Đề tài Thực trạng giải ngân vốn FDI trên địa bàn Hà Nội trong thời gian qua

Căn cứ theo chức năng quản lý và tính chất sử dụng nguồn vốn thì đầu tư nước ngoài được chia ra làm hai hình thức đó là đầu tư trực tiếp và đầu tư gián tiếp. Đầu tư gián tiếp: Là hình thức đầu tư nước ngoài trong đó chủ đầu tư nước ngoài không trực tiếp tham gia vào quá trình quản trị vốn đã bỏ ra, họ không trực tiếp tham gia quản lý điều hành quá trình thực hiện đầu tư và vận hành kết quả đầu tư. Đây là loại hình đầu tư mà người bỏ vốn và người quản lý sử dụng vốn là những chủ thể khác nhau. Đầu tư gián tiếp nước ngoài được thực hiện dưới một số hình thức như: các hoạt động tín dụng thương mại quốc tế, hỗ trợ phát triển chính thức (ODA), đầu tư chứng khoán, gia công quốc tế

doc92 trang | Chia sẻ: Dung Lona | Lượt xem: 1172 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng giải ngân vốn FDI trên địa bàn Hà Nội trong thời gian qua, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
rực tiếp đến môi trường đầu tư đó là: tham nhũng và tăng chi phí kinh doanh. Chính vì vây, để cải thiện môi trường đầu tư cần phải tăng cường và tích cực thiết lập cơ chế đảm bảo công khai minh bạch trong chính sách, trong chi tiêu công và thông tin tài chính doanh nghiệp. Ngoài ra, sự yếu kém về cơ sở hạ tầng đang là một trong những trở ngại cho giải ngân các dự án đầu tư cũng như rào cản cho tăng trưởng của Việt Nam trong những năm tiếp theo. Các dịch vụ hỗ trợ doanh nghiệp còn vừa thiếu, vừa yếu Một vấn đề khác đang đặt ra trong việc đẩy nhanh tốc độ giải ngân FDI tại Hà Nội hiện nay đó là thiếu vắng các dịch vụ hỗ trợ phát triển doanh nghiệp. Đây chính là các hỗ trợ phi tài chính từ bên ngoài doanh nghiệp nhằm cải thiện hoạt động và khả năng tham gia thị trường. Mức độ phát triển của các dịch vụ hỗ trợ phát triển doanh nghiệp là thước đo khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp trong nền kinh tế. Ở các nước phát triển, các dịch vụ hỗ trợ phát triển chiếm một tỷ trọng đáng kể trong tổng sản phẩm quốc nội (GDP). Tại Singapore, tỷ lệ dịch vụ hỗ trợ phát triển chiếm ít nhất khoảng 15% GDP. Tuy nhiên, tại Việt Nam các dịch vụ phát triển vẫn còn ở mức rất khiêm tốn (dưới 1% GDP và có tốc độ tăng trưởng chỉ 1-2% năm). Nhận thức về vai trò của dịch vụ đối với hoạt động đầu tư và kinh doanh vẫn còn hạn chế cả ở góc độ quản lý doanh nghiệp và quản lý vĩ mô của Nhà nước. Mặc dù thị trường dịch vụ hỗ trợ phát triển doanh nghiệp trong các lĩnh vực như đào tạo, kế toán, tư vấn thuế và tài chính và đặc biệt là dịch vụ tư vấn quản lý gần đây cũng bắt đầu xuất hiện. Tuy nhiên, tính chuyên nghiệp chưa cao, chất lượng dịch vụ chưa đảm bảo. Thực tế cho thấy, nhà đầu tư vẫn còn gặp khá nhiều khó khăn khi triển khai các dự án đầu tư tại Việt Nam do thiếu một hệ thống cung ứng các dịch vụ hỗ trợ doanh nghiệp có hiệu quả. Tính đến nay, Việt Nam đã thu hút được hơn 8000 dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài, với tổng số vốn đăng ký hơn 72,8 tỷ USD, trong đó đã thực hiện khoảng 31 tỷ USD, nghĩa là còn gần 41 tỷ USD cần được thực hiện tiếp. Trong đó, khu vực công nghiệp còn 23,5 tỷ USD, khu vực nông - lâm - thuỷ sản còn 2,2 tỷ USD, khu vực dịch vụ và một số lĩnh vực khác còn trên 15,3 tỷ USD chưa được thực hiện. Bảng 10: Số vốn thực hiện chưa được giải ngân tính đến 2008 của Việt Nam Khu vực Công nghiệp Nông nghiệp Dịch vụ Số vốn 23,5 tỷ USD 2,2 tỷ USD 15,3 tỷ USD Nguốn : Bộ Kế hoạch và đầu tư Như vậy, vốn thực hiện vẫn còn chiếm tỷ trọng thấp so với vốn đăng ký. Có nhiều lý do để giải thích tình trạng này, trong đó rào cản cho việc triển khai chậm chính là do hệ thống dịch vụ hỗ trợ phát triển tại Việt Nam vừa thiếu, vừa yếu. Sự yếu kém của dịch vụ hỗ trợ phát triển tại VIệt Nam hiện nay có nhiều nguyên nhân, trong đó có hai nguyên nhân cơ bản là môi trường pháp lý của Việt Nam chưa thuận lợi cho phát triển loại hình dịch vụ này và tính minh bạch, công khai về thông tin trên thị trường còn hạn chế. Mặc dù đã có những tiến bộ nhất định việc cải thiện trong môi trường pháp lý kinh doanh tại Việt Nam, tuy nhiên vẫn còn khá nhiểu tồn tại cản trợ sự phát triển của các dịch vụ hỗ trợ doanh nghiệp. Cụ thể, còn nhiều văn bản không còn phù hợp với Luật doanh nghiệp được ban hành như Nghị định 87/2002/NĐ-CP về cung ứng dịch vụ tư vấn: điều kiện tham gia thị trường còn quá cao đối với một số dịch vụ như đào tạo nghề, sở hữu trí tuệ, hướng dẫn về đăng ký kinh doanh, tư vấn pháp lý, quảng cáo, tư vấn thuế tài chính còn thiếu rõ ràng. Theo quy định hiện hành, Việt Nam vẫn chưa thừa nhận việc hành nghề tư vấn cá nhân. Quy đinh này làm không ít các chuyên gia tư vấn có kinh nghiệm và trình độ cao không được sử dụng và chia sẻ kinh nghiệm dưới dạng dịch vụ tư vấn cá nhân. Đối với dịch vụ sở hữu trí tuệ, một trong những loại hình đang và sẽ được quan tâm ngày càng tăng của giới đầu tư nước ngoài cũng có nhiều bất cập đáng lưu ý: thiếu chính sách và hệ thống bảo vệ quyền và quản lý sở hữu trí tuệ, chưa có chính sách toàn diện về nâng cao nhận thức của công chúng về quyền bảo hộ sở hữu trí tuệ. Cục sở hữu trí tuệ hiện nay mới chỉ thuần tuý là cơ quan quản lý nhà nước, chư chưa phải là đơn vị cung cấp dịch vụ hành chính công. Vì thế, Cục sở hữu trí tuệ không đủ nguồn lực và tài chính để đáp ứng các yêu cầu về dịch vụ hỗ trợ trí tuệ. Đây cũng là một trong những nguyên nhân dẫn đến việc vi phạm sở hữu trí tuệ tại Việt Nam còn khá phổ biến. Bên cạnh đó, môi trường pháp lý đối với dịch vụ đào tạo cũng chưa thuận lợi, nhất là đối với dịch vụ đào tạo có sự tham gia của đối tác nước ngoài. Các điều kiện và thủ tục lập doanh nghiệp cung cấp các dịch vụ về đào tạo không cụ thể, rõ ràng. Các tiêu chí để thành lập trường dạy nghề được đánh giá là quá cao, thủ tục thành lập còn tốn thời gian và kinh phí của người kinh doanh (có cơ sở đào tạo sau 6 năm mới được cấp giấy phép). Một dịch vụ rất quan trọng đối với các nhà đầu tư và các doanh nghiệp đó là dịch vụ kế toán - kiểm toán thì chưa theo kịp yêu cầu của nền kinh tế thị trường. Rào cản ở đây là thiếu một chính sách rõ ràng từ các cơ quan quản lí. Để thành lập được doanh nghiệp kiểm toán, phải có ít nhất 5 kiểm toán viên, các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài phải được thủ tướng Chính Phủ phê duyệt khi thành lập. Các dịch vụ kế toán và kiểm toán chưa phát triển cũng làm hạn chế tính công khai, minh bạch về tài chính và từ đó cũng có ảnh hưởng tiêu cực đến tính cạnh trnah của thị trường. Thực tế cho thấy ở Việt Nam hiện nay đang thiếu vắng một hệ thống thông tin, dữ liệu đầy đủ, cập nhật và tin cậy về kinh tế vĩ mô cũng như vi mô. Các thông tin và dự báo về thị trường nước ngoài cũng vừa thiếu, vừa chưa đảm bảo độ tin cậy. Sự yếu kém này đã ảnh hưởng không nhỏ đến sự phát triển có chất lượng của dịch vụ hỗ trợ phát triển doanh nghiệp. Thực tế cho thấy không chỉ dịch vụ hỗ trợ doanh nghiệp phát triển doanh nghiệp yếu kém mà bản thân ngành dịch vụ nói chung của Việt Nam cũng chậm phát triển. Sự tham gia của khu vực đầu tư nước ngoài vào khu vực này cũng chưa tương xứng với tiềm năng của chúng. Đây cũng sẽ là một rào cản nữa đối với đầu tư và giải ngân vốn đầu tư của Nhật Bản tại Việt Nam trong những năm tới. Năng lực và trách nhiệm của chính quyền một số địa phương còn hạn chế Một rào cản khác đối với giải ngân FDI rất cần phải vượt qua trong thời gian tới để có thể thực hiện được mục tiêu giải ngân vốn đầu tư một cách hiệu quả đó là năng lực trách nhiệm và thiện chí của mỗi chính quyền địa phương trong vấn đề giải ngân vốn đầu tư. Đây là trở ngại có ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng huy động cũng như thực hiện vốn đầu tư ở các tỉnh và thành phố. Thực tế cho thấy, chính quyền địa phương chính là người trực tiếp tiếp xúc và giải quyết nhiều vấn đề liên quan đến nhà đầu tư. Chính vì vậy hành vi của đội ngũ công chức của từng chính quyền địa phương sẽ có ảnh hưởng không nhỏ đến quyết định đầu tư cũng như thực hiện vốn đầu tư của các doanh nghiệp có vốn FDI, thậm chí cả doanh nghiệp trong nước. Bằng chứng là những địa phương nào có chính sách hợp lý, sự minh bạch năng động và có trách nhiệm thì địa phương đó có bước tiến rõ rệt trong thu hút vốn đầu tư và giải ngân vốn đầu tư. Cụ thể, nếu so sánh một số tỉnh có điều kiện tương tự về địa lí, cơ sở hạ tầng (4 tỉnh phía Nam gồm Đồng Nai, Bình Dương, Long An. Bà Rịa Vũng Tàu và 7 tỉnh miền Bắc bao gồm Quảng Ninh, Hải Dương, Hưng Yên, Hà Tây, Bắc Ninh, Bắc Giang, Vĩnh Phúc là các tỉnh đều nằm gần thành phố lớn, gần hải cảng, điều kiện tiếp cận thị trường) nhưng mức thu hút đầu tư và mức độ giải ngân là rất khác biệt. Trong khi bốn tỉnh phía Nam vốn FDI (thực hiện) tính trên đầu người là 570 USD thì 7 tỉnh phía Bắc chỉ giải ngân được 60 USD vốn đầu tư (thực hiện) tính trên đầu người. Một trong những nguyên nhân của sự khác biệt này chủ yếu là do vai trò của các địa phương. Chính sách của từng địa phương ảnh hưởng trực tiếp đến nguồn lực cơ bản như đất đai, cơ sở hạ tầng như điện, nước, viễn thông, an ninh... và điều đó tác động đến quyết định lựa chọn và thực hiện các dự án đầu tư. Đối với hầu hết các nhà đầu tư, đất đai là một nguồn lực quan trọng. Nếu như khả năng tiếp cận đất đai dễ dàng thì quyết định đầu tư của họ cũng hiện thực hơn. Tuy nhiên, hiện nay một số tỉnh phía Bắc có xu hướng hạn chế chuyển đổi đất nông nghiệp sang đất phi nông nghiêp, khiến cho giá đất ở đó cao hơn hẳn một số tỉnh phía Nam và giảm tính hấp dẫn với khá nhiều nhà đầu tư. Độ minh bạch và tính trách nhiệm của bộ máy địa phương cũng ảnh hưởng rất nhiều đến quyết định và hành vi đầu tư, tác động đến chi phí giao dịch và niềm tin của nhà đầu tư. Không minh bạch về quy trình và thủ tục cộng với sự thiếu trách nhiệm của một bộ phận cán bộ, công chức sẽ làm nảy sinh tiêu cực, tham nhũng. Chính quyền địa phương cũng là người trực tiếp thực thi các chính sách về đầu tư do chính quyền Trung Ương ban hành. Sự năng động, linh hoạt của chính quyền địa phương cũng có thể hỗ trợ rất nhiều cho nhà đầu tư và giúp họ biến ý tưởng thành hành vi đầu tư. Tính năng động của Chính quyền địa phương ở các tỉnh phía Nam thể hiện thông qua việc diến giải và áp dụng chính sách của nhà nước theo hướng thuận lợi cho các nhà đầu tư. Còn đối với các tỉnh phía Bắc thì thường hướng thực hiện thận trọng, chờ đợi sự hướng dẫn từ Trung Ương, điều này đã làm cho một số cơ hội đầu tư bị bỏ lỡ. Đất nước đang tiếp tục tiến trình đổi mới - hội nhập, để có thể vượt qua những rào cản trong tiến trình thực hiện, triển khai các dự án FDI, giải quyết tốt các vấn đề đang tồn tại ở từng địa phương và cả nước cần có sự nỗ lực không chỉ của Nhà nước mà của cả doanh nghiệp, các nhà đầu tư và của toàn xã hội. Cần thiết phải đặt quyết tâm cải thiện tính công khai, minh bạch, giảm cơ chế xin cho trong tất cả các hoạt động đầu tư, hoàn thiện cơ chế thị trường trong lĩnh vực đầu tư với sự tham gia bình đẳng của các thành phần kinh tế dưới sự giám sát của Nhà nước và của toàn xã hội. Bên cạnh các nguyên nhân bao trùm trên, các yếu tố chính ảnh hưởng đến quá trình giải ngân là: Không thực hiện đúng chu trình dự án; Quá trình đấu thầu mua sắm kéo dài; Quá trình giải phóng mặt bằng chậm; Chính sách thuế đối với các dự án FDI cũng chưa nhất quán; quá trình làm thủ tục giải ngân chậm, cụ thể như sau: Việc thẩm định, phê duyệt dự án còn bị kéo dài: Nhiều hiệp định đã ký nhưng mới chỉ có tên dự án mà chưa hoàn thành báo cáo nghiên cứu khả thi, chưa hoàn thành thủ tục để phê duyệt dự án đầu tư do chưa có sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan tổng hợp và bộ chủ quản. Qúa trình lập, duyệt dự án không kịp thời thường mất từ 1 đến 3 năm, có dự án sau khi ký hiệp định lại thay đổi quy trình công nghệ, hay thay đổi mục tiêu dự án . Có một số dự án trong quá trình lập nghiên cứu khả thi thấy rằng không hiệu quả lại chuyển sang dự án khác (như dự án điện thoại nông thôn, nước khoáng Kim Bôi, điện Yaly vay của Pháp, máy nghiền sàng đá vay của Thái Lan). Một số dự án do thời gian chuẩn bị khá lâu nên đến khi thẩm định phê duyệt thì nhiều hạng mục trong dự án đã lạc hậu so với tình hình mới. Chính sách đền bù giải phóng mặt bằng: quá trình thương lượng, điều chỉnh chính sách đền bù và giải phúng mặt bằng để đi đến thống nhất kéo dài hơn một năm. Có những dự án đã thống nhất về chính sách nhưng việc triển khai đền bù của các chủ dự án tiến hành chậm. Giải phóng mặt bằng thường gắn với các chính sách xã hội như tái định cư, việc làm hoặc đền bù. Hơn nữa, vấn đề năng lực, trình độ của cán bộ quản lý thực hiện công tác này và vấn đề thông tin cũng gây tác động không nhỏ. Nhiều bất cập trong quá trình thực hiện không được thông tin đầy đủ và xử lý kịp thời dẫn đến làm chậm tiến độ triển khai dự án (chậm bàn giao mặt bằng cho nhà đầu tư ) Thủ tục giải ngân cho các dự án: Trước năm 1995 do mới tiếp cận công tác quản lý FDI với các thủ tục phức tạp của các nhà đầu tư, thủ tục đầu tư trong nước và trình độ, kinh nghiệm của cán bộ quản lý còn hạn chế nên khâu xét duyệt hồ sơ để rút vốn và luân chuyển chứng từ còn chậm. Đến nay Bộ Tài chính đã ban hành quy chế, theo đó thời gian xác nhận hồ sơ hợp lệ và làm thủ tục rút vốn tối đa từ 5 đến 8 ngày. Tuy nhiên, tiến độ rút vốn phần lớn phụ thuộc vào tiến độ thực hiện các dự án và tập hợp đầy đủ hồ sơ rút vốn hợp lệ của các chủ dự án phải phù hợp với thoả thuận cam kết được các nhà đầu tư quốc tế chấp nhận Ngoài ra còn có một số nguyên nhân khác gây chậm trễ cho việc triển khai thực hiện dự án từ đó dẫn đến chậm giải ngân như thủ tục xin cấp giấy phép nhập khẩu thiết bị, thủ tục hải quan, xin cấp đất xây dựng văn phòng... 2.4.3. Tác động của tình trạng giải ngân đến hiệu quả sử dụng FDI Để tăng cường thu hút FDI thì điều quan trọng là phải tăng cường khả năng giải ngân nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn FDI đã thu hút được, làm cho vốn đã thực hiện phát huy cao nhất hiệu quả và mang lại lợi nhuận cho nhà đầu tư cũng như mang lại lợi ích cho quốc gia.Với một quốc gia đang phát triển nhanh như Việt Nam, nhu cầu vốn rất lớn. Tuy nhiên, thực tế hiệu quả sử dụng các nguồn vốn của Việt Nam hiện nay chưa cao. Chúng ta đã nhận được rất nhiều cam kết, nhưng tốc độ giải ngân còn quá thấp. Cam kết FDI 10 - 1 6 tỷ USD nhưng thực tế tỉ lệ giải ngân thấp hơn đáng kể, chỉ 4,1 tỷ USD 2006. Các nhà đầu tư vào nhưng chưa đưa được tiền vào. Nếu để tình trạng này lâu, nguy cơ rõ ràng có thể xảy đến chính là việc các nhà đầu tư ngần ngại trong việc đưa ra các cam kết mới, và cả trong thực hiện các cam kết đã có. Thậm chí họ có quyền rút vốn như đã từng xảy ra. Việt Nam đã mất tới 10 năm để khôi phục đà đầu tư từ những năm 1995, 1996. Vào thời điểm đó, mức cam kết đầu tư vào Việt Nam đã lên tới 8 tỷ USD.  Về cơ sở hạ tầng, nhiều nhà đầu tư nước ngoài mong đầu tư nhưng bản thân Việt Nam lại chưa tạo điều kiện đầy đủ. Hình thức BOT đã được luật hóa nhưng chưa có hướng dẫn thực sự để DN nước ngoài tham gia. Cách đây chưa lâu, Phần Lan đã mất 5 - 7 năm để đàm phán tham gia xây dựng hạ tầng, đạt đến kí kết. Họ lại phải mất thêm 2 năm đàm phán về giá cung cấp điện nhưng không có kết quả. Cuối cùng, Phần Lan đã rút dự án khỏi Việt Nam. Do đó, bài học Phần Lan cần phải tránh.  Nguồn vốn FDI lớn, nhưng nếu không được giải ngân thì giá trị cũng không bằng một dự án nhỏ của NGOs nhưng giúp được một xã cải thiện cuộc sống, hiệu quả ngay lập tức giúp cho hàng vạn người.  Thu hút được nhiều vốn nhưng chậm hoặc không giải ngân được thì không có ý nghĩa nhiều trong việc thúc đẩy kinh tế Thành phố phát triển, không tạo được nền tảng để tiếp tục thu hút đầu tư. CHƯƠNG III GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG KHẢ NĂNG GIẢI NGÂN FDI TRÊN ĐỊA BÀN HÀ NỘI 3.1. Định hướng thu hút và giải ngân FDI trên địa bàn Hà Nội thời gian tới 3.1.1 Định hướng thu hút  - Định hướng chung : Hiện nay, Hà Nội đang tập trung kêu gọi đầu tư vào những lĩnh vực như phát triển trung tâm tài chính, ngân hàng, đầu tư phát triển các khu đô thị mới, trung tâm thương mại, văn phòng cho thuê, khu triển lãm, phát triển trung tâm đào tạo - nghiên cứu - phát triển, đầu tư và hợp tác phát triển khu công nghệ cao, phát triển các ngành công nghiệp điện tử, tin học... Đầu năm 2010, cơ quan hữu quan sẽ công bố quy hoạch chung của Hà Nội để tạo công cụ định hướng lâu dài cho các nhà đầu tư trong và ngoài nước. Trên cơ sở đó, chính sách thu hút đầu tư của Hà Nội nhằm vào 3 vấn đề gồm dịch vụ hỗ trợ đầu tư, thủ tục cấp phép đầu tư và các hỗ trợ đầu tư khác (giải phóng mặt bằng, đào tạo nguồn nhân lực) . Năm 2009, thành phố Hà Nội phấn đấu để được xếp vào top 5 tỉnh, thành phố thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài cao nhất nước. Dự kiến thu hút khoảng 300 dự án, với số vốn đầu tư đăng ký khoảng từ 2 đến 3 tỉ USD. Trong đó, cấp mới 260 dự án, vốn đầu tư khoảng 1,8 tỷ đến  2,7 tỷ USD; bổ sung tăng vốn 40 dự án, khoảng 200 triệu đến 300 triệu USD. Thực hiện chủ trương thu hút nguồn vốn FDI nói trên, những phương hướng ưu tiên sử dụng nguồn lực này là: - Định hướng ngành, sản phẩm Trên cơ sở chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của thành phố đến năm 2010 và định hướng trở thành nước công nghiệp vào năm 2020 ưu tiên thu hút ĐTNN vào các ngành có tác động lớn trên các phương diện như: chuyển giao công nghệ nhất là công nghệ cao, công nghệ nguồn, gia tăng xuất khẩu, tạo việc làm, các dự án sản xuất các sản phẩm, dịch vụ có sức cạnh tranh; các dự án xây dựng kết cấu hạ tầng. Xây dựng và công bố rõ ràng công khai “Danh mục cấm và hạn chế đầu tư”. Trừ các lĩnh vực thuộc Danh mục cấm và hạn chế đầu tư, các nhà ĐTNN có quyền tiến hành kinh doanh trong bất kỳ lĩnh vực và theo bất kỳ hình thức ĐTNN nào mà pháp luật cho phép. Nhà Nước khuyến khích đầu tư vào các dự án trọng điểm, có ảnh hưởng quan trọng đến nền kinh tế theo “Danh mục đặc biệt khuyến khích đầu tư” và “Danh mục khuyến khích đầu tư” Lĩnh vực công nghiệp - xây dựng Xi măng: Dỡ bỏ các qui định hạn chế ĐTNN vào ngành xi măng, như quy định về tỷ lệ góp vốn tối thiểu của các Bên Việt Nam trong các liên doanh sản xuất xi măng (40%). Cho phép đầu tư 100% vốn nước ngoài vào một số dự án sản xuất xi măng. Điều chỉnh quy hoạch tổng thể phát triển ngành xi măng nhằm thúc đẩy phát triển ngành xi măng bằng vốn ĐTNN song song với việc huy động tối đa nguồn vốn đầu tư trong nước. Ngành điện Khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài tham gia đầu tư xây dựng các nhà máy điện và các công trình phân phối điện theo các hình thức nhà máy điện độc lập (IPP), hợp đồng BT, hợp đồng BOT, liên doanh, công ty cổ phần. Ngành thép: Mở rộng hình thức đầu tư vào với các dự án phát triển thượng nguồn; Nới lỏng các hạn chế nhằm tạo điều kiện để các nhà đầu tư nước ngoài tham gia đầu tư nhiều hơn vào ngành thép trong các lĩnh vực hạ, trung và thượng nguồn. Ngành công nghiệp ô tô: Tạo điều kiện để các doanh nghiệp có vốn ĐTNN trong lĩnh vực sản xuất và lắp ráp ô tô đã được cấp phép phát huy hết công suất; chú trọng thu hút các dự án phụ trợ cho ngành công nghiệp ô tô; cho phép một số nhà đầu tư có năng lực tham gia đầu tư vào các dự án mới sản xuất các loại ô tô cần đầu tư thêm như ô tô tải, ô tô buýt từ 10 - 26 chỗ ngồi và trên 46 chỗ ngồi; các dự án sản xuất ô tô để xuất khẩu. Nâng cấp chất lượng cơ sở hạ tầng giao thông, điều chỉnh các chính sách về thuế đối với ô tô phù hợp với lộ trình hội nhập quốc tế tạo điều kiện khuyến khích chuyển từ việc đi lại bằng xe máy là chủ yếu sang bằng ô tô và các phương tiện vận chuyển công cộng là chủ yếu. Ngành cơ khí Ưu tiên thu hút ĐTNN đối với các dự án cơ khí trọng điểm như thiết bịe toàn bộ, máy động lực, cơ khí phục vụ nông – lâm – ngư và công nghiệp chế biến, máy công cụ, cơ khí đóng tàu thủy, cơ khí giao thông vận tải. Ngành công nghiệp khai khoáng Thu hút ĐTNN vào lĩnh vực khai khoáng gắn với yêu cầu chế biến sâu, tinh chế nhằm nâng cao giá trị sản phẩm, khắc phục tình trạng xuất khẩu nguyên liệu thô, đồng thời, gắn với việc bảo vệ môi trường sinh thái cũng như an ninh, quốc phòng. Ngành công nghiệp phụ trợ Thu hút vốn đầu tư được xem là yếu tố quan trọng để Hà Nội có ngành công nghiệp phụ trợ phát triển, góp phần thúc đẩy mạnh đối với ngành công nghiệp chính yếu. Từ thực tế trên, UBND thành phố Hà nội đã giao nhiệm vụ cho Sở Công thương Hà Nội xây dựng “Cơ chế thu hút vốn đầu tư phát triển các sản phẩm công nghiệp chủ lực ngành công nghiệp phụ trợ”. Đây sẽ là giải pháp tích cực để Hà Nội có thêm nhiều DN công nghiệp phụ trợ mạnh, góp phần thúc đẩy sự phát triển nhanh và bền vững cho toàn ngành công nghiệp thành phố Lĩnh vực dịch vụ Khuyến khích mạnh ĐTNN kể cả doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài vào các ngành: bảo hiểm, ngân hàng, du lịch, vận tải hành khách và hàng hóa, bưu chính viễn thông, kinh doanh bất động sản, bán buôn, bán lẻ hàng hóa và một số ngành khác. Dịch vụ giao thông vận tải: Khuyến khích ĐTNN trong xây dựng các công trình trọng điểm (đường bộ, đường sắt, cảng biển, dịch vụ hàng hải). Dịch vụ du lịch: Khuyến khích ĐTNN trong xây dựng các khu du lịch sinh thái; phát triển một số khu du lịch - dịch vụ tổng hợp tầm cỡ quốc tế đáp ứng nhu cầu du lịch giải trí của mọi đối tượng. Đồng thời, khuyến khích du lịch lữ hành để tăng cường khách du lịch trong nước và quốc tế. Dịch vụ bưu chính- viễn thông: Khuyến khích ĐTNN trong xây dựng, phát triển mạng lưới bưu chính-viễn thông và công nghệ thông tin rộng khắp theo hướng hiện đại, nâng cao chất lượng và sức cạnh tranh của các dịch vụ, bảo đảm an ninh quốc phòng. Xem xét lộ trình cho phép các dự án ĐTNN trong lĩnh vực bưu chính - viễn thông được chuyển từ họat động theo hình thức BCC sang liên doanh. Lĩnh vực Nông-lâm-ngư-nghiệp Chú trọng thu hút ĐTNN trong các lĩnh vực: Đầu tư cho công nghệ sinh học để tạo ra các giống cây, con mới có năng suất, chất lượng cao đưa vào sản xuất đáp ứng nhu cầu trong và ngoài nước. Đặc biệt cần hướng vào sản xuất các sản phẩm có giá trị kinh tế cao (cà phê, chè, rau quả và chăn nuôi). Đầu tư cho công nghệ chế biến, bảo quản sau thu hoạch, công nghiệp chế biến thực phẩm để nâng giá trị sản phẩm và tạo ra thị trường tiêu thụ nông sản ổn định, đặc biệt là thị trường xuất khẩu. Phải có chính sách thích hợp trong đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật phục vụ cho nông, lâm nghiệp như các công trình thủy lợi, sản xuất phân bón, thuốc bảo vệ thực vật, hệ thống giao thông nội đồng... - Định hướng đối tác chiến lược Hướng mạnh vào các nhà ĐTNN là các TNC’s từ các nước phát triển có tiềm năng về tài chính, có mạng lưới tiêu thụ toàn cầu và nắm công nghệ nguồn. Đồng thời, tiếp tục coi trọng nguồn vốn đầu tư từ các quốc gia và vùng lãnh thổ châu Á đang chiếm giữ vị trí quan trọng trong đầu tư tại Hà Nội như Nhật Bản, Đài Loan, Hàn Quốc, Singapore, Hồng Kông. Tiếp tục thu hút có chọn lọc, nhất là về mặt công nghệ từ các nước ASEAN, Nga, Trung Quốc và các nước khác. Khuyến khích mạnh người Việt Nam định cư ở nước ngoài đầu tư về nước. Bảng 11: Định hướng các ngành mục tiêu ứng với mỗi quốc gia Ngành/ mục tiêu Các quốc gia vùng lãnh thổ/ mục tiêu Công nghệ thông tin Hoa kỳ, Nhật Bản(phần cứng), EU, Singgapore, Ấn Độ Điện tử Nhật Bản, Hoa Kỳ, Các nước EU, Hàn Quốc Hóa chất Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản, Hàn Quốc Dầu khí Hoa Kỳ, Eu, Maylaysia,Nga Chế biến thực phẩm Đài Loan, Nhật Bản, Hàn Quốc, EU May mặc, dệt Đài Loan, Hàn Quốc, Hồng Kông, Singapore Da, giầy, giầy dép Đài Laon, Hàn Quốc, Nhật Bản, Hồng Kông, Singapore Xây dựng hạ tầng KCN, CX Nhật Bản, Singapore, Đài Loan, Hàn Quốc Nguồn: Chiến lược xúc tiến đầu tư – Bộ Kế Hoạch và Đầu Tư năm 2006-2010 3.1.2. Định hướng giải ngân Tăng tỷ lệ giải ngân thì việc thu hút nguồn vốn FDI mới thực sự có tác dụng. Đẩy nhanh tiến độ giải ngân mới làm cho đồng vốn FDI thực sự đi vào cuộc sống góp phần tích cực vào công cuộc phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam. Xuất phát từ tình hình thực tế, không nhất thiết phải đề ra mục tiêu quá cao về số lượng thu hút nguồn vốn FDI đăng ký mới, mà cần tập trung thúc đẩy số vốn đã cam kết hiện còn 90 tỷ USD chưa được giải ngân. Do vậy, Bộ KH&ĐT đã đề ra mục tiêu hàng đầu là bảo đảm vốn FDI giải ngân trong năm 2009 bằng năm 2008 hoặc thấp hơn khoảng 2 tỷ USD. Ðó là một kịch bản phù hợp khả năng hấp thụ của nền kinh tế nước ta. Dòng vốn FDI gia tăng đang tạo điều kiện sàng lọc để chấp nhận các DA có chất lượng, phù hợp với nhu cầu phát triển bền vững của nền kinh tế. Việc từ chối cấp phép cho những DA lớn tại một số địa phương trong năm qua là bước đi cần thiết, đúng hướng và rất cần được phát huy. Trong khuôn khổ đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới trong giai đoạn công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, nguồn vốn FDI vận động và đi vào thực hiện có vai trò quan trọng. Chủ trương của Việt Nam phải nâng cao tốc độ giải ngân nguồn vốn này. Phải sử dụng nguồn vốn FDI có hiệu quả bằng cách tăng cường khả năng giải ngân và kiểm tra, quản lý chặt chẽ, chống lãng phí tiêu cực. Bước vào giai đoạn phát triển mới, tiếp tục khẳng định vị thế ổn định của môi trường đầu tư Việt Nam với giới đầu tư nước ngoài. Cần có cách ứng xử mới với FDI, vì vậy, mục tiêu không chỉ còn là thu hút nhiều vốn FDI hơn, mà sử dụng nguồn vốn này thế nào cho hiệu quả mới là chính yếu. 3.2. Một số giải pháp thúc đẩy tiến trình giải ngân vốn FDI Muốn tận dụng tốt nguồn vốn FDI, biến những cam kết của các nhà đầu tư thành hiện thực, chúng ta phải giải quyết triệt để những yếu tố gây cản trở quá trình giải ngân nguồn vốn này. Với bài học kinh nghiệm trong việc thực hiện FDI trong những năm qua, chắc chắn chung ta sẽ cải thiện được tỷ lệ giải ngân. Nếu tỷ lệ giải ngân đạt 45% thì chúng ta sẽ có 7,5 tỷ USD vốn FDI đến 2010, trung bình mỗi năm có 1,5 tỷ USD. Xét từ nhiều phương diện và trên cơ sở xem xét thực trạng giải ngân FDI ở Việt Nam nói chung và Hà Nội trong thời gian qua, có thể nhận xét rằng triển vọng giải ngân FDI trong thời gian tới sẽ có bước cải thiện vì nó xuất phát từ lợi ích của bản thân quốc gia và chúng ta đang có những biện pháp từng bước tháo gỡ những vướng mắc liên quan đến vấn đề này. Xung quanh vấn đề về tốc độ giải ngân đối với các dự án sử dụng vốn FDI có nhiều ý kiến khá trái ngược nhau. Tuy nhiên xét từ khía cạnh người sử dụng vốn FDI, cụ thể là trong các chương trình, dự án ở Hà Nội thì phải thừa nhận rằng tốc độ giải ngân nguồn vốn FDI trong những năm qua của Thành phố là rất chậm. Sự chậm trễ này không chỉ do phía Việt Nam gây ra mà còn ở cả phía các nhà tài trợ. Từ năm 1993 đến nay, Hà Nội đã tiếp nhận nguồn vốn FDI của hơn 40 nhà đầu tư khác nhau, trong khi môi trường pháp lý của nước ta chưa đồng bộ, năng lực cán bộ còn hạn chế mà phải tiếp nhận 40 quy định khác nhau về quy trình thủ tục giải ngân của các nhà đầu tư thì việc chậm trễ tốc độ giải ngân tại một số dự án là không thể tránh khỏi. Giải ngân những năm tới sẽ rất khó khăn, bởi các tập đoàn, các công ty lớn sẽ rất khó vay ngân hàng. Họ cũng có những điều chỉnh hướng vào thị trường trong nước họ nên họ sẽ xem xét lại việc đầu tư ra nước ngoài, do đó chắc chắn rằng những cam kết của các nhà đầu tư sẽ có những cam kết không thực hiện được hoặc sẽ chậm tiến độ. Tuy nhiên, qua khảo sát điều tra và báo cáo từ các địa phương cho thấy quyết tâm của các địa phương trong quá trình làm việc với nhà đầu tư nước ngoài để làm thế nào đẩy nhanh tiến độ và giữ được các cam kết là rất lớn. Tuy kết quả giải ngân khó đạt được như năm 2008 - năm cao nhất kể từ khi Việt Nam tiến hành thu hút đầu tư nước ngoài, nhưng với sự nỗ lực của các cơ quan Trung ương và địa phương sẽ cố gắng đưa ra những giải pháp để không có kết quả giải ngân quá thấp. Hiện nay, Bộ Kế hoạch và Đầu tư tổ chức rất nhiều đoàn đi làm việc với các địa phương để tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc cho các dự án. Với những dự án đã đàm phán hoặc đã được Thủ tướng Chính phủ thông qua rồi thì đẩy nhanh tiến độ cấp phép để có nguồn vốn đưa vào thực hiện. Đây cũng là giải pháp và là định hướng để làm thế nào đạt kết quả giải ngân không quá thấp. Để thúc đẩy giải ngân và nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn vốn FDI trong những năm tới cần phải tiến hành những giải pháp mang tính toàn diện sau: 3.2.1. Nhóm giải pháp thuộc về cơ chế chính sách của nhà nước 3.2.1.1. Hoàn thiện môi trường pháp lý Sự thiếu đồng bộ, thiếu chặt chẽ trong nội dung của một số văn bản pháp lý liên quan đến quản lý và sử dụng nguồn vốn FDI là nguyên nhân chính gây trở ngại trong quá trình thực hiện các dự án và hiệu quả sử dụng của nguồn vốn này. Thủ tục hành chính đã đơn giản hơn nhưng mới chỉ đơn giản ở khâu đăng ký cấp giấy chứng nhận đầu tư. Hiện để dự án đi vào hoạt động thì khâu thủ tục hành chính vẫn chiếm rất nhiều thời gian, thậm chí từ 1 – 3 năm, bởi thời gian tiếp cận đất đai, bồi thường giải phóng mặt bằng kéo dài, xin cấp các loại giấy phép xây dựng, phòng chống cháy nổ ... vẫn khá dài dòng và phức tạp. Chính phủ phải tiếp tục rà soát pháp luật, chính sách về đầu tư, kinh doanh để sửa đổi các nội dung không đồng bộ, thiếu nhất quán, bổ sung các nội dung còn thiếu và loại bỏ các điều kiện áp dụng ưu đãi đầu tư không phù hợp. Trước mắt, sửa đổi các quy định còn bất cập, chưa rõ ràng liên quan đến thủ tục đầu tư và kinh doanh. Các Bộ, ngành chủ động sửa đổi, bổ sung các nội dung thuộc thẩm quyền.  Cùng với đó là theo dõi, giám sát việc thi hành pháp luật về đầu tư và doanh nghiệp để kịp thời phát hiện và xử lý các vướng mắc phát sinh. Khẩn trương ban hành các văn bản hướng dẫn các luật mới, nhất là các luật mới được Quốc hội thông qua trong thời gian gần đây có liên quan đến đầu tư, kinh doanh. Đồng thời tiếp tục ban hành các chính sách ưu đãi khuyến khích đầu tư đối với các dự án xây dựng các công trình phúc lợi (nhà ở, bệnh viện, trường học, văn hóa, thể thao) cho người lao động làm việc trong các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao, khu kinh tế. Song song đó, Trung ương và các địa phương cần thực hiện các biện pháp thúc đẩy giải ngân; không cấp phép cho các dự án công nghệ lạc hậu; dự án tác động xấu đến môi trường; thẩm tra kỹ các dự án sử dụng nhiều đất, giao đất có điều kiện theo tiến độ dự án, tránh lập dự án lớn để giữ đất, không triển khai; cân nhắc về tỷ suất đầu tư/diện tích đất, kể cả đất KCN. 3.2.1.2. Thống nhất các chính sách thuế Các chính sách thuế nhập khẩu thiếu nhất quán đã gây tâm lý không tốt cho các doanh nghiệp FDI. Do đó, cần xây dựng một chính sách thuế nội địa thống nhất cho tất cả các loại hình DN của mọi thành phần kinh tế không phân biệt DN trong nước hay DN có vốn đầu tư nước ngoài. Điều đó đòi hỏi phải rà soát, sửa đổi và hoàn chỉnh nội dung của hệ thống chính sách thuế, của từng sắc thuế: VAT, thuế thu nhập DN, thuế tiêu thụ đặc biệt, ban hành thuế thu nhập cá nhân thay thế cho thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao, cần xác định rõ mục tiêu cơ bản cần đạt được của từng sắc thuế để có giải pháp thích hợp. Việc xây dựng hoàn chỉnh chính sách thuế xuất nhập khẩu phải trên nguyên tắc khuyến khích xuất khẩu và bảo hộ có trọng điểm, có thời hạn một số ngành sản xuất trong nước. Thông qua hệ thống các mức thuế được xác định một cách khoa học, hợp lý và phù hợp với trình độ phát triển sản xuất, hệ thống chính sách thuế sẽ thực hiện vai trò khuyến khích xuất khẩu, bảo hộ hữu hiệu và đúng hướng cho những ngành có lợi thế cạnh tranh, hay những ngành sản xuất mũi nhọn trong kế hoạch công nghiệp hóa đất nước. Cần rà soát lại tất cả các sắc thuế khác cũng như các loại phí và lệ phí có liên quan tới quá trình hội nhập. Những gì cần xây dựng thành luật thì nhanh chóng tiến hành xây dựng và ban hành luật, những vấn đề gì cần sửa đổi bổ sung cũng cần khẩn trương tiến hành, những loại thuế, phí không phù hợp cần xem xét để xóa bỏ. 3.2.1.3. Rút ngắn thời gian phê duyệt và thẩm định dự án Hiện nay, quy định về trình tự và thủ tục xét duyệt dự án của phía Việt Nam và phía nước ngoài còn rườm rà, phải qua nhiều bước, nhiều cấp xét duyệt nên giai đoạn chuẩn bị dự án thường kéo dài. Đây chính là một trong những nguyên nhân làm cho tiến độ giải ngân nguồn vốn FDI trong thời gian qua chậm. Hơn nữa, thủ tục hành chính của các cơ quan Nhà nước còn chậm đổi mới, thiếu triệt để nên còn tình trạng chậm trễ ở mỗi khâu, đặc biệt là các khâu: thẩm định và phê duyệt nghiên cứu khả thi, phê duyệt để triển khai các hạng mục sử dụng vốn dư sau đấu thầu. Do vậy, đòi hỏi phải đổi mới công tác thẩm định và phê duyệt dự án sao cho rút ngắn được thời gian mà vẫn đảm bảo được chất lượng của việc thẩm định, góp phần thúc đẩy giải ngân. Cần tinh giảm thủ tục hành chính, có sự phân cấp thẩm định rõ ràng để nâng cao hiệu quả hoạt động của bộ phận này. Có những quy định cụ thể về thời gian thẩm định, phê duyệt đối với từng loại dự án. Đồng thời, trong quá trình thẩm định nếu phát hiện những nội dung còn thiếu hay chưa phù hợp thì cơ quan thẩm định phải có trách nhiệm thông báo ngay cho người lập dự án để họ có biện pháp điều chỉnh kịp thời. 3.2.1.4. Cải thiện chính sách, công tác đền bù, giải phóng mặt bằng Vấn đề đền bù và tái định cư là bộ phận quan trọng trong kế hoạch thực hiện dự án. Vấn đề này không chỉ liên quan đến lợi ích thiết thực, cuộc sống hiện tại cũng như lâu dài của người dân mà còn liên quan đến pháp luật, chính sách kinh tế xã hội của Nhà nước cũng như chính sách của các nhà đầu tư. Về giải phóng mặt bằng, chính quyền địa phương cần tăng cường sự chỉ đạo các cơ quan chức năng tiến hành ngay các thủ tục thu hồi đất và thu hồi giấy chứng nhận đầu tư đối với các dự án FDI không có khả năng triển khai hoặc chưa có kế hoạch sử dụng hết diện tích đất đã được giao để chuyển cho các dự án đầu tư mới có hiệu quả hơn. Đồng thời, trong phạm vi thẩm quyền của mình, chủ động tổ chức việc đền bù giải tỏa và giao đất cho chủ đầu tư theo đúng cam kết, đặc biệt là các dự án quy mô lớn mà chủ đầu tư sẵn sàng giải ngân thực hiện dự án. Dưới đây là một số nội dung chủ yếu cần sớm được sửa đổi, bổ sung: (1) Cần làm rõ hơn những điều kiện để được đền bù thiệt hại về đất, nhất là các trường hợp đất sử dụng ổn định trước ngày 8/1/1998. Cần có quy định rõ thời điểm sử dụng đất để đảm bảo không vi phạm quy hoạch của cấp có thẩm quyền phê duyệt và đã công bố hoặc không vi phạm hành lang bảo vệ công trình. Không lấn chiếm đất trái pháp luật. Đồng thời có quy định rõ ràng về thời điểm xác nhận của UBND xã, phường, thị trấn cho người sử dụng đất có giấy tờ mua bán, chuyển nhượng quyền sử dụng đất. Những quy định này sẽ theo hướng thừa nhận thực tế sử dụng đất qua các giai đoạn khác nhau: cải cách ruộng đất, cải tạo công thương nghiệp, cải tạo nông nghiệp... (2) Có quy định cụ thể về mức đất ở được đền bù thiệt hại. Đây là vấn đề hệ trọng và có nhiều ý kiến khác nhau, còn nhiều khiếu kiện từ nhân dân, còn nhiều ý kiến từ chính quyền các cấp. (3) Đối với việc tính giá đất đền bù, nên thực hiện việc tính giá đất đền bù phù hợp với khả năng sinh lợi hoặc chuyển nhượng quyền sử dụng đất tại địa phương. Giá tính đất đền bù do UBND tỉnh quyết định để đảm bảo vai trò đại diện quyền sở hữu toàn dân về đất đai. Tuy nhiên, cần cho phép UBND tỉnh dựa trên quy định của Chính phủ về giá đất khi quy định đó đã phù hợp với khả năng sinh lợi hoặc giá chuyển nhượng thực tế của đất đai để làm giá đất tính đền bù thiệt hại ở địa phương để giảm công việc cho địa phương. (4) Đối với việc đền bù thiệt hại về tài sản, cần có quy định thống nhất với Nghị định 22/1998/NĐ-CP. Đó là đền bù 100% giá xây dựng đối với nhà cấp bốn vì loại nhà này chủ yếu là của các đối tượng nghèo nên cần được ưu tiên để họ có thể tái tạo lại ngôi nhà mới với tiêu chuẩn kỹ thuật tương đương. Đồng thời, phải có quy định rõ về việc đền bù theo mức thiệt hại thực tế cho nhà từ cấp ba trở lên để đảm bảo cho mức đền bù phù hợp với những thiệt hại mà người có đất bị thu hồi. (5) Cần đưa một số nội dung cơ bản của chính sách tái định cư vào Nghị định bao gồm các quy định đã có của Nghị định 22/1998/NĐ-CP và bổ sung thêm những quy định về: Quyền và nghĩa vụ của người bị thu hồi đất phải di chuyển đến nơi ở mới; Điều kiện bắt buộc về cơ sơ hạ tầng, nhất là trường học và cơ sở khám chữa bệnh tại khu tái định cư và các công trình phúc lợi khác phục vụ đời sống nhân dân; Công khai phương án bố trí đất ở, nhà ở tại nơi tái định cư nhằm phát huy tinh thần dân chủ tại cơ sở và tránh sự áp đặt từ phía Nhà nước; Đề ra nguyên tắc bố trí nhà ở tại nơi tái định cư đối với nhà nhiều tầng, nhiều căn hộ để làm căn cứ thực hiện. (6) Cần bổ sung một số nội dung cụ thể về hội đồng đền bù và hội đồng thẩm định nhằm xử lý những vướng mắc trong quá trình tổ chức thực hiện, cụ thể như sau: - Nâng cao vai trò của chủ dự án trong việc lập, trình duyệt và thực hiện phương án đền bù, giải phóng mặt bằng. Đối với dự án phải thành lập hội đồng đền bù thiệt hại, giải phóng mặt bằng cấp tỉnh thì lãnh đạo sở chủ quản của dự án phải là phó chủ tịch thường trực để trực tiếp chỉ đạo chủ dự án trong việc lập và thực hiện phương án đền bù, giải phóng mặt bằng. - Bổ sung những quy định cụ thể về nguyên tắc làm việc của hội đồng cũng như trách nhiệm của một số thành viên trong hội đồng đền bù, giải phóng mặt bằng như chủ tịch hội đồng, chủ dự án, đại diện của những người bị thu hồi đất. - Có quy định cụ thể về nội dung thẩm định cũng như trách nhiệm của hội đồng thẩm định cấp tỉnh trong việc đảm bảo thời gian thẩm định nhằm đẩy nhanh tiến độ trình duyệt và thực hiện phương án đền bù cũng như trách nhiệm cụ thể của từng thành viên hội đồng. 3.2.2. Nhóm giải pháp tăng cường thu hút FDI cho các dự án phát triển cơ sở hạ tầng Theo Cục đầu tư nước ngoài, năm 2009, vốn giải ngân có thể đạt khoảng từ 9,5 - 12 tỷ USD. Triển vọng đầu tư trung và dài hạn của Việt Nam hiện vẫn được coi là tốt, ước dòng vốn đăng ký trong hai năm tới sẽ giảm so với năm 2008 nhưng vẫn ở mức cao, khoảng trên 20 tỷ USD/năm. Trong giai đoạn tới cần tập trung thu hút đầu tư vào các lĩnh vực quan trọng là công nghệ cao, phát triển cơ sở hạ tầng và phát triển nguồn nhân lực sẽ tạo động lực và góp phần quan trọng cho tăng trưởng kinh tế - xã hội và thu hút mạnh FDI. Hiện đang có rất nhiều yếu kém tác động đến việc thực hiện cam kết cũng như tốc độ giải ngân các nguồn tiền đang đổ vào Việt Nam. Cụ thể, kết cấu hạ tầng yếu kém, thiếu trầm trọng đường cao tốc, bến cảng container, kẹt xe... Nếu như ở Singapore chỉ mất 2 tiếng đồng hồ để chu chuyển một container thì ở VN phải mất tới 7 ngày. Lợi thế giá nhân công thấp bị giảm hấp dẫn vì thiếu hụt trầm trọng nguồn nhân lực chất lượng cao. Trong 1 năm qua, mức lương các nhân sự quản lý của Việt Nam đã tăng 34% bởi sự thiếu hụt nghiêm trọng này. Cải thiện cơ sở hạ tầng sẽ là giải pháp ưu tiên. Theo đó, tiến hành tổng rà soát, điểu chỉnh, phê duyệt và công bố các quy hoạch về kết cấu hạ tầng đến năm 2020 làm cơ sở để thu hút đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng. Ngoài thực hiện việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho các DN trong KCX, cầm đảm bảo các công trình hạ tầng kĩ thuật (đường điện, nước, thông tin liên lạc) đến tận hàng rào các KCX ; ưu đãi ở mức cao nhất các dự án phát triển hạ tầng xã hội đồng bộ với KCX (nhà ở cho công nhân, trường học, trường dạy nghề, cơ sở khám chữa bệnh, thương mại và các dịch vụ đời sống). Phát triển hệ thống dịch vụ rộng khắp, đa dạng và có chất lượng cao như y tế, giáo dục, giải trí cũng như các dịch vụ hải quan, tài chính – ngân hàng, thương mại, quảng cáo, tư vấn về đầu tư xuất nhập khẩu, nghiên cứu thị trường, kỹ năng và kỹ thuật đàm phán, giải quyết tranh chấp, kiến thức về ngoại giao và luật pháp Quốc tếNghiên cứu thành lập công ty đầu tư phát triển hạ tầng khu công nghiệp trực thuộc Ban quản lý khu công nghiệp và chế xuất Hà Nội để thúc đẩy việc xây dựng các cơ sở hạ tầng thuộc các khu công nghiệp mới và đagn bị chậm theo tiến độ. Để thực hiện tốt mục tiêu phát triển kinh tế mà Đại hội Đảng X đề ra, trong thời gian tới chúng ta phải nhanh chóng cải thiện cơ sở hạ tầng đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH đất nước. Theo đó, ưu tiên các cơ sở hạ tầng kinh tế như: hệ thống giao thông vận tải, điện nước, viễn thông, thông qua huy động cao độ các nguồn lực tài chính của Nhà nước và tranh thủ khai thác sử dụng nguồn vốn FDI. Muốn vậy, cần tập trung giải quyết một số vấn đề sau: Nâng cao năng lực vận tải và lưu thông Trong thương mại quốc tế, vận tải biển đóng vai trò trung tâm chiếm trên 80 % lượng hàng hoá vận chuyển. Dù rằng, vận tải trong nước phần nhiều là bằng đường bộ nhưng đối với các trường hợp cự li dài thì vận tải biển là chủ yếu. Lượng hàng hoá vận chuyển bằng đường sắt vẫn còn ít. Về quy chế liên quan đến đầu tư, ngành vận tải là một trong những ngành mà doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài chưa được phép tham gia. Nhìn chung, chất lượng vận tải của các doanh nghiệp Việt Nam còn thấp, chưa đáp ứng được yêu cầu vận tải chất lượng cao của các doanh nghiệp nước ngoài. Do đó, chúng ta cần kích cầu, tăng chất lượng dịch vụ vận tải của các doanh nghiệp xe tải, đường sắt, đường biển trong nước. Việc cho phép doanh nghiệp vận tải 100% vốn nước ngoài tham gia vào thị trường vận tải sẽ góp phần thúc đẩy thị trường đầy tiềm năng này. Cải thiện hạ tầng viễn thông Một vấn đề mà các doanh nghiệp nước ngoài gặp phải là giá điện thoại quốc tế tại Việt Nam cao hơn các nước trong khu vực. Cước điện thoại quốc tế và khu vực đang có xu hướng giảm giá nên Việt Nam cần định giá tương ứng.... Do đó, trong thời gian tới, Chính Phủ Việt Nam cần phải tiếp tục giảm giá cước viễn thông quốc tế tới mức trung bình trong khu vực. 3.2.3. Nhóm giải pháp về nâng cao chất lượng nguồn nhân lực Thu hút FDI tăng vọt trong vài năm gần đây và kỷ lục là 21,3 tỷ USD năm 2007 lập tức bị phá vỡ với 47,15 tỷ USD vốn đăng ký chỉ trong 8 tháng đầu năm 2008. Tuy nhiên, vốn giải ngân vẫn đang bị vốn đăng ký bỏ lại một quãng xa mà theo các chuyên gia, một trong những nguyên nhân là thiếu nhân lực. Dù còn nhiều nguyên nhân khác khiến lượng vốn FDI giải ngân không đạt như mong muốn, song theo giới chuyên gia kinh tế, nếu không có những chuẩn bị về nguồn nhân lực và có chính sách kinh tế hợp lý thì sức hấp dẫn của Việt Nam đối với nhà đầu tư nước ngoài sẽ bị ảnh hưởng và khoảng cách giữa tỷ lệ vốn đăng ký với vốn giải ngân sẽ khó được thu hẹp. Thông thường, lao động làm việc trong khu vực FDI có yêu cầu về trình độ cao hơn nhiều trong khu vực doanh nghiệp nhà nước và ngoài quốc doanh. Điều này khiến các lao động dịch chuyển từ khu vực nhà nước và ngoài quốc doanh khó có thể thỏa mãn nhu cầu trình độ của các doanh nghiệp FDI. Ở một góc nhìn khác, nguồn lao động kém chất lượng còn được biểu hiện rõ ở tỷ lệ thất nghiệp tại khu vực có dòng vốn FDI lớn. Theo logic thông thường, vùng nào có nhiều doanh nghiệp FDI thì vùng đó sẽ có nhu cầu lao động lớn, và đáng lẽ ra tỷ lệ thất nghiệp phải thấp. Song ngược lại, theo điều tra tỷ lệ thất nghiệp do VVCI tiến hành đối với lực lượng lao động trong độ tuổi, những vùng thu hút nhiều đầu tư nước ngoài lại là những vùng có tỷ lệ thất nghiệp tăng cao hơn so với tỷ lệ trung bình của cả nước. Giải pháp về nguồn nhân lực thực hiện theo hướng đẩy nhanh việc triển khai kế hoạch tổng thể về đào tạo nhằm nâng tỷ lệ lao động qua đào tạo lên 40% vào năm 2010. Theo đó, ngoài việc nâng cấp đầu tư hệ thống các trường đào tạo nghề hiện có lên ngang tầm khu vực và thế giới, sẽ phát triển thêm các trường đào tạo nghề và trung tâm đào tạo từ các nguồn vốn khác nhau. Thực hiện các giải pháp nhằm đưa Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Lao động vào thực tế cuộc sống để ngăn ngừa tình trạng đình công bất hợp pháp, lành mạnh hóa quan hệ lao động theo tinh thần của Bộ luật Lao động, bao gồm: Tiếp tục hoàn thiện luật pháp, chính sách về lao động, tiền lương phù hợp trong tình hình mới; tăng cường công tác kiểm tra, giám sát việc chấp hành pháp luật về lao động đối với người sử dụng lao động nhằm bảo đảm điều kiện làm việc và đời sống cho người lao động. Trong những năm tới đây, việc nâng cao trình độ cho đội ngũ cán bộ dự án là một trong những việc cần làm ngay. Chúng ta có thể mời các chuyên gia trong và ngoài nước tới đào tạo, tập huấn công việc của dự án cho cán bộ dưới hình thức đào tạo ngắn hạn, tập trung hoặc đào tạo ngay tại cơ sở làm việc đối với một số nghiệp vụ đặc thù của dự án. Về lâu dài, cần chuẩn hoá trình độ cán bộ thực hiện dự án phải có trình độ đại học trở lên và thông thạo ngoại ngữ để có thể hoàn thành nhanh chóng, chính xác các công việc của dự án. 3.2.4. Nhóm giải pháp về phân cấp trong việc cấp phép, quản lý và xúc tiến đầu tư Về phân cấp quản lý, qua thực tế thực hiện việc phân cấp trong hơn 2 năm vừa qua đã bộc lộ một số vấn đề bất cập, không phù hợp, ảnh hưởng đến quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội chung. Cần nghiên cứu để xem xét lại chủ trương phân cấp toàn diện như quy định hiện nay, có các biện pháp để tăng cường sự phối hợp giữa Trung ương và địa phương trong việc cấp phép và quản lý các dự án đầu tư nước ngoài. Giải pháp về xúc tiến đầu tư: cần nghiên cứu, đề xuất chính sách vận động, thu hút đầu tư đối với các tập đoàn đa quốc gia cũng như có chính sách riêng đối với từng tập đoàn và các đối tác trọng điểm như các quốc gia thành viên EU, Hoa Kỳ, Nhật Bản... Nhanh chóng hoàn thành việc xây dựng thông tin chi tiết về dự án (project profile) đối với danh mục đầu tư quốc gia kêu gọi đầu tư nước ngoài giai đoạn 2006 - 2010 để làm cơ sở cho việc kêu gọi các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào các dự án này. Tiếp tục kết hợp các hoạt động xúc tiến đầu tư với các chuyến thăm và làm việc tại các nước của lãnh đạo cấp cao Đảng, Quốc hội, Chính phủ nhằm quảng bá môi trường đầu tư Việt Nam. Để tạo công cụ mạnh và hiệu quả cho một chiến lược xúc tiến đầu tư toàn diện, thành phố Hà Nội cần kiện toàn và phát triển trung tâm xúc tiến đầu tư chuyên trách thuộc Sở Kế hoạch và Đầu tư. Ngân sách thành phố cần tài trợ đủ kinh phí cần thiết, cán bộ cần đủ năng lực, các cơ chế hoạt động cần minh bạch và mềm dẻo để tạo thuận lợi thực hiện các hoạt động xúc tiến đầu tư nhằm nâng cao hình ảnh của thành phố. Cơ quan xúc tiến đầu tư của thành phố cần phối hợp chặt chẽ với các trung tâm xúc tiến đầu tư chuyên trách của Bộ Kế hoạch và Đầu tư và các địa phương khác trong chiến lược và chính sách, kế hoạch dự án triển khai các hoạt động xúc tiến đầu tư của mình. Đặc biệt cần khai thác khả năng của Việt kiều vào hoạt động xúc tiến đầu tư... Ngoài ra, thành phố Hà nội cần thường xuyên phối hợp với các cơ quan quản lý về FDI và các địa phương khác trong cả nước, các bộ ngành hữu quan định kỳ gặp gỡ, đối thoại với các doanh nghiệp để hướng dẫn về luật pháp chính sách, giải quyết kịp thời các kiến nghị của doanh nghiệp, tháo gỡ các ách tắc, điều chỉnh bổ sung các chính sách biện pháp tạo thuận lợi cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Trong thời gian tới, Chính phủ cần giao quyền tự chủ nhiều hơn cho các tỉnh, địa phương trong quản lý FDI. Đặc biệt cần mạnh dạn cho phép Hà Nội quyết định các dự án đầu tư nước ngoài trên địa bàn lên quy mô tới 100 triệu USD. Điều này là cần thiết để đảm bảo sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế thủ đô theo hướng phát triển dịch vụ trình độ cao, chất lượng cao cũng như để nhanh chóng hiện đại hóa cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội của Thủ Đô. Cần nghiên cứu thành lập một kênh đặc biệt (có thể gọi là hội đồng đầu tư nước ngoài), liên cấp, liên ngành (bao gồm cả đại diện của Chính phủ, các Bộ, Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội và các sở liên ngành liên quan của thành phố) để trực tiếp xem xét, thẩm định và quyết định cấp phép đầu tư cho các dự án có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài với nguyên tắc: thủ tục đơn giản nhất, thời gian ngắn nhất (thậm chí chỉ sau một lần họp), một cửa... KẾT LUẬN Đầu tư trực tiếp nước ngoài ngày càng đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy quá trình phát triển kinh tế ở các nước trên thế giới. Vì bản thân đầu tư trực tiếp nước ngoài mang theo nó vốn đầu tư, kỹ thuật công nghệ tiên tiến cùng với kinh nghiệm quản lý kinh tế giỏi có hiệu quả, do vậy ngày nay các quốc gia trên thế giới đều xem đầu tư trực tiếp nước ngoài như một động lực thúc đẩy mạnh mẽ quá trình phát triển kinh tế và là một bộ phận không thể thiếu của nền kinh tế nói chung. Hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài ở thủ đô Hà nội thời gian qua đã diễn ra rất sôi động, tham gia vào hầu hết các ngành kinh tế mà Hà nội có thế mạnh như: công nghiệp điện tử, công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng, công nghiệp chế biến... các hoạt động này đã góp phần đổi mới nền kinh tế Hà Nội, dịch chuyển cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, nâng cao năng lực vốn đầu tư cho phát triển kinh tế, trang bị công nghệ mới hiện đại, nâng cao trình độ quản lý kinh tế, phát triển các ngành nghề mới. Hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài sau hơn 20 năm thực hiện đã đóng góp to lớn vào quá trình phát triển nền kinh tế, đặc biệt là quá trình thực hiện chiến lược phát triển kinh tế Hà Nội. Những đóng góp này đã đưa các hoạt động ĐTTTNN trở thành một bộ phận của nền kinh tế, đóng vai trò như một nhân tố giúp tăng tốc phát triển kinh tế Việt Nam nói chung và thủ đô Hà Nội nói riêng. Trong những năm tới, để nâng cao hiệu quả sử dụng và thu hút và giải ngân vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, phục vụ tốt chiến lược phát triển kinh tế Hà Nội, chúng ta cần nghiêm túc thực hiện những biện pháp nâng cao hiệu quả hoạt động đầu tư đã nêu ở trên. Thực hiện tốt các biện pháp này Hà Nội sẽ trở thành một môi trường đầu tư thuận lợi hơn, với nhiều cơ hội đầu tư hấp dẫn để thu hút các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào các dự án phát triển kinh tế thủ đô. Phấn đấu xây dựng và phát triển thủ đô Hà Nội xứng đáng là “trung tâm văn hoá, khoa học kỹ thụât, đồng thời là trung tâm lớn về kinh tế và giao dịch quốc tế của cả nước” như trong chiến lược phát triển kinh tế Hà Nội đã vạch ra. Từ đó, đóng góp vào công cuộc đổi mới phát triển nền kinh tế Việt Nam theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng một nước Việt Nam giàu mạnh và phồn vinh. Cuộc "cạnh tranh" về thu hút đầu tư FDI đang bắt đầu chuyển dần sang giai đoạn mới, đó là cạnh tranh trong thúc đẩy giải ngân dự án. Rõ ràng, khi khả năng hấp thụ dự án của địa phương tăng lên, sức hấp dẫn trong thu hút đầu tư sẽ bền vững hơn rất nhiều PHỤ LỤC Bảng 4: Danh sách các quốc gia đầu tư vào Hà Nội (đến hết năm 2007) TT Quốc gia Số dự án Vốn đầu tư 1 Singapore 46 2.815.156.280 2 Japan 122 1.768.305.141 3 Korea 67 838.135.252 4 Lucxembourg 6 792.351.016 5 Hongkong 44 382.904.668 6 Thailand 12 352.397.520 7 France 28 247.359.262 8 Maylaysia 20 229.022.000 9 Hoa Kỳ 21 176.530.804 10 Australia 16 109.569.900 11 Taiwan 24 126.370.000 12 Denmark 11 83.454.687 13 Inđônêxia 2 77.542.000 14 British Virgin Islands 16 80.994.875 15 United KingDom 9 29.876.551 16 China 48 76.351.149 17 Philippine 3 39.352.000 18 Germany 13 36.376.052 19 Holland 8 23.743.500 20 Sweden 6 4.555.840 21 Finland 1 40.000.000 22 Poland 2 15.800.000 23 Belarus 1 12.000.000 24 Russia 5 11.342.393 25 Cuba 1 6.600.000 26 Switzeland 8 5.065.000 27 India 1 5.000.000 28 Israel 2 3.181.136 29 Italy 3 2.728.000 30 Saint Vincent 1 3.090.000 31 Panama 1 1.750.000 32 Czech Repulic 1 1.728.683 33 Canada 4 41.400.000 34 Ukraine 2 1.354.667 35 Belgium 1 1.200.000 36 Syria 2 500.000 37 Cambodia 1 400.000 38 Hungary 1 200.000 39 Argentina 1 650.000 40 Norway 1 90.000 41 Muli – Nation 209 1.213.995.641 Total 770 9.658.424.007 Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư .

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc2141.doc
Tài liệu liên quan