Ngân hàng Nhà nước cần rà soát lại các văn bản chồng chéo thiếu đồng bộ, chỉnh sửa và ban hành một số cơ chế tín dụng, bảo lãnh phù hợp với môi trường kinh tế - pháp lý và hành chính ở Việt Nam hiện nay; điều chỉnh, bổ sung các điều kiện nguyên tắc cho vay phù hợp với thực tế hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp. Sửa đổi những qui định, điều kiện vượt ra ngoài khả năng quản lý kiểm soát của cán bộ tín dụng và những điều kiện trên thực tế Việt Nam chưa thực hiện được.
81 trang |
Chia sẻ: ndson | Lượt xem: 1187 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng hoạt động cho vay trung, dài hạn tại ngân hàng ngoại thương Việt Nam giai đoạn 1996-2002, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hính phủ và hướng dẫn của NHNN.
Một điểm đáng lưu ý trong thẩm định là cán bộ tín dụng phải chú ý đến thời hạn vay vốn và thời hạn hoạt động ( hoặc thời hạn hoạt động còn lại ) của doanh nghiệp, tránh tình trạng thời hạn trả nợ vốn vay lại dài hơn thời hạn hoạt động của doanh nghiệp. Sau đó cán bộ tín dụng đánh giá tổng quát và lập tờ trình trưởng phòng tín dụng, nội dung chủ yếu bao gồm :
+ Khả năng tài chính của doanh nghiệp, mức vốn tự có tham gia vào chu kỳ sản xuất kinh doanh cùng vốn vay ngân hàng sau khi đã loại trừ vốn trong thanh toán.
+ Khả năng thực thi của khách hàng về kế hoạch sản xuất kinh doanh, về cơ sở trả nợ vay.
+ Khó khăn mà khách hàng gặp phải và dự kiến xảy sẽ xảy ra cùng với những phương hướng xử lý của khách hàng để vượt qua những khó khăn đó. Cân đối số nợ trả và khả năng trả trong thời gian vay vốn. Đối với các dự án mở rộng quy mô hiện tại của doanh nghiệp thì có thể sử dụng lợi nhuận thu được từ hoạt động hiện tại để hỗ trợ cho việc trả nợ. Hoặc đối với các dự án của các doanh nghiệp mới, nếu bị lỗ trong những năm đầu hoạt động nhưng có nguồn bù đắp ( như từ hợp đồng vay vốn dự phòng từ các ngân hàng khác ) thì có thể xem xét cho vay.
+ Đề nghị mức vốn cho vay, thời hạn, mức lãi suất nếu thấy đủ điều kiện vay vốn
Trưởng phòng tín dụng kiểm tra nội dung tờ trình, ghi ý kiến trình giám đốc Giám đốc duyệt và quyết định đồng ý hay từ chối cho vay. Đối với các dự án có nhiều yếu tố phức tạp, cần có sự tham gia ý kiến của nhiều người thì giám đốc có thể đưa dự án ra Hội đồng tín dụng cơ sở để xem xét trước khi quyết định cho vay. Quy chế hoạt động của hội đồng tín dụng cơ sở tương tự như Hội đồng tín dụng Trung ương sẽ trình bày ở phần sau.
Nếu trên mức phán quyết, lập tờ trình lên Trung ương. Trên cơ sở ý kiến của phòng thẩm định đầu tư, tổng giám đốc quyết định ngay hoặc đưa ra hội đồng tín dụng trung ương. Hội đồng tín dụng trung ương do tổng giám đốc VCB quyết đinh thành lập, bao gồm : Chủ tịch HĐTD là tổng giám đốc, phó chủ tịch là phó tổng giám đốc phụ trách công tác tín dụng hoặc phó tổng giám đốc do tổng giám đốc đề nghị. Các uỷ viên của HĐTD là một số trưởng phòng của một số phòng chuyên môn có liên quan trực tiếp đến dự án như ; phòng quản lý tín dụng, phòng thẩm định đầu tư, chủ tịch hoặc phó chủ tịch HĐTD cơ sở có dự án trình trung ương xem xét. Các thành viên là các uỷ viên có quyền lực, có quyền biểu quyết để quyết định các hướng đầu tư. trong trường hợp ần thiết thì tổng giám đốc có thể mời thêm các phó tổng giám đốc, các trưởng phòng của một số phòng liên quan như; kế toán tài chính, pháp chế, tổng kiểm soát, quản lý chi nhánh, cân đối vốn, các cán bộ tín dụng, cán bộ thẩm định dự án và các chuyên gia ngoài nghành. Vai trò của các thành viên là tư vấn vì thế không vì thế không có quyền biểu quyết đối với các vấn đề được dưa ra. Tương tự , HDTD cơ sở do giám đốc quyết định thành lập bao gồm các thành viên với cơ cấu tương tự. Nguyên tắc của HĐTD là hoạt động theo vụ việc, không mang tính chất thường trực chỉ làm việc trên cơ sở có sự triệu tập của chủ tịch HĐTD. Nguyên tắc thứ hai là các thành viên HĐTD có ý kiến độc lập, tự chịu trách nhiệm về các quyết định của mình trước pháp luật.
Các dự án thuộc đối tượng xem xét của HĐTD bao gồm các dự án buộc phải đưa ra HĐTD như : Toàn bộ các dự án liên doanh, liên kết, mua cổ phần, các dự án do HĐTD cơ sở chuyển lên và một số dự án khác theo yêu cầu của Tổng giám đốc. Cơ chế hoạt động của HĐTD là thông qua các phiên họp HĐTD, HĐTD làm việc trên cơ sở triệu tập của Chủ tịch HĐTD và chỉ họp trên cơ sở có mặt từ 2/3 số thành viên ghi trong quyết định thành lập trở nên tham gia. Các thành viên HĐTD trên cơ sở các hồ sơ, tài liệu do phòng tín dụng và thẩm định đầu tư trình lên, có quyền xem xét và cho ý kiến. Các thành viên này phải có ý kiến độc lập và tự chịu trách nhiệm cá nhân về các quyết định của mình trên cơ sở các thông tin được cung cấp và kể từ thời điểm nhận hồ sơ để xem xét. Phương thức thông qua các quyết định của hội đồng tín dụng là bằng biểu quyết, HĐTD chỉ quyết định đầu tư khi có kết quả biểu quyết như sau : có đủ 50% số phiếu thành viên có mặt biểu quyết đồng ý đầu tư. Việc biểu quyết này chỉ hợp pháp khi nó được lập thành biên bản theo đúng trình tự. Biên bản cuộc họp phải ghi rõ ý kiến của từng thành viên đối với dự án, kết quả biểu quyết và kết luận của họ. ý kiến của từng thành viên HĐTD cần phải được bảo lưu để có thể phân định được trách nhiệm cá nhân sau này.
Khi đã có đủ cơ sở, HĐTD có thể quyết định đầu tư hoặc không đầu tư. Nếu hồ sơ chưa có đủ căn cứ thì chuyển lại cho chi nhánh hoặc các phòng có liên quan để tổ chức việc thẩm định lại, làm rõ thêm các vấn đề mà HĐTD đã đề cập, hoặc đối với các HĐTD cơ sở khi thấy vượt mức phán quyết của mình thì có thể chuyển lên cấp trên để xem xét quyết định.
Giai đoạn phát tiền vay: Mỗi hợp đồng doanh nghiệp có thể rút vốn làm nhiều lần, mỗi lần phải lập giấy nhận nợ (đối với DNNN) hoặc khế ước vay (đối với các loại hình doanh nghiệp khác). Cán bộ tín dụng giám sát việc rút vốn vay từng lần của khách hàng để dảm bảo vốn rút ra đúng nội dung yêu cầu chi trả của khách hàng và phù hợp với mục đích vay, vào hồ sơ theo dõi và tiến hành định kỳ hạn nợ cho từng khoản rút vốn theo điều kiện vay. Khi phát tiền kỳ sau, cán bộ tín dụng kiểm tra việc sử dụng vốn của khách hàng món tiền kỳ trước đồng thời thường xuyên bám sát tình hình sản xuất kinh doanh của khách hàng để sớm phát hiện những lệch lạc trong sử dụng vốn vay, những khó khăn mà khchs hàng gặp phải để có cơ họi cố vấn tốt cho khách hàng vượt qua và bảo vệ được vốn đã cho vay, tránh rủi ro.
Đây là giai đoạn rất dễ bị lợi dụng, dẫn đến việc thất thoát vốn vay. Cán bộ tín dụng cần phải rất chú ý: đối với việc vay vốn nhập thiết bị, cơ sở phát tiền vay là các chứng từ giao hàng; đối với việc vay vốn thanh toán chi phí xây dựng cơ bản trong nước, ngân hàng chỉ phát tiền vay trên cơ sở chứng từ, hoá đơn hợp lệ theo quy định, đặc biệt là phải có xác nhận của đơn vị tư vấn, giám sát, ngân hàng thanh toán những khối lượng xây dựng đã được thực hiện và chỉ chuyển tiền vay cho ngươì thụ hưởng. Khi có sự cố có nguy cơ ảnh hưởng đến vốn vay, cán bộ tín dụng thông báo cho kế toán và đình chỉ việc khách hàng rút vốn tiếp, bằng các biện pháp quản lý chặt vốn trên tài khoản tiền gửi của khách hàng và có tờ trình với lãnh đạo. Ngân hàng cũng có thể ngừng phát tiền vay nếu doanh nghiệp không rút vốn trong thời hạn ghi trên hợp đồng. Trong trường hợp cần thiết thì thu ngay vốn đã phát cho vay, quản lý chặt tài sản, hàng hoá bảo đảm thế chấp, cùng khách hàng tìm biện pháp vượt khó khăn. Khi khả năng thanh toán đã được tái lập bình thường, cán bộ tín dụng báo cáo ban lãnh đạo xét cho sử dụng tiếp số vốn đã ký cho vay.
Giai đoạn thu nợ gốc và lãi
Việc trả nợ gốc và lãi do hai bên thoả thuận trong hợp đồng. Đến hạn trả nợ, doanh nghiệp phải chủ động chuyển tièn trả nợ, nếu không chủ động thì ngân hàng được quyền trích tài khoản các loại để thu nợ.
Việc trả nợ được thực hiện theo trình tự : lãi, phí, gốc. .nhưng trình tự này có thể thay đổi linh hoạt cho phù hợp với thực tế và trên cơ sở đề nghị của doanh nghiệp.
Trong giai đoạn này, cán bộ tín dụng thường xuyên kiểm tra việc sử dụng tài sản hình thành từ vốn vay, cùng kế toán viên theo dõi kỳ hạn nợ, chủ động lập giấy thu nợ. Bằng việc xem xét các báo cáo tài chính định kỳ của doanh nghiệp, nếu thấy có vấn đề, cán bộ tín dụng có kiến nghị để doanh nghiệp kịp thời xử lý.
Trong trường hợp khách hàng gặp khó khăn, cần được gia hạn nợ, cán bộ tín dụng lập tờ trình xin gia hạn, nếu được duyệt thì thông báo cho khách hàng. Các nguyên nhân để ngân hàng phải gia hạn nợ bao gồm các nguyên nhân khách quan như biến động thị trường, các nguyên nhân bất khả kháng. .và cả các nguyên nhân chủ quan chưa tính toán chính xác khả năng trả nợ của doanh nghiệp.
HìNH THứC CHO VAY ĐồNG TàI TRợ
Cho vay đồng tài trợ là hình thức mà theo đó hai hay nhiều ngân hàng cùng tham gia cho vay một dự án. Các ngân hàng cùng cho vay cử ra một ngân hàng làm đại diện gọi là ngân hàng điều phối, thường là ngân hàng có tỷ lệ vốn cho vay nhiều nhất hoặc ngân hàng có kinh nghiệm trong việc cho vay này. Ngân hàng này sẽ thay mặt nhóm các ngân hàng cho vay giao dịch với khách hàng, nhận hồ sơ, tiến hành thẩm định sơ bộ rồi chuyển hồ sơ cho các ngân hàng tham gia để xem xét. Các ý kiến của từng ngân hàng sẽ được ngân hàng quản lý chính tập hợp và gửi cho khách hàng để hoàn tất hồ sơ. Ngân hàng quản lý chính cũng có thể đứng ra nhận và quản lý TSTC chung cho toàn bộ khoản vay, chịu trách nhiệm lưu giữ hồ sơ, về tính hợp pháp, hợp lệ của hồ sơ và xử lý tài sản thế chấp nếu có tranh chấp hoặc rủi ro phát sinh sau này. Sau khi các bên đã nhất trí việc đồng tài trợ, ngân hàng quản lý chính ký hợp đồng tín dụng với bên vay, nhận tiền từ các ngân hàng tham gia chuyển đến và giải ngân theo đúng quy định. Việc thu nợ gốc và lãi đều do ngân hàng này thực hiện, sau đó chuyển tiền lại cho các ngân hàng tham gia theo tỷ lệ tham gia. Trong trường hợp xảy ra rủi ro thì mỗi ngân hàng sẽ chịu rủi ro tương ứng với phần vốn đã cho vay. Như vậy nổi lên ở đây là vai trò của ngân hàng quản lý chính, đây phải là ngân hàng có có uy tín, có trình độ lành nghề nhất định, hoặc là ngân hàng có hiểu biết về khách hàng sâu sắc nhất. Đối với việc cho vay đồng tài trợ, ngoài phần lãi suất như các khoản vay thông thường, các ngân hàng tham gia có thể thu phí dàn xếp, phí cam kết, riêng ngân hàng quản lý chính còn thu thêm phí quản lý.
Cho vay đồng tài trợ là hình thức cho vay có nhiều ưu điểm, nó giúp các ngân hàng tài trợ cho các dự án lớn mà từng ngân hàng có thể không đủ khả năng và điều kiện cho vay. Cho vay đồng tài trợ sẽ giúp các ngân hàng tiết kiệm chi phí thẩm định, giảm bớt rủi ro khi cho vay, học tập được kinh nghiệm quản lý ( đặc biệt khi tham gia cùng ngân hàng nước ngoài ) và tránh được rủi ro khi doanh nghiệp rủi ro thì các ngân hàng tranh nhau thu nợ. ở nước ta, ngày 29-4-2001 đã có quyết định của thống đốc NHNN về việc ban hành quy chế đồng tài trợ của các TCTD, quy chế này thực sự đã là văn bản hữu ích để các NHTM làm cơ sở cho việc cho vay đồng tài trợ.
Chương 3
Giải pháp nâng cao hiệu quả tín dụng trung, dài hạn tại Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam.
I > Các tồn tại và thế mạnh trong cho vay trung và dài hạn tại VCB :
1. Các thế mạnh trong cho vay trung, dài hạn của VCB : Mặc dù tình hình cho vay, đặc biệt là cho vay trung và dài hạn tại hầu hết các NHTM đều đang trong tình trạng đóng băng nhưng trong năm 2001 dư nợ trung và dài hạn của VCB vẫn tăng 525,28 tỷ đạt 121,78% mức dư nợ tín dụng trung và dài hạn của năm 2000,khẳng định lại kết quả của việc chấn chỉnh lại hoạt động tín dụng và củng cố lòng tin của khách hàng với VCB. Đối tượng có dư nợ tín dụng trung, dài hạn tại VCB với tỷ lệ lớn nhất là các DNNN, đây cũng là đối tượng có tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ thấp nhất. Điều này thể hiện tính đúng đắn của phương châm của VCB đó là ;đầu tư thận trọng đạt hiệu quả kinh tế xã hội cao, đảm bảo an toàn vốn cho ngân hàng, tập trung đầu tư vốn tín dụng vào các lĩnh vực quan trọng của nền kinh tế, ghóp phần đẩy nhanh tốc độ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Xuất phát từ truyền thống và kinh nghiệm trong thanh toánquốc tế và kinh doanh đối ngoại, VCB có lợi thế trong khai thác và sử dụng có hiệu quả nguồn tiền gửi ngoại tệ. Trên 60% nguồn vốn huy động là nguồn vốn ngoại tệ, vì vậy cho vay trung và dài ạhn bằng ngoại tệ thường xuyên chiếm một tỷ lớn là một trong những thế mạnh của VCB. Vốn vay trung, dài hạn để nhập máy móc thiết bị từ nước ngoài chiếm hơn 80% trong tổng dư nợ tín dụng trung, dài hạn, cao hơn hẳn các ngân hàng khác.
Nhận thức được tầm quan trọng của cạnh tranh trong hoạt động tín dụng giữa các NHTM, VCB đã xây dựng một chính sách khách hàng linh hoạt, đặc biệt trong hoạt động tín dụng. Chẳng hạn như những ưu đãi cho khách hàng về lãi suất vay vốn, tăng thời gian ân hạn, tăng thời gian cho vay so với điều lệ về cho vay dài hạn, xây dựng lịch trả nợ phù hợp với cơ cấu các nguồn thu của khách hàng.
VCB là một trong những NHTM đi đầu trong việc thực hiện thí điểm nghiệp vụ cho vay đồng tài trợ. Hoạt động này cho thấy sự chủ động hướng tới cái mới của VCB trong mở rộng cho vay trung, dài hạn cũng như trong hoạt động kinh doanh nói chung. Nhờ đó VCB có thể mở rộng cho vay kết hợp với học tập kinh nghiệm từ các ngân hàng khác.
Một điểm mạnh nữa trong hoạt động tín dụng trung, dài hạn của VCB là VCB có một đội ngũ nhân viên tín dụng trình độ, năng lực có thể đáp ứng các đòi hỏi đặt ra trong quá trình cho vay.
Vốn tín dụng trung, dài hạn của VCB đã tạo điều kiện cho nhiều doanh nghiệp có được những công nghệ tiên tiến, trang thiết bị hiện đại, tăng sức cạnh tranh trên thị trường, mở rộng cơ sở vật chất kỹ thuật, thúc đẩy sự phát triển của nhiều nghành, lĩnh vực quan trọng của nền kinh tế. Tuy nhiên hoạt động cho vay trung, dài hạn của VCB vẫn còn nhiều hạn chế cần khắc phục, ảnh hưởng đến hiệu quả của VCB nói chung.
2 > Các vấn đề còn tồn tại trong cho vay trung, dài hạn của VCB :
- Một hạn chế lớn hiện nay của VCB là tình trạng nợ khê đọng lớn, nợ quá hạn vượt mức cho phép, chất lượng tín dụng thấp đang gây tồn đọng vốn lớn trong nền kinh tế. Một bộ phận dư nợ tín dụng đã dược chính phủ cho khoanh cho xoá, song thiếu nguồn vốn để tất toán trong khi đó NSNN còn nợ lại ngân hàng. Chất lượng tín dụng đang là vấn đề đáng quan tâm mà nguyên nhân phải được nhìn nhận từ hai phía, ngân hàng và khách hàng.
* Vấn đề tài sản thế chấp, tài sản xiết nợ : Tài sản liên quan đén các vụ án do ngân hàng ngoại thương quản lý có khối lượng rất lớn. Khả năng phát mại, khai thác các tài sản này để thu hồi vốn rất hạn chế và gặp nhiều khó khăn. Các TSTC, xiết nợ chủ yếu là quyền sử dụng đất và bất động sản chưa hoàn thành thủ tục pháp lý, chưa có khả năng khai thác hoặc khai thác gặp rất nhiều khó khăn. Một số tài sản còn bị giảm giá nhiều so với giá trị thoả thuận thế chấp ban đầu. Mặc dù VCB đã thành lập bộ phận chuyên trách quản lý và khai thác các tài sản xiết nợ, song do khó khăn về thủ tục pháp lý cộng với tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế khu vực nên kết quả việc khai thác tài sản xiết nợ còn rất thấp. Đây đang còn là gánh nặng lớn cho ngân hàng.
* Cán bộ tín dụng của VCB còn thiếu kinh nghiệm, không lường hết được rủi ro hoạt động kinh doanh trong nền kinh tế thị trường nên chưa thật sự chú ý tới khâu kiểm tra, giám sát tình hình sử dụng vốn vay của khách hàng tại đơn vị, có quan điểm cho rằng nếu đi quá sâu kiểm tra tình hình sử dụng vốn vay của khách hàng sẽ gây phièen hà cho khách hàng, vi phạm quyền tự chủ kinh doanh của doanh nghiệp và khách hàng sẽ bỏ đi ngân hàng khác. VCB còn thiếu cán bộ được đào tạo chuyên nghành chuyên môn kỹ thuật để thẩm định tính khả thi, hiệu quả của dự án.
- Công tác kiểm tra, kiểm soát nội bộ chưa đạt yêu cầu, chưa chủ động giám sát, kiểm tra, ngăn chặn có hiệu quả những hành vi tiêu cực trong hoạt động ngân hàng. Khâu kiểm tra, kiểm soát lâu nay chưa được kiểm tra đúng mức, cán bộ làm công tác thanh tra còn thiếu cả về số lượng lẫn chất lượng, thiếu kinh nghiệm thực tế và trình độ chuyên môn. Hệ thống thông tin phòng ngừa rủi ro tín dụng giữa NHNN với VCB chưa đáp ứng được yêu cầu,sự hợp tác, trao đổi thông tin giữa các NHTM trong việc xét duyệt cho vay và quản lý vốn vay đối với các khách hàng vay vốn VCB và các ngân hàng khác chưa tốt, thiếu các thông tin cần thiết, trung thực về tình trạng nợ nần, về hiệu quả kinh doanh của khách hàng. .nên không tránh được rủi ro. Mặc dù VCB đã có phòng chuyên trách thông tin phòng ngừa rủi ro, đặc biệt là rủi ro tín dụng nhưng cho đến nay vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu, chưa thực sự là công cụ tốt để ngăn ngừa rủi ro, tiêu cực trong hoạt động ngân hàng.
- Cho vay trung dài hạn bằng VND chưa phát triển, chưa chú ý nhiều đến vấn đề tỷ giá trong cho vay ngoại tệ.
Từ một ngân hàng chuyên doanh đối ngoại với tài sản chủ yếu là ngoại tệ, VCB chuyển sang kinh doanh đa năng nâng tỷ trọng cả huy động vốn và sử dụng vốn bằng VND. Trong 5 năm gần đây, mặc dù tỷ lệ cho vay bằng VND có tăng lên nhưng năm cao nhất cũng chưa tới 20% tổng dư nợ trung,dài hạn. Vì vậy so với các NHTM khác thì trong cho vay bằng VND, VCB có ít kinh nghiệm hơn. Năm 2000 dư nợ tín dụng trung,dài hạn bằng VND là 413.804 triệu. Năm 2001 dư nợ tín dụng trung, dài hạn bằng VND là 617.067 triệu.
Trong cơ cấu cho vay trung và dài hạn của VCB, thì 4/5 trong tổng dư nợ là cho vay bằng ngoại tệ, nhưng vấn đề rủi ro tỷ giá lại ít được đặt ra trong quá trình thẩm định. Thực ra chính ngân hàng không bị ảnh hưởng nhiều bởi rủi ro này vì cả cho vay, thu nợ đều bằng ngoại tệ. Rủi ro sẽ xảy ra đối với khách hàng vay vốn nếu tại thời điểm trả nợ, tỷ giá tăng so với thời điểm vay và điều này sẽ ảnh hưởng tới khả năng hoàn trả vốn vay cho ngân hàng. Ngân hàng không thu được nợ nhưng cả gốc và lãi đều vẫn phải hoàn trả cho người gửi tiền, vì vậy đây sẽ là một gánh nặng thực sự cho ngân hà
- Mục tiêu trong cho vay trung, dài hạn của VCB là tập trung vốn đầu tư cho các dự án có công nghệ tiên tiến, nằm trong những lĩnh vực quan trọng của nền kinh tế quốc dân như điện lực, hàng không, dầu khí, bưu điện. .Những dự án này đều thuộc những ngành đang có tốc độ phát triển cao và nằm trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Khách hàng vay vốn thường là các tổng công ty lớn có tình hình tài chính khá mạnh, vì vậy độ rủi ro của các dự án này rất thấp. Với những dự án như vậy thì không chỉ VCB muốn tài trợ mà rất nhiều các ngân hàng khác cũng muốn tài trợ. Khách hàng có quyền lựa chọn ngân hàng nào đem lại cho họ nhiều điều kiện thuận lợi cho họ nhất. Vì vậy VCB sẽ phải cạnh tranh với các NHTM khác, đặc biệt với các ngân hàng nước ngoài, họ có những nguồn vốn lãi suất thấp, thời hạn dài, thủ tục cho vay tiện lợi. .Điều này đòi hỏi VCB phải thường xuyên đổi mới, hoàn thiện mình để tăng sức cạnh tranh,ngày càng tạo được uy tín trong lòng khách hàng.
Trên đây là những tồn tại đang ảnh hưởng trực tiếp tới hiệu quả hoạt động tín dụng trung, dài hạn của VCB. Khắc phục, đưa ra được những giải pháp khả thi, giải quyết được những tồn tại trên thì cũng là đang tìm ra con đường để VCB vươn tới thành công trong hoạt động tín dụng trung, dài hạn của mình.
II > Giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả tín dụng trung, dài hạn tại VCB
1. Giải pháp đối với nguồn vốn để cho vay trung, dài hạn
Nguồn vốn tự có của ngân hàng : để có thể tăng nguồn vốn này VCB phải chuyển đủ phần lợi nhuận vào vốn tự có sau khi đã trích lập các quỹ. Phải đánh giá lại tài sản thực có của VCB vì giá trị nay rất lớn. Chỉ tính một VCB Hồ Chí Minh đã có hàng chục chi nhánh, giá trị tài sản một chi nhánh cũng đến mấy chục tỷ đồng.
Những giải pháp này VCB đã nằm trong tầm tay nên việc thực hiện không phải là khó. Tuy nhiên để thực sự có thể tăng nguồn vốn tự có của VCB, Chính phủ cần xem xét lại vốn pháp định của loại hình kinh doanh này để nâng nó lên một cách tương ứng nhằm tăng cường uy tín và tạo điều kiện thuận lợi cho ngân hàng hoạt động, nhất là trong lĩnh vực tín dụng.
- Về nguồn vốn huy động :Một số biện pháp
+ VCB phải ngày càng tạo được sự ưa chuộng ở người gửi tiền
Khi xa rời tiền vốn một thời gian dài để gửi vào ngân hàng, người gửi thường băn khoăn trước sự biến động của môi trường kinh tế. Vì vậy ở hầu hết các nước Châu Âu đều có quy định bảo đảm tiền gửi, như ở Đức và các nước Bắc Âu mức bảo đảm là 30000 USD. Như vậy, ở các nước này, nếu ngân hàng phá sản, các khoản tiền gửi từ 30000 USD trở xuống đều được ngân hàng đền bù toàn bộ. ở Pháp mức này là 80000USD. ở Việt Nam các NHTM đã bắt đầu chú ý đến độ an toàn bằng cách mua bảo hiểm tiền gửi nhưng chưa phổ biến và cũng chưa có những quy định công khai về số tiền được bảo đảm. Nếu NHNN ấn định được mức bảo đảm tiền gửi thích hợp nhất là đối với loại huy động dài hạn sẽ tạo được sự yên tâm cho người gửi tiền để có thể tăng nguồn huy động vốn trung, dài hạn.
+ Định mức lãi suất tiền gửi trung, dài hạn hợp lý để kích thích khách hàng yên tâm gửi tiền : Ngoài rủi ro lớn nhất mà khách hàng lo sợ là ngân hàng phá sản thì họ còn lo một điều nữa là tiền gửi của họ với mức lãi suất không bù đắp được sự mất giá của khoản tiền gửi, nhất là khi gửi dài hạn. Vì vậy, lãi suất huy động phải lớn hơn tỷ lệ lạm phát và lãi suất huy động phải lớn hơn lãi suất tiền gửi ngắn hạn. Như vậy để khuyến khích khách hàng gửi tiền dài hạn cần tạo một khoảng cách rõ rệt giữa lãi suất huy động dài hạn và ngắn hạn. Tuy nhiên đề nghị này không có nghĩa là phải tăng lãi suất huy động trung, dài hạn vì như vậy sẽ dẫn đến phải tăng lãi suất cho vay trung, dài hạn, điều mà các nhà sản xuất không thể chấp nhận. Hơn nữa, nếu lãi suất tiền gửi cao thì thì họ sẽ không dầu tư trực tiếp vào các phương án kinh doanh mà gưỉ tiền vào ngân hàng để lấy lãi. Điều này càng nguy hiểm vì ngân hàng sẽ ứ đọng vốn, không giải quyết được đầu ra. Vì vậy, cần có sự cân đối giữa lãi suất tiền gửi ngắn hạn và trung, dài hạn để tạo một khoảng cách cần thiết giữa hai mức lãi suất này.
+ VCB nên có chủ trương huy động vốn trung, dài hạn thường xuyên, liên tục hơn :
Thời gian qua, nhất là năm 1999, 2000 VCB hầu như huy động vốn trung dài hạn rất thấp, còn các kỳ phiếu, trái phiếu trung, dài hạn cũng không được phát hành thường xuyên. Điều này hoàn toàn mâu thuẫn với định hướng mở rộng quy mô tín dụng trung, dài hạn của VCB. Vì vậy để tăng nhanh doanh số huy động trung,dài hạn VCB cần có chủ trương và đa dạng hoá các loại hình huy động trung, dài hạn với mức lãi suất phù hợp. Bên cạnh đó VCB cùng các NHTM khác cần thiết lập một thị trường trái phiếu dài hạn linh hoạt, tích cực. Thực hiện chiết khấu, mua lại hoặc bán lại các trái phiếu dài hạn cho dân cư, điều đó cho phép người chủ trái phiếu có thể đổi các trái phiếu thành tiền dễ dàng khi có nhu cầu.
- Về nguồn vốn bộ tài chính chuyển sang :
Nguồn vốn từ Bộ Tài chính chuyển sang sẽ góp phần đáng kể tăng cường doanh số cho vay trung, dài hạn. Tuy nhiên, cần khắc phục nhược điểm hiện nay là nguồn vốn này thường rót xuống chậm. Thông thường cuối quý 2 hoặc đầu quý 3 Bộ Tài chính mới rót vốn tín dụng ưu đãi cho ngân hàng. Điều này làm ách tắc khâu giải ngân, không thể phân phối hết số vốn ưu đãi trong năm thực hiện, làm chậm trễ kế hoạch sản xuất kinh doanh của đơn vị trong diện được vay vốn. Ngoài ra, phần chênh lệch lãi suất mà ngân sách mà Ngân sách phải bù cho ngân hàng được chuyển sang rất chậm, thường năm sau mới thanh toán cho năm trước cho năm trước.
- Vốn nước ngoài
+ Vốn uỷ thác tài trợ phát triển : Nguồn vốn này rất đa dạng, phong phú với đặc điểm là lãi suất rất thấp ( Trong đó có một phần không hoàn trả) và thời gian hoàn trả rất dài (30 –40 năm ), trong đó nguồn vốn ODA lớn và quan trọng nhất. Đây là nguồn tài trợ phát triển chính thức của hơn 20 quốc gia trên thế giới giúp Việt Nam từ năm 1996. Để cho tốc độ giải ngân nhanh, tận dụng được toàn bộ mức vốn mà đơn vị tài trợ cho Việt Nam, VCB cũng như các NHTM khác với tư cách được Bộ Tài chính cử làm đại lý phải tính toán chính xác lãi suất hoà đồng và các biện pháp đồng bộ kết hợp cả phía tài trợ, phía Việt Nam và bản thân VCB.
+ Vốn vay nước ngoài :
VCB hiện nay có quan hệ đại lý và quan hệ thanh toán rộng rãi với các ngân hàng trên thế giới việc đi vay có nhiều thuận lợi. Lãi suất vay sẽ là lãi suất trên thị trường tiền tệ thế giới (6,3 –6,5 % /năm ). Nếu cộng thêm phí để cho khách hàng vay lại với lãi suất hiện nay thì có thể thu lãi từ khoản vay này. Để có thể sử dụng nguồn vốn này, khi vay VCB phải chấp hành một hạn mức tín dụng do nước ngoài quy định. Hạn mức này phải được chính phủ hoặc NHNN Việt Nam bảo lãnh. Theo Nghị định 90/CP, thì mức bảo lãnh vay vốn nước ngoài cho một TCTD không vượt quá 6 lần vốn tự có của tổ chức đó. Nhưng hạn mức trên phải trừ đi số dư nợ chưa trả đến thời điểm vay mới. Như vậy muốn tận dụng hạn mức tín dụng của nước ngoài VCB phải thực hiện tốt khâu hoàn trả.
2 > Giải pháp xử lý các khoản nợ khê đọng :
Đối với từng loại nợ và trong từng trường hợp cụ thể các giải pháp như sau :
* Nợ của các doanh nghiệp đã giải thể :
Ngày 1-10-2001,luật NHNN và luật các tổ chức tín dụng có hiệu lực. Để giúp cho các ngân hàng hoạt động có hiệu quả trong môi trường pháp lý mới cần thiết phải giải quyết triệt để tình hình nợ của các DNNN kéo dài trong nhiều năm qua tại VCB.
Để xử lý các khoản nợ này, cách tốt nhất là NSNN phải thanh toán cho VCB. Trong thực tế, việc xử lý nợ ( Không thay đổi tính chất sở hữu ) sẽ giúp cho VCB lành mạnh hoá tài chính để chuyển sang một giai đoạn mới và tạo điều kiện để thâm nhập vào thị trường tài chính quốc tế.
Trước mắt NSNN chưa có nguồn vốn để thanh toán thì NHNN có thể cho ngân sách vay và khoản nợ này sẽ được xử lý bằng vốn của ngân sách.
* Nợ của các doanh nghiệp phá sản theo quyết định của toà án.
Đối với các doanh nghiệp phá sản, nợ vay ngân hàng chia làm hai loại ;nợ có bảo đảm trong đó chủ yếu là thế chấp tài sản và nợ không bảo đảm.
Nợ có bảo đảm sẽ được xử lý như 3 mục dưới đây, còn đối với nợ không có bảo đảm thì có thể áp dụng cách xử lý như sau :Khi doanh nghiệp đã có quyết định tuyên bố phá sản, 50% dư nợ được loại khỏi bảng tổng kết tài sản và được tính vào chi phí, 50% còn lại sẽ được xử lý khi phát mại tài sản.
Kinh nghiệm thực tế cho thấy rằng việc phát mại tài sản đối với một doanh nghiệp phá sản thường kéo dài từ 3-5 năm và giá bán tài sản thường thấp hơn nhiều so với giá trị thực tế, vì vậy nếu không tính ngay vào chi phí 50% thì sẽ ảnh hưởng rất lớn đến lợi ích của ngân hàng vì :
+Khi tuyên bố phá sản doanh nghiệp ngân hàng không được tính lãi trên số tiền cho vay, trong lúc đó phải trả lãi cho người gửi tiền.
+Phải đóng thuế thu nhập cho NSNN trên cơ sở lợi nhuận trước thuế theo hạch toán lớn hơn thực tế.
+đối với 50% dư nợ còn lại theo tình hình thực tế khi đã phát mại tài sản có 3 tình huống xảy ra như sau :
++Phần thanh toán cho ngân hàng bằng 50% dư nợ còn lại ;Hợp đồng cho vay sẽ được thanh lý.
++Phần thanh toán cho ngân hàng nhỏ hơn 50% dư nợ còn lại, thanh lý hợp đồng tín dụng và đưa phần còn thiếu so với 50% dư nợ vào chi phí.
++Phần thanh toán cho ngân hàng lớn hơn 50% dư nợ. Thanh lý hợp đồng tín dụng và hạch toán phần chênh lệch vào thu nhập trước thuế (Để đóng thuế thu nhập doanh nghiệp cho nhà nước ).
* > Nợ có bảo đảm mà doanh nghiệp không có khả năng thanh toán.
Đối với các doanh nghiệp có nợ vay VCB có đảm bảo nhưng không có khả năng thanh toán thì có thể xủ lý theo các cách sau :
- VCB mua lại TSTC để trả nợ, sau đó bán ra thị trường hoặc bán cho công ty kinh doanh bất động sản trực thuộc ngân hàng.
Cách xử lý này có thể áp dụng trong 2 trường hợp :
+Các hợp đồng thế chấp tài sản có thoả thuận chuyển quyền sở hữu cho ngân hàng khi người đi vay không thanh toán được nợ.
+Hai bên thoả thuận bán TSTC cho ngân hàng đối với hợp đồng thế chấp thông thường.
Trở ngại lớn nhất khi áp dụng cách xử lý này là vấn đề thuế. Hiện nay, mỗi lần chuyển quyền sở hữu đều phải đóng thuế trước bạ. Để cách xử lý này được áp dụng dễ dàng thì nhà nước nên quy định miễn thuế trước bạ đối với chuyển nhượng TSTC trong quan hệ tín dụng với ngân hàng.
+Phát mại tài sản theo quyết đinh của toà án dưới hình thức bán đấu giá. Cách xử lý này áp dụng theo trình tự như mục trên.
Ngoài ra trong trường hợp đặc biệt, toà án có thể chuyển giao TSTC cho ngân hàng. Trong trường hợp này ngân hàng có thể xử lý theo một trong 2 cách trên.
3 > Một số giải pháp để làm giảm nợ quá hạn của khoản cho vay trung, dài hạn tại VCB hiện nay
- Ngân hàng kinh doanh tiền tệ phải dựa vào thực lực tài chính của các doanh nghiệp. Đối với DNNN khi vay vốn phải quan tâm tới khả năng trả nợ đúng hạn cả gốc và lãi chứ không nhất thiết là đủ tài sản bảo đảm và đủ vốn đối ứng. Hơn nữa, đối với DNNN khi cho vay VCB nên căn cứ vào hiệu quả và tính khả thi của dự án xin vay cũng như uy tín của DNNN đó trên thị trường.
Đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh không nên coi tài sản bảo đảm là chỗ dựa an toàn cho số tiền vay phát ra và tài sản bảo đảm là một công cụ duy nhất để bảo đảm việc thu hồi nợ mà phải xác định tư cách của người vay và doanh nghiệp đó phải sử dụng vốn vay như thế nào, khả năng trả nợ ra sao. .Bởi vì TSTC, cầm cố, bảo lãnh chỉ là cơ sở để NHTM có khả năng thu hồi nợ vay khi doanh nghiệp không còn khả năng trả nợ, song không phải TSTC, cầm cố, bảo lãnh nào cũng dễ dàng bán ra để NHTM thu nợ một cách kịp thời và thực tế đã chứng minh rằng thu nợ bằng tài sản xiết nợ đang là gánh nặng khi xử lý của VCB.
Thực chất, việc thu hồi nợ bằng tài sản bảo đảm của khách hàng chẳng phải là một giải pháp tốt mà đó chỉ là một giải pháp tình thế, bắt buộc và khả năng thu bằng tiền thực sự từ phát mại TSTC, cầm cố, bảo lãnh cũng là một công việc nhiều khó khăn. Đó là chưa kể chúng là bất động sản không thuận tiện giao thông hay có giá trị cao ít có đối tượng mua.
- Cổ phần hoá các DNNN.
Cổ phần hoá các DNNN là một phương thức sắp xếp lại DNNN, huy động các nguồn lực từ các thành phần kinh tế khác tham gia vào phát triển nền kinh tế. Do vậy chúng ta có thể nói :Cổ phần hoá là một trong những biện pháp quan trọng để DNNN có cơ hội tăng vốn tự có, trang trải nợ nần, tạo ra sức cạnh tranh mới, dưới một hình thức quản lý mới. Nếu không khẩn trương thực hiện việc cổ phần hoá, thì doanh nghiệp sẽ mất cơ hội tiếp cận với các khoản tín dụng lớn. Khi cổ phần hoá các DNNN thì NHTM có thể cho vay với phạm vi khách hàng rộng hơn với các yếu tố để có thể chấp nhận cho vay mà doanh nghiệp đưa ra cũng đầy đủ, trung thực hơn do đặc điểm của các công ty cổ phần. Vì vậy có thể làm giảm nợ quá hạn so với hiện nay khi mà chỉ có một số ít các công ty cổ phần mới được thành lập. VCB cũng như các NHTM khác phải cho vay trung, dài hạn trong điều kện không thuận lợi.
- Đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh.
Rà soát lại về vốn thực cho hoạt động sản xuất kinh doanh, tăngvốn điều lệ cho để phù hợp với quy mô và tốc độ phát triển của các DN NQD. Đặc biệt các cơ quan chức năng cần phát hiện và xử lý kịp thời các trường hợp ra đời của các DNNQD bằng “vốn ảo “ và mạnh dạn cho giải thể các DNNQD đến nay không có khả năng thanh toán nợ đến hạn
- Nâng cao trình độ nghiệp vụ và kiến thức tổng quát cho cán bộ tín dụng.
Cán bộ tín dụng vẫn là khâu quan trọng nhất trong hoạt động kinh doanh tiền tệ của NHTM. Do vậy, việc nâng cao trình độ nghiệp vụ và kiến thức tổng quát cho cán bộ tín dụng là một yêu cầu cấp thiết. để có thể hạn chế được phần nào rủi ro tín dụng thì trước mắt cán bộ tín dụng phải thực hiện tốt chức năng của mình trong quá trình tiếp nhận hồ sơ vay vốn, quá trình thu thập thông tin và phân tích tình hình tài chính của doanh nghiệp thông qua các báo cáo tài chính cũng như phải nắm chắc các yếu tố pháp lý trong khi xem xét giải quyết cho vay và năms chắc được cả mục đích sử dụng vốn vay và khả năng trả nợ của doanh nghiệp từ bảng luân chuyển vôns bằng tiền trong tương lai. Đặc biệt, cán bộ tín dụng phải thường xuyên, lên tục theo dõi sự vận động của vay để sớm phát hiện ra sự tiềm ẩn của rủi ro tín dụng và có biện pháp kịp thời thu hồi vốn.
Nghiệp vụ cho vay không chỉ mang tính khoa học mà còn mang tính nghệ thuật. Muốn hiểu được khách hàng thì không thể chỉ thông qua cách báo cáo hay trình bày của doanh nghiệp mà cán bộ tín dụng phải nắm bắt được khả năng, nhu cầu thực tại và trong tương lai của khách hàng một cách khách quan và qua việc cán bộ tín dụng phải sẵn sàng và có đủ khả năng tách khỏi môi trường ngân hàng quen thuộc của mình để đi khaỏ sát, nghiên cứu tại cơ sở của người vay và năng lực quản lý của người vay.
- Quy định quỹ rủi ro với một tỷ lệ hợp lý :
VCB được tạo lập quỹ rủi ro với một tỷ lệ phần trăm hợp lý trên cơ sở tổng dư nợ hiện có của mình dưới sự cho phép của Bộ Tài chính và NHNN. Ngoài ra cần phải chú ý thêm quỹ này quy định cũng cần phải dựa vào các món nợ quá hạn không có khả năng thu hồi. VCB sẽ căn cứ vào thể chế tín dụng hiện hành để phân tích nguyên nhân khách quan và chủ quan gây ra món nợ khó đòi, nếu là nguyên nhân khách quan thì được phép dùng quỹ rủi ro để xử lý.
4 > Giải pháp xử lý tải sản thế chấp tại VCB.
Đứng trước một thực trạng là tổng số dư nợ quá hạn 1498 tỷ đồng chiếm gần 14% tổng dư nợ trong đó số nợ gốc đã khoanh là 942 tỷ đồng, VCB đã phải áp dụng biện pháp tình thế là nắm giữ các tài sản của các doanh nghiệp không có khả năng trả nợ. Các tài sản đó có thể được xử lý theo 2 cách :
Một là :Xiết nợ tài sản, chuyển quyền sở hữu, quyền sử dụng cho VCB;gồm khách sạn, nhà cửa, kho bãi. ..
Hai là :Xiết nợ tài sản, dùng tài sản đó góp vốn liên doanh khai thác.
Tuy nhiên sau khi xiết nợ phải có biện pháp để thu hồi vốn.
Ban lãnh đạo VCB đã tập trung chỉ đạo toàn hệ thống đẩy mạnh các biện pháp xử lý tài sản. Tính từ đầu năm 1999 cho tới nay, VCB đã xử lý được một số tài sản, giảm được 212 tỷ đồng trong tổng số 487 tỷ đồng ứ đọng ở tài sản xiết nợ tại thời điểm 31-12-1998, cụ thể (tính tròn số ).
+Xử lý bán,cho thuê tài sản : 12 tỷ đồng.
+Mua làm trụ sở giao dịch cho VCB :23 tr đồng.
+Các doanh nghiệp lấy lại tài sản, trả nợ ngân hàng :176 tỷ đồng.
Số liệu trên đây cho thấy biện pháp xử lý đạt được hiệu quả cao là Ngân hàng hỗ trợ cho các doanh nghiệp có điều kiện tổ chức lại, phát triển kinh doanh để có khả năng tài chính, thanh toán nợ cho Ngân hàng, nhận lại tài sản trươc đây đã gán nợ. Số tài sản này chủ yếu là đất đai. Trong cơn sốt đất đai năm 1996, 1997 các doanh nghiệp đầu tư kinh doanh địa ốc, vốn bị ứ đọng, vừa không có vốn tiếp tục kinh doanh, vừa không đủ khả năng trả nợ Ngân hàng. Các doanh nghiệp này đứng trước nguy cơ phá sản hoặc bị giải thể. Ngân hàng Ngoại thương đã xem xét các trường hợp cụ thể. Đối với các doanh nghiệp đã được chính phủ hoặc cơ quan có thẩm quyền cho phép đầu tư xây dựng, kinh doanh nhà ở, mở rộng các khu dân cư, VCB xiết nợ một phần dự án. Bước tiếp theo là ngân hàng hỗ trợ một phần để các doanh nghiệp thiết kế quy hoạch, xây dựng các công trình hạ tầng, chia thành các lô, bán để thu hồi vốn.
Ngoài biện pháp nêu trên và dùng quỹ phát triển để mua một số căn nhà làm phòng giao dịch theo nhu cầu của ngân hàng. Ban lãnh đạo VCB cũng đặc biệt quan tâm, chỉ đạo xử lý tài sản xiết nợ theo hướng bán đứt các tài sản hoặc cho thuê. Hiện nay VCB còn quản lý các tài sản thế chấp của các công ty Minh Phụng, Epco,..tạm nhận bàn giao theo chỉ đạo của Chính Phủ. Đối với các tài sản này, ngân hàng mới chỉ được phép cho thuê hoặc sử dụng và phải bảo quản, chờ xét xử. Để kịp thời xử lý các tài sản. Ban lãnh đạo VCB đã quyết định thành lập bộ phận chuyên trách, quản lý và khai thác các tài sản thế chấp tại Sở giao dịch Trung ương và một số chi nhánh. Đồng thời với việc triển khai cho thuê tài sản, ban lãnh đạo đã chỉ đạo xây dựng đề án thành lập công ty khai thác tài sản để xử lý các tài sản thế chấp sau khi có quyết định giao chính thức cho ngân hàng.
Như vậy giải pháp cho VCB trong xử lý tài sản thế chấp có tính khả thi cần có sự quan tâm của các bộ, nghành chủ quản liên quan, có cơ chế, chính sách hỗ trợ cho hoạt động này, cho phép ngân hàng được thành lập công ty chuyên doanh, được phép kinh doanh nghành ngề có liên quan đến việc xử lý tài sản như kinh doanh (Bán, cho thuê.. ) tài sản thế chấp, tài sản xiết nợ, gồm cả động sản và bất động sản. Trong khi chưa bán được tài sản, ngân hàng được phép đưa các tài sản đó vào khai thác, đầu tư bảo quản tài sản.
Do giá trị các tài sản lớn, các doanh nghiệp ít có khả năng đầu tư kinh doanh do hạn hẹp về vốn, việc xử lý các tài sản cần có thời gian, cần có chính sách hỗ trợ về vốn cho các doanh nghiệp có hướng đầu tư vào các tài sản này, có chính sách ưu tiên cho việc cho việc xử lý tài sản như miễn thuế ( thuế chuyển quyền sở hữu, chuyển quyền sử dụng, thuế trước bạ.. ). Đối với trường hợp chuyển nhượng các tài sản này cần được đơn giản các thủ tục..
5> Giải pháp về chiến lược khách hàng của VCB:
Phát huy những thành quả hoạt động tín dụng trung, dài hạn của VCB trong những năm qua là tập trung vào các nghành kinh tế mũi nhọn, các tổng công ty lớn của nhà nước, các lĩnh vực hoạt động xuất nhập khẩu, các dự án và các lĩnh vực kinh tế được nhà nước khuyến khích và ưu tiên như dầu khí, đường dây tải điện 500 KV, mở rộng mạng điện lực phía Nam, thuê mua máy bay của Việt Nam airline, hiện đại hoá nghành bưu chính viễn thông, xuất khẩu lương thực, lâm hải sản. Vì vậy VCB phải mở rộng cho vay trung, dài hạn nhưng cũng cần quan tâm đến khách hàng trọng điểm.
Đa dạng hoá các hình thức huy động vốn để có thể thu hút nhiều khách hàng đến với mình. Cải tiến quy trình nghiệp vụ nhằm tiết kiệm thời gian và tạo điều kiện thuận lợi nhất cho khách hàng cũng như đem đến cho khách hàng lãi suất hợp lý cho khoản tiền gửi của họ tại ngân hàng.
Bám sát các định hướng của nhà nước về chiến lược phát triển của nền kinh tế, tiếp cận với các dự án, các trương trình kinh tế khả thi,chủ động tìm đến với các khách hàng đang có nhu cầu về vốn. Điều này đòi hỏi có sự thay đổi cơ bản nhận thức của toàn bộ các cán bộ ngân hàng về vai trò quan trọng và quyết dịnh của khách hàng đến sự tồn tại của VCB nói chung và quyền lợi của từng cán bộ nói riêng.
6> Các báo cáo tài chính của xin vay cần được kiểm toán xác nhận.
Người cho vay sử dụng các báo cáo tài chính và ngân quỹ để ước lượng nhu cầu vốn của người xin vay, đánh giá khả năng trả nợ ước lượng thiệt hại có thể có nếu người vay không hoàn trả và quyết định các điều khoản tài trợ nếu cho vay. Các nhân viên tín dụng phải tránh lệ thuộc quá nặng vào các thông tin trong bảng quyết toán lịch sử vì tình hình tài chính của một doanh nghiệp có thể thay đổi. Thông tin từ các bản báo cáo lợi tức trước đó cũng phải được sử dụng thận trọng vì số liệu lợi nhuận quá khứ chưa hẳn là cơ sở đáng tin cậy cho dự báo tương lai. Đây không phải là sự phủ nhận tầm quan trọng của việc đánh giá tình hình tài chính hiện nay của người vay và tầm quan trọng cuả việc kiểm tra mức độ và chiều hướng của các lợi tức trong quá khứ, nhưng nhân viên tín dụng cần thiết phải biết tình hình tài chính, khả năng sinh lợi và các nhu cầu ngân quỹ của người vay sẽ như thế nào trong tương lai. Giá trị chủ yếu của các báo cáo tài chính lịch sử là giúp đánh gía tính hợp lý của các dự báo về ngân quỹ và lợi nhuận của người vay. Ví dụ, nếu mức lãi trước khi nộp thuế của người vay trung bình là 5% trong những năm gần đây và không bao giờ vượt quá 6%, một dự báo cho thấy, giả sử 8% là đáng nghi vấn.
Tất cả những gì ở trên mà cán bộ có thể nắm bắt được sẽ quyết định một phần một phần rất quan trọng để có thể quyết định có cho khách hàng vay hay không. Nhưng việc đánh giá trên chỉ có ý nghĩa khi các báo cáo tài chính là trung thực, điều này đòi hỏi VCB phải yêu cầu ở họ một sự trung thực khi đi vay nhưng phải đồng thời kết hợp thêm các báo cáo tài chính họ đưa ra là các báo cáo tài chính phải được cơ quan kiểm toán xác nhận là trung thực
Ngoài ra đối với những báo cáo tài chính có thể không được kiểm toán ví dụ các báo cáo tài chính của nhiều công ty nhỏ, thì chúng phải được đánh gía cẩn thận với một mức độ nghi ngờ. Thông thường cần xem xét các báo cáo tài chính của các tháng trước, kết hợp với các báo cáo tài chính taì chính tạm thời chưa được kiểm toán. Trong trường hợp đó nhân viên tín dụng nên xem xét cẩn thận chất lượng của các báo cáo tài chính tạm thời, ngay cả những báo cáo kiểm toán cũng phải được sử dụng một cách thận trọng. Cần nhiều cách đánh giá khác nhau trong việc quyết định lại giá trị kế toán của các tích sản của một doanh nghiệp và khối lượng lợi nhuận của nó. Người cho vay quan tâm đến mức độ bảo toàn của các chỉ tiêu này. Việc một doanh nghiệp đang tuân theo các nguyên tắc kế toán thông thường được chấp nhận cũng không được xem là đầy đủ, do các nguyên tắc đó thường đem lại nhiều quyền hạn trong việc công nhận lợi tức và chi phí. Nếu phải dựa trên các dự báo về ngân quỹ và các báo cáo tài chính tạm thời của người vay, nhân viên tín dụng phải xem xét thận trọng các giả thuyết quan trọng về lợi nhuận, chẳng hạn như khối lượng hàng bán, giá bán, mức lương, các chi phí bán hàng và quản trị.
7 > Giải pháp đối với vấn đề rủi ro về tỷ giá:
Do tỷ giá biến động theo chiều hướng ngày càng tăng lên làm cho doanh nghiệp vay vốn của VCB bằng ngoại tệ sẽ lâm vào tình trạng ngày càng khó khăn hơn về việc trả gốc và lãi cho VCB. Đối với VCB, tồn tại này đặt ra hết sức cấp thiết và cần được giải quyết vì hiện nay VCB vẫn là ngân hàng thực hiện cho vay vốn ngoại tệ trung, dài hạn đối với các doanh nghiệp với mức dư nợ lớn nhất nước ta, năm 2001 thực hiện cho vay 178.489 USD, chiếm 79% tổng dư nợ tín dụng trung, dài hạn và bằng khoảng 21.02% tổng dư nợ của VCB. Giải pháp có thể thực hiện theo hướng sau:
VCB trong quá trình cho vay đã nắm được các nội dung về tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và sau khi cho vay cán bộ tín dụng cũng thường xuyên kiểm tra tình hình sử dụng vốn vay, tình trạng tài sản bảo đảm, chủ động kịp thời phát hiện các trường hợp sử dụng vốn sai mục đích hoặc nguy cơ gây mất vốn.. để có kiến nghị giải quyết kịp thời. Xem xét xử lý các khó khăn vướng mắc như gia hạn nợ, điều chỉnh kỳ hạn nợ, bổ sung hoàn chỉnh các hồ sơ vay vốn, đôn đốc thu hồi nợ gốc và lãi đúng hạn. Như vậy các cán bộ tín dụng của VCB có thể hỗ trợ doanh nghiệp rất nhiều trong việc nâng cao hiệu quả sxkd vì họ thường xuyên kết hợp với doanh nghiệp nên biết được tình hình sản xuất kinh doanh của doânh nghiệp, phương hướng hoạt động trong tương lai nên có thể đưa ra những ý kiến tư vấn cho doanh nghiệp. Trong số đó cán bộ tín dụng của VCB bằng kiến thức, năng lực của mình và cùng với các phòng chức năng liên quan đến ngoại tệ sẽ đưa ra những tư vấn cho doanh nghiệp về những hoạt động liên quan đến ngoại tệ.
VCB phải lập quỹ dự phòng rủi ro tín dụng đồng thời yêu cầu doanh nghiệp vay vốn phải thoả thuận trong hợp đồng về việc tạo lập và sử dụng quỹ dự phòng để bù đắp rủi ro hối đoái. Với phương pháp này doanh nghiệp phải lập quỹ dự phòng, quỹ này được hình thành từ lợi nhuận để lại và thu nhập khi tỷ giá biến động thuận lợi. Sau đó quỹ được dùng để bù đắp chi phí khi tỷ giá biến động bất lợi. Tuy nhiên, cách này có nhược điểm là đòi hỏi có những theo dõi phức tạp về mặt kế toán và dễ dẫn đến tình trạng sử dụng quỹ dự phòng vào việc khác.
8 > Một số giải pháp khác để hạ thấp rủi ro tín dụng trung, dài hạn.
Giải pháp hạ thấp mức cho vay hoặc phân tán rủi ro: khi không đủ căn cứ để có thể nhận xét hoàn hảo về khách hàng vay vốn, hoặc nhu cầu vốn lớn đối với dự án khả thi, mà nếu cho vay đủ nhu cầu vốn thì sẽ vi phạm quy chế. Trong trường hợp này, nên áp dụng giải pháp hạn mức tín dụng hoặc phương án cho vay đồng tài trợ. Mức cho vay thấp sẽ giảm mức rủi ro, tuy nhiên trong trường hợp nhiều TCTD cùng tài trợ thì rủi ro giảm thấp, nhưng theo đó lợi nhuận thu được bị hạn chế đối với những dự án chất lượng cao. Mặt khác nếu hạ thấp mức cho vay thì việc đầu tư của khách hàng sẽ bị ảnh hưởng hoặc bị phá vỡ, khi đó rủi ro có thể ở mức cao hơn nhiều. Đây là một lĩnh vực mang tính nghệ thuật trong hoạt động kinh doanh của TCTD, mà các nhà đầu tư cần có sự lựa chọn chuẩn xác.
Giải pháp tham gia bảo hiểm tín dụng: khi hoạt động bảo hiểm tín dụng được hình thành, phần lớn các rủi ro sẽ chuyển sang bên công ty bảo hiểm, kể cả trong trường hợp phát sinh thêm chi phí. VCB cũng có thể ký hợp đồng với cơ quan kiểm toán độc lập ( Có tín nhiệm trên thị trường ) để khi có rủi ro VCB sẽ được đền bù một phần từ cơ quan kiểm toán. VCB cũng có thể thành lập công ty kiểm toán độc lập ( công ty con ), hoạt động trong môi trường đầu tư của ngân hàng, phục vụ trực tiếp cho kinh doanh tín dụng. Khi có rủi ro, công ty này có thể đủ sức gánh chịu một phần trách nhiệm của mình, mà không gây ảnh hưởng đến mặt bằng kinh doanh của VCB.
Giải pháp phân chia, lựa chọn thị trường tín dụng: Phân chia theo những tiêu thức phù hợp với quy mô của VCB, nhằm đánh giá vừa khái quát vừa cụ thể, từ đó hoạch định chiến lược khách hàng đối với “từng khúc “của thị trường đã được nghiên cứu cho tới kỳ trước mắt và lâu dài, nhằm đạt tới tỷ lệ thấp nhất cho những rủi ro có thể xảy ra ( Kể cả khi xảy ra thì hoàn toàn kiểm soát và xử lý theo hướng có lợi cho đầu tư tín dụng ), kết quả là, lợi ích nhiều mặt của VCB không bị ảnh hưởng.
Loại trừ khách hàng, đối tượng đầu tư không hiệu quả. Trong số rất nhiều khách hàng của mình, VCB có thể loại trừ một số hoặc một nhóm khách hàng, thực hiện một chế độ đặc thù như kiểm soát chặt chẽ, thu hồi nợ, hạn chế tiến tới chấm dứt đầu tư. Mục đích của giải pháp này là mang lại một lực lượng khách hàng có độ tín nhiệm cao nhất trong thị phần của mình, đẩy nguy cơ rủi ro ra khỏi môi trường đầu tư.
III>Một số kiến nghị để đảm bảo tính khả thi của các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả tín dụng trung, dài hạn tại VCB.
Chính phủ cần sớm ban hành một Nghị định chung về thế chấp, cầm cố tài sản để các ban nghành cùng phối hợp thực hiện. Trong nghị định này cần điều chỉnh hợp lý hành vi thế chấp, hành vi phát mãi, đấu giá tài sản thế chấp. Có như thế mới có thể tháo gỡ ách tắc trong khâu xử lý tài sản thế chấp để ngân hàng mau chóng thu được nợ.
- Các doanh nghiệp Nhà nước cần được Bộ Tài chính cấp đủ vốn hoạt động để vốn vay ngân hàng chỉ là bộ phận hỗ trợ cho doanh nghiệp. Nhờ đó sẽ giải quyết được tình trạng vốn vay ngân hàng chiếm đến 80-90% nguồn vốn hoạt động của một số doanh nghiệp như hiện nay.
Tăng cường các biện pháp Quản lý Nhà nước đối với doanh nghiệp, đảm bảo các doanh nghiệp hoạt động theo đúng chức năng; quy mô hoạt động phù hợp với vốn điều lệ, năng lực trình độ quản lý. Thu hồi có thời hạn hoặc vĩnh viễn đăng ký kinh doanh, quyết định thành lập đối với các trường hợp vi phạm: buôn lậu, làm hàng giả, lừa đảo,... Cần có biện pháp kinh tế, hành chính buộc các doanh nghiệp phải chấp hành đúng Pháp lệnh kế toán thống kê. Thực hiện chế độ kiểm toán bắt buộc hàng năm đối với tất cả các doanh nghiệp nhằm xác lập sự lành mạnh của các chủ thể kinh tế trong cơ chế thị trường.
Hoàn thiện chính sách, cơ chế vĩ mô và luật pháp của Nhà nước. Ban hành luật lưu thông hối phiếu và kỳ phiếu thương mại để kiểm soát quan hệ tín dụng thương mại trên thị trường. Ban hành các văn bản dưới luật hướng dẫn thực hiện việc xử lý phát mại tài sản thế chấp, cầm cố; xử lý công nợ của doanh nghiệp thua lỗ, phá sản, giải thể; qui định rõ giới hạn trách nhiệm, thời gian xử lý đối với từng vụ việc.
Các cơ quan quản lý vĩ mô cần có sự phối hợp chặt chẽ với nhau trong việc cân đối nhu cầu đầu tư và phát triển cơ sở hạ tầng. Tránh tình trạng đầu tư ồ ạt vào một ngành, lĩnh vực nào đó gây nên lãng phí do quá tải giữa cung và cầu.
Ngân hàng Nhà nước cần rà soát lại các văn bản chồng chéo thiếu đồng bộ, chỉnh sửa và ban hành một số cơ chế tín dụng, bảo lãnh phù hợp với môi trường kinh tế - pháp lý và hành chính ở Việt Nam hiện nay; điều chỉnh, bổ sung các điều kiện nguyên tắc cho vay phù hợp với thực tế hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp. Sửa đổi những qui định, điều kiện vượt ra ngoài khả năng quản lý kiểm soát của cán bộ tín dụng và những điều kiện trên thực tế Việt Nam chưa thực hiện được.
tài liệu tham khảo
Sách:
- Tiền tệ Ngân hàng và thị trường Tài chính - Frederic Mishkin.
- Ngân hàng thương mại - Edward W.reed and Edward K.Gill.
- Tài chính doanh nghiệp - Khoa ngân hàng - Tài chính trường KTQD
- Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII.
Báo và tạp chí:
- Tạp chí Ngân hàng số 12 - 2000; số 20,22,24 - 2001; số 1,3,4,6 - 2002.
- Thời báo kinh tế Việt Nam.
- Thông tin Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam năm 2000,2001,2002.
- Báo cáo thường niên Ngân hàng Ngoại thương các năm 1996 - 2001.
Các văn bản liên quan trong lĩnh vực tín dụng Ngân hàng:
- Luật NHNN và Luật các TCTD Việt nam
- Quy chế đồng tài trợ của các tổ chức tín dụng.
- Quy chế cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng.
- Bản hướng dẫn thực hiện quy trình nghiệp vụ tín dụng của Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam.
- Hướng dẫn của Ngân hàng Ngoại thương về quy chế cho vay đối với khách hàng.
- Văn bản hướng dẫn thẩm định dự án đầu tư của Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam.
kết luận
Đến đây, do những hạn chế nhất định mà quan trọng nhất là thời gian để hoàn thành bài chuyên đề này cũng đã tới. Như vậy sau một thời gian nghiên cứu lý luận cũng như tìm hiểu thực tế tại Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam về hoạt động cho vay trung, dài hạn, dưới sự hướng dẫn của thầy giáo PTS - Vũ Duy Hào em cũng đã mở mang thêm rất nhiều kiến thức bổ ích, đặc biệt là tri thức về hoạt động cho vay trung, dài hạn của Ngân hàng. Qua quá trình nghiên cứu và thực tập viết chuyên đề em càng thấy yêu quí hơn nghề Ngân hàng, càng thấy sự quan trọng của tín dụng trung, dài hạn đối với sự phát triển của các doanh nghiệp, của nền kinh tế, lợi ích to lớn cũng như những mạo hiểm, rủi ro có thể xẩy ra khi cho vay. Trong bài chuyên đề này em cũng đã xuất phát từ thực trạng hoạt động cho vay trung, dài hạn của Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam và được sự giúp đỡ rất nhiều của các anh chị phòng Dự án của Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam, em cũng đã mạnh dạn đưa ra một số giải pháp và kiến nghị để nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng trung, dài hạn tại Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam. Sau này, những kiến thức trong trường lớp và đặc biệt là những kiến thức mà em có được trong quá trình thực tập sẽ giúp ích em rất nhiều trong công việc. Một lần nữa cho em gửi lời cảm ơn tới những người đã giúp em hoàn thành chuyên đề này. Em xin chân thành cảm ơn thầy giáo PTS - Vũ Duy Hào và các bác, các chú, anh chị tại Ngân hàng Ngoại thương, nhờ có sự giúp đỡ, động viên đáng chân trọng vừa qua mà em đã hoàn thành thời gian thực tập, viết chuyên đề. Em càng yêu mến thêm nghề Ngân hàng mà thấm vào mình câu nói của một nhà Ngân hàng mà em đã học hỏi được "Các nhà Ngân hàng đem tiền cho khách hàng của mình vay vào một buổi bình minh, ánh nắng trải nhẹ đó đây và có những hôm đầy trời mưa gió, đêm đông mịt mù nhà Ngân hàng phải khoác áo đi thu khoản tiền đã cho vay để cho Ngân hàng của mình tồn tại và phát triển".
Mục lục
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- L0228.doc