Đề tài Thực trạng hoạt động tín dụng của các NHTM ở Việt Nam

Phải xây dựng chiến lược khách hàng đúng đắn, ngân hàng và khách hàng luôn gắn bó với nhau, mối quan hệ này luôn tồn tại khách quan luôn bổ sung và tạo điều kiện cho nhau cùng phát triển. Cần thiết phải đánh giá cho khách hàng truyền thống và khách hàng uy tín. Khách hàng truyền thống là khách hàng với ngân hàng theo thời gian và nội dung hoạt động : có cả quá trình lịch sử, hiện tại và tương lai, gắn liền với ngân hàng từ những đầu và đến nay vẫn phát triển tốt. Đối với khách hàng có uy tín có thể vừa là khách hàng truyền thống, điều dễ nhận thấy ở các doanh nghiệp này đều là doanh nghiệp thực hiện tốt chính sách của Đảng và nhà nước, vay mượn và trả nợ sòng phẳng, có trách nhiệm với đồng vốn, sử dụng vốn có hiệu quả, chi tiêu đúng chế độ, kinh doanh có lãi. Đối với những khách hàng này, khi xây dựng chiến lược ngân hàng phải hết sức quan tâm, gắn hoạt động ngân hàng với hoạt động khách hàng, thẩm định và đầu tư kịp thời các dự án có hiệu quả. Cần xây dựng trong lòng các khách hàng này hình ảnh ngân hàng luôn gần gữi và hỗ trợ kịp thời để sản xuất nhiều sản phẩm có chất lượng cao cho xã hội. Có chính sách lãi suất hợp lý ưu đãi và mở rộng thị trường, thị phần thông qua hoạt động ngân hàng. - Phải xây dựng mối quan hệ tốt giữa ngân hàng và doanh nghiệp như người bạn đồng hành, có quan hệ gắn bó và tác động qua lại. Sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp là sự tồn tại và phát triển của ngân hàng và ngược lại có thể có thể nói trong bối cảnh hiện nay hoạt động ngân hàng ngày càng khó, chênh lệch giữa lãi suất cho vay và huy động chỉ dao động trong khoảng từ 0,15%-0,2% thàng, do vậy ngoài hoạt động tín dụng cần cung cấp các dịch vụ cho khách hàng với mức phí dễ chấp nhận vào những định kỳ 6 tháng, mang tính truyền thống, gắn bó trên cơ sở đó đi sâu sát tìm hiểu hoạt động của doanh nghiệp, tạo điều kiện cho việc cung ứng vốn sát, đúng. Làm tốt việc này sẽ giúp giảm thấp tỷ lệ nợ quá hạn. Vốn tín dụng tăng trưởng và nền kinh tế sẽ tăng trưởng bền vững. Từ mối quan hệ tốt này thì sẽ có sự hiểu biệt lẫn nhau, thông cảm và ý thức chấp hành các quy định của pháp luật của cả 2 phía sẽ là cơ sở để nâng cao chất lượng tín dụng. -Nên đặt phương án dự phòng trả nợ vay ngân hàng của người vay. Sự chủ động này có tác dụng rất lớn để ngăn chặn những rủi ro có thể xảy ra, cũng cần phải đa dạng khách hàng phân tán rủi ro không nên quá tập trung vào một số đối tượng khách hàng một số ngành nghề.

doc33 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1617 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng hoạt động tín dụng của các NHTM ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
đã được chuyên nghiệp bởi các ngân hàng. 2. Phân loại Việc phân loại tín dụng khá cần thiết sẽ hỗ trợ cho mục đích quản lý của ngân hàng. *Dựa vào kỳ hạn các khoản tín dụng: thời hạn giao vốn cho khách hàng sử dụng. Tín dụng ngắn hạn: dưới 12 tháng sử dụng đầu tư vào tài sản lưu động, tín dụng trung hạn từ 1 năm đến 3 năm. Tín dụng dài hạn lớn hơn 3 năm hoặc 5 năm, trong một khoảng thời gian dài các NHTM không cho vay dài hạn, thậm chí không cho vay trung hạn bởi vì thiếu các công cụ quản lý rủi ro, và nhất là thiếu nguồn vốn lâu dài và khó huy động vốn. Các nghiệp vụ dài hạn này được các tổ chức “chuyên ngành” tự do hoạt động với các nguồn vốn vay chủ yếu qua phát hành trái phiếu và tài trợ cho đầu tư qua huy động tiết kiệm gián tiếp. NHTM giữ vai trò trung gian giữa thị trường tài chính và doanh nghiệp. Chỉ bắt đầu từ những năm 70 các ngân hàng thương mại mới bắt đầu hoạt động có hiệu quả trong lĩnh vực các nghiệp vụ dài hạn nhưng để đáp ứng nhu cầu của khách hàng 1 cách tốt nhất, các ngân hàng thương mại dần chú ý tới phần thị trường cho vay dài hạn. *Theo tính chất đảm bảo khoản vay - Tín dụng có đảm bảo. - Tín dụng không đảm bảo. Để nhận được vốn người vay phải ký hợp đồng tín dụng, các bước hoàn thành một hợp đồng tín dụng là: + Kiểm tra khả năng vay và khả năng chi trả của người vay. + Kí hợp đồng tín dụng. + Kí hợp đồng đảm bảo tín dụng. Đảm bảo tiền vay có ý nghĩa quan trọng vì xét cho cùng đảm bảo tiền vay là đảm bảo lợi nhuận cho ngân hàng, trên thực tế các loại quan trọng nhất của đảm bảo tín dụng gồm có: +Bảo lãnh: hợp đồng cam kết đơn phương mà người bảo lãnh cam kết với người cho vay sẽ chi trả khoản nợ của người vay khi cần thiết. +Đảm bảo: đây là hoạt động của đại lý kinh tế nó khác với bảo lãnh là nó không bổ sung cho giao dịch chính. Trong hoạt động ngân hàng không ít trường hợp người vay phải có cam kết đảm bảo trả nợ của ngân hàng khác. Khi cấp đảm bảo, ngân hàng sẽ là người đảm bảo đối với người cho vay, chi trả số tiền nhất định khi xảy ra trường hợp đảm bảo. +Cầm cố giấy tờ có giá trị hàng hoá và tài sản khác: Quyền cầm cố: yêu cầu vật chất đối động sản của người khác hoặc yêu cầu được quyền nhận khoản bồi thường từ việc bán tài sản cầm cố, nếu người vay nợ không trả được nợ. Việc cầm cố này không những trả đủ nợ mà còn cả số lãi tiền vay và số tiền bội ước trả do không thực hiện được cam kết. Quyền cầm cố quy định tài sản cầm cố theo sự đồng ý của người vay và cho vay phải được chuyển cho người cho vay là người sở hữu trực tiếp, còn người vay chỉ còn là người sở hữu gián tiếp tài sản cầm cố. Trong hoạt động ngân hàng điều đó có nghĩa là người vay không còn quyền sử dụng, khi người vay không thực hiện được cam kết thì ngân hàng có thể bán tài sản đó. + Chuyển tài sản đảm bảo. - Ngân hàng có quyền sở hữu đối với tài sản cầm cố nhưng đồng thời chuyển cho người vay đảm bảo đó để họ tiếp tục sử dụng. + Nhượng lại các yêu cầu chi trả và các hoá đơn: Nếu người vay có các yêu cầu chi trả đối với người thứ 3, thì họ nhượng lại cho ngân hàng làm đảm bảo tín dụng. Cầm cố bất động sản : Cầm cố nhà cửa có tầm quan trọng khá lớn . Nhưng ngân hàng có thể dựa vào uy tín của khách hàng để cho vay không cần bảo đảm. Cho vay không cần bảo đảm đang là một thách thức đối với ngành ngân hàng. *Dựa vào hình thái tồn tại của vốn tín dụng ta có thể phân loại thành: tín dụng bằng tiền và tín dụng bằng hiện vật. Tín dụng bằng hiện vật tức là vốn tín dụng tồn tại dưới hình thức hiện vật; có thể các doanh nghiệp mua bán chịu giữa nhau hoặc thuê tài sản… Hình thức tín dụng này có độ an toàn khá cao, vì người cho vay nắm sở hữu về mặt pháp lý được pháp luật bảo vệ, tài sản có tính lỏng kém, khó chuyển đổi, vì vậy có thể hiện vật dễ dàng thu hồi khi cần thiết. ii. tín dụng ngân hàng 1. Vai trò của tín dụng Tín dụng sẽ đáp ứng nhu cầu về vốn trong hoạt động xây dựng kinh doanh. Các ngân hàng sẽ đóng vai trò trung gian thu hút nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi trong xã hội để đáp ứng những nhu cầu đầu tư về xây dựng và kinh doanh, tức là đã chuyển vốn từ những người không có cơ hội đầu tư sinh lợi tới những người có cơ hội. Tín dụng đảm bảo nhu cầu tiêu dùng cá nhân trong xã hội, người tiêu dùng có thể chọn thời điểm để mua sắm tốt nhất, cung cấp vốn cho những người có nhu cầu mua cái họ cần, không cần phải chờ đến khi tiết kiệm đủ món tiền để mua. Các tổ chức tín dụng khi cho khách hàng vay vốn muốn vốn được sử dụng đúng mục đích có hiệu quả, phải giám sát quá trình hoạt động của khách hàng, sẽ góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh của khách hàng cũng như toàn bộ hoạt động kinh tế chung của nền kinh tế quốc dân. Khi tín dụng được chuyên nghiệp hoá chi phí để vay vốn sẽ giảm thiểu, tiết kiệm chi phí lưu thông, ổn định thị trường. Ngân hàng sẽ có rất nhiều những hình thức huy động vốn: tín phiếu, thương phiếu, cổ phần. Các hình thức đầu tư cũng rất đa dạng, đầu tư vào xây dựng cơ bản cho vay ngắn hạn trung hạn dài hạn. Tín dụng cái thiện đời sống kinh tế của mỗi người trong xã hội, nền kinh tế tăng trưởng, phát triển. 2. Các loại tín dụng ngân hàng Tín dụng ngân hàng là tín dụng có sự tham gia của các ngân hàng đóng vai trò là các trung gian trong tín dụng. Hoạt động theo hình thức vay để cho vay. Vốn tín dụng ngân hàng dưới hình thức tiền tệ, đã được giải phóng ra khỏi quá trình sản xuất. Vai trò trung gian của ngân hàng là tất yếu bởi vì có nhu cầu về vốn, có vốn tạm thời nhàn rỗi sẽ xuất hiện vai trò trung gian tài chính của ngân hàng. Quá trình vận động của vốn tín dụng tương đối độc lập với sự vận động của quá trình sản xuất kinh doanh. Với những đặc điểm trên, tín dụng có thể đáp ứng được nhu cầu cả về khối lượng, số lượng, thời gian. Vốn tín dụng có thể chuyển đổi đa dạng giữa các ngành nghề khác nhau, bởi nó có tính lỏng cao. Tín dụng có độ rủi ro tương đối cao. Cùng với sự phát triển của xã hội, các hình thức tín dụng khác nhau dần được hình thành và ngày càng được hoàn thiện và đa dạng hoá. Đây chính là biểu hiện của ngân hàng không những thích nghi với nhu cầu của tái sản xuất mà còn thu hút nhiều nhất khách hàng bằng việc đa dạng hoá các lĩnh vực tín dụng. Đây là một vài nét rất cơ bản về các hình thức tín dụng ngân hàng. 1. Tín dụng vãng lai - Tín dụng mà ngân hàng cấp cho khách hàng của mình bằng nội tệ hoặc ngoại tệ theo nhu cầu của khách hàng có thể được sử dụng nhưng không vượt quá số tiền tối đa quy định trong hợp đồng. Việc tính số dư các khoản nộp và rút khỏi tài khoản được tiến hành sau những thời gian quy định trong hợp đồng, đồng thời thanh toán các khoản chi trả tín dụng trên tài khoản thống nhất của ngân hàng. Khách hàng của ngân hàng có quan hệ thương mại với nhiều bạn hàng là người cung cấp cũng như người mua giữa họ thường xuyên phát sinh những cam kết và các yêu cầu tiền tệ mà khối lượng có thể thay đổi. Ngân hàng nhận tiến hành các thanh toán về các yêu cầu và các cam kết thường xuyên của họ để hợp lý hoá chu chuyển chi trả của khách hàng. Trường hợp xảy ra là các khoản nợ tạm thời của khách hàng vượt các khoản thu của họ và trên tài khoản không có vốn để bù đắp chênh lệch đó, nến khách hàng phải ký kết hợp đồng với ngân hàng về việc xin cấp tín dụng vãng lai. Khách hàng có thể thường xuyên sử dụng toàn bộ số tiền đã thoả thuận trong hợp đồng, hoặc không sử dụng trong một thời gian dài vì các khoản thu thường xuyên bù đắp các khoản nợ phát sinh của chủ tài khoản. Tín dụng vãng lai được sử dụng tuỳ thuộc vào tình hình tài chính của khách hàng. Theo quan điểm khả năng sử dụng thì tín dụng vãng lai là tín dụng trung hạn và dài hạn. Tín dụng vãng lai được cấp chủ yếu để bổ sung vốn cho sản xuất và lưu thông thường xuyên . Tín dụng vãng lai có thể cấp cho khách hàng dưới các hình thức khác nhau: tiền mặt, chuyển tiền chi trả tín phiếu, mua giấy tờ có giá… 2. Tín dụng chấp nhận Tín dụng chấp nhận liên quan đến thương phiếu. Tín dụng chấp nhận là tín dụng mà ngân hàng chấp nhận chuyển tiền mà khách hàng lập cho mình với điều kiện khách hàng hoàn trả tiền vay khi thương phiếu tới hạn chi trả. Như vậy ngân hàng có thể chi trả hoặc kỳ phiếu được xuất trình. Việc chấp nhận của các ngân hàng lớn thường là đảm bảo chắc chắn khi chuyển kỳ phiếu cho người thứ ba người phát hành kỷ phiếu có thể sử dụng kỳ phiếu với các mục đích khách nhau, như để chi trả hàng hoá để chiết khấu ở các ngân hàng khác đôi khi kỳ phiếu nằm lại ngân hàng đã chấp nhận nó hoặc được chiết khấu ngay sau khi chấp nhận cùng một ngân hàng có thể thực hiện 2 nghiệp vụ nối tiếp nhau: chấp nhận và chiết khấu kỳ phiếu. Tín dụng chấp nhận thuộc nhóm tín dụng ngắn hạn. 3. Tín dụng thế chấp -Tín dụng thế chấp là khoản tín dụng ngắn hạn được thế chấp bằng bất động sản hoặc trái quyền khi cấp tín dụng thế chấp được đánh giá không theo giá trị đầy đủ mà bị chiết khấu tuỳ thuộc vào loại động sản và rủi ro tiêu thụ động sản đó. Các loại thế chấp quan trọng nhất có: a. Tín dụng thế chấp các giấy tờ có giá Đây là hình thức quan trọng nhất bởi vì nghiệp vụ nhận thế chấp và đánh giá các giấy tờ có giá không phức tạp. b. Tín dụng thế chấp hàng hoá Hình thức này rất thông dụng thường các ngân hàng thương mại cho phép khách hàng gửi hàng ở kho của mình và hàng đó dùng để đảm bảo những số tiền ngân hàng ứng cho khách hàng. c. Tín dụng thế chấp kim loại quý Hiện nay ít được sử dụng, vật thế chấp thường là những đồng tiền vàng, thỏi bạc, bạch kim, giá thế chấp thường là 95% giá hiện hành. d. Tín dụng thế chấp các yêu chi trả Vật thế chấpp là các yêu cầi tài chính khác nhau như: tiền gửi tiết kiệm, bảo hiểm, yêu cầu chi trả lương, cầm cố bất động sản. 4. Tín dụng được hoàn trả bằng các phần bằng nhau trong năm. a. Tín dụng trả dần: chủ yếu là tín dụng trung hạn, tín dụng tiêu dùng, loại tín dụng này còn được sử dụng trong du lịch. + Loại “A” đây là khoản vay trực tiếp cũng được trả trực tiếp của khách hàng đối với ngân hàng , tiền cũng được trả trực tiếp cho ngân hàng. + Loại “B” ngân hàng cho khách hàng vay có sự kết hợp chặt chẽ với thương nghiệp. Người mua chỉ nộp 20-30% giá trị hàng hoá, số còn lại sẽ được ngân hàng cho vay. Ngân hàng và thương nghiệp sẽ kí kết hợp đồng về việc cấp tín dụng trả dần. Hợp đồng này buộc ngân hàng chuyển cho thương nghiệp 80% giá trị hàng hoá, số tiền 20% do khách hàng nộp được giữ tại ngân hàng được dùng làm đảm bảo tín dụng. Sau khi khách hàng trả hết nợ, ngân hàng sẽ chuyển số tiền (20%) cho cửa hàng. Trong trường hợp khách hàng không có khả năng chi trả cửa hàng sẽ chịu trách nhiệm về các khoản vay. + Loại “C” có sử dụng kỳ phiếu, người mua nộp 25-40% giá trị hàng hoá, số còn lại được lập các kỳ phiếu. b. Tín dụng nhỏ - Chủ yếu là tín dụng tiêu dùng khách hàng là người có thu nhập vững chắc, khoản vay này không cần ký hợp đồng tín dụng. Người vay xuất trình hoá đơn mua hàng và giấy trả lương. 5. Tín dụng bảo lãnh - Bảo lãnh thực ra không phải là cho vay vì người bảo lãnh không hề ứng tiền mà chỉ nhận bảo đảm cho người có nợ đối với chủ nợ thôi. Chỉ khi nào con nợ không trả được nợ mới phải trả nợ hộ. Sự bảo lãnh thường được áp dụng trong những trường hợp mà một thương gia muốn mua chịu một thương gia khác. Ví dụ một thương gia Việt Nam muốn mua chịu một thương gia Pháp, và phải ký một thương phiếu nhưng người bán ngân ngại rằng thương gia Việt Nam không trả được nợ buộc thương gia Việt Nam phải được 1 ngân hàng bảo lãnh. Bảo lãnh là một hành vi có thể gặp nhiều rủi ro, để bảo lãnh ngân hàng phải nghiên cứu thận trọng uy tín và năng lực tài chính của khách hàng. Bảo lãnh thường được thực hiện trong các trường hợp sau: +Bảo lãnh để khách hàng có thể đi vay ngân hàng khác, đặc biệt vay các ngân hàng nước ngoài. + Bảo lãnh về đóng thuế cho nhà nước + Bào lãnh về các hợp đồng đấu thầu. Tín dụng bảo lãnh có thể là dài hạn và ngắn hạn. 6. Các nghiệp vụ liên kết tín dụng. - Trong hoạt động thực tiễn của ngân hàng không ít các trường hợp mức vay (hoặc mức rủi ro) mà một ngân hàng không tự mình đảm đương nổi. Cần có sự liên kết giữa các ngân hàng, Trong liên kết đó có một ngân hàng đứng ra làm đầu mối đàm phán với khách hàng theo điều kiện của các ngân hàng liên kết đưa ra, ký hợp đồng tín dụng, thu hút vốn của các ngân hàng liên kết và chuyển giao cho khách hàng thu nợ và chia lãi. Sự liên kết này được giải tán sau mỗi hợp đồng, song cũng có sự liên kết lâu dài được triệu tập lại khi có một hợp đồng lớn. iii. chất lượng tín dụng các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng của các ngân hàng thương mại trong nền kinh tế thị trường. Hoạt động tín dụng ngân hàng đóng vai trò quan trọng đối với sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước, là nguồn thu quan trọng trong hoạt động kinh doanh của toàn ngành ngân hàng. Chất lượng tín dụng càng cao thể hiện mức đóng góp của một hoạt động ngân hàng đối với xã hội càng lớn. Chất lượng tín dụng cao là điều kiện trước hết đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển của ngành ngân hàng. 1. Chất lượng tín dụng Nhiều ý kiến cho rằng chất lượng tín dụng chính là kết quả của các khoản tín dụng được thực hiện trọn vẹn, người vay thực hiện đúng các cam kết vay tiền, ngân hàng thu được cả gốc lẫn lãi đúng hạn. ý kiến trên cũng đúng nhưng không mang ý bao quát. Chất lượng tín dụng thể hiện bằng lợi ích của nguồn thu nhập của nguồn lợi nhuận bao gồm lợi ích hữu hình và lợi ích vô hình và lợi ích kinh tế xã hội. 2. Các yếu tố cấu thành chất lượng tín dụng. a. Vốn tiền tệ khả dụng - Bao gồm vốn tự có, vốn chủ sở hữu, vốn huy động. Vốn huy động là bộ phận chủ lực quan trọng nhất trong nguồn vốn khả dụng của ngân hàng. Ngân hàng đi vay để cho vay. Vì vậy để huy động vốn tạo nguồn vốn khả dụng hùng hậu đáp ứng nhu cầu khách hàng từ đó mở rộng tín dụng và qua đó nâng cao chất lượng tín dụng. Việc huy động vốn ảnh hưởng trực tiếp bởi: mức lãi suất mức lạm phát, chất lượng dịch vụ và uy tín ngân hàng. b. Dự trữ bắt buộc Do ngân hàng nhà nước quy định về công cụ điều chỉnh lượng cung ứng tiền tệ, các ngân hàng có trách nhiệm pháp lý quy định phải thực hiện đầy đủ về lượng dự trữ bắt buộc ký gửi tại ngân hàng nhà nước. Tỷ lệ dự trữ bắt buộc làm giảm lượng vốn tiền tệ khả dụng và là pháp lệnh không thể thoái thác. c. Vốn thanh khoán hiện hành - Các ngân hàng thương mại luôn phải để dành vốn thanh khoản hiện hành từ vốn tiền tệ khả dụng để đáp ứng nhu cầu thanh toán trước mắt cho người gửi tiền. - Mức vốn thanh khoản phải được tính toán đúng đảm bảo, không lãng phí vốn khả dụng, đồng thời không gây ra tình trạng căng thẳng, thiếu hụt vốn thanh toán. d. Nợ khó đòi không có khả năng thu hồi. Đây là yếu tố nguy hiểm làm xấu chất lượng tín dụng ngân hàng, có thể dẫn tới ngân hàng bị mất người, mất của, bị sập tiệm. Chất lượng tín dụng ngân hàng cao nhất là khi ngân hàng không có nợ khó đòi. e. Dự phòng rủi ro: Theo thông lệ chung quốc tế hàng năm ngân hàng kiểm kê và đánh giá lại chất lượng tín dụng đối với tổng dư nợ. Nếu các khoản vay đã qua hạn không có khả năng thu hồi phải được trích quỹ dự phòng rủi ro để bù đắp một phần hoặc toàn bộ, tuỳ theo tính chất của khoản nợ khi số nợ khi số nợ đã được bù đắp sau đó lại thu được nợ sẽ được coi là thu nhập của ngân hàng. Dự phòng rủi ro có trường hợp khá lớn làm cho vốn khả dụng của ngân hàng sụt giảm nghiêm trọng. f. Lãi suất tín dụng ngân hàng ở nước ta, các ngân hàng thương mại phải thực hiện lãi suất cho vay nằm trong lãi suất trần của ngân hàng nhà nước không được vận dụng tăng lãi suất vượt trần này. Hiện nay chúng ta đang đi tìm và tiến tới sẽ thực hiện lãi suất cơ bản để tăng tính cạnh tranh và tính chủ động trong kinh doanh của các ngân hàng. g. Thời hạn cho vay Thời hạn cho vay ảnh hưởng trực tiếp đến lãi suất và mức tiền vay. Việc tính toán và xác định thời hạn cho vay là rất quan trọng, ảnh hưởng trực tiếp đến nguồn thu lợi nhuận của ngân hàng. Ngân hàng phải tính toán sao cho thời hạn vay phù hợp với chu kỳ sản xuất kinh doanh, tạo điều kiện cho bên vay trả nợ đúng hạn. Thời hạn cho vay của nhiều khoản tín dụng được liên tục hài hoà, hạn chế thời gian đọng vốn, vốn khả dụng không sinh lời. Sau khi đánh giá sơ bộ các yếu tố cấu thành chất lượng tín dụng ta có thể đi đến kết luận có 3 nhân tố chính ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng là: - Ngân hàng thương mại - Khách hàng - Môi trường vĩ mô. 3. Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng của các ngân hàng thương mại trong nền kinh tế thị trường. 3.1. Các ngân hàng thương mại Như ở phần trên ta đã xem xét, ngân hàng thương mại là tổ chức thực hiện việc đi vay để cho vay. Vì vậy khả năng huy động vốn đáp ứng nhu cầu của khách hàng là những tiêu thức để đánh giá khả năng của một ngân hàng. Chuyển sang cơ chế thị trường và chấp nhận sự cạnh tranh không chỉ trong nước mà còn trên phạm vi toàn thế giới. Vì vậy các doanh nghiệp cần phải đầu tư nghiên cứu, phát triển đổi mới trang thiết bị kỹ thuật. Các doanh nghiệp cần có một nguồn vốn để giải quyết vấn đề trên. Tại sao ngân hàng có thể đảm bảo được trách nhiệm này? bởi vì ngân hàng có khả năng: +Khả năng tập hợp vốn: trên thực tế nhiều cá nhân và tổ chức có tiền đã tìm cách đầu tư vốn của mình vào các hoạt động sản xuất kinh doanh sinh lời song đã vấp phải những hạn chế do vốn của họ không đáp ứng được nhu cầu vốn của những người cần vốn (nhu cầu này bao gồm: yếu tố về số lượng thời gian….). Đặc biệt trên thị trường vốn quy mô kinh tế chỉ có thể đạt được bằng cách tập hợp những số tiền nhỏ thành những số tiền lớn để nhằm đáp ứng nhu cầu người vay. Điểm khác nhau cơ bản trong nguồn vốn của NHTM với các doanh nghiệp phi tài chính là NHTM kinh doanh chủ yếu bằng nguồn vốn huy động từ nền kinh tế còn các doanh nghiệp hoạt động trên nguồn vốn tự có là chính. Để đánh giá nguồn vốn của một ngân hàng chúng ta sử dụng 2 chỉ số: Chỉ số 1 = x 100 Chỉ số 2 = x 100 Chỉ số 1 cho phép ta xác định khả năng và quy mô thu hút vốn từ nền kinh tế của NHTM chỉ số 2 là chỉ số cơ cấu vốn huy động. Bên cạnh việc huy động vốn dưới dạng tiền gửi, các NHTM còn có thể thu hút vốn dưới dạng đi vay. Khi thiếu vốn kinh doanh ngân hàng có thể đi vay NHTm, các tổ tín dụng trong nước, tổ chức tín dụng nước ngoài…ngân hàng thương mại (NHTM) có thể vay vốn các tổ chức tín dụng trong nước và nước ngoài và chi phí ngân hàng phải trả lớn hơn vốn huy động trực tiếp từ nền kinh tế dưới dạng tiền gửi tiết kiệm hoặc tiền gửi của các tổ chức kinh tế. Các ngân hàng thương mại chỉ đi vay khi phải đối phó với những rủi ro về thanh khoản, ngoại hối. Các NHTM có thể vay vốn ở NHNN theo quy định của NHNN, các NHNN tỉnh thành phố chỉ được xét cho vay thanh toán bù trừ còn những khoản vay khác phải do ngân hàng trung ương quy định. Về ngân hàng TW muốn tập trung quản lý nhằm kiểm soát chặt chẽ khối lượng tiền lưu thông. Song việc làm này gây khó khăn cho NHTM vì nếu muốn nhận được vốn vay, NHTM phải tốn nhiều thời gian và chi phí trong khi đó điều kiện kinh doanh không cho phép chờ đợi. Số lượng những ngân hàng thương mại vay vốn của NHNN không nhiều. Ngoài ra, NHTM có thể vay các tổ chức tín dụng nước ngoài, vốn vay là những ngoại tệ mạnh. Để vay được vốn của tổ chức tín dụng nước ngoài, NHTM phải là doanh nghiệp có uy tín, hoạt động đa dạng, quan hệ quốc tế tốt, công nghệ ngân hàng tiên tiến… mới được sự đồng ý của NHNN. Mặc dù điều kiện để được cấp tín dụng của NH nước ngoài rất khó khăn nhưng nếu được cấp ngân hàng sẽ nhận được số vốn lớn với lãi suất thấp (lãi suất ngoại tệ), chi phí giao dịch nhỏ. Hiệu quả cuối cùng là chi phí bình quân trên một đồng vốn nhỏ hơn rất nhiều so với chi phí phải trả cho một đồng vốn huy động trong nước. Đây là một số trường hợp cá biệt, vì vậy huy động vốn trong nước rất quan trọng. Hiện nay, nước ta vẫn chưa hoàn chỉnh được một lãi suất cơ bản. Mức lạm phát cũng được khống chế bởi chính sách vĩ mô của nhà nước. Vì vậy, để nắm được phần thắng trong huy động vốn thì ngân hàng cần có uy tín cao, chất lượng dịch vụ tốt. Để nâng cao được chất lượng tín dụng các tín dụng các ngân hàng cần phải nhận biết được những thế mạnh mà bản thân của ngân hàng mình để thu hút khách hàng. +Vị thế do địa điểm vị trí hoạt động: nếu một ngân hàng đặt trụ sở ở cạnh một ngân hàng khác có nhiều ưu thế hoặc nơi đặt trụ sở không phù hợp, thì việc kinh doanh sẽ khá khó khăn. Vị trí đặt trụ sở phải phù hợp với quy mô hoạt động kinh doanh là những vị trí tập trung dân cư, gần những trung tâm thương mại lớn. + Bề dày hoạt động của ngân hàng sẽ tạo cho ngân hàng những kinh nghiệm trong hoạt động kinh doanh tiền tệ. + Quy mô và địa bàn hoạt động sẽ giải quyết nhiều vấn đề chiến lược. + Khách hàng cũng rất quan tâm đến tính chất sở hữu của loại hình ngân hàng thương mại,khách hàng rất tin tưởng đối với các NHTM quốc doanh. + Đội ngũ cán bộ nhân viên ngân hàng chính là bộ mặt của ngân hàng. Ngân hàng cần quan tâm đến trình độ cán bộ, nhân viên ngân hàng không chỉ là trình độ chuyên môn mà còn là thái độ, phong cách giao tiếp, cư xử có văn hoá, văn minh lịch sự. + Và vấn đề quan trọng nhất mà khách hàng quan tâm là chất lượng và giá cả dịch vụ cung cấp. Chất lượng dịch vụ là: - Tính chất kịp thời, chính xác, an toàn và tiện lợi của dịch vụ. - Công nghệ ngân hàng. - Uy tín trong thanh toán. -Trình độ kỹ thuật nghiệp vụ, tinh thần trách nhiệm của đội ngũ cán bộ nhân viên ngân hàng. - Địa điểm cung cấp dịch vụ thuận lợi an toàn. - Thủ tục đơn giá phức tạp. Giá cả dịch vụ : - Lãi suất huy động vốn, lãi suất cho vay. - Phí được. Nắm chắc được những yếu tố trên, ngân hàng mới có thể dễ dàng nâng cao sức cạnh tranh cũng như nâng cao chất lượng tín dụng. Ngoài việc quan tâm đến huy động vốn, có được lượng vốn hùng hậu để đáp ứng được nhu cầu của khách hàng ngân hàng còn 1 vấn đề nan giải cần quan tâm đó là nợ quá hạn (nợ xấu). 3.2. Nợ quá hạn Trong hệ thống ngân hàng, nợ quá hạn là tồn tại cơ bản nhất, nếu không nhanh chóng khắc phục sẽ đe doạ trực tiếp đến sự lành mạnh và an toàn của hệ thống ngân hàng cũng như tình hình kinh tế – xã hội. Bản chất hiện tượng nợ quá hạn trong kinh doanh tín dụng Chúng ta xem xét mối quan hệ tín dụng hoàn hảo giữa ngân hàng và khách hàng, đó là sự hoàn trả đầy đủ cả gốc lẫn lãi cho ngân hàng đến thời điểm đáo hạn. Còn nợ quá hạn phát sinh từ mối quan hệ tín dụng không hoàn hảo, khách hàng (người đi vay) không thực hiện được nghĩa vụ trả nợ của mình cho ngân hàng đúng hạn. Quá trình tín dụng được cấu thành từ hai quá trình riêng biệt: quá trình vay và quá trình trả nợ. Một chu trình của tín dụng bao gồm 3 giai đoạn, giai đoạn thứ nhất: giai đoạn phân phối tín dụng dưới hình thức cho vay. Giá trị vốn tín dụng được chuyển sang người vay, một bên nhận được giá trị và một bên nhường giá trị. Giai đoạn thứ hai: sử dụng trong quá trình tái sản xuất. Người đi vay sẽ sử dụng giá trị vốn tín dụng để đầu tư vào hoạt động kinh doanh. Giai đoạn thứ ba: giai đoạn hoàn trả tín dụng, người đi vay hoàn trả cho người vay kèm theo phần lãi thoả thuận. Đây là một chu trình khép kín, nhưng giai đoạn thứ ba là giai đoạn đặc trưng nhất của một quan hệ tín dụng hoàn hảo, nó khác biệt quan hệ tín dụng với những quan hệ tài chính khác. Nợ quá hạn là sự vi phạm hai đặc trưng của tín dụng đó là đặc trưng về thời hạn và tính hoàn trả đầy đủ. Thời hạn là khoảng thời gian từ khi người đi vay nhận được khoán tín dụng cho đến khi người cho vay nhận được lượng giá trị bao gồm cả gốc lẫn lãi theo thoả thuận. Để đánh giá tình trạng nợ quá hạn của một ngân hàng người ta có thể sử dụng tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ, tức là: Tỷ lệ nợ quá hạn = . 100 Có rất nhiều loại hình nợ quá hạn khác nhau nếu căn cứ vào: Thời gian -Nợ quá hạn phát sinh tạm thời có thể thu hồi trong thời gian ngắn. - Nợ quá hạn sau thời gian mới thu hồi được. - Nợ quá hạn không thể thu hồi được (thời gian không xác định) Khả năng thu hồi - Nợ quá hạn thu hồi được 100% - Nợ quá hạn thu hồi được 1 phần - Nợ quá hạn mất trắng. Mức độ đảm bảo - Nợ quá hạn được đảm bảo hoàn toàn - Nợ quá hạn được đảm bảo một phần - Nợ quá hạn không được đảm bảo. Nợ quá hạn gây thiệt hại cho NHTM cụ thể là: -Nợ quá hạn dẫn đến sự ứ đọng vốn, chu trình tín dụng là một vòng quay khép kín , giả sử nợ quá hạn có thể thu hồi sau một thời gian nhất định tức là đã làm cho thời hạn vòng quay thực tế lớn hơn vòn quay tín dụng đã thoả thuận, như vậy đã làm giảm tới độ chu chuyển vốn tín dụng dẫn đến làm giảm hiệu quả sử dụng vốn, giảm lợi nhuận của ngân hàng. - Nợ quá hạn trong kinh doanh tín dụng của NHTM làm giảm khả năng thanh toán. Bởi vì NHTM hoạt động theo nguyên tắc “đi vay để cho vay” tức là huy động vốn sau đó cho vay lấy lãi thu lợi nhuận trả lãi cho số vốn đã huy động, nhưng nợ quá hạn đã làm cho ngân hàng không thu được vốn và lãi để thực hiện điều đó. + Một NHTM mất khả năng thanh toán tạm thời sẽ làm giảm uy tín kinh doanh của ngân hàng có thể dẫn đến hiện tượng người gửi tiền đồng loạt rút tiền đẩy ngân hàng đi tới phá sản. Các khoản nợ quá hạn luôn luôn chứa đựng khả năng không thu hồi được vốn vay 1 phần hoặc toàn bộ. Ngân hàng mất vốn tức là giảm khả năng kinh doanh, giảm lợi nhuận, nếu số vốn quá lớn bước cuối cùng là phá sản. Nợ quá hạn sẽ làm giảm chất lượng tín dụng, giảm hiệu quả kinh tế xã hội. Nguyên nhân dẫn đến các khoản nợ quá hạn có nhiều, nhưng có thể xếp vào các loại nguyên nhân chủ yếu sau. Nguyên nhân từ khách hàng - Rủi ro trong công việc sản xuất kinh doanh của khách hàng. + Do sự biến động của thị trường cấp: giá nguyên liệu, thiếu nguyên liệu. - Cung vượt cầu, hàng hoá ế đọng, chất lượng sản phẩm không đáp ứng nhu cầu của khách hàng. - Khách hàng sử dụng vốn sai mục đích, gây lãng phí vốn, mất vốn, đây được gọi là rủi ro đạo đức. - Nguồn lực tài chính của doanh nghiệp, chủ dự án không lành mạnh, khả năng thanh toán kém. Các nguồn thu doanh nghiệp rất hạn chế nhưng khối lượng các khoản nợ đến hạn quá lớn. Nguyên nhân từ ngân hàng + Ngân hàng chưa thật chú trọng vào mục tiêu của các khoản vay, tính toán không chính xác hiệu quả đầu tư dự án xin vay dẫn đến các quy định sai lầm trong cho vay. + Ngân hàng đánh giá chưa đúng về các khoản vay, về người đi vay, chủ quan tin tưởng vào khách hàng quen của mình coi nhẹ khâu kiểm tra không nỗ lực kiểm tra tình hình tài chính, phi tài chính, khả năng thanh toán hiện tại, tương lai, nguồn trả nợ…. + Cán bộ tín dụng không có kinh nghiệm không am hiểu về ngành kinh doanh mà mình đang tài trợ, thiếu số liệu thống kê, cho tiêu để phân tích so sánh, đánh giá vai trò vị trí của doanh nghiệp trong ngành, khả năng thị trường hiện tại và tương lai, chu kỳ, vòng đời của sản phẩm. + Ngân hàng quá quan tâm tin tưởng vào tài sản thế chấp, bảo đảm thế chấp coi nhẹ công tác phòng ngừa rủi ro, kiểm tra giám sát, đối với dự án xin vay, không nắm vững tình hình sử dụng vốn vay, không có các biện pháp xử lý ngăn chặn kịp thời khi có dấu hiệu xấu của khoản vay. - Quá dựa vào dự án đầu tư, vào khoản cho vay và chạy theo số lượng cho vay, cho vay càng nhiều càng tốt, chú trọng không đúng mức đến chất lượng tín dụng. - Cán bộ tín dụng không bao quát hết các điểm yếu về mặt pháp lý hoặc các sai sót khách quan chủ quan khác, trong hồ sơ chứng từ xin vay của doanh nghiệp. - Thiếu thông tin tín dụng, thông tin tín dụng không chính xác, kịp thời, chưa có “danh sách phân loại doanh nghiệp”, chưa đánh giá doanh nghiệp một cách đúng đắn. - Ngân hàng thiếu một cơ cấu theo dõi, quản lý rủi ro. Các nguyên nhân khác a. Rủi ro do hoàn cảnh kinh tế xã hội trong nước - Nếu nền kinh tế trong nước đang ở tình trạng suy thoái, sản xuất bị đình đốn, thu nhập của mỗi thành viên trong xã hội bị giảm, ảnh hưởng tới khả năng trả nợ ngân hàng hoàn thiện nhiều biến động khác, lạm phát thiên nhiên, thiên tai, dịch hoạ. b. Nhân tố chính sách Những thay đổi về chính trị, chính sách, chế độ, luật pháp, những thay đổi đó có ảnh hưởng không ít nhiều tới quan hệ tín dụng giữa ngân hàng và khách hàng. Vì vậy qua phần chúng ta phân tích, nếu một ngân hàng thiếu một chính sách cho vay rõ ràng, không phù hợp với đặc điểm thực trạng kinh tế bao gồm định hướng chung trong việc cho vay, chế độ tín dụng ngắn hạn, đúng hạn, dài hạnm các quy định về đảm bảo cho vay, về loại khách hàng mà ngân hàng quan tâm… sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới chất lượng tín dụng, giảm khả năng nâng cao hiệu quả kinh tế – xã hội của tín dụng. Trong chính sách cho vay của ngân hàng thì đối tượng mà ngân hàng cần phải quan tâm nhiều nhất là khách hàng. 3.3. Khách hàng Khi cấp tín dụng, ngân hàng cần phải hiểu rõ khách hàng, vì khách hàng là người chịu trách nhiệm về hiệu quả của vốn vay, tạo ra giá trị thặng dư mới từ vốn vay. Hiểu rõ khách hàng là bước tạo lập cơ sở ban đầu để cho ngân hàng làm căn cứ đưa ra các quyết định trong cho vay. Để phân tích đánh giá khách hàng, ngân hàng cần phải dựa vào: +Tài liệu thuyết minh về việc vay vốn: kế hoạch hoặc phương pháp sản xuất kinh doanh, giấy phép xuất nhập khẩu hàng hoá. + Các tài liệu kế toán để đánh giá khả năng tài chính của khách hàng, bảng tổng kết tài sản, bản thuyết minh về tình hình công nợ, bản giải trình về kết quả kinh doanh, bản phân tích chi tiết lỗ lãi. +Các tài liệu liên quan đến đảm bảo tín dụng. - Ngoài ra còn nhiều thông tin khác: như phỏng vấn trực tiếp người vay, thông tin qua hồ sơ lưu trữ về người vay tại ngân hàng. Thông tin qua các doanh nghiệp có quan hệ kinh tế với người vay, thông tin của trung tâm CIC… Các ngân hàng thường đưa ra các tiêu chuẩn để xem xét như tiêu chuẩn 5C Capacity: Năng lực hoạt động Capital: Vốn Charater: Đặc điểm (đặc tính) Coditions: Điều kiện Collatral: Vật chất thế chấp. Tiêu chuẩn 5p Purpose: Mục đích Payment: Trả nợ Protection: Bảo vệ Policy: chính sách Price: Giá cả Và các NHTM thường đánh giá trên các mặt chủ yếu sau. 3.3.1. Năng lực pháp lý của khách hàng. Giả sử một tổ chức hay một doanh nghiệp muốn vay vốn thì tổ chức, doanh nghiệp đó phải có tư cách pháp nhân hoặc có đăng ký kinh doanh mới được phép ký hợp đồng kinh tế, cũng như là hợp đồng tín dụng. Ngân hàng thường đòi hỏi khách hàng cung cấp cho ngân hàng các tài liệu: + Quyết định thành lập doanh nghiệp. + Giấy phép kinh doanh do cấp thẩm quyền cấp. + Quyết định tổ chức. Và một số giấy tờ khác. Còn đối với một cá nhân là những người có đủ năng lực pháp lý và năng lực hành vi, có hộ khẩu nhưng thường trú trên cùng địa bànvới ngân hàng cho vay. 3.3.2. Uy tín người vay vốn. Đối với một khách hàng cũ thì ngân hàng đã nắm được 1 lượng lớn thông tin về tính trung thực các nguồn tài chính và và năng lực của khách hàng, thông tin về tính nghiêm túc trong trả nợ, tính ổn định trong sản xuất kinh doanh. Còn đối với một khách hàng mới, phụ thuộc vào nhiều vào sự giới thiệu, vào các doanh nghiệp khác quan hệ với doanh nghiệp. 3.3.3. Tình hình tài chính của doanh nghiệp. Khách hàng có tiềm lực tài chính mạnh là cơ sở quan trọng đảm bảo tính tự chủ, chủ động trong hoạt động kinh doanh đảm bảo khả năng cạnh tranh trên thị trường, đảm bảo khả năng hoàn trả các khoản nợ trong tương lai. Đây là căn cứ quan trọng để ngân hàng quyết định có cho vay hay không? Cho vay bao nhiêu?. Để đánh giá tình hình tài chính của khách hàng, các ngân hàng sử dụng các “tỷ lệ tài chính” Phân tích tỷ lệ tài chính là một trong nhiều phương pháp có thể sử dụng hỗ trợ cho công tác phân tích và tìm hiểu các báo cáo tài chính của khách hàng trong đánh giá tín dụng. Khi đánh giá các chỉ tiêu ngân hàng phải so sánh kỳ này với kỳ trước, so sánh số thực tế với kế hoạch để thấy mức độ phát triển của doanh nghiệp. So sánh các tiêu chuẩn chung cũng như tiêu chuẩn riêng của ngành để đánh gía doanh nghiệp trong mối quan hệ với các doanh nghiệp khác, trên cơ sở đó đánh giá chính xác tình hình tài chính và xu hướng phát triển của doanh nghiệp tạo điều kiện lựa chọn chính xác đối tượng đầu tư. Bản chất của tín dụng là tính hoàn trả, chúng ra không nên xây dựng một hệ thống chỉ tiêu lựa chọn quá chi tiết làm xa rời bản chất khi tìm khách hàng đủ điều kiện để cho vay. Trong kinh doanh ngân hàng, việc khách hàng không trả được nợ có nguyên nhân quan trọng là ngân hàng đã có quyết định cho vay sai lầm vì không nắm được tình hình kinh doanh của khách hàng, khả năng tài chính, quản trị và các sự kiện có liên quan đến tương lai của khách hàng. Để cạnh tranh trong kinh doanh ngân hàng cần phải nắm bắt chính xác, kịp thời nhu cầu của khách hàng để đáp ứng, có thể giúp khách hàng nắm những cơ hội kinh doanh. Nhân tố thứ ba ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng là môi trường vĩ mô. 3.4. Môi trường vĩ mô - Môi trường kinh tế không ổn định sẽ gây cản trở cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, giảm hiệu quả sử dụng vốn vay ngân hàng dẫn đến khó khăn cho các doanh nghiệp trong việc trả nợ ngân hàng. - Những quy định chính sách của ngân hàng nhà nước có tính quyết định trong định hướng kinh doanh tín dụng của hệ thống NHTM. Môi trường pháp lý cho hoạt động tín dụng của ngân hàng nói riêng và cho hoạt động của các doanh nghiệp trong nền kinh tế nói chung là một nhan tố quan trọng. Hệ thống pháp luật quốc gia với các bộ luật, văn bản dưới luật chưa được đầy đủ sẽ không đảm bảo môi trường cạnh tranh lành mạnh cho các hoạt động kinh tế gây nên những rủi ro trong sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, ảnh hưởng tới khả năng trả nợ ngân hàng của doanh nghiệp. - ảnh hưởng của chu kỳ kinh tế, lạm phát giảm … nếu khi cấp tín dụng vào thời điểm “đỉnh” của chu kỳ kinh tế, được đảm bảo bằng tài sản thế chấp, cầm cố khi bắt buộc phải phát mãi để thu hồi nợ ngân hàng sẽ bị thua lỗ. Sự sụp đổ của thị trường tài sản làm các ngân hàng Nhật Bản, Hàn Quốc và các nước Đông Nam á đều ngập trong các khoản cho vay khó đòi hoặc các vụ EPCO, Minh Phụng ở Việt Nam là những ví dụ điển hình. - Ngân hàng nhà nước tác động đến hoạt động kinh doanh của hệ thống NHTM bằng việc quy định : +Tỷ lệ dự trữ bắt buộc nhằm làm tăng giảm lượng vốn khả dụng. +Trần lãi suất. +Tỉ lệ trích lập quỹ dự phòng rủi ro. Hành lang pháp lý cũng như việc kiểm soát hoạt động tín dụng chưa đồng bộ, tạo ra nhiều khe hở, tạo điều kiện cho việc cấp tín dụng sai nguyên tắc, tổn thất của cải vật chất của nhân dân. Chương ii: thực trạng hoạt động tín dụng của các nhtm ở Việt Nam. Các giải pháp để nâng cao chất lượng tín dụng của các ngân hàng thương mại ở Việt Nam i. thực trạng hoạt động tín ngân hàng của các nhtm ở Việt Nam. Năm 2000 sự thay đổi cơ cấu thu nhập là đặc điểm nổi bật của các ngân hàng thương mại nhất là đối với những ngân hàng có quy mô lớn, những ngân hàng thương mại hoạt động chủ yếu ở đô thị. Tỷ trọng doanh thu từ hoạt động tín dụng giảm xuống thu từ dịch vụ và các nghiệp vụ khác tăng lên. Cụ thể từ các nguồn sau: - Thu từ nghiệp vụ tiền gửi tập trung là chênh lệch từ trả lãi cho nhận tiền gửi USD ở trong nước, với thu lãi từ tiền gửi USD ở nước ngoài. Nếu lãi suất tiền gửi USD kỳ hạn 12 tháng ở các NHTM từ 5,2%-5.5% và 5,8% năm thì lãi suất tiền gửi USD trên thị trường Mỹ cùng kỳ hạn lên tới 6,5%. - Thu từ nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ. Nhìn vào diễn biến tỷ giá trong năm thì liên tục tăng lên rất ít khi giảm. Mua một lượng ngoại tệ tuần này thì tuần sau đã khác. Bên cạnh đó lượng ngoại tệ mua được tăng lên nhờ vào kim ngạch xuất khẩu tăng nhanh. Chỉ trong 11 tháng riêng kim ngạch đã tăng 25% so với cùng kỳ hạn năm trước. - Thu từ dịch vụ thanh toán bao gồm kể cả chiết khấu bộ chứng từ L/C kể cả thanh toán trong nước. - Thu từ đầu tư vào giấy tờ có giá; tín phiếu NHTM, tín phiếu kho bạc, trái phiếu chính phủ… Với tổng khối lượng vốn đầu tư khoảng 1500 tỷ đồng tín phiếu NHTM và 5000 tỷ đồng tín phiếu kho bạc nhà nước. Mặc dù có xu hướng tăng nguồn thu từ dịch vụ và các hoạt động vẫn chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng doanh thu của NHTM, nhất là các NHTM cổ phần nông thôn và các NHTM có hoạt động chủ yếu ở nông thôn. Cơ chế điều hành theo lãi suất cơ bản từ đầu tháng 8/2000 của NHNN đã thúc đẩy mạnh mẽ hoạt động cạnh tranh về lãi suất, đáp ứng yêu cầu cạnh tranh trong lĩnh vực tín dụng giữa các ngân hàng thương mại. Những NHTM lớn địa bàn hoạt động chủ yếu ở đó thì thuận lợi về huy động vốn nhất là huy động tiền gửi không kỳ hạn và tiền gửi thanh toán có lợi thế rõ rệt. Bởi thế mạnh đó cũng đi kèm với thu hút các khách hàng là các DNNN, tổng công ty 90-91 các dự án lớn, lãi suất cho vay nội tệ của các NHTM này bằng với lãi suất huy động vốn của NHTM. Một số NHTM quốc doanh cho các khách hàng lớn vay với lãi suất chỉ có 0,62%-0,65% tháng thậm chí có lức dưới 0,6% tháng trong khi đó lãi suất huy động vốn của một số NHTM cổ phần có kỳ hạn từ 12 tháng đến 24 tháng lên tới 0,6%-0,62% tháng. Cuộc cạnh tranh này tiếp tục đẩy các NHTM quy mô nhỏ càng đến chỗ khó khăn hơn. Đồng thời mức độ chênh lệch lãi suất cho vay giữa đối tượng này chỉ bằng 50% lãi suất cho vay của đối tượng khác. Nếu các tổng công ty lớn của nhà nước chỉ phải vay với lãi suất 0,62%-0,65% tháng tại các NHTM quốc doanh thì hộ nông dân là thành viên phải vay vốn của QTDND với lãi suất là 1,2% -1,25%. Đây chính là những hộ gia đình khó khăn chưa có điều kiện vay vốn của ngân hàng thương mại quốc doanh, họ phải chịu thiệt thòi trước cơ chế lãi suất mới trước đây khoảng cách chênh lệch này chỉ khoảng 30-35%. Tín dụng ngân hàng luôn luôn gắn liền với môi trường của nền kinh tế với các lĩnh vực kinh tế. Năm 2000 nền kinh tế nước ta tăng trưởng khá, tiêu biểu là hoạt động xuất nhập khẩu, có nguyên nhân quan trọng từ các giải pháp tiền tệ tín dụng an toàn. Đặc biệt là tăng trưởng cho các kim ngạch xuất khẩu, các mặt hàng rau quả, thuỷ sản, hạt điều, cao su… riêng mặt hàng thuỷ sản đạt mức 1,45 triệu USD. Đây là thuận lợi cho vốn tín dụng của các NHTM đầu tư trong các khâu sản xuất thu mua, chế biến, xuất khẩu… các ngành trước đây có các sản phẩm bị tồn đọng khó tiêu thụ, giá bán thấp, hoạt động thua lỗ, nợ đọng vốn ngân hàng với khối lượng lớn phải giãn nợ, điều chỉnh kỳ hạn nợ như: xi măng lò đứng, mía đường, gạch tráng men, cao su… thì nay giá bán đã cải thiện tình hình tiêu thụ khả quan. Tiền vốn vay và lãi treo đã thu hồi được song lại xuất hiện những khó khăn mới. Hàng dệt may, giày da… trước đây có kim ngạch xuất khẩu tăng trưởng khá, nhưng năm 2000 không đạt kế hoạch thậm chí còn giảm hoặc diễn biến không ổn định trong năm, làm ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả thực hiện các hợp đồng tín dụng. Các lĩnh vực có kim ngạch xuất khẩu lớn thường tăng trưởng cao: gạo, cà phê… thì năm nay hết sức khó khăn, kim ngạch giảm, giá xuất khẩu giảm, hàng tồn đọng . Vốn tín dụng cho vay cũng phải giãn nợ, điều chỉnh kỳ hạn nợ, khoản vốn cho vay cũ chưa thu được lên phải cho vay mới để thu mua. Đặc biệt sau khi chính phủ quyết định hỗ trợ lãi suất vốn vay ngân hàng cho tạm trữ 60.000 tấn cà phê nhân, thì giá thu mua lại tiếp tục giảm từ 7500-8000 đồng/kg cà phê nhân xuống còn 5.500-6000 đ/kg có thời điểm xuống còn 5000 đồng/kg. Giá cà phê cuối mỗi vụ có được cái thiện hay không? Nhưng lượng cà phê tạm trữ tồn kho của năm nay công việc với sản lượng cà phê thu hoạch của niên vụ sẽ làm cho nguồn cà phê cho thị trường tăng gấp bội. Tình hình này sẽ gây lo lắng hơn cho số vốn tín dụng 4000-5000 tỷ đồng đầu tư cho các lĩnh vực liên quan trực tiếp đến cà phê. ở Đồng bằng sông cửu long thị trường vốn tín dụng nông thôn lớn nhất cả nước, số vốn phải khoanh nợ, giãn nợ do đợt lũ lụt năm nay lên tới gần 1000 tỷ đồng, đó là chưa kể đến số vốn tín dụng phải xử lý của chương trình cho vay tân nền nhà và làm nhà trên cọc, cho vay thu mua lúa gạo, cho vay đánh bắt cá xa bờ. Năm 2000 lĩnh vực xuất khẩu gạo gặp nhiều khó khăn, giá hạ, thị trường thu hẹp, kể cả sản lượng và kim ngạch xuất khẩu gạo đều giảm. Mà theo tính quy luật, cứ sau một đợt lũ lụt, được phù sa bồi đắp thì vụ tới cây lúa ở Đồng bằng sông Cửu Long sẽ phát triển tốt hơn, cho năng suất và sản lượng cây lương thực cao hơn, vì vậy với sản lượng lúa gạo tồn kho và tạm trữ vụ trước làm tăng cung về lúa gạo xuất khẩu, gây áp lực lớn về thị trường. Tình hình này sẽ gây áp lực lớn lên chất lượng tín dụng ngân hàng. Ước tính đến hết tháng 12/2000, dư nợ tín dụng của hệ thống ngân hàng đối với nền kinh tế tăng 21% so với cuối năm 1999 (đến hết tháng 10/2000 tăng 18,8%, tăng đáng kể so với mức tăng 19,1% của năm 1999; 16,4% năm 1998). Đồng thời ước tính tỷ lệ nợ quá hạn chỉ ở mức 11,7% giảm gần 1,28% so với 13,5% năm 1999. Song tổng số vốn bị nợ qua hạn thì tăng lên, bên cạnh đó xuất hiện một loạt khoản nợ khoanh mới không thể xuất hiện trong tỷ lệ nợ quá hạn. Các khoản nợ này tập trung ở vùng lũ lụt đồng bằng sông Cửu Long ở vùng miền trung ở các doanh nghiệp xuất khẩu gạo, xuất khẩu cà phê. Số tài sản thế chấp đóng băng ngày càng xuống cấp một giá, khó xử lý. Môi trường vĩ mô cho hoạt động tín dụng ngân hàng dần dần đi vào ổn định, rõ ràng an toàn hơn. - Các doanh nghiệp nhà nước được sắp xếp lại. Một số doanh nghiệp được cổ phần hoá, nhiều doanh nghiệp đã khẳng định được hiệu quả của mình nhất là các Tổng công ty 90-91. - Luật doanh nghiệp mới ban hành có hiệu lực thi hành từ 1/1/2000. Đã thúc đẩy các doanh nghiệp được thành lập mới, tập trung ở các thành phố lớn Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh. - Các hộ gia đình sản xuất ở nông thôn đang định hình rõ nét. Ngành chức năng đã ban hành tiên chí cụ thể xếp loại trang trại từ đó có các quy chế cụ thể về hoạt động tín dụng thực hiện với họ. Tuy vậy việc giúp đỡ cho người nghèo vay vốn còn chậm được thực hiện, còn nhiều vướng mắc cần được tháo gỡ. Môi trường pháp lý cho hoạt động tín dụng được hoàn thiện đầy đủ rõ ràng, chặt chẽ và phù hợp với thông lệ quốc tế hơn. NHNN đã chỉnh sửa, bổ sung ban hành mới một loạt quyết định, thông tư phù hợp với cơ chế hiện nay, những vướng mắc sơ hở, chồng chéo của cơ chế cũ được tháo gỡ, bãi bỏ làm cho hoạt động tín dụng được thuận lợi hơn, tăng tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm cho các tổ chức tín dụng. Những văn bản pháp lý quan trọng được tập trung ban hành trong thời gian qua, tập trung trong 6 tháng đầu năm bao gồm. - Quyết định số 266/2000 ngày 18/8/2000 về việc cho vay không có tài sản bảo đảm đối với NHTM cổ phần, công ty tài chính cổ phần và ngân hàng liên doanh. - Quyết định số 283/2000 ngày 25/8/2000 ban hành quy chế bảo lãnh ngân hàng. - Quyết định số 284/2000 ngày 25/8/2000 ban hành quy chế cho vay của TCTD đối với khách hàng. Thông tư số 06/2000 ngày 4/4/2000 và thông tư số 10/2000 ngày 31/8/2000 hướng dẫn thực hiện bảo đảm tiền vay của TCTD. Quyết định số 418/2000 ngày 21/9/2000 về đối tượng cho vay bằng ngoại tệ. Và nhiều quyết định khác, với nhiều nỗ lực, bằng nhiều quyết định, văn bản tháo gỡ nói trên cộng với điều kiện nhu cầu khách quan về vốn của nền kinh tế, hoạt động tín dụng được mở rộng nhanh chóng trong các tháng cuối năm. Nếu như đến hết quý I/2000 dư nợ cho vay của ngân hàng mới tăng 3,84% so với 31/12/1999 thì đến hết quý II đã tăng 11,% hết quý III tăng 14,8% hết tháng 10 tăng 18,8% và dự kiến hết năm 2000 tăng 21% so với cuối năm 1999. Tuy nhiên, tính rủi ro đối với hoạt động tín dụng cũng có xu hướng tăng lên, các TCTD phải tự chịu trách nhiệm về những rủi ro trong cho vay. Đặc biệt là có thể gia tăng rủi ro về đạo đức do chính các cán bộ tín dụng trong việc thực hiện các thể lệ chế độ gây ra, dư nợ tiếp tục tăng nhanh, trong khi số lượng cán bộ tín dụng hầu như không tăng, điều kiện giao thông ở nông thôn không được cải thiện, làm tăng áp lực đối với các cán bộ tín dụng, làm tăng rủi ro trong tín dụng. Cơ chế điều hành lãi suất mới, trong điều kiện môi trường pháp lý mới, hoạt động của TCTD sôi động hơn, cũng làm tăng nguy cơ hạ thấp tiêu chuẩn đánh giá tín dụng, tăng tính rủi ro trong lĩnh vực này. ii. Các giải pháp chính để nâng cao chất lượng tín dụng ngân hàng ở Việt Nam. 1. Phân tích đánh giá nắm chắc khách hàng Phải xây dựng chiến lược khách hàng đúng đắn, ngân hàng và khách hàng luôn gắn bó với nhau, mối quan hệ này luôn tồn tại khách quan luôn bổ sung và tạo điều kiện cho nhau cùng phát triển. Cần thiết phải đánh giá cho khách hàng truyền thống và khách hàng uy tín. Khách hàng truyền thống là khách hàng với ngân hàng theo thời gian và nội dung hoạt động : có cả quá trình lịch sử, hiện tại và tương lai, gắn liền với ngân hàng từ những đầu và đến nay vẫn phát triển tốt. Đối với khách hàng có uy tín có thể vừa là khách hàng truyền thống, điều dễ nhận thấy ở các doanh nghiệp này đều là doanh nghiệp thực hiện tốt chính sách của Đảng và nhà nước, vay mượn và trả nợ sòng phẳng, có trách nhiệm với đồng vốn, sử dụng vốn có hiệu quả, chi tiêu đúng chế độ, kinh doanh có lãi. Đối với những khách hàng này, khi xây dựng chiến lược ngân hàng phải hết sức quan tâm, gắn hoạt động ngân hàng với hoạt động khách hàng, thẩm định và đầu tư kịp thời các dự án có hiệu quả. Cần xây dựng trong lòng các khách hàng này hình ảnh ngân hàng luôn gần gữi và hỗ trợ kịp thời để sản xuất nhiều sản phẩm có chất lượng cao cho xã hội. Có chính sách lãi suất hợp lý ưu đãi và mở rộng thị trường, thị phần thông qua hoạt động ngân hàng. - Phải xây dựng mối quan hệ tốt giữa ngân hàng và doanh nghiệp như người bạn đồng hành, có quan hệ gắn bó và tác động qua lại. Sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp là sự tồn tại và phát triển của ngân hàng và ngược lại có thể có thể nói trong bối cảnh hiện nay hoạt động ngân hàng ngày càng khó, chênh lệch giữa lãi suất cho vay và huy động chỉ dao động trong khoảng từ 0,15%-0,2% thàng, do vậy ngoài hoạt động tín dụng cần cung cấp các dịch vụ cho khách hàng với mức phí dễ chấp nhận vào những định kỳ 6 tháng, mang tính truyền thống, gắn bó trên cơ sở đó đi sâu sát tìm hiểu hoạt động của doanh nghiệp, tạo điều kiện cho việc cung ứng vốn sát, đúng. Làm tốt việc này sẽ giúp giảm thấp tỷ lệ nợ quá hạn. Vốn tín dụng tăng trưởng và nền kinh tế sẽ tăng trưởng bền vững. Từ mối quan hệ tốt này thì sẽ có sự hiểu biệt lẫn nhau, thông cảm và ý thức chấp hành các quy định của pháp luật của cả 2 phía sẽ là cơ sở để nâng cao chất lượng tín dụng. -Nên đặt phương án dự phòng trả nợ vay ngân hàng của người vay. Sự chủ động này có tác dụng rất lớn để ngăn chặn những rủi ro có thể xảy ra, cũng cần phải đa dạng khách hàng phân tán rủi ro không nên quá tập trung vào một số đối tượng khách hàng một số ngành nghề. 2. Cải tiến hoạt động của ngân hàng phù với cơ chế mới. Trong nền kinh tế thị trường sự tồn tại và phát triển năng lực tài chính và khả năng cạnh tranh của chính ngân hàng đó. Các ngân hàng có thể đứng vững trên thị trường có nhiều biến động song cũng có thế chấp nhận phá sản bởi sự yếu kém trong kinh doanh. Nhưng dù ở gốc độ nào thì trách nhiệm ngân hàng đối với vốn vay là rất lớn, bởi hoạt động của ngân hàng có nhiều ảnh hưởng đến đời sống kinh tế -xã hội của một quốc gia. Do vậy ngân hàng cần phải chủ động với các quyết định cho vay. Phải xây dựng một đội ngũ cán bộ ngân hàng tinh thông về nghiệp vụ, hiểu biết pháp luật và đạo đức trong kinh doanh. Yếu tố con người luôn là yếu tố chủ đạo của mọi hoạt động vì con người là chủ thể. NHTM cần những cán bộ chuyên môn sâu sắc, phải có đạo đức để làm chủ bản thân trong xử lý nghiệp vụ, không làm phương hại đến quyền lợi chung. Xây dựng một đội ngũ công chức viên đúng tiêu chuẩn, hiểu biết pháp luật và làm đúng pháp luật nhờ sự năng động, kinh doanh của những cán bộ này mới có thể nâng cao chất lượng tín dụng. Cũng cần tăng cương hoạt động kiểm soát nội bộ đảm bảo chặt chẽ việc thực hiện thuế và quy trình tín dụng, cần thiết tổ chức kiểm tra chéo về địa bàn cán bộ tín dụng phụ trách. Nâng cao chất lượng công tác thông tin khi quyết định cho vay thì ngân hàng phải nắm được thông tin về khách hàng vì vậy chất lượng thông tin là rất quan trọng. Phải nắm bắt thời cơ, thời điểm mở rộng tín dụng, mở rộng tín dụng phải đi đôi đảm bảo chất lượng tín dụng. Không ngừng nâng cao hệ thống kiểm soát nội bộ của mình, thường xuyên tổ chức phân loại khách hàng, có những biện pháp thu hồi nợ sớm trong những trường hợp bất thường. Mọi sự cố gắng của ngân hàng cần có sự giúp đỡ của nhà nước để tạo ra: 3. Môi trường vĩ mô ổn định góp phần đảm bảo hiệu quả vốn tín dụng ngân hàng cấp cho nền kinh tế. - Hiệu quả và sức cạnh tranh của 1 nền kinh tế được biểu hiện bởi hiệu quả và sức cạnh tranh của các doanh nghiệp trong nền kinh tế đó. Do vậy để tăng sự hấp thụ vốn của các doanh nghiệp thì Chính phủ cần có các biện pháp hỗ trợ thích hợp như hỗ trợ đầu tư đổi mới công nghệ, tăng năng suất để nâng cao sức cạnh tranh và tự đổi mới chính mình. Bộ tài chính cần cấp đủ vốn cho DNNN, có như vậy các doanh nghiệp mới vượt qua khó khăn và vượt lên doanh nghiệp có lành mạnh thì nền kinh tế mới vững chắc và phát triển, hoạt động kinh doanh ngân hàng tất yếu sẽ nâng cao chất lượng tín dụng. Ngân hàng hoạt động rất cần một môi trường pháp lý hoàn chỉnh. NHNN cần sớm tổng kết sau một thời gian điều hành theo lãi suất cơ bản, Chính phủ xem xét, có chủ trương chỉ đạo các Bộ ngành hữu quan, tiến hành đánh giá, tổng kết các chương trình hỗ trợ lãi suất vốn vay ngân hàng của ngân sách nhà nước đối với các DNNN thu mua nông sản xuất khẩu. Bởi vì mục tiêu là hỗ trợ người sản xuất không bị thua lỗ, không bị thiệt hại, giữ lại diện tích cây công nghiệp. Kết luận Tín dụng là nghiệp vụ gặp nhiều rủi ro nhất nhưng cũng là nghiệp vụ mang lại lợi nhuận chiếm tỷ trọng lớn nhất trong doanh thu của ngân hàng thương mại. Hoạt động tín dụng không chỉ đem lại lợi nhuận của ngân hàng, mànó còn ảnh hưởng bởi sự phát triển của kinh tế – xã hội, là động lực của sự phát triển kinh tế. Chất lượng tín dụng là mối quan tâm của mọi ngân hàng, mọi nền kinh tế. Nâng cao chất lượng tín dụng tức là đã góp phần nâng cao thúc đẩy điều kiện kinh tế xã hội tiến bộ làm tăng thu nhập cho người lao động, thúc đẩy dân giàu nước mạnh. Bước sang nền kinh tế thị trường nền kinh tế còn gặp nhiều khó khăn và hoạt động ngân hàng trong lĩnh vực kinh doanh tiền tệ không thể không có những vướng mắc. Nhưng để nền kinh tế tăng trưởng thì không thể không mở rộng tín dụng đầu tư. Khi được tháo gỡ khó khăn vướng mắc NHTM hoạt động thuận lợi sẽ kích thích các doanh nghiệp phát triển và thực hiện tăng trưởng kinh tế. NHTM sẽ đặt được hiệu quả hoạt động tín dụng cao nhấ. Hiệu quả kinh doanh của hệ thống NHTM sẽ là sự tăng trưởng hoặc suy thoái mỗi nền kinh tế quốc gia. Đề án này chỉ đề cập đến 1 phần rất nhỏ về chất lượng tín dụng và còn nhiều thiếu sót vì vậy xin được cô giáo giúp đỡ để những bài viết sau được tốt hơn.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc29354.doc
Tài liệu liên quan