Đề tài Thực trạng đói nghèo của Việt Nam trong thời gian qua

Tóm lại, chủ trương gắn tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội là đúng đắn, phù hợp với xu hướng phát triển, mục tiêu của xã hội loài người. Công việc xóa đói giảm nghèo là một phần của việc thực hiện công bằng xã hội để cho người nghèo có cơm ăn, có áo mặc, giảm bớt sự cách biệt về kinh tế và bất bình đẳng, để ai cũng có thể hưởng lợi từ công cuộc đổi mới của đất nước. Nhất là đối với Việt Nam một nước đang trong thời kỳ quá độ lên xã hội chủ nghĩa. Nước ta mới có hơn 10 năm thực hiện chủ chương gắn tăng trưởng kinh tế với xóa đói giảm nghèo, nên còn không ít các bất cập còn tồn tại cần khắc phục. Tuy vậy chúng ta cũng đã đạt được những thành tựu vô cùng to lớn và là một tấm gương của Liên Hợp Quốc về xóa đói giảm nghèo. Với những phương hướng và giải pháp đúng đắn và sự chỉ đạo của Đảng và Nhà nước, Việt Nam sẽ ngày càng làm tốt hơn tiến tới xóa nghèo toàn diện và tăng trưởng bền vững.

doc40 trang | Chia sẻ: Kuang2 | Lượt xem: 1071 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng đói nghèo của Việt Nam trong thời gian qua, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tưởng. Chương II Thực trạng mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và xóa đói giảm nghèo I- Thực trạng chất lượng tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam 1. Đầu vào của tăng trưởng Tăng trưởng GDP do ba yếu tố đóng góp là vốn, lao động và năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP). Theo Tổng cục Thống kê, trong mấy năm gần đây, tăng trưởng GDP của nước ta do đóng góp của yếu tố vốn chiếm 52,7%, lao động chiếm 19,1% và năng suất các nhân tố tổng hợp chiếm 28,2%. Điều đáng lưu ý là đóng góp của năng suất các nhân tố tổng hợp tỏ ra vừa thấp hơn những năm 1992-1994, vừa thấp hơn tỷ lệ đó của các nước trong khu vực (thường trên dưới 40%). Các chỉ số này phản ánh xu hướng phát triển của nền kinh tế nước ta còn nghiêng về chiều rộng hơn là chiều sâu. Ngay trong xu hướng phát triển theo chiều rộng, thực tế lại cũng nghiêng về yếu tố vốn đầu tư, là yếu tố mà nước ta còn thiếu, phải đi vay, vừa phải hoàn vốn, vừa phải trả lãi. Nhưng lượng vốn đầu tư lại đang quyết định tốc độ tăng trưởng tới hơn một nửa. Trong khi đó yếu tố lao động được coi là nguồn lực nội sinh, hiện đang có nhiều lợi thế so sánh, như giá rẻ, dồi dào thì lại chỉ đóng vai trò rất nhỏ trong tăng trưởng. Đây là một vấn đề rất đáng quan tâm để tận dụng lợi thế so sánh động trong phát triển kinh tế và chủ động hội nhập. 2. Quá trình tăng trưởng Tốc độ tăng trưởng của giá trị tăng thêm thấp hơn tốc độ tăng trưởng của giá trị sản xuất do tốc độ tăng chi phí trung gian cao, làm tỷ lệ của chi phí trung gian tăng lên. Điều này diễn ra trong một thời gian khá dài ở cả ba khu vực. Tính chung trong thời kỳ 1991 - 2003, tăng trưởng giá trị sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp là 6,2%/năm, nhưng tăng trưởng giá trị tăng thêm chỉ đạt 4,1% , chỉ bằng 2/3 tốc độ tăng trưởng của giá trị sản xuất. Chi phí trung gian của khu vực này tăng cao do nhiều nguyên nhân; trong đó, có nguyên nhân khách quan như chi phí do phòng chống và khắc phục hậu quả thiên tai tăng (có năm thiệt hại lên đến gần 10 nghìn tỷ đồng); do giá cả thế giới thấp và sụt giảm liên tục. Ngoài ra, còn có nguyên nhân chuyển dịch cơ cấu những ngành có tỷ lệ chi phí trung gian cao hơn lại tăng nhanh hơn, nên đã làm cho tỷ lệ chi phí trung gian chung của toàn khu vực nông, lâm, ngư nghiệp tăng lên. Quy hoạch và thực hiện quy hoạch chưa tốt, đầu tư theo phong trào hoặc tự phát, tình trạng "trồng rồi lại chặt" khi vòng đời kinh tế chưa kết thúc, chưa thu hồi được vốn... do không có thị trường tiêu thụ. Chi phí đầu vào của hầu hết các khâu từ làm đất, thủy lợi, giống, bảo vệ thực vật,... đều còn ở mức cao. 3. Đầu ra của tăng trưởng Trong cơ chế thị trường, đầu ra - tiêu thụ sản phẩm, mới có ý nghĩa quyết định quá trình tái sản xuất xã hội. Trong các kênh tiêu thụ, xuất khẩu là một kênh có tầm quan trọng đặc biệt đối với nền kinh tế nước ta: năm 2003 chiếm trên 50% GDP (cao thứ 6 trong khu vực, thứ 9 ở châu Á và thứ 17 trên thế giới). Tuy nhiên, trong tổng kim ngạch xuất khẩu tỷ trọng hàng nguyên liệu, hàng thô, hàng sơ chế hoặc hàng gia công còn chiếm tỷ trọng khá cao, do đó khả năng thu ngoại tệ chưa khai thác hết. Trong tổng số 19,1 tỷ USD hàng xuất khẩu trong chín tháng đầu năm 2004, kim ngạch của những mặt hàng này chiếm 3/4 tổng kim ngạch xuất khẩu. Trong khi đó, nhập siêu vài năm gần đây lại gia tăng cả về giá trị kim ngạch nhập khẩu, cả về tỷ lệ nhập siêu: năm 1999 có 200,7 triệu USD (chiếm 1,7% xuất khẩu), năm 2001 là 1.189 triệu USD (chiếm 7,9%), năm 2002 là 3.039 triệu (chiếm 18,2%), năm 2003 lên 5.050 triệu USD (chiếm 25%), chín tháng đầu năm 2004 là 3.389 triệu USD (chiếm 17,8%). Điều đáng lưu ý là nhập siêu tập trung vào khu vực kinh tế trong nước, chứng tỏ chúng ta chưa tận dụng được thời cơ, chậm khắc phục thách thức do cắt giảm thuế suất thuế nhập khẩu theo những cam kết và lịch trình hội nhập.  Thêm vào đó, bên cạnh một số mặt hàng hiện đứng thứ nhất, thứ nhì thế giới hoặc khu vực, thì vẫn còn nhiều mặt hàng chưa có thương hiệu riêng hoặc phải đứng dưới thương hiệu của nước khác, nên chẳng những không quyết định được mức giá cả, mà còn không bán được với giá cả cùng loại như các nước khác. II. Thực trạng đói nghèo của Việt Nam trong thời gian qua 1. Tỷ lệ hộ nghèo ở nước ta đã giảm nhanh, trong đó thành thị giảm nhanh hơn nông thôn Năm 2004 tỷ lệ hộ nghèo ở nước ta là 8.3% tương đương với khoảng 1.45 triệu hộ ( năm 2001 tỷ lệ nghèo là 17.4% với khoảng 2.8 triệu hộ). Điều này cho thấy thực trạng nghèo đói đã được cải thiện nhanh. Xu hướng này được phản ánh cụ thể dưới đây: Tỷ lệ hộ nghèo ở nước ta trong thời gian qua Đơn vị: % Các chỉ tiêu 1993 1998 2002 Tỷ lệ hộ nghèo( theo chuẩn chung) Thành thị Nông thôn Tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn lương thực Thành thị Nông thôn Khoảng cach nghèo Thành thị Nông thôn 58.1 25.1 66.4 24.9 7.9 29.1 18.5 6.4 21.5 37.4 9.2 45.5 15 2.5 18.6 9.5 1.7 11.8 28.9 6.6 35.6 10.9 1.9 13.6 6.9 1.3 8.7 Nguồn: Chương trình phát triển của Liên hợp quốc(2003), báo cáo phát triển con người 2002 Nếu như năm 1993 có 58.1% hộ nghèo, thì năm 1998 có 37.4% hộ và đến năm 2002 tỷ lệ này là 28.9%(khoảng 4.73 triệu hộ nghèo) nghĩa là sau 10 năm hơn một nửa số hộ nghèo đã được thoát nghèo. Tuy nhiên tốc đọ giảm nghèo ở nông thôn và thành thị không giống nhau. Trong đó thành thị giảm đi tới 4 lần từ 25.1% năm 1993 xuống còn 6.6% năm 2002, trong khi đó nông thôn chỉ giảm được 1/2 số hộ nghèo, từ 66.4% xuống còn 35.6%. Nếu tính theo chuẩn lương thực thực phẩm thì số hộ nghèo ở thành thị còn giảm nhanh hơn, từ 7.9% xuống còn 1.9% nghĩa là giảm đi 4 lần trong khi đó ở nông thôn chỉ giảm đi hơn 2 lần. từ 29.1% xuống còn 13.6%. 2. Số hộ nghèo vẫn còn nhiều và phần lớn ở vùng nông thôn, số hộ ở cận kề chuẩn nghèo còn đông Theo các nhà hoạch định chính sách nếu nâng chuẩn nghèo lên 180.000 VND-200.000 VND/người /tháng đối với vùng nông thôn và 250.000 VND-260.000 VND/người/ tháng đối với thành thị, thì Việt Nam sẽ có 4.6 triệu hộ nghèo, chiếm 26% tổng số hộ toàn quốc. Trong đó hộ nghèo nông thôn miền núi 45.9%, ở vùng nông thôn đồng bằng sẽ là 23.2% và ở khu vực thành thị là 12.2%. Khi đó tỷ lệ nghèo ở các vùng kinh tế sẽ có chênh lệch đáng kể: Tây Bắc là 72.3%; Đông Bắc là 36.1%; Đồng bằng Sông Hồng 19.8%; Bắc Trung Bộ 39.7%; Duyên Hải miền Trung 23.3%; Tây Nguyên 52.2%; Đông Nam Bộ 10.2% và Đồng Bằng Sông Cửu Long20.8%. Có thể thấy rõ hơn qua chỉ tiêu phản ánh cuộc sống hàng ngày. Theo số liệu điều tra về mức sống dân cư Việt Nam, chia dân cư ra thành 5 nhóm thu nhập (đường Lozen) thì nhóm I - nhóm nghèo nhất có thu nhập trung bình năm 1998 là 62.916 VND/người/tháng (755.000 VND/năm) và năm 2002 là 107.670 VND/người/tháng. Trên 62.71 thu nhập của hộ nghèo là từ hoạt động nông lâm nghiệp và thủy sản, 8% từ hoạt động phi nông nghiệp, 19.24% từ tiền công, tiền lương và 10.05% là từ nguồn thu khác. Điều này phản ánh rằng các hộ nghèo sống chủ yếu dựa vào nông nghiệp và ở nông thôn. Cơ cấu chi tiêu cho các nhóm nghèo tập trung cho các nhu cầu thiết yếu, như 70% cho nhu cầu ăn, uống hút và chưa đến 30% cho các nhu cầu khác như mặc, y tế, giao thôn, giáo dục văn hóa thể thao. Một trong những nhu cầu cơ bản của con người là nơi ở. Năm 2002 có 39.93% người nghèo sống trong các ngôi nhà tạm bợ, không bảo đảm an toàn. Các đồ dùng lâu bền phục vụ sinh hoạt hàng ngày vẫn còn rất thiếu cho các nhu cầu hiện đại. 3. Sự phân hóa giàu nghèo giữa các khu vực, giữ các vùng kinh tế và giữa các đơn vị hành chính Sự phân hóa giàu nghèo là một hiện tượng được chú ý trong thời kỳ chuyển đổi kinh tế ở nước ta. Trước hết tỷ lệ nghèo phân biệt theo các vùng. Tỷ lệ nghèo theo chuẩn nghèo chung chia theo vùng Đơn vị: % Vùng 1998 2002 Đồng bằng sông Hồng Đông Bắc Tây Bắc Bắc Trung Bộ Duyên Hải Nam Trung Bộ Tây Nguyên Đông Nam Bộ Đồng bằng Sông Cửu Long 29.3 62.0 73.4 48.1 34.5 52.4 12.2 36.9 22.4 38.4 68.0 43.9 25.2 51 10.6 23.4 Nguồn: Tổng cục thống kê (2004) Các số liệu cho thấy tỷ lệ hộ nghèo ở cùng Tây Bắc nhiều gấp 7 lần vùng Đông Nam Bộ, còn Tây Nguyên là gần 5 lần và Bắc Trung Bộ là 4 lần Cùng với xu hướng giảm hộ nghèo chung của cả nước, các vùng cũng có xu hướng giảm, trong đó Đông Bắc và Đồng bằng Sông Cửu Long có mức giảm nhanh nhất. Các tỉnh có tỷ lệ nghèo lương thực, thực phẩm cao nhất tập trung ở miền núi phía Bắc là Lai Châu (35.68%), Bắc Kạn (30.74%), Lào Cai (29.56%), Cao Bằng (27.01%) ở Tây Nguyên có tỉnh Gia Lai( 18.18%), ở Bắc Trung Bộ có tỉnh Hà Tĩnh (22.55%). Các tỉnh có tỷ lệ nghèo lương thực, thực phẩm thấp nhất là thành phố Hồ Chí Minh (1.26%), Bình Dương (1.68%), Đà Nẵng (1.83%), Hà Nội (2.25%). Nếu so sánh chỉ tiêu này chúng ta thấy sự chệnh lệch này rất lớn, thí dụ tỷ lệ nghèo của Lai Châu lớn gấp hơn 28.3 lần so với Thành Phố Hồ Chí Minh và gấp 15.86 lần so với Hà Nội. 1.4 Sự bất bình đẳng giữa các nhóm dân cư Sự phân hóa giàu nghèo thể hiện rõ khi điều tra dựa trên 5 nhóm thu nhập (đường Lozen). Năm 2002 nhóm giàu nhất có thu nhập 873.000 VND/người/tháng gấp 8.1 lần nhóm nghèo nhất (108.000VND) Sự bất bình đẳng đó thể hiện qua: Sự bất bình đẳng giữa nhóm nghèo nhất và giàu nhất năm 2002 Các chỉ tiêu chủ yếu Nhóm nghèo nhất Nhóm giàu nhất 1.Tỷ lệ biết chữ (%) 2.Chỉ tiêu cho giáo dục bình quân năm (1.000VND) 3.Tỷ lệ đến khám chữa bệnh tại các cơ sở y tế (%) 4.Chi tiêu cho y tế bình quân năm (1.000VND) 5.Số giờ làm việc trung bình tuần (giờ) 6.Thu nhập bình quân đầu người tháng (1.000VND) 7.Chi tiêu cho đời sống bình quân người/tháng (1.000VND) 8.Diện tích ở bình quân nhân khẩu (m2) 9.Tỷ lệ hộ sử dụng nước máy (%) 83.9 236 16.5 395.03 25 108 123.3 9.5 1.28 97 1418 22 1181.43 42.4 873 547.53 17.5 34.93 Nguồn: Tổng cục thống kê (2004) Kết quả cho thấy mức độ bất bình đẳng giữa hai nhóm dân cư giàu nhất và nghèo nhất. Nhóm dân cư giàu đã có ưu thế trong nhiều lĩnh vực dịch vụ, kể cả việc làm. Bởi vì số giờ làm việc trung bình của nhóm giàu nhiều hơn nhóm nghèo đến 1.7 lần, không phải những người nghèo làm ít giờ và không muốn làm việc, mà do tình trạng thiếu việc làm, đặc biệt là thời gian nhàn rỗi ở khu vực nông thôn. Sự phân hóa giàu nghèo còn được thể hiện qua hệ số GINI. Hệ số GINI ở Việt Nam: năm 1994 là 0.35, năm 1999 là 0.39 năm 2002 là 0.42. Chỉ tiêu này có khác biệt nhưng không nhiều giữa các khu vực và các vùng. Điều đấy cho thấy sự bất bình đẳng về thu nhập ở mức thấp nhưng đang có xu hướng gia tăng. 1.5 Tỷ lệ hộ đói nghèo ở các xã đặc biệt khó khăn còn 20% Sau 7 năm thực hiện, chương trình phát triển kinh tế-xã hội các xã đặc biệt khó khăn miền núi, vùng sâu, vùng xa (còn gọi là chương trình 135) đã góp phần giảm tỷ lệ hộ đói nghèo ở những vùng này từ 60% năm 1998 xuống còn 20% hiện nay. Chương trình 135 được thực hiện ở 2410 xã của 52 tỉnh. Những kết quả đạt được của Chương trình này đã tạo nên sự thay đổi về vật chất, tinh thần trong đời sống mỗi gia đình, mỗi thôn bản và cả bộ mặt nông thôn miền núi, rõ nét nhất là trên lĩnh vực cơ sở hạ tầng thiết yếu gồm điện, đường, trường học và trạm xá. Đến nay, đã có 97% số xã đặc biệt khó khăn có đường ôtô đến trung tâm xã, tạo nên sự giao lưu kinh tế, hàng hóa thuận lợi hơn. Khoảng 64% số hộ vùng sâu, vùng xa có điện sử dụng, nhờ đó năng suất lao động được tăng lên và nhiều ngành nghề tiểu thủ công nghiệp ở miền núi phát triển. Trên 5000 trường học đã được xây dựng và đưa vào sử dụng, thu hút 90% con em người dân tộc vùng sâu, vùng xa trong độ tuổi đến lớp. Hiện có 96% số dân trong vùng được chăm sóc sức khỏe tại gần 390 công trình y tế. Đa số thôn bản đều có y tế cộng đồng, cơ bản trong vùng đã kiểm soát được dịch bệnh hiểm nghèo Gần 300 công trình thủy lợi đã góp phần quan trọng trong việc quy hoạch và bố trí lại dân cư ở những nơi cần thiết và ở các vùng biên giới. Khoảng 70% hộ dân đã được sử dụng nước sạch. Hàng trăm công trình chợ đã trở thành trung tâm giao lưu hàng hóa nông -lâm thổ sản và là nơi giao lưu văn hóa của mỗi vùng. Trạm bưu điện văn hóa xã xây dựng ở nhiều nơi đã giúp người dân giao lưu, mở rộng thông tin với cả nước. Nhờ khai hoang đất canh tác, gần 32 nghìn hộ dân đã có thêm đất sản xuất và có nơi ở mới. Lương thực bình quân đầu người đã tăng từ 280kg năm 1998 lên 320kg năm 2004, cá biệt có xã đạt 500kg. Khoảng cách đói nghèo giữa các vùng, các dân tộc đang dần được thu hẹp. Mặc dù đạt được kết quả như vậy, nhưng thực tế các xã đặc biệt khó khăn vẫn còn đối mặt với nhiều thách thức do trình độ dân trí của người dân trong vùng vẫn còn thấp, cuộc sống vẫn bị chi phối của nền kinh tế tự cấp, tự túc; cơ sở vật chất hạ tầng chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển do phần lớn công trình được xây dựng quy mô nhỏ, thiếu đồng bộ và thiếu yếu tố đảm bảo bền vững. Gần 90 xã vẫn chưa có đường ôtô đến trung tâm, 550 xã chưa có điện lưới quốc gia và 290 xã chưa có trạm xá. Theo báo cáo của Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội, nếu tính theo tiêu chí nghèo mới được Việt Nam công bố tháng 7/2005, tỷ lệ hộ nghèo ở vùng Tây Bắc lên tới trên 60%, Tây Nguyên 50%. III - Thực trạng mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và xóa đói giảm nghèo 1. Phân phối thu nhập thời gian qua ở Việt Nam Nhờ có chính sách phân phối lại qua hệ thống thuế, Nhà nước có thể huy động được một nguồn lực quan trọng để phân phối lại cho đầu tư và đảm bảo chi thường xuyên. Đặc biệt trong thời gian gần đây Nhà nước đang đẩy mạnh việc thu thuế thu nhập cá nhân, điều này sẽ giúp tăng thu ngân sách, phân phối lại thu nhập giảm khoảng cách giàu nghèo. Kết quả giai đoạn 1991-2000 kinh tế tăng trưởng đạt 7.56%, tỷ lệ huy động từ GDP giảm từ 25% xuống 20% nên thu nhập của người dân tăng lên nhanh theo đà tăng trưởng kinh tế, 1991-1995 tăng trưởng bình quân năm 8.2% thì thu nhập bình quân là 168.000VND/năm, 1996-2000 tăng trưởng 6.9% thu nhập bình quân là 226.700VND. Do kinh tế ở đô thị phát triển nhanh hơn nông thôn lên thu nhập ở thành thị chênh lệch với nông thôn giai đoạn 1990-1995 là 2.55 lần, giai đoạn 1996-2000 gấp 2.1 lần. Phân phối lần đầu qua hệ thống tiền công, tiền lương có điều chính chính sách nên đời sống công nhân viên chức được cải thiện, tuy rằng khoảng cách giàu nghèo giữa các nghành nghề, khu vực có xu hướng gia tăng. Mặc dầu sự bình đẳng trên các vùng có cải thiện nhưng do trình độ phát triển có chênh lệch giữa các vùng nên độ phân hóa trong cả nước vẫn doãng ra. Nhưng đối với nông thôn, khoảng cách giàu nghèo có giảm do kết quả chính sách bỏ thuế sát sinh, miễn giảm thuế nông nghiệp, trợ giá, hỗ trợ nông dân, thực hiện xóa đói giảm nghèo. Thu nhập ở nông thôn 1993-1994 bình quân nhóm nghèo nhất là 63.000VND, nhóm giàu nhất là 409.000VND (chênh lệch 6.5 lần) giai đoạn 2001-2002 nhóm nghèo nhất là 100.000VND nhóm giàu nhất là 599.000VND (chênh lệch 6 lần,giảm 0.5). 2. Những thành tựu đã đạt được của sự kết giữa tăng trưởng và xoa đói giảm nghèo Từ quan điểm cơ bản: "tăng trưởng kinh tế gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và trong suốt quá trình phát triển", thể hiện tính ưu việt của chế độ xã hội ở Việt Nam, gần 20 năm qua, Đảng và Nhà nước ta đã vạch ra hàng loạt các chương trình, mục tiêu quốc gia nhằm giải quyết những vấn đề xã hội bức xúc (dạy nghề, tạo việc làm, xuất khẩu lao động, xóa mù, phổ cập tiểu học, xóa đói giảm nghèo (Chương trình 133), hỗ trợ các xã đặc biệt khó khăn (Chương trình 135), chính sách đối xử với người có công, v.v..). Hàng loạt văn bản luật và dưới luật được thể chế hóa để giải quyết các vấn đề xã hội: xây dựng Luật Lao động, Luật Giáo dục, Pháp lệnh Nghĩa vụ công ích, Luật Phòng chống ma túy, Luật Di sản văn hóa, Pháp lệnh Thư viện, Pháp lệnh về các lĩnh vực y tế, giáo dục, thể thao, Nghị định về đưa lao động đi làm việc ở nước ngoài, cải tiến tiền lương, thực hiện bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, v.v.. Nhờ vậy nước ta đã đạt được những thành tựu quan trọng trong giải quyết các vấn đề xã hội. Trước hết là đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt: thu nhập bình quân đầu người nước ta từ 220USD/người/năm trong đầu những năm 90 của thế kỷ XX đã tăng lên 400USD/người/năm (2000), tăng 1,8 lần, 483USD/người/năm (2003) và 580 USD/người/năm (2004). Theo đánh giá của WB thì tỷ lệ nghèo đói của Việt Nam giữa những năm 80 là 51% giảm xuống 37% cuối những năm 90 của thế kỷ XX, được xếp vào nước có tỷ lệ đói nghèo giảm nhanh. Còn theo chuẩn của Việt Nam thì tỷ lệ hộ nghèo đói ở nước ta từ 30,1% năm 1992 xuống 11% năm 2000 và theo chuẩn mới thì năm 2002 còn 17,2%, đến năm 2004 giảm xuống còn 8,3%. Chỉ riêng ngân sách nhà nước chi cho các chương trình quốc gia liên quan đến mục tiêu xóa đói giảm nghèo đã chiếm trên 21 tỉ đồng. Nguồn quỹ tín dụng giúp hộ nghèo vay vốn lãi suất thấp được mở rộng. Ngân hàng phục vụ người nghèo đến cuối năm 1999 đã huy động được 4.078 tỉ đồng. Tổng dư nợ đạt 3.503 tỉ đồng, đã cho 2.170.000 hộ vay, bình quân mỗi hộ vay 1,56 triệu đồng. Có hàng trăm chương trình, dự án với hơn 40 tỉ đồng giúp hộ nghèo, huyện nghèo, xã nghèo. Theo đánh giá của Liên hợp quốc thì Việt Nam đã giảm được 1/2 tỷ lệ đói nghèo trong thập niên vừa qua. Nước ta đã xây dựng được quỹ trợ cấp thường xuyên và trợ cấp đột xuất. Hàng năm, có từ 1 triệu đến 1,5 triệu người (gồm người già neo đơn, trẻ mồ côi, người tàn tật, trẻ lang thang hoặc các gia đình bị thiên tai) được cứu tế. Riêng năm 1999 và 2000 nhờ quỹ trợ cấp đột xuất, hàng triệu hộ được cứu trợ do bị lũ lụt ở miền Trung và Nam Bộ. Mức tiêu dùng bình quân tăng từ 2,6 triệu đồng/người/năm (1995) lên 4,3 triệu đồng/người/năm (2001). Việt Nam được công nhận là nước đạt chuẩn xóa mù chữ, phổ cập tiểu học. Đầu tư cho giáo dục trong tổng đầu tư ngân sách năm 2000 là 15% và năm 2003 là trên 16%. Tính đến hết năm 2003, có tới 19 tỉnh, thành phố đạt tiêu chuẩn phổ cập trung học cơ sở. Về y tế, có 97,5% số xã có trạm y tế, trên 40% cơ sở y tế xã có bác sỹ, có 80% số thôn, bản có nhân viên y tế cộng đồng, 95% trẻ dưới 5 tuổi được tiêm chủng mở rộng. Giảm nhanh tỷ lệ trẻ dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng (đến nay còn 34%). Năm 1996, tỷ lệ tử vong trẻ sơ sinh và trẻ dưới 5 tuổi ngang với Thái Lan là nước có GDP cao hơn nước ta nhiều lần. Tuổi thọ trung bình tăng từ 66 tuổi (1989) lên 68 tuổi (1999) và 69 tuổi (2003). Tỷ lệ sinh giảm 0,8% (kế hoạch đề ra là 0,6%). Tỷ lệ tăng dân số từ 2% đầu thập niên 90 của thế kỷ trước giảm xuống 1,32% năm 2002. Từ năm 1996 đến nay, có hàng nghìn tỉ đồng của Nhà nước và nhân dân tham gia nhằm giải quyết việc làm. Tỷ lệ thất nghiệp giảm từ 9% - 10% (1990) xuống 6,5% (2000). Trong 3 năm 2001 - 2003, đã giải quyết việc làm cho 4,3 triệu người, trong đó, nông nghiệp 2,6 triệu, công nghiệp 90 vạn và dịch vụ khoảng 76 vạn. Năm 2004, đã tạo việc làm mới cho hơn 1,5 triệu lao động, đạt 103% kế hoạch đề ra, riêng Quỹ quốc gia hỗ trợ việc làm đã giải quyết cho 35 vạn lao động. Chỉ số phát triển người (HDI) của Việt Nam tăng khá so với các nước nghèo và đang phát triển. Theo báo cáo về phát triển người của Liên hợp quốc: năm 1997, HDI của Việt Nam là 0,557 xếp thứ 121/174 nước, năm 1999 là 0,662 xếp thứ 110, năm 2000 xếp thứ 108/174 và năm 2001 xếp thứ 109/175 nước, năm 2003 xếp thứ 101/174 nước. Với mức tăng trưởng kinh tế của năm 2001 tăng 6,9%, năm 2002 tăng 7,04% và năm 2003 tăng 7,24%, năm 2004 tăng 7,6% và hầu hết chỉ tiêu phát triển xã hội đều đạt hoặc vượt kế hoạch thì càng thấy rằng Việt Nam luôn luôn kết hợp tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội từng bước xóa bỏ đói nghèo trên con đường phát triển của mình. 3. Những thách thức cần phải giải quyết Một là nền kinh tế nước ta đã có tốc độ tăng trưởng khá cao trong thời gian qua, song chất lượng tăng trưởng chưa cao, chưa khai thác hết tiềm năng khai thác hết tiềm năng kinh tế của đất nước. Hai là, việc làm thất nghiệp, chất lượng lao động luôn là vấn đề nan giải của quốc gia, nhất là đối với các nước có xuất phát điểm thấp như nước ta. Ba là, mâu thuẫn về thu nhập là mâu thuẫn cố hữu của nền kinh tế hàng hóa. Bởi vì người chủ sở hữu tư liệu sản xuất thường có thu nhập ngày càng cao, thu nhập của người lao động thì ít thay đổi làm cho khoảng cách giữa giới chủ và người lao động ngày càng lớn. Bốn là, giáo dục và chăm sóc y tế không dược nhà nước bao cấp hoàn toàn như cơ chế cũ , nên người nghèo không đủ tiền chữa bệnh, con em người nghèo phải bỏ học vì không có tiền đóng học phí. Như vậy sẽ dẫn đến tình trạng năng lực của người lao động không có trình độ văn hóa chuyên môn nghiệp vụ sức khỏe kém sẽ không đáp ứng nhu cầu của phát triển nền kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa và từng bước chuyển sang nền kinh tế trí thức. Năm là, sự chênh lệch về mức sống vật chất và tinh thần giữa các vùng nông thôn , thành thị, vùng dồng bằng, miền núi và giữa các tầng lớp dân cư sẽ ngày một lớn hơn, sự bất bình đẳng sẽ cao hơn. Chương III Phương hướng và giải pháp cho mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và xóa đói giảm nghèo I - Phương hướng cho mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và xóa đói giảm nghèo 1.Quan điểm của Đảng về tăng trưởng kinh tế và xóa đói giảm nghèo Nghị quyết Đại hội toàn quốc lần thứ VI và các nghị quyết của ban chấp hành Trung ương, bộ chính trị khóa VI đều có tư tưởng nhất quán là giải phóng sức lao động toàn xã hội, khuyến khích mọi thành viên xã hội năng động, sáng tạo sản xuất ra nhiều của cải, thúc đẩy tăng trưởng và sử dụng nhiều hình thức phân phối, song phân phối theo lao động vẫn là chủ yếu. Đại hội toàn quốc lần thứ VI của Đảng đã đặt nền tảng lý luận cho quá trình đổi mới cơ chế quản lý kinh tế nước ta. Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII lại khẳng định "thực hiện nhất quán chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần, tạo động lực và môi trường hơn nữa cho các thành phần kinh tế, các loại hình doanh nghiệp phát triển nhanh và có hiệu quả cao". Hội nghị cũng nhấn mạnh "tăng cường quản lý vĩ mô của nhà nước nhằm định hướng và chỉ đạo sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế - xã hội, khắc phục những mặt khiếm khuyết vốn có của cơ chế thị trường, làm cho thị trường thực sự là công cụ quan trọng trong việc phân bổ và sử dụng có hiệu quả hơn các nguồn lực, phân phối và phân phối lại thu nhập quốc dân, bảo đảm quan hệ tích lũy - tiêu dùng điều tiết lợi ích giữa các thành phần kinh tế, các tầng lớp dân cư, đáp ứng yêu cầu tăng trưởng nhanh hơn, ổn định vững chắc hơn, công bằng xã hội nhiều hơn". Các tư tưởng đó được thể hiện qua các chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước đều coi con người là trung tâm,phát huy nhân tố con người, với tư cách vừa là động lực, vừa là mục tiêu của sự phát triển. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã kế thừa và phát huy tư tưởng của các kỳ Đai hội trước đó và là tư duy kinh tế cơ bản xuyên suốt cả thời kỳ đấu tranh xây dựng, bảo vệ Tổ quốc. Đai hội nêu "Phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường. 2. Phương hướng phân phối thu nhập ở Việt Nam Kết hợp nhiều hình thức phân phối, trong đó phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế là chính, thực hiện tốt các chính sách xã hội. Muốn cho nền kinh tế thị trường không ngừng nâng cao đời sống nhân dân, bảo đảm tốt các vấn đề xã hội và thực hiện công bằng xã hội, thì Nhà nước phải chủ động thực hiện và điều tiết các quan hệ phân phối, cụ thể như: - Kết hợp vấn đề lợi nhuận với vấn đề xã hội. Mục đích của sự kết hợp này là vừa bảo đảm cho các chủ thể tham gia kinh tế thị trường có điều kiện đua tranh phát huy tài năng và có lợi nhuận cao, vừa tạo được điều kiện chính trị - xã hội bình thường cho sự phát triển kinh tế. -Kết hợp chặt chẽ những nguyên tắc phân phối của chủ nghĩa xã hội và nguyên tắc của kinh tế thị trường, như: phân phối theo lao động, theo vốn, theo tài năng, phân phối qua quỹ phúc lợi xã hội... trong đó, phải làm sao để quan hệ phân phối theo lao động đóng vai trò chủ đạo. Thừa nhận sự tồn tại của các hình thức thuê mướn lao động, các quan hệ thị trường sức lao động, nhưng không để chúng biến thành quan hệ thống trị, dẫn đến tình trạng không kiểm soát được sự phân hóa xã hội thành hai cực đối lập. -Nhà nước chủ động điều tiết thu nhập giữa các tầng lớp dân cư. Một mặt, Nhà nước phải có chính sách để giảm bớt khoảng cách chênh lệch giữa lớp người giàu và lớp người nghèo, không để diễn ra sự chênh lệch quá mức giữa các vùng, miền, các dân tộc và các tầng lớp dân cư, thực hiện tốt chính sách an sinh xã hội. Mặt khác, phải có chính sách, biện pháp bảo vệ thu nhập chính đáng, hợp pháp cho người giàu, khuyến khích người có tài năng.  Việc điều tiết phân phối thu nhập được thực hiện theo hai kênh: Nhà nước xã hội chủ nghĩa là chủ thể duy nhất tiến hành tổ chức điều tiết phân phối thu nhập trên phạm vi toàn xã hội, nhằm bảo đảm công bằng xã hội; thị trường có những nguyên tắc riêng trong điều tiết phân phối thu nhập. Chế độ phân phối trong xã hội là sự kết hợp giữa cơ chế thị trường và sự quản lý, điều tiết của Nhà nước. Trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, việc thực hiện công bằng xã hội không thể chỉ dựa vào chính sách điều tiết và phân phối lại thu nhập của các tầng lớp dân cư, mà còn phải thực hiện tốt các chính sách phát triển xã hội, nhằm giải quyết hài hòa các mối quan hệ xã hội, phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, phấn đấu vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. 3.Phương hướng tăng trưởng kinh tế kết hợp xóa đói giảm nghèo 3.1. Phương hướng chung Nhà nước tiếp tục tạo môi trường cho kinh tế hàng hóa phát triển mà trước hết là tạo ra hành lang pháp lý đồng bộ bảo đảm cho các tổ chức, ca nhân tự do sáng tạo, độc lập tự chủ trong sản xuất kinh doanh làm ra nhiều của cải, nhưng nhà nước vẫn định hướng và kiểm soát họ hướng tới mục tiêu " dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủm, văn minh". Đồng thời phải đầu tư phát triển hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội, có chính sách thu hút đầu tư, huy động nguồn lực đến các vùng xâu, vùng xa vùng kinh tế khó khăn, hỗ trợ vốn sản xuất và giúp đỡ về thông tin thị trường, hỗ trợ tiêu thụ sản phẩm để mở rộng phát triển sản xuất kinh doanh ở các vùng có thu nhập thấp, khó khăn. Cải cách triệt để chế độ tiền lương để tiền lương để tiền lương thực sụ là động lực thúc đẩy người lao động hăng say làm việc, gắn bó trách nhiệm với công việc được giao, tiền lương phải tiền tệ hóa triệt để và thực hiện phân phối theo lao động với hiệu quả kinh tế xã hội. Nhà nước cần tăng đầu tư cho giáo dục và chỉ đạo thực hiện có hiệu quả chính sách xã hội hóa giáo dục song cần có chính sách cụ thể giúp đỡ hỗ trợ, khuyến khích con em người nghèo được đi học, đi học không còn là quyền lợi mà còn là nghĩa vụ từng bước thực hiện xã hội hóa học tập, học tập suốt đời. Chăm sóc sức khỏe cho công đồng, không chỉ thể hiện tính ưu việt của xã hội ta mà còn là yêu cầu nâng cao chất lượng nguồn lao động, yếu tố cơ bản của tăng trưởng kinh tế. Do vậy nhà nước cần đầu tư tăng cường toàn diện cho nghành y tế, song cũng cần huy động sự đóng góp của dân cư thông qua bảo hiểm y tế và các hình thức trợ giúp từ thiện của các tổ chức chính trị xã hội tôn giáo, các nhân trong công đồng. Nhà nước chích ngân sách mua bảo hiểm y tế cho người nghèo và khuyến khiách cộng đồng hỗ trợ cho người nghèo để họ được chăm sóc y tế khi mắc bệnh. Khuyến khích các hình thức bệnh viện tư nhân, bệnh viện từ thiện phát triển để cùng với bệnh viện nhà nước chăm sóc sức khỏe cho cộng đồng tốt hơn. Nhà nước nên có chính sách ưu đãi phù hợp để các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài đầu tư vào các vùng sâu, vùng xa, vùng có thu nhập thấp, nhưng họ vẫn thu được lợi nhuận bằng hoặc cao hơn vào các đô thị và các tỉnh đồng bằng. Khi các công trình được hình thành sẽ thu hút lao động, tạo thu nhập cho địa phương và các cụm dân cư được hình thành, từng bước cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của vùng. 3.2. Mục tiêu đến năm 2010 trong chiến lược xóa đói giảm nghèo quốc gia Mục tiêu về tăng trưởng kinh tế: tốc độ tăng trưởng GDP năm 2010 tăng gấp đôi năm 2000. Trong đó công nghiệp và xây dựng cơ bản tăng 10% đến 10.5%, nhịp độ xuất khẩu tăng gấp 2 lần nhịp độ tăng GDP. Tỷ trọng GDP trong nông nghiệp là 16-17%, công nghiệp là 40-41%, dịch vụ từ 42-43%. Mục tiêu về xóa đói giảm nghèo: từ 2000 đến 2010 giảm 2/5 tỷ lệ nghèo theo chuẩn nghèo quốc tế và 3/5 theo chuẩn chương trình mục tiêu xóa đói giảm nghèo và việc làm, giảm 3/4 tỷ lệ nghèo về lương thực theo tiêu chuẩn quốc tế (2100 kcal/người/ngày). Mục tiêu về cơ sở hạ tầng: 100% số xã nghèo, xã đặc biệt khó khăn có đủ hạ tầng cơ sở thiết yếu, mở rộng điện lưới quốc gia đến 900 xã nghèo. Bảo đảm cơ sở hạ tầng thiết yếu nhất là nước và vệ sinh cho các khu nghèo trong các thành phố, thị xã. Đến 2010 85% dân số nông thônđược sủ dụng nước hợp vệ sinh. Mục tiêu về việc làm: Giải quyết thêm việc làm cho 1.4 đến 1.5 triệu lao động/năm, nâng tỷ lệ lao động nữ trong tổng số việc làm mới lên 50% vào năm 2010. Tỷ lệ lao động qua đào tạo là 40% năm. tỷ lệ thời gian lao động được sủ dụng của lực lượng lao động trong độ tuổi của nông thôn đạt 85%. Tỷ lệ lao động trong độ tuổi lao động chưa có việc làm ở thành thị dưới 5%. Mục tiêu về giáo dục: năm 2010 đạt 99% đi học tiểu học và 90% trung học cơ sở. Từng bước nâng cao chất lượng giáo dục và nâng tỷ lệ học hai buổi ở giáo dục bậc tiểu học. Thu hẹp chênh lệch tỷ lệ đi học giữa các dân tộc ở cấp tiểu học và trung học cơ sỏ. Phấn đấu xóa mù chữ cho 100% số phụ nữ bị mù chữ ở độ tuổi dưới 40 tuổi. Mục tiêu về giảm tỷ lệ sinh và tỷ lệ tử vong ở trẻ em và suy dinh dưỡng: Giảm tỷ lệ tử vong của trẻ dưới 1 tuổi xuống còn dưới 25‰ giảm tỷ suất trẻ em tử vong dưới 5 tuổi là 32 ‰. Giảm tỷ lệ trẻ suy dinh dưỡng của trẻ em dưới 5 tuổi xuống 20%. Giảm nhanh tỷ lệ trẻ sinh thiếu cân (dưới 2.500 gram) còn 5%. Mục tiêu về sức khỏe sinh sản, HIV/AIDS, bệnh dịch và các bệnh xã hội: Giảm tỷ suất chết mẹ do liên quan đến thai sản xuống 70/100.000 trẻ đẻ sống trong toàn quốc (100/100.000 trẻ đẻ sống ở miền núi) duy trì kết quả thanh toán bệnh bạI liệt, khống chế đến mức thấp nhất tỷ lệ mắc và chết thấp nhất của các bệnh tả, thương hàn, sốt xuất huyếtKiềm chế tốc độ lây truyền HIV/AIDS, kiểm soát tiến tới khống chế các bệnh xã hội. Mục tiêu về phát triển văn hóa thông tin và nâng cao đời sống tinh thần của nhân dân: Đến năm 2005 phấn đấu đạt 80% gia đình đạt chuẩn gia đình văn hóa, 50% làng xóm khu phố đạt chuẩn van hóa quốc gia, 78% xã phường có nhà văn hóa. Năm 2005, 90% các hộ gia đình xem được đài truyền hình Việt Nam, 95% số hộ được nghe đài tiếng nói Việt Nam. Tăng thời lượng chương trình và giờ phát sóng, phát thanh tiếng dân tộc. Mục tiêu bảo vệ môi trường bền vững: Tỷ lệ che phủ rừng đạt 43% năm 2010. Đảm bảo không còn nhà ổ chuột và nhà tạm ở tất cả các thành phố , thị xã. 100% nước thải được sủ lý tại các thành phố lớn và thị xã. 100% chất thải rắn được thu gom và vận chuyển đến bãi an toàn ở tất cả các thành phố và thị xã. Giảm khả năng dễ bị tổn thương: Cải thiện đáng kể thu nhập của người nghèo đến 2010 tăng thu nhập của 20% nhóm tiêu dùng nghèo nhất bằng 190% của năm 2000. Cải thiện khả năng tiếp cận của người nghèo đối với các dịch vụ xã hội cơ bản. Mở rộng hệ thống an sinh xã hội. Bảo đảm an toàn việc làm. Giải quyết triệt để trẻ em lao động sớm, tre em lang thang. Bảo vệ tre em tránh bị bóc lột về kinh tế và lạm dụng tình dục. Đến năm 2010 giảm 1/2 tỷ lệ người nghèo bị tái nghèo do thiên tai và các rủi ro khác. Mục tiêu về bình dăng giới và tăng quyền cho phụ nữ: Tăng số phụ nữ trong các cơ quan do dân bầu, và trong bộ máy chính quyền của tất cả các cấp, các nghành thêm 3-5% trong vòng 10 năm. Giảm nguy cơ tổn thương cho phụ nữ trước nạn bạo hành trong gia đình. Đảm bảo dân chủ ở cơ sỏ và ngân sách minh bạch. Để đảm bảo tốt việc qảnt lý của nhà nước. Để tất cả các mục tiêu trên trở thành hiện thực cần phải có rất nhiều các biện pháp hình thức để triển khai. III -Giải pháp để tăng trưởng bề vững kết hợp xóa đói giảm nghèo hiệu quả ở Việt Nam 1.Phát triển cơ sở hạ tầng để tạo cơ hội cho các xã nghèo, vùng nghèo, người nghèo tiếp cận các dịch vụ công Tiếp tục phát triển kết cấu hạ tầng (giao thông, bưu điện, điện...) tạo khả năng thuận lợi cho phát triển kinh tế - xã hội. Tập trung phát triển các cơ sở hạ tầng phục vụ tiếp thị và thương mại như: cảng, kho tàng, bến bãi, chợ,... thông tin thị trường nhằm giảm giá thành, tăng khả năng cạnh tranh của hàng hóa nông sản. 1.1. Phát triển và sử dụng điện cho các xã nghèo Đối với những xã nghèo ở vị trí địa lý có khả năng nối lưới, Nhà nước hỗ trợ vốn đầu tư để xây dựng mới đường dây tải điện để nối điện lưới quốc gia theo cơ chế: Nhà nước đầu tư đường dây điện cao thế, máy biến áp trung thế và công tơ tổng. Phần còn lại (từ sau công tơ tổng) huy động nhân dân cùng góp vốn xây dựng đường hạ thế và kéo điện vào từng nhà. Thực hiện quản lý việc phân phối và bán điện tới từng hộ và trả tiền điện cho Nhà nước theo giá tại công tơ tổng. Có các hình thức tổ chức quản lý, phân phối và thu tiền phù hợp như: tổ chức Ban điện xã; hợp tác xã tiêu thụ điện; đấu thầu một nhóm hộ đảm nhận, hoặc công ty điện lực trực tiếp bán điện tới hộ. Đối với những xã không có khả năng nối lưới (khoảng 200 xã trong tổng số xã nghèo hiện nay), Nhà nước hỗ trợ vốn hoặc cho vay tín dụng ưu đãi với lãi suất bằng không để nhân dân tự làm các công trình cấp điện tại chỗ như: thủy điện nhỏ; máy phát điện gia đình, liên gia đình sử dụng các loại hình năng lượng khác (năng lượng mặt trời, gió tự nhiên...). Đối với các hộ gia đình thuộc diện đặc biệt khó khăn, Nhà nước sẽ hỗ trợ thêm một phần kinh phí để nối điện từ nguồn chung vào đến nhà và lắp đặt đường dây điện trong nhà. Nhà nước hỗ trợ đào tạo, tập huấn cán bộ, nhân viên làm nhiệm vụ quản lý và vận hành và duy tu bảo dưỡng hệ thống phân phối điện một cách có hiệu quả, trước mắt ưu tiên cho vùng sâu, vùng xa, vùng có địa hình phức tạp. Nhà nước chỉ đạo giá điện sinh hoạt cho người nghèo để đảm bảo không quá cao so với giá điện sinh hoạt trong định mức ở các đô thị. Chi phí duy tu bảo dưỡng công trình điện được tính từ tiền sử dụng điện hàng năm. Những xã đặc biệt khó khăn Nhà nước hỗ trợ một phần sửa chữa lớn. 1.2. Về phát triển đường giao thông Để phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng giao thông như mục tiêu đề ra cần tiếp tục triển khai rộng rãi chủ trương Nhà nước và nhân dân cùng làm để xây mới, nâng cấp đường giao thông và thay thế các cầu khỉ tạo thuận lợi cho dân cư sản xuất và sinh hoạt. Bảo đảm có đường ô tô đến các trung tâm xã, cụm xã, riêng đối với các tỉnh miền núi: làm đường cho xe cơ giới vừa và nhỏ về tới trung tâm các xã hoặc cụm xã; nơi có địa hình khó khăn, giai đoạn đầu mở đường cho xe cơ giới 2 bánh hoặc xe ngựa thồ, sau đó mở rộng tiếp cho xe ô tô. Đến 2005, bảo đảm 30% mặt đường được bê tông hoá, 70% đường giao thông nông thôn đi lại quanh năm; xóa bỏ 80% cầu khỉ khu vực Đồng bằng sông Cửu Long. Từng bước sử dụng phương tiện vận tải công cộng; phục vụ vận chuyển hàng hóa và hành khách khu vực nông thôn, khu vực đói nghèo. Đối với các xã vùng sâu, vùng xa và nơi thành lập khu công nghiệp nông thôn, Nhà nước có chính sách đặc biệt để xây dựng các tuyến đường nối với đoạn giao thông chính, nâng cấp các tuyến đường đã xuống cấp. Đối với cải tạo nâng cấp và mở rộng đường nội xã, vốn đầu tư chủ yếu do dân đóng góp (60% bằng sức lao động, vật tư tại chỗ), Nhà nước hỗ trợ (30%) dưới dạng vật tư thiết yếu như xi măng, sắt, thép. Ưu tiên đầu tư vào cải tạo, nâng cấp, mở rộng các tuyến đường đã có, tập trung cho các tuyến đường chưa thông xe bốn mùa. Việc xây mới sẽ được xem xét khi có đủ nguồn vốn. Đối với cải tạo nâng cấp đường liên xã, nối xã với huyện và các trục giao thông chính ở các xã nghèo, Nhà nước hỗ trợ phần lớn vật tư thiết yếu, chi phí máy thi công, công máy san ủi, phần còn lại huy động nguồn vốn tại địa phương. Để huy động nhiều hơn và có hiệu quả các nguồn vốn đã có, cần lồng ghép, hợp nhất các nguồn vốn từ chương trình 135, chương trình xây dựng trung tâm cụm xã miền núi, vùng cao, chương trình phát triển kinh tế - xã hội các tỉnh miền núi phía Bắc, Tây nguyên, Đồng bằng sông Cửu Long. Công khai khả năng tham gia của người dân ở các xã nghèo, cộng đồng nghèo để lựa chọn và quyết định xây dựng cải tạo, nâng cấp đường giao thông dựa trên vốn và nguồn lực hỗ trợ của Nhà nước. Thực hiện nghiêm chỉnh Quy chế Dân chủ cơ sở, gắn quyền lợi, trách nhiệm, tình cảm của nhân dân địa phương vào đầu tư, khai thác, sử dụng công trình đường giao thông. Việc lựa chọn, ra quyết định xây dựng cần thực hiện công khai, dân chủ có sự tham gia của cộng đồng và dựa trên nguồn lực có thể huy động ở địa phương. Khôi phục, nâng cấp hệ thống đường sắt hiện có đạt cấp chủ yếu và xây dựng mới một số tuyến đường sắt cần thiết. Nâng cấp các tuyến vận tải thuỷ nội địa chủ yếu, đặc biệt ở Đồng bằng sông Hồng và Đồng bằng sông Cửu Long, đảm bảo phương tiện đi lại 24/24 giờ. Giải quyết cơ bản hệ thống cơ sở hạ tầng ở các đô thị, đặc biệt là ở Thủ đô Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh, hạn chế ách tắc giao thông. 1.3. Phát triển thuỷ lợi nhỏ cho các xã nghèo Đối với các xã nghèo thuộc chương trình 135 chưa có công trình thuỷ lợi tưới hoặc đã bị xuống cấp, Nhà nước dùng vốn ngân sách hỗ trợ đầu tư xây dựng và cải tạo, nâng cấp. Đối với các địa bàn vùng cao đặc biệt khó khăn không có ruộng nước, Nhà nước hỗ trợ kinh phí để làm ruộng bậc thang, nhằm giúp người nghèo có điều kiện sản xuất lương thực tại chỗ, hoặc trồng rừng. Đối với những xã nghèo nằm gần các công trình thuỷ lợi lớn, Nhà nước đầu tư xây dựng hệ thống kênh dẫn từ công trình lớn, tạo nguồn nước, hỗ trợ vật tư cùng nhân dân xây dựng hệ thống kênh nội đồng. Tiếp tục tập trung đầu tư phát triển thủy lợi nhỏ cho các xã nghèo, vùng nghèo. Thực hiện thu thuỷ lợi phí đối với công trình do Nhà nước tạo nguồn nước, chỉ đảm bảo đủ trang trải chi phí thường xuyên, vận hành, không tính chi phí đầu tư ban đầu. Xây dựng cơ chế quy định trách nhiệm của chính quyền địa phương (cấp xã) có sự tham gia của cộng đồng trong việc quản lý và duy trì hoạt động lâu dài của các công trình thuỷ lợi nhỏ trong nội xã. Thực tiễn phát triển các công trình thuỷ lợi ở các xã nghèo vừa qua cho thấy nhân dân đóng góp khoảng 20-40% vốn đầu tư cho mỗi công trình xây dựng mới, còn duy tu bảo dưỡng khoảng từ 20-30% tổng chi phí; cần nghiên cứu, mở rộng việc áp dụng cơ chế này cho giai đoạn tới. Đối với những nơi chưa có nguồn nước để phục vụ thuỷ lợi tuyến xã, đặc biệt các xã vùng sâu, vùng xa, Nhà nước tăng thêm kinh phí tạo nguồn. 1.4. Về phát triển mạng lưới thông tin liên lạc ở nông thôn, nhất là các điểm bưu điện văn hóa xã Tiếp tục phát triển mạng lưới thông tin liên lạc cho khu vực nông thôn, chú trọng các vùng nghèo, vùng sâu, vùng xa, các xã đặc biệt khó khăn... Tiếp tục đầu tư hình thành các điểm bưu điện văn hóa xã ở các xã nói chung và các xã nghèo nói riêng. Tác dụng của các điểm bưu điện văn hóa xã đối với người nghèo là rất lớn, song khả năng thu hồi vốn ban đầu rất khó, Nhà nước nghiên cứu xây dựng cơ chế hỗ trợ và phát huy sự đóng góp của cộng đồng để phát triển loại hình điểm bưu điện này 2. Phát triển công nghiệp, đô thị nhằm tạo việc làm và nâng cao đời sống cho người nghèo 2.1. Phát triển mạnh công nghiệp, tạo việc làm, nâng cao thu nhập cho nhân dân. Phát triển công nghiệp với nhịp độ cao, có hiệu quả, bảo đảm năng lực cạnh tranh và đáp ứng yêu cầu của thị trường; coi trọng đầu tư chiều sâu, đổi mới trang thiết bị tiên tiến và tiến tới hiện đại hóa từng phần các ngành sản xuất công nghiệp. Kết hợp hợp lý giữa phát triển các ngành công nghiệp có lợi thế cạnh tranh, ngành công nghệ cao, ngành mũi nhọn với việc phát triển các ngành công nghiệp chế biến, công nghiệp sử dụng nguyên liệu tại chỗ và sử dụng nhiều lao động để thu hút lao động, tạo việc làm. Phát triển, hiện đại hóa các ngành công nghiệp phục vụ phát triển nông nghiệp và nông thôn (hoá chất, phân bón, bao bì...), tiếp tục đa dạng hóa và hiện đại hóa sản phẩm cơ khí đáp ứng nhu cầu của sản xuất nông nghiệp như: máy kéo nhỏ, máy chế biến, bảo quản sản phẩm sau thu hoạch, máy phun thuốc sâu và tưới nước hiện đại... Phát triển công nghiệp vi sinh nhằm hỗ trợ sản xuất nông nghiệp chuyển sang sản xuất sạch, bảo đảm không ảnh hưởng xấu tới sức khỏe cho người tiêu dùng và chiếm lĩnh thị trường lâu dài, tăng độ tin cậy đối với người tiêu dùng. 2.2. Phát triển và mở rộng các mối liên kết giữa công nghiệp và các hoạt động tiểu thủ công nghiệp. Khuyến khích các chủ sản xuất kinh doanh, buôn bán nhỏ (cửa hàng, cửa hiệu, xưởng sản xuất...) mở rộng đầu tư, phát triển kinh doanh lâu dài và thu hút nhiều lao động. Khuyến khích các công ty, doanh nghiệp lớn trong ngành vận tải, xây dựng... và những ngành có khả năng tuyển dụng thêm lao động phổ thông tạo việc làm ổn định cho người nghèo. Hình thức khuyến khích chủ yếu là: tạo điều kiện về mặt bằng sản xuất kinh doanh; miễn giảm tiền thuê đất, ở một số vùng nông thôn có thể áp dụng giá thuê đất bằng không; giảm thuế thu nhập doanh nghiệp theo số lao động sử dụng thêm; giúp doanh nghiệp trong việc đào tạo lao động, thu hồi mặt bằng đối với những doanh nghiệp sử dụng kém hiệu quả để cho doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả thuê lại; biểu dương và tôn vinh các nhà doanh nghiệp có chí hướng phát triển lâu dài trong một số lĩnh vực đã kinh doanh đạt hiệu quả, đóng góp Ngân sách và tạo nhiều việc làm cho người nghèo. Khuyến khích các tổ chức tài chính ngân hàng, các doanh nghiệp lớn và thể nhân giúp vốn đầu tư vào các doanh nghiệp nhỏ và vừa cùng kinh doanh, cung cấp thông tin kinh tế và đào tạo nguồn nhân lực cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa. Hỗ trợ các doanh nghiệp nhỏ và vừa trong xuất khẩu trực tiếp và tìm kiếm bạn hàng nước ngoài ổn định, lâu dài. Thành lập các tổ chức xúc tiến và hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Trung ương và địa phương theo Nghị định 90/2001/NĐ-CP ngày 23 tháng 11 năm 2001 của Chính phủ về trợ giúp phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa. Triển khai hướng dẫn và thực hiện các quy định về một số chính sách khuyến khích đưa công nghiệp về nông thôn và thành lập các khu công nghiệp nông thôn như hỗ trợ về đất đai; nguyên liệu phục vụ sản xuất; đầu tư; tín dụng; thuế và lệ phí; thông tin thị trường tiêu thụ sản phẩm; khoa học công nghệ và môi trường; lao động đào tạo... 2.3. Khuyến khích người nghèo đô thị tự thoát nghèo Thiết lập khuôn khổ chiến lược, chính sách tổng thể phát triển đô thị để làm cơ sở từng bước giải quyết các khu nhà ổ chuột và tạm bợ ở các thành phố và thị xã, giảm nghèo, giảm tính dễ bị tổn thương của khu vực đô thị, xây dựng chiến lược quốc gia về đô thị hoá. Để giảm nghèo ở đô thị cần phải tạo việc làm, giảm thất nghiệp, xây dựng và triển khai các chiến lược và chính sách về tăng trưởng kinh tế và xã hội ở các đô thị, bao gồm những chương trình đầu tư cho các khu vực kinh tế có tính đến nhóm người nghèo; tạo công ăn việc làm thông qua phát triển các doanh nghiệp nhỏ và vừa; phát triển khu vực dịch vụ để người nghèo tự tạo ra công ăn việc làm cho họ. Tăng cường hệ thống dạy nghề và dịch vụ giới thiệu, tìm kiếm việc làm để tạo cho người nghèo ở thành thị có việc làm ổn định, tăng thu nhập và dần dần cải thiện mức sống cho họ. Phát triển các chính sách nhằm cung cấp các khoản vay vốn cho người nghèo đô thị thông qua các chương trình tiết kiệm và tín dụng cộng đồng, bao gồm các khoản vay nhỏ cho hoạt động sản xuất, dịch vụ; hỗ trợ kịp thời cho nhu cầu giáo dục, chăm sóc sức khỏe, cải tạo, nâng cấp nhà ở và các điều kiện hạ tầng thiết yếu như cấp thoát nước, cấp điện, vệ sinh môi trường. Tiếp tục phát triển các chương trình xây dựng nâng cấp mạng lưới hạ tầng tới tận cơ sở; từng bước cải tạo, mở mang giao thông đô thị, phát triển giao thông công cộng, chống ùn tắc và bảo đảm an toàn giao thông. Đảm bảo các dịch vụ cấp thoát nước, vệ sinh, chiếu sáng công cộng đến được các cộng đồng thu nhập thấp, thực hiện chương trình quản lý rác thải trên nguyên tắc xã hội hóa để giảm ô nhiễm khu vực người nghèo đô thị. Phát triển các chương trình chăm sóc sức khỏe cộng đồng cho người nghèo. Xây dựng chính sách phát triển nhà ở cho người thu nhập thấp ở đô thị. Tạo mọi điều kiện để người nghèo được tham gia lao động tại các công trình xây dựng cơ sở hạ tầng tại các phường, quận, thị trấn để tăng thêm việc làm và thu nhập. Xây dựng chiến lược và chính sách nâng cấp đô thị có tính đến mục tiêu xóa đói giảm nghèo, trong đó sẽ ưu tiên dành quỹ đất để xây dựng nhà ở cho người nghèo, tạo điều kiện phát triển cân bằng đô thị, giảm thiểu sự khác biệt giữa người giàu và người nghèo. Phát triển cân đối khu vực nội - ngoại thành, tăng cường liên kết thành thị - nông thôn thông qua các chương trình cung cấp cơ hội việc làm trong lĩnh vực công nghiệp chế biến nông sản, thương mại và dịch vụ. Xây dựng chiến lược bảo vệ môi trường đô thị, đảm bảo phát triển bền vững theo nguyên tắc giảm thiểu rủi ro về sức khỏe, đặc biệt cho dân nghèo đô thị thông qua các biện pháp xử lý ô nhiễm nguồn nước, không khí, đất, tiếng ồn và các chất thải khác. Xây dựng các tiêu chuẩn, quy phạm trong thiết kế quy hoạch đô thị, đảm bảo yêu cầu vệ sinh môi trường có tính đến nhu cầu và khả năng chi trả của người nghèo đô thị. Thực hiện cải cách các thủ tục hành chính phù hợp với điều kiện người nghèo đô thị trong lĩnh vực quản lý nhà, đất, cấp phép xây dựng và kinh doanh, đăng ký hộ khẩu ở khu vực đô thị. Xây dựng chính sách khuyến khích cộng đồng, động viên khả năng và sự chủ động của người nghèo, bao gồm nguồn tài chính, sức lao động và kinh nghiệm tham gia giải quyết các vấn đề nhà ở, phát triển cơ sở hạ tầng, tạo thu nhập và quản lý cộng đồng. Kết luận Tóm lại, chủ trương gắn tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội là đúng đắn, phù hợp với xu hướng phát triển, mục tiêu của xã hội loài người. Công việc xóa đói giảm nghèo là một phần của việc thực hiện công bằng xã hội để cho người nghèo có cơm ăn, có áo mặc, giảm bớt sự cách biệt về kinh tế và bất bình đẳng, để ai cũng có thể hưởng lợi từ công cuộc đổi mới của đất nước. Nhất là đối với Việt Nam một nước đang trong thời kỳ quá độ lên xã hội chủ nghĩa. Nước ta mới có hơn 10 năm thực hiện chủ chương gắn tăng trưởng kinh tế với xóa đói giảm nghèo, nên còn không ít các bất cập còn tồn tại cần khắc phục. Tuy vậy chúng ta cũng đã đạt được những thành tựu vô cùng to lớn và là một tấm gương của Liên Hợp Quốc về xóa đói giảm nghèo. Với những phương hướng và giải pháp đúng đắn và sự chỉ đạo của Đảng và Nhà nước, Việt Nam sẽ ngày càng làm tốt hơn tiến tới xóa nghèo toàn diện và tăng trưởng bền vững. Trong quá trình nghiên cứu, không tránh khỏi các thiếu sót và hạn chế. Em rất mong được được sự đóng góp cuả thày cô, em xin chân thành cảm ơn. Các tài liệu tham khảo -Giáo trình Kinh tế phát triển, xuất bản năm 1999 và 2005. -Văn kiện đại hội Đảng. -Chiến lược toàn diện về tăng trưởng và xóa đói giảm nghèo. -Tạp trí Kinh tế và phát triển các số 91,93,95, 99 năm 2004 và 2005 -Tạp trí Cộng sản -Tạp trí nghiên cứu kinh tế. -Các webside của: Đảng Cộng sản, Tổng cục thống kê, Bộ kế hoạch và đầu tư, Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn, Trung tâm thông tin Quốc gia, Trung tâm thông tin phát triển. MỤC LỤC Lời Mở Đầu 1 Chương I: Tăng trưởng kinh tế và xóa đói giảm nghèo 2 I- Tăng trưởng và phát triển kinh tế 2 1. Khái niệm về tăng trưởng và phát triển 2 1.1 Tăng trưởng 2 1.2 Phát triển 2 2. Sự lựa chọn con đường phát triển của Việt Nam 2 II. Định nghĩa và phương pháp tiếp cận chuẩn đói nghèo 3 1. Phương pháp xác định chuẩn đói nghèo quốc tế 3 2. Việt Nam thừa nhận định nghĩa chung về đói nghèo 4 3. Phương pháp xác định chuẩn đói nghèo của Chương trình xóa đói giảm nghèo quốc gia 4 III - Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và xóa đói giảm nghèo 5 1. Các phương thức phân phối 5 1.1 Phân phối thu nhập theo chức năng 5 1.2 Phân phối lại thu nhập 5 2.Giới thiệu đường Lorenz và hệ số Gini 6 2.1 Đường Lozen 6 2.2 Hệ số GINI 7 3. Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế, nghèo đói và bất bình đẳng thu nhập 7 3.1 Mối quan hệ giữa tăng trưởng và giảm nghèo 7 3.2 Bất bình đẳng và nghèo đói trong tăng trưởng kinh tế 9 Chương II: Thực trạng mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và xóa đói giảm nghèo 10 I - Thực trạng chất lượng tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam 10 1. Đầu vào của tăng trưởng 10 2. Quá trình tăng trưởng 10 3. Đầu ra của tăng trưởng 11 II. Thực trạng đói nghèo của Việt Nam trong thời gian qua 12 1. Tỷ lệ hộ nghèo ở nước ta đã giảm nhanh, trong đó thành thị giảm nhanh hơn nông thôn 12 2. Số hộ nghèo vẫn còn nhiều và phần lớn ở vùng nông thôn, số hộ ở cận kề chuẩn nghèo còn đông 13 3. Sự phân hóa giàu nghèo giữa các khu vực, giữ các vùng kinh tế và giữa các đơn vị hành chính 14 4. Sự bất bình đẳng giữa các nhóm dân cư 15 5. Tỷ lệ hộ đói nghèo ở các xã đặc biệt khó khăn còn 20% 16 III - Thực trạng mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và xóa đói giảm nghèo 17 1. Phân phối thu nhập thời gian qua ở Việt Nam 17 2. Những thành tựu đã đạt được của sự kết giữa tăng trưởng và xóa đói giảm nghèo 18 3. Những thách thức cần phải giải quyết 20 Chương III: Phương hướng và giải pháp cho mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và xóa đói giảm nghèo 22 I - Phương hướng cho mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và xóa đói giảm nghèo 22 1.Quan điểm của Đảng về tăng trưởng kinh tế và xóa đói giảm nghèo 22 2. Phương hướng phân phối thu nhập ở Việt Nam 23 3.Phương hướng tăng trưởng kinh tế kết hợp xóa đói giảm nghèo 24 3.1 Phương hướng chung 24 3.2 Mục tiêu đến 2010 trong chiến lược xóa đói giảm nghèo quốc gia 25 II -Giải pháp để tăng trưởng bề vững kết hợp xóa đói giảm nghèo hiệu quả ở Việt Nam 28 1.Phát triển cơ sở hạ tầng để tạo cơ hội cho các xã nghèo, vùng nghèo, người nghèo tiếp cận các dịch vụ công 28 1.1. Phát triển và sử dụng điện cho các xã nghèo 28 1.2. Về phát triển đường giao thông 29 1.3. Phát triển thuỷ lợi nhỏ cho các xã nghèo 30 1.4. Về phát triển mạng lưới thông tin liên lạc ở nông thôn, nhất là các điểm bưu điện văn hóa xã 31 2. Phát triển công nghiệp, đô thị nhằm tạo việc làm và nâng cao đời sống cho người nghèo 32 2.1. Phát triển mạnh công nghiệp, tạo việc làm, nâng cao thu nhập cho nhân dân. 2.2. Phát triển và mở rộng các mối liên kết giữa công nghiệp và các hoạt động tiểu thủ công nghiệp. 32 2.3. Khuyến khích người nghèo đô thị tự thoát nghèo 32 Kết luận 36 Các tài liệu tham khảo 37

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc8780.doc
Tài liệu liên quan