 20 tờ 100 đô, nếu bằng EUR chỉ cần 3 tờ 500 EUR. Rất là tiện lợi, ở đâu cũng chấp nhận, cũng có thể đổi được.
Tình trạng tham nhũng cũng góp phần tạo nên hiện tượng đôla hóa xã hội nhất là khi đi phong bì bằng ngoại tệ vừa gọn vừa lịch sự. Đây chính là những nỗi nhức nhối bức xúc là vấn đề nan giải đối với nhà nước nếu muốn hạn chế “đôla hóa” xã hội.
CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP KHẮC PHỤC TÁC ĐỘNG TIÊU CỰC CỦA ĐÔ LA HÓA
Quan điểm, chủ trương của Đảng, Chính phủ và ngân hàng Nhà nước trong vấn đề đô la hóa là rất rõ ràng: xoá bỏ Đô la hóa trong nền kinh tế nước ta phải được thực hiện từng bước, từng khâu thích ứng với từng giai đoạn đổi mới, phát triển của đất nước, phải bằng nhiều giải pháp vừa kinh tế, vừa hành chính kết hợp với giáo dục pháp luật, điều chỉnh tâm lý xã hội trong lộ trình thực thi nhiều cơ chế kinh tế nghiệp vụ Ngân hàng cụ thể nói tiếp nhau, để nâng vị thế của đồng tiền Việt Nam trong cá chức năng thuộc tính của tiền tệ.
Xoá bỏ đô la hóa không có nghĩa là xoá bỏ sạch trơn, phủ định tất cả. Trong giai đoạn hiện nay, cần cố gắng khai thác mặt lợi, thu hút vốn đô la trong dân vào hệ thống Ngân hàng, từ đó đầu tư cho các dự án phát triển kinh tế xã hội, thị trường ngoại tệ và hoạt động kinh doanh tiền tệ vốn đang hội nhập với thị trường tiền tệ quốc tế.
Nói như vậy, có nghĩa là chúng ta chấp nhận sự tồn tại của đô la hóa ở những mặt tích cực khách quan. Điều quan trọng nhất là Nhà nước phải giữ vai trò chủ động để điều chỉnh hiện tượng đô la hóa, nhất quyết phải có các giải pháp hành chính – kinh tế - giáo dục đồng bộ để triệt tiêu các mặt tiêu cực của đô la hóa.
Một số nước đã cực đoan cấm đoán việc gửi ngoại tệ vào các ngân hàng trong nước, tạo độc quyền cho bản tệ, ít nhất là trong các giao dịch tài chính trên lãnh thổ quốc gia. Nhưng chính sách này sẽ rất có hại khi mà những nước này không có khả năng ổn định hóa nền kinh tế vĩ mô của họ. Kết cục là các nhà đầu tư trong nước bao giờ cũng và sẽ tìm được cách chuyển tài sản của mình để đầu tư ra nước ngoài, nơi mà họ tin là không bị rủi ro nhiều như trong nước, và do đó, thị trường tài chính trong nước sẽ không phát triển được. Việt Nam chúng ta đã từng phạm phải sai lầm này. Chúng ta không thể sử dụng lại các biện pháp hành chính đã từng áp dụng trong những thời gian trước đây: tăng tỷ lệ kết hối lên 100%, không cho nhận kiều hối bằng ngoại tệ, hạ thấp lãi suất tiền gửi bằng ngoại tệ, chỉ cho phép doanh nghiệp mở tài khoản tiền gửi tại một Ngân hàng … Những biện pháp mà qua thực hiện đã chứng tỏ là gây khó khăn cho doanh nghiệp, không khuyến khích nguồn kiều hối chuyển về nước, không phù hợp với xu hướng hội nhập với khu vực và thế giới.
Như đã phân tích, ở Việt Nam - nơi mà tỷ lệ sử dụng tiền mặt vẫn còn rất lớn, tỷ lệ FCD/M2 không phản ánh đầy đủ thực trạng đôla hóa trong toàn bộ nền kinh tế. Nếu như ở các nước mà hầu hết các giao dịch thanh toán thực hiện qua hệ thống ngân hàng thì giảm đôla hóa tương đương với việc kiềm chế lượng ngoại tệ gửi vào ngân hàng. Nếu Việt Nam cũng thực hiện biện pháp như vậy kết hợp tâm lý thích dùng tiền mặt vẫn ăn sâu trong dân chúng Việt Nam thì người dân có thể sẽ cất trữ đôla tại nhà hoặc tạm thời chuyển qua gửi VND và sẵn sàng quay về cất trữ ngoại tệ bất cứ khi nào thuận lợi. Do đó trước hết thiết nghĩ cần giảm đôla hóa xã hội thu hút ngoại tệ vào hệ thống ngân hàng đẩy mạnh hoạt động đầu tư hiệu quả sau sau đó tiến tới giảm đôla hóa hệ thống ngân hàng. Việc này muốn thực hiện được cần có sự kết hợp của các ban ngành chính phủ và toàn dân, có thể bao quát ở các giải pháp sau:
Nâng cao vị thế của VND:
Tiếp tục cơ cấu tích cực mệnh giá đồng Việt Nam. Tăng cường, nâng cao chất lượng dịch vụ, các tiện ích ngân hàng, đặc biệt là hệ thống thanh toán không dùng tiền mặt. Đẩy mạnh tuyên truyền về sử dụng thẻ, kể cả thẻ tín dụng quốc tế.
Tỷ giá ngang giá nên gắn với 1 rổ tiền tệ bao gồm một số ngoại tệ mạnh thay vì chỉ gắn với USD nhằm giảm bớt sự lệ thuộc của đồng Việt Nam vào Đô la Mỹ.
Sử dụng các công cụ của chính sách tiền tệ để tác động đến điều kiện thị trường nhằm làm cho đồng Việt Nam hấp dẫn hơn đô la Mỹ, chính sách lãi suất phải nhằm mục đích tạo ra và duy trì được một chênh lệch lãi suất dương giữa tiền gửi VND và USD, qua đó hạn chế xu hướng chuyển đổi từ đồng Việt Nam sang đô la Mỹ.
Thu hút tiền mặt ngoại tệ trong dân cư, thà chấp nhận đô la hóa tiền gửi và dư nợ cho vay của hệ thống ngân hàng, Nhà nước còn quản lý chặt chẽ được, còn hơn là để trôi nổi trong dân:
Phát triển mạnh lưới các mạng lưới các quầy thu đổi ngoại tệ rộng khắp.
Từ năm 2003, chính phủ Việt Nam cũng đã bắt đầu huy động thu hút nguồn vốn ngoại tệ trong xã hội bằng cách phát hành trái phiếu ngoại tệ (Căn cứ vào Quyết định số 155 và 156/2003/QÐ-BTC của Bộ trưởng Bộ Tài chính về việc phát hành trái phiếu Chính phủ bằng ngoại tệ và đồng VN) để tập trung phát triển các công trình trọng điểm quốc gia. Đây có thể là một trong những phương pháp hữu hiệu nhất thu hút lượng ngoại tệ tiền mặt trôi nổi không quản lý được trong dân cư, ngoài ra biện pháp này còn giúp nhà nước giảm việc đi vay vốn nước ngoài, chịu rủi ro về tỷ giá, làm gia tăng gánh nặng vay nợ nước ngoài của Việt Nam.
Thực hiện cơ chế tỷ giá linh hoạt được xác định trên cơ sở cung cầu ngoại tệ trên thị trường có sự điều tiết của Nhà nước, nhằm giảm bớt khoảng cách tỷ giá giữa thị trường chính thức và thị trường “chợ đen”.
Nâng cao tính chuyển đổi của VND và hạn chế đôla hóa là hai công việc có mối quan hệ hữu cơ, qua lại lẫn nhau. Đôla hóa làm mất chủ quyền về tiền tệ, làm giảm vị thế độc tôn của đồng bản tệ, giảm khả năng chuyển đổi của đồng tiền. Ngược lại một đồng tiền mạnh sẽ giúp đẩy lùi nạn đô la hóa.
Có thể nói nâng cao khả năng chuyển đổi của VND và khắc phục đôla hóa là hai mặt của quá trình thúc đẩy phát triển kinh tế bền vững trong điều kiện hội nhập. Nâng cao tính chuyển đổi của VND ngay trong chính quốc gia để người dân, doanh nghiệp có lòng tin vào VND. Đây cũng là quá trình tiến tới mục tiêu chỉ sử dụng VND trên lãnh thổ Việt Nam, có thể đề xuất các giải pháp sau:
Trước hết và quan trọng nhất, để người dân có niềm tin vào VND ở tầm vĩ mô cần ổn định và phát triển kinh tế bền vững, tỷ lệ lạm phát thấp.
Thu hẹp đối tượng được phép vay ngoại tệ so với hiện nay, trừ trường hợp cho vay để nhập khẩu máy móc, công nghệ, nguyên liệu, bán thành phẩm... phục vụ xuất khẩu. Hiện nay, việc cho vay ngoại tệ với những dự án thực chất chỉ cần VND không chỉ làm tăng mức độ đôla hóa mà còn gây rủi ro cho tổ chức tín dụng, ngân hàng.
Khuyến khích các cá nhân tại Việt Nam nhận kiều hối bằng VND. NHNN dự kiến tỷ lệ này dự kiến năm 2008 là 10% và năm 2010 là 30%.
Kiểm soát chặt chẽ việc niêm yết quảng cáo bán hàng bằng ngoại tệ và dần dần tiến tới cấm việc bán hàng và dịch vụ trong nước niêm yết giá và thu bằng ngoại tệ đối với tất cả mọi đối tượng trong nền kinh tế. Điều này muốn thực hiện được đòi hỏi phải có sự phối hợp tất cả các ban ngành từ công an, bộ văn hóa thông tin đến ngân hàng nhà nước.
Về lâu dài, cần nâng cao tỷ lệ dự trữ đối với tài khoản tiền gửi bằng đô la, cũng như làm giảm hiện tượng đôla hóa dư nợ cho vay của tổ chức tín dụng.
Bảng 3.1: Tỷ lệ dự trữ bắt buộc đang áp dụng
Loại TCTD
Tiền gửi VND
Tiền gửi ngoại tệ
Không kỳ hạn và dưới 12 tháng
Từ 12-24 tháng
Không kỳ hạn và dưới 12 tháng
Từ 12-24 tháng
Các NHTM Nhà nước (không bao gồm NHNo & PTNT), NHTMCP đô thị, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, ngân hàng liên doanh, công ty tài chính, công ty cho thuê tài chính
5%
2%
8%
2%
Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
4%
2%
8%
2%
NHTMCP nông thôn, ngân hàng hợp tác, Quỹ tín dụng nhân dân Trung ương
2%
2%
8%
2%
TCTD có số dư tiền gửi phải tính dự trữ bắt buộc dưới 500 triệu đồng, QTĐN cơ sở, Ngân hàng Chính sách xã hội
0%
0%
0%
0%
(Theo 796/QĐ-NHNN ngày 25/6/2004, áp dụng từ 01/07/2004)
Một khi đã thực hiện được nâng cao tính chuyển đổi của VND thì sẽ giảm lượng ngoại tệ trong xã hội do người dân tin tưởng vào VND hơn. Nhưng để nâng cao tính chuyển đổi của VND là việc làm không thể thực hiện một sớm một chiều. Và nếu thu hút vốn ngoại tệ vào hệ thống ngân hàng phát sinh mâu thuẫn đôla hóa nguồn vốn huy động và đôla hóa nguồn vốn cho vay của ngân hàng, điều này tạo ra rủi ro rất lớn trong hệ thống tài chính ngân hàng khi có biến động tỷ giá, lãi suất khủng hoảng kinh tế xảy ra. Do đó ở tầm vĩ mô vấn đề đặt ra là làm sao có thể thu hút tối đa vốn ngoại tệ vào hệ thống ngân hàng , vừa tận dụng tối đa nguồn ngoại tệ này để phát triển kinh tế.
Ở Việt Nam chưa hoàn toàn tự do hóa tài chính, do đó Việt Nam cần tận dụng thời gian này để giảm đôla hóa xã hội, phát triển kinh tế và thiết lập dự trữ ngoại hối đủ mạnh.
Với nguồn vốn ngọai tệ huy động được các tổ chức tài chính ngân hàng tiến hành cho vay đầu tư có hiệu quả cho các dự án trọng điểm, quan trọng của quốc gia, cũng như của các doanh nghiệp có chiến lược kinh doanh xuất khẩu hiệu quả, điều này sẽ tạo điều kiện thúc đẩy tăng trưởng nền kinh tế và tạo số đông việc làm cho người lao động.
Tạo môi trường đầu tư trong nước có khả năng hấp thụ được số vốn ngoại tệ hiện có trong dân:
Thúc đẩy phát triển môi trường kinh tế vĩ mô, tạo môi trường cạnh tranh thực sự giữa các thành phần kinh tế trong cả sản xuất, thương mại, dịch vụ và kể cả lĩnh vực tài chính, ngân hàng.
Mở rộng các dự án đầu tư của Chính phủ: dầu khí, cầu đường, điện lực, thủy điện, bưu chính viễn thông… khuyến khích sự tham gia đầu tư của các thành phần kinh tế.
Phát triển các công cụ tài chính như cổ phần, cổ phiếu, trái phiếu, đa dạng hóa các danh mục đầu tư trong nước.
Phát triển các công cụ tài chính phái sinh tạo điều kiện cho các tổ chức, cá nhân tham gia thị trường ngoại tệ một cách công khai, dễ dàng nhằm dịch vụ hóa cao độ các nghiệp vụ hối đoái, bình thường hóa vai trò ảnh hưởng của ngoại tệ. Vì hiện nay việc kinh doanh phòng ngừa rủi ro tỷ giá vẫn chỉ thực hiện đối với các doanh nghiệp còn đối với người dân việc kinh doanh ngoại tệ yêu cầu số tiền kinh doanh khá lớn (100.000 USD) do đó thực sự chưa tạo nên kênh đầu tư hấp dẫn nhà đầu tư. Việc phát triển các công cụ tài chính phái sinh không những tạo thêm kênh đầu tư cho người dân và các doanh nghiệp, họ vừa vừa kinh doanh kiếm lợi nhuận vừa có thể phòng ngừa rủi ro tỷ giá.
Các giải pháp khác:
Cần nhất quán chủ trương quản lý lưu hành ngoại tệ theo hướng “trên đất nước Việt Nam chỉ lưu hành tiền đồng Việt Nam”. Hạn chế tối đa việc lưu thông và sử dụng đô la Mỹ, niêm yết giá bằng đô la Mỹ trên thị trường Việt Nam. Đây là công việc không phải chỉ riêng của Ngân hàng nhà nước mà của của tất cả các ban ngành, phải có sự phối hợp triệt để đồng bộ mới có thể hạn chế được đôla hóa.
Ngăn chặn và giảm dần các hoạt động kinh tế ngầm, kiểm soát chặt chẽ tình trạng buôn lậu.
Chống tham nhũng.
Với sự mở cửa của khu vực tài chính trong những năm tới, việc kìm chế và đẩy lùi tình trạng đô la hóa sẽ gặp rất nhiều khó khăn. Muốn làm được cần phải có thời gian và quyết tâm cao. Điều quan trọng là những mặt tích cực mang lại lợi ích của hiện tượng đô la hóa không bị xoá bỏ, nó tồn tại đan xen trong cơ chế thị trường mở cửa và hội nhập, được sử dụng như một giải pháp bổ sung trong chính sách tiền tệ tích cực của đất nước trong giai đoạn mới, còn những mặt tiêu cực của đô la hóa thì cần phải được kiềm chế, đẩy lùi và xoá bỏ. Và để hạn chế giảm tình trạng đôla hóa không phải có thể thực hiện trong thời gian ngắn, tuy nhiên trong bối cảnh tự do hóa tài chính và Việt Nam gia nhập WTO, thời gian này cần được rút ngắn nếu không nền kinh tế không phải lâm vào tình hình đôla hóa hoàn toàn, không còn khả năng bảo vệ trước những biến cố kinh tế kinh tế, khủng hoảng kinh tế trong khu vực và thế giới.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- DO_LA_HOA.doc