Hiện tại, theo hạch toán trên báo cáo tài chính thì Saigonbank chia các khoản cho vay của mình thành dư nợ cho vay đối với các tổ chức tín dụng khác và cho vay các tổ chức kinh tế, cá nhân. Trong đó, cho vay đối với các tổ chức kinh tế và các cá nhân chiếm tỷ trọng chính trong tổng dư nợ cho vay, năm 2005 đạt 99,46% tổng dư nợ, năm 2006 là 99,75% và năm 2007 là 99,82%. Điều này cho thấy cho vay với các tổ chức kinh tế, cá nhân là hoạt động cho vay chính của Saigonbank, không chỉ bởi tỷ trọng lớn mà nó còn đem lại hiệu quả cao nhất cho ngân hàng do mức chênh lệch lãi suất đầu vào, đầu ra lớn. Tuy nhiên, hoạt động cho vay này cũng chứa đựng rủi ro cao hơn các khoản cho vay đối với các tổ chức tín dụng khác.
34 trang |
Chia sẻ: Dung Lona | Lượt xem: 1126 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng hoạt động tín dụng tại Ngân hàng thương mại cổ phần Sài gòn Công thương, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
là mở rộng mạng lưới chi nhánh và tăng trưởng mang tính tiến công nhằm giữ vững tốc độ phát triển tránh tụt hậu so với các ngân hàng thương mại cổ phần hàng đầu tại Việt Nam.
Tuy tỷ trọng dư nợ trong tổng tài sản có giảm dần trong thời gian qua nhưng còn khá lớn, thường trên 70 % tổng tài sản. Tỷ trọng dư nợ giảm cho thấy Saigonbank cũng đã đa dạng hóa hoạt động đầu tư của mình, phân tán rủi ro để đảm bảo hoạt động kinh doanh an toàn hiệu quả.
1.2.3 Cơ cấu cho vay theo các tiêu thức
Theo đối tượng cho vay
Hiện tại, theo hạch toán trên báo cáo tài chính thì Saigonbank chia các khoản cho vay của mình thành dư nợ cho vay đối với các tổ chức tín dụng khác và cho vay các tổ chức kinh tế, cá nhân. Trong đó, cho vay đối với các tổ chức kinh tế và các cá nhân chiếm tỷ trọng chính trong tổng dư nợ cho vay, năm 2005 đạt 99,46% tổng dư nợ, năm 2006 là 99,75% và năm 2007 là 99,82%. Điều này cho thấy cho vay với các tổ chức kinh tế, cá nhân là hoạt động cho vay chính của Saigonbank, không chỉ bởi tỷ trọng lớn mà nó còn đem lại hiệu quả cao nhất cho ngân hàng do mức chênh lệch lãi suất đầu vào, đầu ra lớn. Tuy nhiên, hoạt động cho vay này cũng chứa đựng rủi ro cao hơn các khoản cho vay đối với các tổ chức tín dụng khác.
Bảng 1.2: Tình hình dư nợ theo đối tượng cho vay tại Saigonbank
Đơn vị: triệu đồng
Chỉ tiêu
Năm 2005
Năm 2006
Năm 2007
Cho vay tổ chức KT, cá nhân
3.554.779
4.852.177
7.363.558
Cho vay tổ chức tín dụng khác
19.364
12.172
13.100
Cộng
3.574.143
4.864.349
7.376.658
Nguồn: Báo cáo hoạt động tín dụng Saigonbank năm 2005,2006,2007
Theo thời gian
Phân tích cơ cấu tín dụng của Saigonbank theo thời gian cho thấy, dư nợ tín dụng ngắn hạn chiếm phần lớn tổng dư nợ cho vay. Dư nợ ngắn hạn thường chiếm trên 70% tổng dư nợ, cho thấy Saigonbank chủ yếu tập trung cho vay các nhu cầu vốn lưu động phục vụ sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, hộ kinh doanh còn hạn chế cho vay các nhu cầu trung dài hạn để mở rộng, nâng cao năng lực sản xuất hay đầu tư tài sản cố định. Chính sách cho vay này đảm bảo an toàn vốn cho Saigonbank vì thường các khoản cho vay ngắn hạn thường có rủi ro thấp hơn so với các khoản đầu tư trung dài hạn, nhất là trong tình hình biến động kinh tế nhiều như hiện nay, trình độ quản lý kinh doanh trong thời gian trung dài hạn của các doanh nghiệp còn chưa tốt, khả năng rủi ro còn nhiều.
Bảng 1.3: Tình hình dư nợ theo thời gian tại Saigonbank
Đơn vị: tỷ đồng
Chỉ tiêu
Năm 2005
Năm 2006
Năm 2007
Tổng dư nợ
3.574
4.864
7.377
Dư nợ ngắn hạn
2.541
3.409
5.326
Dư nợ trung, dài hạn
1.033
1.455
2.051
Nguồn: Báo cáo hoạt động tín dụng Saigonbank năm 2005,2006,2007
Theo Loại hình kinh tế
Với định hướng phát triển kinh doanh là tập trung vào các doanh nghiệp vừa và nhỏ thuộc thành phần kinh tế ngoài quốc doanh, và các hộ kinh doanh cá thể, cá nhân. Dư nợ tín dụng tại Saigonbank đã phản ảnh rõ nét định hướng kinh doanh này, dư nợ cho vay đối với khối kinh tế ngoài quốc doanh luôn chiếm trên 98% tổng dư nợ cho vay. Chiến lược kinh doanh này khá phù hợp với tiềm năng trung bình của Saigonbank cũng như đảm bảo an toàn vốn cho ngân hàng vì phần lớn các khoản tín dụng đối với khối khách hàng ngoài quốc doanh đều có tài sản bảo đảm còn khối doanh nghiệp nhà nước thì thường bằng tín chấp, hoạt động của khối nhà nước cũng kém năng động hơn, hiệu quả hoạt động không cao. Về cơ cấu thì trong thời gian gần đây Saigonbank đã dần chuyển dịch cơ cấu cho vay hướng tới các doanh nghiệp nhiều hơn thể hiện ở tỷ lệ cho vay kinh tế cá thể giảm dần trong tổng dư nợ, còn khối Công ty cổ phần và TNHH và doanh nghiệp tư nhân tăng dần qua các năm. Năm 2005 dư nợ khối cá nhân là 28,65% tổng dư nợ thì năm 2006 còn 21,9% và năm 2007 là 20,58%.
Bảng 1.4: Tình hình dư nợ theo loại hình kinh tế tại Saigonbank
Đơn vị: tỷ đồng
Chỉ tiêu
Năm 2005
Năm 2006
Năm 2007
Tổng dư nợ
3.574
4.864
7.377
Doanh nghiệp nhà nước
54
80
130
Công ty TNHH
1.489
1.925
2.639
Công ty Cổ phần
787
1.404
2.440
Doanh nghiệp tư nhân
221
390
649
Kinh tế cá thể
1.024
1.065
1.518
Nguồn: Báo cáo hoạt động tín dụng Saigonbank năm 2005,2006,2007
Theo Ngành kinh tế
Qua phân tích cơ cấu dư nợ cho vay tại Saigonbank cho thấy, hoạt động cho vay các ngành thương mại, dịch vụ chiếm tỷ trọng khá lớn, khoảng 60% tổng dư nợ. Và tỷ trọng này có xu hướng tăng trong 3 năm gần đây cho thấy chính sách cho vay của Saigonbank là khá thận trọng vì cho vay đối với các doanh nghiệp này có độ rủi ro không cao vì vòng quay vốn ngắn, sản phẩm thay đổi thường xuyên với nhu cầu thị trường nên khả năng tiêu thụ sẽ tốt hơn. Sau ngành thương mại dịch vụ thì Saigonbank cũng đang chú trọng tới ngành vận tải kho bãi, thông tin liên lạc và cho vay phục vụ cá nhân, cộng đồng. Với vận tải kho bãi và thông tin liên lạc, đây là lĩnh vực có tiềm năng phát triển rất tốt vì nước ta có bờ biển dài, có lợi thế cho trung chuyển hàng hóa trong khu vực Đông Nam Á nên lượng hàng hóa qua các cảng của Việt Nam ngày càng tăng tạo thuận lợi cho ngành vận tải kho bãi phát triển. Đối với lĩnh vực hoạt động phục vụ cá nhân và cộng đồng, thì đây là lĩnh vực truyền thống của Saigonbank phù hợp với năng lực của ngân hàng nên cũng được chú trọng phát triển. Lĩnh vực sản xuất chưa được Saigonbank quan tâm đúng mức khi tỷ trọng dư nợ của ngành này chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng dư nợ, thường dưới 10% tổng dư nợ. Cho vay xây dựng cũng được Saigonbank hạn chế vì lĩnh vực này sử dụng vốn lớn, rủi ro cao, các doanh nghiệp trong lĩnh vực này có các khoản phải thu lớn và có thời hạn dài. Do đó, Saigonbank chỉ tập trung cho vay đối với các doanh nghiệp xây lắp có uy tín, tiềm lực tài chính mạnh, quản lý vốn tốt đảm bảo khả năng trả nợ ngân hàng. Một lĩnh vực cũng có lợi nhuận tốt là khách sạn, nhà hàng cũng chưa được Saigonbank đầu tư nhiều, tỷ trọng dư nợ cho vay ngành này cũng khá nhỏ trong tổng dư nợ, thường chiếm dưới 5%.
Bảng 1.5: Tình hình dư nợ theo ngành kinh tế tại Saigonbank
Đơn vị: tỷ đồng
Chỉ tiêu
Năm 2005
Năm 2006
Năm 2007
Công nghiệp
161
292
516
Xây dựng
214
340
369
Thương mại dịch vụ
2.073
3.016
4.795
Vận tải
286
486
885
Ngành khác
840
730
811
Tổng cộng
3.574
4.864
7.377
Nguồn: Báo cáo hoạt động tín dụng Saigonbank năm 2005,2006,2007
1.2.4 Chất lượng và hiệu quả tín dụng
Chất lượng tín dụng
Chiến lược phát triển kinh doanh của Saigonbank là vừa hiệu quả vừa đảm bảo an toàn vốn, đặc biệt trong hoạt động tín dụng. Vì vậy, mục tiêu không ngừng nâng cao chất lượng tín dụng luôn được Saigonbank coi là một chỉ tiêu quan trọng trong kế hoạch kinh doanh. Tuy nhiên, qua phân tích dư nợ của Saigonbank thì nợ nhóm 2 đến nhóm 5 của ngân hàng trong 3 năm gần đây có xu hướng tăng lên, đặc biệt tăng đột biến vào năm 2007. Năm 2005 nợ nhóm 2 đến nhóm 5 tại Saigonbank chỉ là 0,74% và năm 2006 tăng lên 0,77%, nhưng đến năm 2007 thì tăng mạnh lên 2,07%. Tình hình trên là do trong năm 2007 để thực hiện mục tiêu giữ vững tăng trưởng, trong đó có tăng trưởng tín dụng Saigonbank đã phát triển tín dụng rất nóng với tổng dư nợ tăng 52% so với năm 2006 do đó khó tránh khỏi các món vay không tốt dẫn đến tỷ lệ nợ không đủ tiêu chuẩn tăng cao. Các khoản nợ không đủ tiêu chuẩn của Saigonbank chủ yếu là nợ nhóm 2 (là các khoản nợ quá hạn dưới 180 ngày), không có nợ nhóm 5 là các khoản nợ có khả năng mất vốn. Các khoản nợ quá hạn tập trung phần lớn vào các khách hàng thuộc lĩnh vực xây dựng. Tình hình chất lượng tín dụng của Saigonbank trong 3 năm qua thể hiện qua số liệu sau:
Bảng 1.6: Cơ cấu nợ theo Quyết định 493/QĐ-NHNN tại Saigonbank
Đơn vị: triệu đồng
Chỉ tiêu
Năm 2005
Năm 2006
Năm 2007
Nợ nhóm 1
3.547.750
4.827.346
7.223.961
Nợ nhóm 2
19.201
14.108
121.715
Nợ nhóm 3 - nhóm 4
7.190
23.351
30.982
Nợ nhóm 5
0
0
0
Nguồn: Báo cáo hoạt động tín dụng Saigonbank năm 2005,2006,2007
Hiệu quả tín dụng
Nhìn chung qua phân tích thu nhập, chi phí của Saigonbank trong 3 năm gần đây cho thấy hoạt động tín dụng luôn đem lại nguồn thu chính cho ngân hàng, tổng thu nhập từ lãi vay luôn chiếm trên 80% tổng thu nhập. Năm 2005 thu từ tín dụng chiếm 82,89% tổng thu nhập, năm 2006 tỷ lệ này là 88,66% và năm 2007 là 88,45%. Đồng thời trong 3 năm qua hoạt động kinh doanh của Saigonbank luôn có lãi, lợi nhuận năm sau cao hơn năm trước với tốc độ tăng khá nhanh, năm 2006 lợi nhuận trước thuế tăng 47,09% so với năm 2005 và năm 2007 tăng 44,46% so với năm 2006. Qua đó thấy hoạt động tín dụng của Saigonbank là rất hiệu quả, đóng góp rất lớn vào tổng lợi nhuận chung của toàn ngân hàng.
Bảng 1.7: Chi tiết thu nhập, chi phí tại Saigonbank
Đơn vị: triệu đồng
Chỉ tiêu
2005
2006
2007
Tổng thu nhập
206.190
274.655
408.473
Thu nhập lãi thuần
170.911
243.512
361.278
Lãi từ hoạt động dịch vụ
8.541
19.125
25.358
Lãi từ hoạt động kinh doanh ngoại hối
1.904
3.379
3.149
Lãi từ hoạt động khác
23.641
7.898
17.123
Thu từ góp vốn, mua cổ phần
1.193
741
1.565
Tổng chi phí
95.050
111.179
172.319
Chi phí hoạt động
62.358
86.407
121.378
Chi phí dự phòng rủi ro tín dụng
32.692
24.772
50.941
Lợi nhận trước thuế
111.140
163.476
236.154
Nguồn: Báo cáo hoạt động tín dụng Saigonbank năm 2005,2006,2007
1.2.5 Đánh giá về hoạt động tín dụng tại Saigonbank
Qua phân tích thực trạng hoạt động tín dụng tại Saigonbank có thể thấy tín dụng thực sự là hoạt động kinh doanh quan trọng nhất, đem lại nguồn thu chủ yếu cho ngân hàng. Do đó, hoạt động tín dụng luôn được ngân hàng quan tâm phát triển, không chỉ chú trọng phát triển quy mô tín dụng mà Saigonbank còn tăng cường công tác đảm bảo an toàn tín dụng, mở rộng mạng lưới, tuyển dụng, đào tạo nhân lực đáp ứng cho nhu cầu phát triển kinh doanh. Chất lượng tín dụng của Saigonbank luôn được đảm bảo ở mức an tòan, tỷ lệ nợ quá hạn thường thấp dưới 2%. Hiệu quả tín dụng đem lại cho ngân hàng là rất lớn, thu nhập từ lãi chiếm phần lớn thu nhập của ngân hàng và góp phần lớn vào tăng trưởng lợi nhuận trong thời gian gần đây.
Hoạt động tín dụng phát triển đã tạo đà cho các sản phẩm khác của Saigonbank cũng có sự tăng trưởng khá tốt như thanh toán xuất nhập khẩu, thanh toán và ngân quỹ nội địa, hoạt động kinh doanh thẻ kèm với dịch vụ trả lương qua thẻ ...
Với sự tăng trưởng mạnh mẽ của hoạt động tín dụng nói riêng đã giúp tăng nhanh tổng tài sản của Saigonbank trong thời gian qua, mạng lưới hoạt động phát triển mạnh mẽ đã nâng cao hình ảnh, vị thế của ngân hàng trong khối các ngân hàng thương mại cổ phần cũng như ngày càng được khách hàng biết đến và tin tưởng sử dụng các dịch vụ của ngân hàng.
Tăng trưởng tín dụng mạnh mẽ của Saigonbank cũng góp một phần nhỏ trong tổng tín dụng cung cấp cho nền kinh tế, góp phần phục vụ phát triển kinh tế đất nước cũng như ổn định và cải thiện đời sống nhân dân, tăng sức mua của xã hội, kích thích phát triển sản xuất. Phần nào đã góp một phần vốn cho công cuộc xây dựng phát triển kinh tế đất nước, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa của đảng và nhà nước ta. Đặc biệt, cung cấp vốn cho các doanh nghiệp tăng khả năng cạnh tranh trong quá trình hội nhập kinh tế thế giới.
1.2.5.1 Những hạn chế
Bên cạnh những kết quả kinh doanh khả quan đã đạt được, hoạt động tín dụng của Saigonbank còn bộc lộ nhiều hạn chế, phát triển chưa tương xứng với tiềm năng và bề dày hoạt động của mình.
Thứ nhất, quy mô tín dụng của Saigonbank còn quá nhỏ bé so với các ngân hàng thương mại cổ phần hàng đầu tại Việt Nam như Ngân hàng TMCP Á Châu, Ngân hàng TMCP Sài gòn Thương Tín, tổng dư nợ của các ngân hàng này thường lớn gấp 2 đến 3 lần tổng dư nợ của Saigonbank tại cùng thời điểm, mặc dù các ngân hàng này thành lập sau Saigonbank khá lâu. Địa bàn hoạt động tín dụng của Saigonbank cũng chưa rộng, chủ yếu tập trung vào các tỉnh phía nam nơi có trụ sở chính ngân hàng, hoạt động kinh doanh nói chung và tín dụng nói riêng tại miền trung và miền bắc còn hạn chế, tại miền trung chỉ có Đà Nẵng, Huế và miền bắc là Hà Nội, Quảng Ninh. Tuy nhiên, hoạt động tín dụng tại hai miền trung và miền bắc còn nhỏ chưa tương xứng với tiềm năng kinh tế tại các địa bàn này.
Thứ hai, các sản phẩm tín dụng Saigonbank cung cấp cho thị trường vẫn chưa đa dạng, chỉ tập trung chủ yếu vào cho vay thương mại mà chưa chú trọng đúng mức đến các thị trường nhiều tiềm năng khác như sản xuất, vận tải, cảng biển và các dịch vụ cảng biển ... các sản phẩm chủ yếu được cung cấp đơn lẻ, chưa có sự kết hợp các sản phẩm, bán chéo sản phẩm nhằm tăng số lượng sản phẩm, dịch vụ mà một khách hàng sử dụng của ngân hàng. Bên cạnh đó Saigonbank mới chỉ tập trung vào sản phẩm tín dụng chủ yếu là cho vay còn các hoạt động cấp tín dụng khác như bảo lãnh, chiết khấu hay cho thuê tài chính còn chưa được phát triển, quy mô còn chiếm tỷ trọng rất thấp so với dư nợ cho vay.
Thứ ba, cơ sở vật chất, công nghệ của Saigonbank còn yếu, mặc dù ngân hàng đang triển khai chương trình Core banking để hiện đại hóa hoạt động ngân hàng. Tuy nhiên, việc triển khai còn chậm, để chương trình hoạt động trơn tru sẽ còn cần nhiều thời gian nữa trong khi các ngân hàng khác đã thực hiện từ rất lâu. Khả năng quản lý dữ liệu của Saigonbank do đó cũng chưa đáp ứng được khi quy mô mở rộng hơn nữa.
Thứ tư, đội ngũ cán bộ của Saigonbank vẫn còn bộc lộ nhiều hạn chế so với các ngân hàng thương mại cổ phần khác về trình độ, khả năng thích ứng với thị trường, tuổi đời phần lớn đã cao, phong cách phục vụ ảnh hưởng từ thời bao cấp còn chưa xóa bỏ hết nên chưa thực sự lôi kéo được khách hàng.
1.2.5.2 Nguyên nhân
- Sự cạnh tranh quyết liệt giữa các ngân hàng thương mại
Hiện nay, thị trường tài chính của Việt Nam có quá nhiều ngân hàng thương mại so với quy mô nền kinh tế, với 5 ngân hàng thương mại quốc doanh và hơn 30 ngân hàng thương mại cổ phần, ngân hàng liên doanh, chi nhánh, văn phòng đại diện của ngân hàng nước ngoài đang hoạt động. Chính vì vậy, mức độ cạnh tranh giữa các ngân hàng thương mại là rất quyết liệt, tình hình cạnh tranh còn gay gắt hơn giữa các ngân hàng thương mại cổ phần nhỏ trong đó có Saigonbank. Vì các ngân hàng thương mại quốc doan hay cổ phần lớn với bề dày hoạt động, mạng lưới rộng khắp, tiềm lực tài chính mạnh đã có được những thị phần nhất định với lợi thế của mình. Trong điều kiện cạnh tranh gay gắt đó thì Saigonbank chưa thực sự phát huy lợi thế cũng như khắc phục những hạn chế của mình như vốn chủ sở hữu thấp, mạng lưới hoạt động còn mỏng, nhân lực chưa đáp ứng được với tình hình mới đã gây khó khăn cho ngân hàng trong canh tranh dành thị phần, khách hàng phục vụ cho phát triển kinh doanh nói chung và hoạt động tín dụng nói riêng.
- Sự hạn chế do quy mô mạng lưới, nguồn vốn
Phân tích thực trạng hoạt động của Saigonbank cho thấy, quy mô mạng lưới của ngân hàng còn chưa rộng dẫn tới khả năng huy động vốn chưa cao khó đáp ứng được đủ nguồn vốn để cấp tín dụng cho khách hàng. Vốn chủ sở hữu của Saigonbank thấp dẫn đến khó khăn trong cấp tín dụng cho các khách hàng lớn, tiềm lực tài chính và hình ảnh của ngân hàng trên thị trường, cũng như sức thu hút khách hàng chưa cao.
- Hạn chế về nguồn nhân lực
Đội ngũ cán bộ kinh doanh của Saigonbank còn chưa tinh nhuệ, những người lớp trước thì tuổi cao, sức ì lớn nên khai thác kinh doanh theo lối mòn khó có thể năng động đáp ứng đòi hỏi ngày càng cao của thị trường. Những cán bộ trẻ thì kinh nghiệm còn yếu trong tiếp xúc, tư vấn và đàm phán với khách hàng trong quá trình cung cấp sản phẩm dịch vụ của ngân hàng. Để có thể đảm bảo vừa phát triển quy mô tín dụng vừa đảm bảo chất lượng tín dụng thì đòi hỏi cán bộ kinh doanh phải nắm bắt tốt các quy trình, quy chế về cấp tín dụng, quy định pháp luật có liên quan, cũng như nắm bắt thông tin về lĩnh vực mình cho vay. Nhưng điều này chưa được thực hiện tốt tại Saigonbank nhất là với các cán bộ trẻ, do cần có thời gian để đào tạo.
- Sự phối hợp chưa hiệu quả giữa các bộ phận nghiệp vụ trong cung cấp sản phẩm dịch vụ
Một trong những nguyên nhân ảnh hưởng đến khả năng mở rộng hoạt động tín dụng của Saigonbank là sự phối hợp chưa tốt giữa các phòng ban, bộ phận nghiệp vụ trong quá trình cung cấp sản phẩm dịch vụ ngân hàng cho khách hàng. Thực tế hoạt động cho thấy do Saigonbank chưa có bộ phận chuyên trách tái thẩm định các khoản tín dụng vượt thẩm quyền của chi nhánh mà là phòng kinh doanh hội sở vừa cho vay vừa kiêm nhiệm tái thẩm định. Do đó, chất lượng tái thẩm định chưa tốt, thời gian kéo dài hơn so với các ngân hàng khác đã ảnh hưởng không nhỏ tới khả năng thu hút khách hàng của Saigonbank. Đặc biệt là các khách hàng lớn, tài chính tốt thì họ luôn đòi hỏi được phục vụ một cách tốt nhất về thủ tục cũng như thời gian. Ngoài ra, sự phối hợp giữa các phòng ban như phòng kinh doanh với kế toán, ngân quỹ, thanh toán quốc tế còn chưa chặt chẽ, dẫn đến phục vụ khách hàng chưa tốt khi ở khâu kinh doanh thì tốt nhưng sang khâu khác thì chậm trễ, hoặc thủ tục rườm rà cũng gây mất thiện cảm với khách hàng. Việc chưa phối hợp tốt giữa các bộ phận cũng giảm khả năng bán chéo sản phẩm của Saigonbank. Tình trạng này xảy ra tại các chi nhánh mới của Saigonbank là khá nhiều do thường là các nhân viên tại đây đến từ nhiều ngân hàng khác, doanh nghiệp, trình độ chuyên môn không đồng đều. Trong khi đó, Saigonbank chưa có một quy trình nghiệp vụ hoàn chỉnh tác nghiệp giữa các phòng ban dẫn đến mỗi nơi tự tác nghiệp theo quan điểm của mình dẫn đến phục vụ khách hàng chưa thực sự tốt.
- Sản phẩm tín dụng còn đơn điệu
Sản phẩm tín dụng tại Saigonbank như đã phân tích ở trên là còn chưa đa dạng, phong phú, chưa cá biệt hóa được sản phẩm theo nhu cầu của khách hàng. Nhất là nhóm khách hàng mục tiêu mà ngân hàng hướng đến là doanh nghiệp vừa và nhỏ, hộ kinh doanh và cá nhân thì nhu cầu của họ rất đa dạng. Các sản phẩm ngoài cho vay như sản phẩm bảo lãnh, chiết khấu hay cho thuê tài chính còn chưa được quan tâm phát triển dẫn đến bỏ qua nhiều cơ hội, khách hàng có thể phục vụ để tăng quy mô tín dụng mà gần như chỉ độc canh cho vay. Các sản phẩm mới được triển khai như cho vay thấu chi qua tài khoản ATM, cho vay cán bộ công nhân viên qua lương mới được thực hiện nhưng là rất chậm so với các đối thủ cạnh tranh khác, nhất là khối các ngân hàng thương mại cổ phần. Các sản phẩm mới cũng chưa được đánh giá, điều chỉnh thường xuyên để phù hợp hơn với nhu cầu của thị trường.
- Sự phức tạp và thiếu chuyên nghiệp của khách hàng
Định hướng kinh doanh của Saigonbank là nhắm tới phục vụ các khách hàng là doanh nghiệp vừa và nhỏ, hộ kinh doanh và cá nhân nên có tính chất khá phức tạp về ngành nghề, quy mô, trình độ ... Đối với các khách hàng là doanh nghiệp thì do quy mô không lớn nên tổ chức hoạt động của họ còn chưa chuyên nghiệp, phần lớn theo mô hình gia đình, hệ thống quản lý, sổ sách tài chính thường không đầy đủ chính xác gây khó khăn cho ngân hàng cả khi thẩm định cho vay cũng như theo dõi sau cho vay. Đối với cá nhân thì nhu cầu của họ khá đa dạng và phức tạp, phụ thuộc vào trình độ, độ tuổi, nghề nghiệp cũng đòi hỏi ngân hàng phải có sự điều tra hiểu biết tốt nhu cầu, từ đó thiết kế các sản phẩm phù hợp nhất thì mới có thể thu hút được họ sử dụng sản phẩm của mình.
Các đặc điểm trên của khách hàng đã gây khó khăn cho ngân hàng trong quá trình hướng dẫn, tư vấn, thẩm định cấp tín dụng cho khách hàng. Nhất là khi các sản phẩm của Saigonbank còn chưa nhiều, chưa đa dạng.
- Khó khăn trong khai thác thông tin
Hiện nay một khó khăn chung của các ngân hàng thương mại trong việc đánh giá, thẩm định khách hàng là thiếu thông tin, nguồn cung cấp thông tin và chất lượng thông tin. Hệ thống thông tin của Việt Nam còn chưa phát triển, chưa có các kênh thông tin đáng tin cậy cho ngân hàng có thể thu thập để đánh giá về khách hàng, trong khi thông tin từ khách hàng thì thiếu hoặc không chính xác. Hệ thống thông tin nội bộ của Saigonbank cũng chưa được thiết lập đầy đủ, khả năng truy xuất, cập nhật thônng tin nội bộ đối với các khách hàng, nhóm khách hàng mà Saigonbank phục vụ tại các chi nhánh còn chưa tốt, chưa có kho dữ liệu riêng cho mình về các khách hàng xấu, ngành nghề, lĩnh vực với những cảnh báo cần thiết giúp việc cấp tín dụng đảm bảo chất lượng tốt hơn cũng như nắm bắt cơ hội đầu tư.
- Các rào cản pháp lý
Quá trình cấp tín dụng của ngân hàng cho khách hàng chịu sự quản lý rất chặt chẽ của nhà nước, đòi hỏi ngân hàng phải phối hợp với các cơ quan khác như công chứng, trung tâm đăng ký giao dịch bảo đảm hay các cơ quan tư pháp trong xử lý tài sản bảo đảm thu hồi nợ vay.
Trong khi đó, hệ thống pháp luật của chúng ta vẫn đang trong quá trình xây dựng và hoàn thiện nên còn tồn tại nhiều bất cập với thực tế cũng như giữa các văn bản pháp luật. Việc triển khai thực hiện các quy định pháp luật của các cơ quan thực thi pháp luật còn chậm, quan liêu, hiệu quả thực hiện chưa cao, chưa thực sự bảo vệ tốt quyền lợi của người có quyền trong đó có ngân hàng. Ví dụ như đối với cơ quan đăng ký giao dịch bảo đảm thì còn tình trạng yêu cầu thêm các văn bản khác với số lượng và loại văn bản đã được pháp luật quy định, thời gian thực hiện chậm ảnh hưởng đến thời gian cấp tín dụng cho khách hàng. Một vấn đề nhức nhối nữa là quy trình, thủ tục xử lý tài sản đảm bảo của ngân hàng để thu hồi các khoản nợ vay có vấn đề còn rất phức tạp, hiệu lực thi hành còn thấp khi hiệ quả hoạt động của các cơ quan thi hành án còn chưa cao. Tất cả các rào cản pháp lý này cũng phần nào ảnh hưởng đến khả năng mở rộng tín dụng của Saigonbank vì ngân hàng phải tính đến mở rộng quy mô với đảm bảo chất lượng tín dụng.
CHƯƠNG 2: GIẢI PHÁP NHẰM MỞ RỘNG HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG TẠI NGÂN HÀNG TMCP SÀI GÒN CÔNG THƯƠNG
2.1 Định hướng hoạt động kinh doanh của ngân hàng
Bước sang một thời kỳ phát triển mới của đất nước, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng thì vai trò của hệ thống Ngân hàng thương mại ngày càng quan trọng. Chúng ta cũng đang dần thực hiện các cam kết khi gia nhập WTO, trong đó có lĩnh vực tài chính ngân hàng, khi mà thời gian mở cửa hoàn toàn lĩnh vực này đang đến gần.Nhất là kinh nghiệm của cuộc khủng hoảng khu vực vừa qua cho thấy nếu không có một hệ thống Ngân hàng thương mại vững mạnh thì sẽ ảnh hưởng rất xấu đến sự phát triển kinh tế đất nước. Trong thời gian vừa qua, tình hình kinh tế thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng đang gặp phải rất nhiều khó khăn như lạm phát, tăng trưởng kinh tế chậm. Trong bối cảnh kinh tế đó hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam cũng chịu ảnh hưởng khá mạnh, đó là tính thanh khoản thấp, nợ xấu tiềm ẩn, lãi suất huy động và cho vay cao, lãi suất biên thấp, cạnh tranh gay gắt hơn ảnh hưởng tới hiệu quả kinh doanh của các ngân hàng. Chính vì vậy nhà nước ta đang khuyến khích các ngân hàng tự hoàn thiện mình để có thể hội nhập quốc tế thành công và giải quyết tốt nhất tồn tại hiện nay giữa doanh nghiệp và ngân hàng nhằm tăng hiệu quả kinh tế của hai bên nói riêng và nền kinh tế nói chung. Trước tình hình chung đó Ngân hàng TMCP Sài gòn Công Thương cũng nhận thức rõ thực trạng cơ cấu tổ chức và hoạt động kinh doanh của mình và đề ra những mục tiêu, chiến lược hoạt động trong thời gian tới nhằm hoàn thiện và đưa Ngân hàng phát triển hơn nữa.
Trong thời gian tới Hội sở chủ trương làm tốt chính sách khách hàng bằng việc chấn chỉnh tác phong và ý thức phục vụ, nâng cao trình độ nghiệp vụ của nhân viên để nâng cao chất lượng dịch vụ, kết hợp với việc tăng cường công tác Marketing nhằm tiếp tục giữ vững số khách hàng hiện có, thu hút thêm các khách hàng mới có triển vọng, đặc biệt là các khách hàng trong ngành hàng hải, xuất nhập khẩu, sản xuất hàng xuất khẩu... Đẩy mạnh việc cho vay ngắn hạn bằng VND, ưu tiên các doanh nghiệp ngoài quốc doanh có quy mô vừa và nhỏ, cá nhân.
2.2 Một số giải pháp giúp mở rộng cho vay tại Ngân hàng TMCP Sài gòn Công thương
2.2.1 Đa dạng hóa hình thức cấp tín dụng
Trong tình hình canh tranh gay gắt giữa các ngân hàng thương mại tại Việt Nam hiện nay thì việc đa dạng hóa các hình thức cấp tín dụng là rất cần thiết nhằm tạo thuận lợi cho khách hàng khi lựa chọn, cá biệt hóa được khách hàng, nhu cầu của khách hàng, có vậy mới thỏa mãn tối đa nhu cầu tín dụng cũng như thu hút được họ. Hơn nữa, ngân hàng đang chủ trương ưu tiên cho vay đối với các khách hàng là doanh nghiệp vừa và nhỏ, các cá nhân, công ty liên doanh, công ty nước ngoài tại các khu công nghiệp, khu chế xuất, hỗ trợ phát triển các ngành nghề nông, lâm, ngư nghiệp và các ngành nghề truyền thống tại các địa phương tnong cả nước. Do đó việc mở rộng tín dụng đối với họ sẽ gặp khó khăn nếu các sản phẩm tín dụng của ngân hàng chưa đa dạng, khó phù hợp với nhu cầu khác nhau của khách hàng. Để tháo gỡ khó khăn này ngân hàng cần tăng cường việc nghiên cứu xây dựng các sản phẩm mới.
Việc nghiên cứu, phát triển các sản phẩm tín dụng mới phải đảm bảo các yêu cầu:
- Sản phẩm mới phải hướng tới và thỏa mãn tốt nhất các điều kiện, yêu cầu của nhóm khách hàng mục tiêu mà sản phẩm sẽ được cung cấp. Đồng thời sản phẩm đó phải đảm bảo khả năng cạnh tranh của ngân hàng đối với các đối thủ khác, đúng định hướng kinh doanh của Saigonbank.
- Sản phẩm mới phải đảm bảo có thị trường đủ lớn để phát triển về quy mô cũng như chất lượng khách hàng, đem lại lợi nhuận cho Saigonbank.
- Sản phẩm mới cũng phải được nghiên cứu, dự bảo tốt những rủi ro có thể xảy ra đối với ngân hàng và ngân hàng có thể kiểm soát được những rủi ro đó.
- Sản phẩm mới phải được thường xuyên tổng kết, đánh giá, điều chỉnh cho phù hợp hơn với khách hàng, điều kiện kinh tế thay đổi, kết hợp với các sản phẩm dịch vụ ngân hàng khác như thanh toán, kinh doanh ngoại tệ ... tạo thành những bộ sản phẩm ngân hàng tốt.
2.2.2 Mở rộng đối tượng và ngành nghề cho vay
Theo phân tích ở phần trên thì Saigonbank hiện đang có một quy mô dư nợ thấp, do đó khách hàng và phát triển khách hàng có ý nghĩa sống còn đối với sự phát triển của ngân hàng, đặc biệt trong điều kiện cạnh tranh gay gắt như hiện nay.
Để có thể phát triển khách hàng một cách hiệu quả Saigonbank phải phân loại khách hàng hiện tại, khách hàng tiềm năng mà ngân hàng có thể phát triển trong thời gian tới phù hợp với khả năng cạnh tranh của mình. Việc phân loại khách hàng có thể phân theo các tiêu thức như qui mô, ngành nghề, khu vực địa lý. Trên cơ sở phân loại khách hàng thành các nhóm như trên, ngân hàng sẽ đánh giá lợi thế của ngân hàng đối với từng nhóm như tại địa bàn Hải Phòng có lợi thế về cảng biển, dịch vụ cảng biển, vận tải biển; Quảng Ninh có lợi thế về than, du lịch, điện ...; Thành phố Hồ Chí Minh có lợi thế về thương mại, xuất nhập khẩu, bất động sản. Từ việc đánh giá lợi thế, điểm yếu của mình Saigonbank sẽ xây dựng nhóm khách hàng mục tiêu của mình và tập trung mọi nguồn lực từ tài chính, công nghệ, sản phẩm và nhân lực cho việc phát triển các khách hàng này sẽ đem lại hiệu quả tốt.
Để nâng cao hiệu quả mở rộng tín dụng thì đi đôi với phát triển khách hàng, Saigonbank cần tăng quy mô cũng như số lượng sản phẩm dịch vụ mà khách hàng sử dụng của ngân hàng. Thực hiện việc này, Saigonbank cần tăng cường công tác bán kèm và bán chéo sản phẩm dịch vụ cho khách hàng. Đây là hình thức mà mỗi bộ phận, phòng ban trong ngân hàng ngoài việc bán các sản phẩm dịch vụ của bộ phận mình phụ trách còn phải phát hiện, gợi mở nhu cầu của khách hàng để tiếp thị họ sử dụng các sản phẩm khác của ngân hàng. Hướng bán chéo sản phẩm có thể là từ các khách hàng cá nhân là chủ doanh nghiệp để tiếp thị họ sử dụng các dịch vụ ngân hàng cho doanh nghiệp đó, hay từ sản phẩm tín dụng cung cấp cho doanh nghiệp có thể gợi mở nhu cầu tín dụng cá nhân cho doanh nghiệp đó như cho vay tín chấp đối với cán bộ nhân viên của doanh nghiệp, thẻ tín dụng, cho vay tiêu dùng khác.
2.2.3 Hoàn thiện chính sách khách hàng
Hiện nay, việc thực hiện chính sách khách hàng của Hội sở chủ yếu thông qua hạn mức tín dụng, tỷ lệ ký quỹ. Tuy nhiên theo đánh giá của Ngân hàng thì chưa thực sự có hiệu quả so với các ngân hàng quốc doanh trên địa bàn. Vì vậy trong thời gian tới Hội sở cần tăng cường các biện pháp hợp lý để nâng cao hiệu quả của chính sách khách hàng Tạo mọi điều kiện thuận lợi cho khách hàng đến giao dịch bằng việc chấn chỉnh tác phong , ý thức phục vụ và nâng cao trình độ nghiệp vụ của cán bộ nhân viên, rút ngắn thời gian làm các thủ tục hành chính đối với khách hàng, làm việc nhanh chóng đúng hẹn, tránh gây mất thời gian cũng như số lần khách hàng phải đến trực tiếp Ngân hàng giúp họ tiết kiệm được công sức và tiền bạc. Bên cạnh việc tạo thuận lợi cho khách hàng trong khi vay vốn của Ngân hàng thì các nghiệp vụ khác như thanh toán, rút tiền gửi cũng phải được nâng cao chất lượng. Phát huy lợi thế của ngân hàng là có một mạng lưới chi nhánh tại các tỉnh thành trọng yếu của ba miền đất nước và hệ thống ngân hàng đại lý trên toàn cầu, cùng với việc ứng dụng công nghệ thông tin, tinh thần phục vụ nhanh chóng tận tình nên công tác thanh toán đã tạo được sự tin tưởng của khách hàng. Ngân hàng cần tăng cường công tác quảng cáo, xúc tiến khách hàng giúp họ hiểu được những thuận lợi, ưu đãi nếu giao dịch với Ngân hàng. Ngân hàng cũng cần có những biện pháp ưu đãi đối với khách hàng nào có quan hệ tín dụng tốt như đơn giản về mặt thủ tục hành chính khi cho vay. Nếu vay với số lượng lớn thì khách hàng có thể được ưu đãi về lãi suất, phí trả cho dịch vụ thanh toán.
Đảm bảo chính sách khách hàng của ngân hàng được quán triệt tới mọi bộ phận, phòng ban và từng cán bộ nhân viên. Có như vậy giữa các phòng ban mới có sự phối hợp nhịp nhàng trong phục vụ khách hàng, thực hiện nhất quán chính sách của ngân hàng với khách hàng, cung cấp dịch vụ đồng nhất về chất lượng cho khách hàng.
Saigonbank cũng cần xây dựng những chính sách khách hàng riêng biệt cho các khách hàng khác nhau tùy vào đặc điểm hoạt động, tài chính, khả năng mang lại lợi nhuận cho ngân hàng lớn hay nhỏ. Như đối với nhóm khách hàng VIP cần có chính sách chăm sóc riêng, có những ưu đãi riêng vì nhóm này sẽ đem lại lợi nhuận lớn cho ngân hàng cũng như đảm bảo khả năng mở rộng tín dụng tốt nhất.
2.2.4 Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin
Kinh tế thế giới đang chuyển sang một giai đoạn phát triển mới, đó là nền kinh tế trí thức. Một đặc điểm quan trọng của nền kinh tế này là hàm lượng chất xám rất cao trong sản phẩm và việc ứng dụng công nghệ thông tin vào sản xuất là rất phổ biến. Kinh tế Việt Nam cũng không nằm ngoài xu thế này, đặc biệt khi chúng ta ngày càng hội nhập kinh tế quốc tế một cách sâu rộng. Chính vì vậy việc đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động của ngân hàng là một yêu cầu khách quan. Một điểm nữa là hiện nay một số ngân hàng đã xúc tiến việc đưa thương mại điện tử vào trong hoạt động kinh doanh như Ngân hàng TMCP Á châu, Techcombank, Sacombank với các dịch vụ như Home banking, internet banking, phone banking. Các ngân hàng này đã sử dụng trang web riêng trên mạng Internet giúp khách hàng có thể không cần đến ngân hàng mà vẫn biết được những thông tin cần thiết, thực hiện một số giao dịch trực tuyến mà không cần trực tiếp đến quầy giao dịch của ngân hàng. Qua đó, khách hàng có thể biết được các hình thức thanh toán của ngân hàng, thủ tục hành chính đối với từng hình thức thanh toán (ví dụ như hình thức UNC thì cần ghi những gì, lập mấy liên đối với từng phạm vi thanh toán ...) cũng như biểu phí của từng hình thức thanh toán. Khách hàng cũng biết được khi vay vốn của Ngân hàng thì hồ sơ gồm những gì, mẫu biểu ra sao, qui trình cho vay thế nào hay biểu lãi suất...Với khách hàng gửi tiền thì có thể biết lãi suất là bao nhiêu, biết được tình hình tài khoản của mình về số dư, phát sinh nợ, có thế nào mà không cần đến Ngân hàng. Đây là một dịch vụ hết sức tiện ích tạo thuận lợi cho khách hàng, tiết kiệm thời gian chi phí cho họ, nhất là những khách hàng mới lần đầu muốn tìm hiểu thông tin của các ngân hàng để lập quan hệ giao dịch. Chính vì sự tiện ích của dịch vụ này Saigonbank nên nghiên cứu nhằm cung ứng dịch vụ này cho khách hàng, có vậy mới tạo thêm khả năng cạnh tranh, nâng cao chất lượng dịch vụ của mình để thắng trong cạnh tranh, thu hút khách hàng mới về với mình và duy trì được những khách hàng truyền thống. Đồng thời hướng phát triển này cũng phù hợp với định hướng phát triển chung của Saigonbank là trở thành ngân hàng thương mại cung cấp các sản phẩm dịch vụ trên nền tảng công nghệ tiên tiến, hiện đại.
Một phần không thể thiếu trong phát triển công nghệ thông tin là, không chỉ phát triển nhằm phục vụ khách hàng mà ngân hàng còn cần xây dựng một hệ thống thông tin nội bộ phát triển có vậy mới đảm bảo mở rộng tín dụng một cách an toàn, hiệu quả. Thông tin không chỉ cần cho khách hàng mà nó còn rất quan trọng đối với ngân hàng, với các cán bộ làm việc trực tiếp cung cấp sản phẩm tín dụng cho khách hàng. Hoạt động kinh doanh tiền tệ của ngân hàng thương mại, nhất là hoạt động tín dụng có liên quan đến nhiều ngành, nhiều lĩnh vực, nhiều đối tượng, chịu ảnh hưởng mạnh bởi yếu tố chính trị, pháp luật, điều kiện kinh tế xã hội. Do đó, để đảm bảo hoạt động cấp tín dụng hiệu quả, ngân hàng cần có thông tin chính xác, kịp thời. Bên cạnh việc khai thác thông tin từ các nguồn như thông tin CIC từ ngân hàng nhà nước, internet, phương tiện thông tin đại chúng, công ty chuyên cung cấp thông tin, nguồn thông tin khác thì ngân hàng cũng cần xây dựng hệ thống thông tin nội bộ tốt sẽ tạo chủ động trong việc thẩm định, ra quyết định cấp tín dụng. Xây dựng hệ thống thông tin về các ngành nghề, đối tượng từ đó có những đánh giá chính xác về ngành nghề, đối tượng có thể đầu tư, sự biến động của ngành để có những chính sách phù hợp cho từng giai đoạn.
2.2.5 Hoàn thiện quy trình cấp tín dụng và nâng cao trình độ nghiệp vụ của cán bộ tín dụng
Trước hết, Ngân hàng cần hoàn thiện quy chế quản lý, quy trình nghiệp vụ cấp tín dụng phù hợp với luật các tổ chức tín dụng và hướng dẫn của Ngân hàng nhà nước, bởi theo đánh giá của Hội sở thì một số quy chế quản lý tín dụng được xây dựng nhưng không được điều chỉnh thích hợp với tình hình thực tế dẫn đến có nhiều bất hợp lý khi thực hiện. Không chỉ điều chỉnh cho phù hợp với thực tế, Ngân hàng cần xây dựng một quy trình cho vay vừa bảo đảm cho việc thực hiện cấp tín dụng cho các phương án, dự án kinh doanh hay tiêu dùng khả thi, ít rủi ro cho mình mà vừa phải tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng tránh rườm rà không cần thiết. Saigonbank cũng cần xây dựng quy trình cấp tín dụng theo từng loại sản phẩm cụ thể thì mới cá biệt hóa được sản phẩm cung cấp cho khách hàng, góp phần nâng cao khả năng đáp ứng tốt nhất nhu cầu khách hàng mà sản phẩm hướng tới. Ngân hàng có thể thực hiện việc thu thập thông tin từ nhiều nguồn về các khách hàng tiềm năng, có thể có nhu cầu vay vốn của mình trong thời gian tới cũng như các khách hàng quen thuộc một cách thường xuyên nhằm đánh giá tình hình tài chính, hoạt động kinh doanh của họ. Như vậy, khi khách hàng có nhu cầu vay thì việc thẩm định sẽ dễ dàng và tốn ít thời gian cho cả họ và Ngân hàng, tạo thuận lợi cho họ. Để đảm bảo chất lượng tín dụng Ngân hàng cần tăng cường công tác kiểm soát, quản lý việc sử dụng vốn của khách hàng sau khi cho vay nhằm đôn đốc họ thực hiện đúng cam kết trong hợp đồng, tư vấn cho họ một số vấn đề có thể giúp việc sử dụng vốn đạt hiệu quả cao. Việc này cũng giúp Ngân hàng có những hành động hợp lý để xử lý những trường hợp bất lợi đối với khoản tín dụng một cách kịp thời.
Nhằm thực hiện những công việc trên một cách hiệu quả thì Ngân hàng cần chú trọng đến việc chấn chỉnh tác phong ý thức phục vụ khách hàng cũng như nâng cao trình độ nghiệp vụ của cán bộ tín dụng. Hiện nay, tại các chi nhánh chỉ có từ ba đến bốn cán bộ quản lý khách hàng, như vậy là hơi mỏng, nếu muốn mở rộng cho vay tới những khách hàng mới thì cần phải bổ xung thêm mới đáp ứng được yêu cầu mở rộng tín dụng và đảm bảo chất lượng tín dụng. Những cán bộ tín dụng này trước hết phải có lập trường tư tưởng vững vàng, có cái tâm trong sáng, có trách nhiệm nghề nghiệp cao bởi nếu không sẽ không thể chống lại trước những cám dỗ của những kẻ có ý đồ lừa đảo chiếm đoạt vốn của ngân hàng và có thể gây thiệt hại cho ngân hàng. Các cán bộ cũng đòi hỏi phải có trình độ nghiệp vụ vững vàng, có hiểu biết về ngành kinh doanh mà mình quản lý có vậy mới đánh giá một cách chính xác về khách hàng khi cho vay. Phải có hiểu biết, kiến thức nhất định về pháp luật bởi việc giao dịch với khách hàng sẽ thường xuyên liên quan đến các luật như luật dân sự, nghị định quy định về các nghiệp vụ của ngân hàng như cho vay, tài sản bảo đảm...Cán bộ tín dụng còn phải có một tinh thần làm việc cao, nhiệt tình, đi sâu đi sát vào cơ sở khách hàng thì mới nắm được tình hình kinh doanh của họ một cách chính xác, xúc tiến được việc quảng cáo, giúp họ hiểu những chính sách, quy định của Ngân hàng thuận lợi cho họ thế nào. Có khả năng phán đoán, sự ứng biến phù hợp với thực tế trên cơ sở những nguyên tắc, quy trình mà Ngân hàng đề ra tạo điều kiện thuận lợi nhất có thể được cho khách hàng, như thủ tục hành chính, thời gian đi lại (Cán bộ khi cần thiết nên trực tiếp đến cơ sở làm việc với khách hàng) nhưng vẫn bảo đảm chất lượng công việc. Không chỉ tìm hiểu thông tin một chiều từ khách hàng mà phải từ nhiều nguồn khác như các thông tin đại chúng, các nguồn khác về tình hình, triển vọng của ngành nghề kinh doanh của họ, đối thủ cạnh tranh từ đó đánh giá một cách khách quan tình hình thị trường cũng như sức cạnh tranh của khách hàng đến đâu, giúp việc ra quyết định cho vay đúng đắn.
+ Đảm bảo toàn bộ các nhân viên tín dụng tham gia đầy đủ các khoá học chuyên viên cho vay, kỹ năng bán hàng, chú trọng chất lượng dịch vụ, sản phẩm ngân hàng do Hội sở tổ chức.
+ Phân công kèm cặp hướng dẫn đối với nhân viên mới. Định kỳ kiểm tra kiến thức chuyên môn đối với nhân viên mới.
+ Định kỳ tổ chức thảo luận về các quy trình, quy định, sản phẩm và các văn bản mới liên quan đến hoạt động cho vay.
Về lâu dài cần chuẩn hóa quy trình đào tạo, kiểm tra đánh giá nhân viên trong nội bộ Chi nhánh với các nội dung chính:
+ Xây dựng và duy trì quy trình đào tạo nội bộ tại Chi nhánh.
+ Xây dựng được các tiêu chí cụ thể để đánh giá chất lượng công việc của các nhân viên tín dụng.
Trong tổ chức hoạt động tại bộ phận tín dụng, có thể phân chia cán bộ quản lý khách hàng theo nhóm khách hàng với các tiêu chí tương đồng về ngành nghề hoạt động, địa bàn, đối tượng nhằm chuyên môn hóa cán bộ, tăng khả năng xử lý nghiệp vụ phát sinh đối với khách hàng. Bố trí cán bộ phải phù hợp với năng lực và yêu cầu của công việc.
Đồng thời, ngân hàng cũng cần có chế độ tuyển dụng, đãi ngộ, đào tạo xứng đáng với khả năng cũng như đóng góp trong công việc của cán bộ nhân viên nhằm động viên, khuyến khích các cán bộ làm việc hiệu quả. Ngân hàng cũng cần có những hình thức kỷ luật, biện pháp xử lý nghiêm khắc đối với các cán bộ làm việc không hiệu quả, vi phạm quy trình, quy chế của Saigonbank, ngân hàng nhà nước và pháp luật. Có như vậy, Saigonbank mới xây dựng được đội ngũ cán bộ tín dụng giỏi đáp ứng yêu cầu thực hiện chiến lược mở rộng tín dụng trong thời gian tới.
2.2.6 Tăng cường công tác quản lý nợ và xử lý nợ quá hạn
Muốn mở rộng tín dụng đạt hiệu quả, đảm bảo an toàn vốn thì một công việc hết sức quan trọng đó là quản lý nợ tốt và xử lý tốt nợ quá hạn. Vì vậy phải tăng cường hoàn thiện công tác này tại Saigonbank trong thời gian tới. Để thực hiện tốt việc này thì Hội sở cần chấp hành nghiêm chỉnh các quy định về hợp đồng tín dụng, kiến nghị kịp thời những điều bất hợp lý không phù hợp với thực tế lên Ngân hàng nhà nước để có biện pháp khắc phục kịp thời. Đối với các khoản nợ quá hạn Hội sở nên lập một ban thu hồi nợ quá hạn và trong khi thực hiện nên tiến hành các bước như:
- Phân tích nợ quá hạn, đánh giá nguyên nhân
- Đề ra các biện pháp giải quyết
- Đánh giá kết quả đạt được và rút ra bài học kinh nghiệm
Trong quá trình khách hàng sử dụng vốn cần theo dõi diễn biến tình hình một cách sát sao, phát hiện kịp thời trong trường hợp khách hàng sử dụng vốn sai mục đích, sử dụng vốn kém hiệu quả để có biện pháp tư vấn, nhắc nhở khách hàng tìm ra cách để việc sử dụng vốn hiệu quả hơn. Khi nhận thấy khách hàng không có khả năng trả nợ đúng hạn nhưng có thể chỉ là tạm thời và họ có phương án xử lý khả thi để trả nợ ngân hàng sau thì cán bộ tín dụng có thể xem xét gia hạn hay cho vay tiếp để khách hàng tiếp tục khắc phục tình hình tiến tới trả nợ cho ngân hàng. Còn trong trường hợp đánh giá khách hàng không thể trả nợ được thì phải có biện pháp xử lý tài sản thế chấp như khuyến khích họ tự bán và trả nợ cho ngân hàng nếu không thì phải có cách thức mạnh hơn nhằm thu hồi tài sản thế chấp và tiến hành phát mại thu hồi vốn cho ngân hàng.
Ngân hàng cũng cần quản lý tốt danh mục cấp tín dụng của mình, kết hợp với phân tích ngành, các điều kiện kinh tế vĩ mô để đưa ra các cảnh báo sớm nhằm ngăn chặn cũng như hạn chế rủi ro tín dụng do biến động của môi trường vĩ mô.
2.2.7 Tăng cường công tác Marketing, mở rộng mạng lưới hoạt động
Mặc dù là một ngân hàng TMCP đầu tiên được thành lập ở Việt Nam tuy nhiên số người biết đến Saigonbank còn chưa nhiều, mạng lưới hoạt động còn hẹp, chủ yếu tại các tỉnh phía nam. Chính vì vậy, tăng cường hoạt đông Marketing nhằm quảng bá hình ảnh, thương hiệu Saigonbank tới các khách hàng doanh nghiệp, cá nhân trên phạm vi cả nước sẽ hỗ trợ rất tốt cho chính sách phát triển khách hàng của ngân hàng. Các hình thức Marketing có thể áp dụng như:
- Định kỳ đăng báo giới thiệu các sản phẩm của Saigonbank; tham gia tài trợ các sự kiện văn hóa, thể thao; treo biển quảng cáo cỡ lớn tại các điểm quảng cáo trong thành phố; thường xuyên gửi thư ngỏ, rải tờ rơi tới các doanh nghiệp, hộ gia đình; kết hợp với các cửa hàng lớn, các chung cư, các hãng xe ô tô, show room ô tô trong địa bàn hoạt động để giới thiệu các sản phẩm cho vay tiêu dùng, cho vay mua nhà trả góp ...
- Thường xuyên tổ chức các khoá giới thiệu sản phẩm tới các doanh nghiệp tại địa bàn hoạt động thông qua các hiệp hội như: Hiệp hội vận tải, Hội doanh nghiệp trẻ, Hiệp hội các doanh nghiệp vừa và nhỏ, các làng nghề...
Saigonbank cũng cần tăng cường mở rộng mạng lưới hoạt động ra các tỉnh phía bắc có nhiều tiềm năng như: Hải Dương, Thái Bình, Nam Định ... vừa mở rộng thị trường, vừa đảm bảo cung cấp các dịch vụ ngân hàng khác tốt hơn để gia tăng giá trị cho sản phẩm tín dụng như thanh toán, thẻ các loại ...Đồng thời cũng sẽ quảng bá hình ảnh của Saigonbank rộng khắp cả nước.
2.2.8 Đảm bảo nguồn vốn cho mở rộng tín dụng
Huy động vốn là một hoạt động quan trọng của ngân hàng thương mại, hoạt động này như là công tác cung cấp đầu vào cho hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp. Nếu đầu vào không được cung cấp đầy đủ số lượng cũng như chủng loại thì doanh nghiệp không thể đảm bảo sản lượng và chất lượng sản phẩm đầu ra cho thị trường. Tương tự như vậy nếu hoạt động huy động vốn của ngân hàng không phát triển xứng tầm thì cũng sẽ không đảm bảo nguồn vốn cho các hoạt động như thanh toán, cấp tín dụng và đảm bảo tính thanh khoản cho ngân hàng. Trong thời gian vừa qua chúng ta đã thấy được tính thanh khoản của các ngân hàng thương mại bị tác động mạnh thế nào, và cạnh tranh giữa các ngân hàng trong huy động vốn diễn ra rất quyết liệt. Do đó, để đảm bảo đủ nguồn vốn cho chiến lược mở rộng tín dụng của ngân hàng trong thời gian tới thì nhiệm vụ huy động vốn là rất nặng nề.
Để thực hiện tốt việc huy động vốn Saigonbank cần tăng cường công tác Marketing như trên, mở rộng mạng lưới giao dịch, phát triển các sản phẩm huy động đa dạng từ doanh nghiệp, tổ chức đến dân cư. Bên cạnh đó ngân hàng cũng có thể khai thác các nguồn vốn ưu đãi từ nước ngoài như nguồn vốn cho vay ưu đãi từ chính phủ nhật bản (JBIC), nguồn vốn cho vay của Ngân hàng đầu tư Bắc Âu cho các dự án nhập khẩu thiết bị có xuất xứ từ các nước khối Bắc Âu (NIB).
KẾT LUẬN
Bằng các kinh nghiệm làm việc thực tế tại Ngân hàng TMCP Sài gòn Công thương kết hợp kiến thức kinh tế tổng hợp, các kỹ năng thống kê phân tích được tiếp thu trong quá trình học, chuyên đã nêu lên thực trạng hoạt động tín dụng tại Ngân hàng TMCP Sài gòn Công thương. Những vấn đề còn tồn tại và đưa ra những giải pháp nhằm mở rộng hoạt động tín dụng của Ngân hàng TMCP Sài gòn Công thương.
Tôi xin trân trọng gửi lời cảm ơn tới PGS.TS Nguyễn Thị Bất, các giảng viên khoa Ngân hàng tài chính trường Đại học Kinh tế Quốc và Ban lãnh đạo, các thành viên Phòng Kinh doanh Ngân hàng TMCP Sài gòn Công thương đã giúp đỡ tôi trong công việc để tạo điều kiện cho tôi hoàn thành đề án này.
Hoạt động tín dụng luôn là hoạt động phức tạp chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố. Vì vậy chuyên đề khó tránh khỏi những thiếu sót, những vấn đề còn chưa được đề cập. Tác giả đề tài mong muốn nhận được các ý kiến đóng góp của các thầy cô giáo, đồng nghiệp, những người quan tâm để bổ sung hoàn thiện đề tài.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt
Trường Đại học kinh tế quốc dân, chủ biên TS Phan Thị Thu Hà, 2004, Giáo trình Ngân hàng thương mại, NXB Thống kê.
GS.TS Lê Văn Tư, Nghiệp vụ Ngân hàng Thương mại, NXB Tài chính.
Trường Đại học kinh tế thành phố Hồ chí Minh, chủ biên: PTS Trần Hoàng Ngân, nhóm biên soạn PTS Lê văn Tề, Võ Thị Tuyết Anh, Trương Thị Hồng, 1996, Tiền tệ - Ngân hàng và Thanh toán quốc tế, NXB Thống kê.
Học viện Ngân hàng, giáo trình Tín dụng Ngân hàng, NXB Thống kê năm 2001.
TS. Nguyễn Hữu Tài (chủ biên), 2002, Giáo trình Lý thuyết Tài chính Tiền tệ, NXB Thống kê.
PGS. TS Lê Văn Tề (chủ biên), 2003, Nghiệp vụ Ngân hàng thương mại, NXB Thống kê.
Các văn bản pháp luật: Luật Doanh nghiệp 2005, Luật đất đai 2003, Luật Thuế thu nhập Doanh nghiệp 2008, Bộ Luật Dân sự 2005, Luật các Tổ chức tín dụng, Quy chế cho vay của NHNN.
Một số luận văn thạc sỹ chuyên ngành Tài chính- lưu thông tiền tệ và tín dụng, Đại học KTQD.
Eward w. Read và Eward K. Gill (1993), “Ngân hàng thương mại”, Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh.
Fredric S. Mishkin (1995), “Tiền tệ, ngân hàng và thị trường tài chính”, Nhà xuất bản khoa học kỹ thuật, Hà Nội.
Website:
- NHNN: www.sbv.gov.vn
- Saigonbank : www.saigonbank.com.vn
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 6195.doc