Theo nguyên lý chung, muốn có tăng trưởng cao phải có đầu tư cao hay nói cách khác: đầu tư quyết định tăng trưởng. Một số quốc gia khi tiến hành đầu tư để phát triển kinh tế đều phải dựa vào hai nguồn chủ yếu là nguồn vốn trong nước và nguồn vốn của nước ngoài. Nguồn vốn trong nước là do tích luỹ từ nội tại nền kinh tế có được; nguồn vốn từ bên ngoài là do đi vay của các nước và các tổ chức tài chính quốc tế, nguồn viện trợ không hoàn lại và nguồn quan trọng nhất là từ đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam góp phần trang bị kỹ thuật và công nghệ tiên tiến cho nền kinh tế quốc dân.
Khả năng vốn có của đầu tư trực tiếp nước ngoài mang lại những đóng góp quan trọng cho việc phát triển nền kinh tế quốc dân nước ta trong những năm qua. Văn kiện hội nghị lần thứ 7, Ban chấp hành trung ương khoá VII có nêu: “Ưu tiên cho đầu tư trực tiếp nước ngoài, nhất là những công ty đa quốc gia và xuyên quốc gia tầm cỡ thế giới để tranh thủ chuyển giao công nghệ hiện đại, kỹ năng điều hành tiên tiến mở lối vào thị trường khu vực và quốc tế ” (1)
88 trang |
Chia sẻ: Dung Lona | Lượt xem: 1150 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng hoạt động xuất nhập khẩu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam trong thời gian vừa qua, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
các nước khai thác được những thế mạnh của quốc gia mình nhằm sản xuất ra các loại hàng hoá, dịch vụ đáp ứng được nhu cầu của các quốc gia khác. Lợi thế của mỗi nước có được khai thác hay không lại phụ thuộc vào việc các quốc gia có xác định đúng những lợi thế của mình đồng thời có các biện pháp thích hợp để khai thác nó bao gồm cả việc tận dụng sức mạnh của thời đại về khoa học công nghệ, khoa học quản lý Việt Nam có những thế mạnh chủ yếu về nguồn nhân lực dồi dào, về tài nguyên thiên nhiên phong phú và vị trí địa lý thuận lợi nhưng việc khai thác những lợi thế này còn rất hạn chế. Bởi chúng ta chưa kết hợp tốt giữa nội lực và ngoại lực. Vì thế, khai thác có hiệu quả lợi thế của sự phân công lao động quốc tế là một nội dung quan trọng của kinh tế đối ngoại.
ãĐa phương hoá các quan hệ kinh tế đối ngoại phù hợp với cơ chế thị trường, trên nguyên tắc bình đẳng và các bên cùng có lợi.
Các hoạt động kinh tế đối ngoại mang tính chất quốc gia rõ rệt bởi vì các chủ thể tham gia quan hệ là các quốc gia riêng lẻ và có lợi ích độc lập với nhau. Các quan hệ kinh tế đối ngoại không chỉ mang tính chất kinh tế thương mại, mà còn chịu sự chi phối không nhỏ của các yếu tố chính trị và ngoại giao, cho nên đa phương hoá thị trường là điều cần thiết.
Cần đi sâu nghiên cứu để lựa chọn đúng đối tượng và thị trường, nhằm đạt được mục tiêu đề ra theo đúng với chiến lược phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Lấy hiệu quả kinh tế xã hội làm tiêu chuẩn hàng đầu, đồng thời phải nắm vững phương châm độc lập tự chủ, các bên cùng có lợi. Xây dựng tín nhiệm quốc tế thực hiện nghiêm chỉnh các cam kết quốc tế là điều kiện không thể thiếu được trong quan hệ làm ăn với nước ngoài. Tuy nhiên, cần tranh thủ khai thác và mở rộng các quan hệ làm ăn với các nước Tây Âu và thị trường Bắc Mỹ là những nơi có tiềm lực mạnh về khoa học công nghệ và kinh nghiệm quản lý tiên tiến.
ãĐa dạng hoá các họat động kinh tế đối ngoại, phù hợp với điều kiện cụ thể của nền kinh tế trong nước và quốc tế.
Sử dụng tất cả các hình thức kinh tế đang phát huy tác dụng, đồng thời sử dụng một cách hợp lý các hình thức mới, đan xen nhau nhằm khai thác một cách có hiệu quả các thế mạnh của đất nước, đó là quy luật song trên cơ sở nắm bắt các quy luật, phát triển đa dạng các hình thức hoạt động kinh tế đối ngoại trên tất cả các mặt: xuất nhập khẩu hữu hình và vô hình, đầu tư nước ngoài và các hoạt động dịch vụ thu ngoại tệ.
ãNâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại trên cơ sở phát huy tác dụng kinh tế đối với nền kinh tế quốc dân và đời sống xã hội.
Hiệu quả kinh tế xã hội là mục tiêu hàng đầu của hoạt động kinh tế đối ngoại nói chung và đầu tư nước ngoài nói riêng và phải được xem xét một cách toàn diện, không những ở góc độ kinh doanh và kinh tế mà cả góc độ chính trị xã hội, trên phạm vi cả nước và toàn xã hội. Tiêu chuẩn để đánh giá hiệu quả của hoạt động kinh tế đối ngoại là những tác động của nó đối với toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Vì vậy hoạt động kinh tế đối ngoại là phải nhằm thúc đẩy sản xuất trong nước, giữ vững độc lập chủ quyền quốc gia và là nền tảng để nâng cao mức sống của nhân dân, thực hiện công bằng xã hội, thực hiện tốt các mục tiêu chiến lược mà Đảng và Nhà nước đã đề ra.
Không thể đặt lợi ích riêng của từng địa phương lên trên lợi ích của quốc gia, dân tộc mà phải đặt nó trong việc đạt được lợi ích chung của đất nước.
Hiệu quả kinh tế là thước đo chung về năng lực quản lý Nhà nước về kinh tế cũng như trình độ sản xuất kinh doanh, điều hành của các đơn vị cơ sở. Vì thế phải xây dựng và tuân thủ những chính sách và biện pháp quản lý đã đạt được hiệu quả trong từng khâu, từng cơ sở nhằm đạt được thành tích chung của nền kinh tế.
ãXử lý đúng đắn mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị.
Hoạt động kinh tế đối ngoại là quan hệ kinh tế của một nước với bên ngoài. Nó không đơn thuần là quan hệ kinh tế thông thường mà nhiều khi quan hệ kinh tế này chỉ được xác lập trên cơ sở của hoạt động chính trị - ngoại giao với tư cách là người mở đường, khai thông các quan hệ kinh tế và ngược lại quan hệ kinh tế phát triển lại góp phần củng cố cho mối quan hệ chính trị được bền chặt và thuận lợi.
Việc xử lý tốt mối quan hệ giữa chính trị với kinh tế là vấn đề có ý nghĩa quyết định của hoạt động kinh tế đối ngoại và là vấn đề cốt lõi trong chính sách đối ngoại của tất cả các nước.
Cơ sở để giải quyết vấn đề là lợi ích dân tộc, xem xét trên quan điểm tổng thể bao gồm lợi ích kinh tế và lợi ích chính trị, lợi ích trước mắt và lợi ích lâu dài của đất nước. Vì thế có thể phải hy sinh lợi ích trước mắt để đạt được lợi ích lâu dài và ổn định.
Để giải quyết hài hoá mối quan hệ giữa chính trị và kinh tế cần phải đa phương hoá các quan hệ kinh tế đối ngoại, đa dạng hoá các hoạt động kinh tế đối ngoại trên cơ sở giữ vững độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và cùng có lợi. Công tác an ninh quốc phòng phải tạo thuận lợi cho việc mở rộng kinh tế đối ngoại. Ngược lại hoạt động kinh tế đối ngoại phải đảm bảo độc lập chủ quyền và an ninh quốc gia.
Mặt khác, hoạt động kinh tế đối ngoại chỉ được mở rộng và phát triển trên cơ sở quan tâm đầy đủ đến lợi ích chính đáng, hợp pháp của các bên đối tác trên cơ sở đó xác định được điểm dung hoà về lợi ích trên nguyên tắc bình đẳng, cùng có lợi.
2.Hoàn thiện hệ thống pháp luật về đầu tư nước ngoài.
Sau khi đã quán triệt được quan điểm về đường lối phát triển kinh tế đối ngoại, việc đầu tiên cần làm đó là thu hút được nhiều nhà đầu tư nước ngoài. Có các nhà đầu tư thì mới có xuất khẩu. Muốn làm được điều này thì cần có một hệ thống pháp luật về đầu tư nước ngoài thật rõ ràng.
Bảo đảm một khuôn khổ pháp luật hấp dẫn, thông thoáng, rõ ràng, ổn định, một hệ thống ưu đãi và khuyến khích cao hơn các nước trong khu vực. Luật hoá, nâng cao chất lượng công tác làm luật, sao cho luật sau khi ban hành có sức sống trong thực tế và tương đối ổn định.
Vì thế luật vừa phải bao quát được các quan hệ xã hội phát sinh, vừa phải đủ mức cụ thể để không thể bị hiểu sai hay tạo chỗ hở để có thể bị lợi dụng, vừa phải mang tính dự báo những quan hệ sẽ phát sinh để ít bị thay đổi. Cùng với việc xây dựng luật phải dự thảo ngay các văn bản dưới luật nhằm cụ thể hoá và chi tiết hoá việc thực thị luật. Hiện tượng luật đã được ban hành nhưng không thể áp dụng được bởi không có các văn bản hướng dẫn, vẫn còn tình trạng các văn bản dưới luật chưa đủ cụ thể hoá và đôi khi còn trái với luật gây ra hậu quả là vô hiệu hoá luật hoặc tạo sơ hở để bị lạm dụng.
Luật trong lĩnh vực đầu tư nước ngoài phải phù hợp và đồng bộ với tiến trình xây dựng và hoàn thiện khung pháp luật chung của nước ta, trước hết là Luật Doanh nghiệp, Luật khuyến khích đầu tư trong nước
Nước chủ nhà có quyền quy định các luật lệ, chính sách để khuyến khích hoặc hạn chế đầu tư nước ngoài; nhà đầu tư nước ngoài cũng có quyền lựa chọn nước đến đầu tư. Lợi ích của nhà đầu tư là lợi nhuận nên họ chỉ đầu tư khi dự án ít chịu rủi ro, có thể thu hồi vốn nhanh và có lãi hợp lý. Vì thế, luật pháp cũng phải dung hoà được lợi ích của cả hai bên.
Trước hết cần sửa đổi một số điều trong các văn bản pháp lý liên quan đến đầu tư nước ngoài nhằm tháo gỡ những khó khăn trong hoạt động của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài như :
Nhà nước đã cho phép các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được thế chấp giá trị quyền sử dụng đất tại các ngân hàng hoạt động tại Việt Nam (Điều 46, Luật sửa đổi Luật đầu tư nước ngoài, 2000), nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp trong quá trình hoạt động và đây cũng là một giải pháp, là xu thế mà các nước trong khu vực đã áp dụng, song cần sớm ban hành các Nghị định và Thông tư hướng dẫn đề chủ trương này sớm trở thành hiện thực, nhằm tạo độ hấp dẫn cho môi trường đầu tư Việt Nam.
Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được phép trực tiếp tuyển dụng lao động Việt Nam bởi lao động là một trong ba yếu tố cấu thành một tổ chức, quyết định sự thành công hay thất bại của tổ chức. Trong ba yếu tố (nhân, tài, vật lực) thì con người vừa là trung tâm vừa là yếu tố quyết định, đặc biệt trong thời đại ngày nay khi mà các sản phẩm có hàm lượng khoa học cao, công nghệ cao đang thay thế dần các sản phẩm có hàm lượng lao động cao, hàm lượng nguyên liệu, năng lượng cao thì con người có tư chất thông minh sẽ là yếu tố quyết định, tạo ra lợi thế cạnh tranh cho các doanh nghiệp. Vì vậy cần phải sửa Điều 135 Bộ Luật Lao động cho phù hợp với yêu cầu mới trong cơ chế thị trường.
Để tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư giảm bớt chi phí đầu tư, cần phải sửa đổi Điều 4 Luật thuế giá trị gia tăng cho phép không tính thuế giá trị gia tăng đối với các thiết bị, máy móc dùng để tạo tài sản cố định cho các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
Muốn khuyến khích các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài sử dụng người Việt Nam giữ các vị trí quản lý và chuyên môn chủ chốt cần phải sửa đổi Pháp lệnh về thuế thu nhập cá nhân đối với người Việt Nam làm việc trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Hiện tại, thuế thu nhập cá nhân đánh vào người Việt Nam làm việc trong các doanh nghiệp này quá cao (cao hơn mức thuế đánh vào người nước ngoài cùng làm việc) làm cho giá tiền công của người lao động Việt Nam cao hơn so với các nước trong khu vực, điều này không chỉ làm giảm lợi thế về nguồn nhân lực dồi dào của Việt Nam, trong khi sức ép về việc làm đang rất căng thẳng, mà còn có thể dẫn đến các doanh nghiệp này sẽ thuê nhân công nước khác đến làm việc tại Việt Nam thay vì thuê nhân công Việt Nam. Như vậy, người Việt Nam có thể sẽ mất việc ngay trên đất nước mình nếu Nhà nước không có chính sách phù hợp.
Cần xem xét bổ sung hình thức đầu tư mới cho phù hợp. Bởi các hình thức đầu tư nước ngoài đang hiện hành đều được thiết lập theo mô hình công ty trách nhiệm hữu hạn. Hình thức này có một hạn chế lớn nhất là các doanh nghiệp không được phát hành cổ phiếu trong quá trình hoạt động kinh doanh, nên gặp nhiều khó khăn khi cần huy động thêm vốn để mở rộng sản xuất, kinh doanh hoặc cần chuyển nhượng vốn cho các đối tượng khác ngoài doanh nghiệp để nâng cao hiệu quả đồng vốn và phân tán rủi ro.
Mặc dù Nhà nước khuyến khích các doanh nghiệp trong nước mua lại cổ phần của doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài, song trên thực tế điều này rất khó thực hiện vì sự hạn chế của hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn. Vì vậy, nên bổ sung thêm các hình thức đầu tư mới như:
- Doanh nghiệp cổ phần có vốn nước ngoài, đây là hình thức được áp dụng tương đối rộng rãi trên thế giới và áp dụng thành công ở Trung Quốc. Nó giúp cho các nhà đầu tư có thể chủ động linh hoạt trong việc sử dụng vốn đầu tư và cung cấp thêm hàng hoá cho thị trường chứng khoán mới được hình thành ở nước ta.
-Hai là cho phép thành lập Chi nhánh công ty nước ngoài tại Việt Nam thực hiện hoạt động đầu tư. Đây cũng là hình thức được nhiều nước áp dụng, nó giúp cho các nhà đầu tư nước ngoài có thể cùng một lúc thực hiện việc đầu tư ở nhiều quốc gia, ở một mức độ nhất định có thể tham gia đầu tư mà chưa cần phải chuyển toàn bộ hoạt động của mình đến một quốc gia khác ở quy mô nhỏ. Hình thức này được áp dụng sẽ là một kênh đầu tư mới hấp dẫn.
-Ba là hình thữc công ty quản lý vốn. Hoạt động của công ty này giúp cho các nhà đầu tư nước ngoài điều phối và hỗ trợ hoạt động cho các dự án đầu tư khác nhau trên cùng một quốc gia một cách có hiệu quả, vừa tiết kiệm được chi phí, vừa nâng cao tính hiệu quả trong các dự án đầu tư của họ.
-Bốn là hình thức công ty hợp danh đây là hình thức được áp dụng rộng rãi trên thế giới, chủ yếu đối với một số lĩnh vực đòi hỏi uy tín, trình độ và trách nhiệm cá nhân cao của người cung cấp các dịch vụ như: kiểm toán, kế toán, tư vấn luật, khám chữa bệnh, thiết kế xây dựng Hiện nay, một số dự án đầu tư nước ngoài trong các lĩnh vực trên đã được cấp giấy phép, nhưng do luật đầu tư nước ngoài chưa quy định cụ thể về hình thức này nên các dự án vẫn chỉ được tổ chức dưới hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn, hoạt động chưa có hiệu quả.
Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Dầu khí và Luật Khoáng sản để tăng sức hấp dẫn các nhà đầu tư.
3.Hoàn thiện hệ thống chính sách cải thiện môi trường kinh doanh, môi trường đầu tư.
ãTiếp tục thực hiện lộ trình giảm chi phí đầu tư.
Quyết định số 53/1999/QĐ-TTg của Thủ tướng chính phủ là bước đi đầu tiên thực hiện lộ trình tiến tới tạo dựng một mặt bằng thống nhất giá hàng hoá dịch vụ đối với doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài theo tinh thần Nghị quyết trung ương lần thứ IV. Muốn vậy cần tiếp tục điều chỉnh một bước giá, phí các hàng hoá dịch vụ theo hướng quy định một mức giá, phí chung cho các doanh nghiệp không phân biệt hình thức sở hữu. Hiện tại ta đang duy trì mức giá, phí khác nhau nhất là giá, phí các loại vật tư thiết yếu cho sản xuất và sinh hoạt như quy định giá điện nước, cước phí vận tải, bưu điện khác nhau giữa doanh nghiệp trong và ngoài nước tạo ra chi phí dầu tư cao cho nhà đầu tư nước ngoài và cản trở thu hút đầu tư nước ngoài của môi trường Việt Nam
ãSửa đổi một số chính sách đang gây cản trở đầu tư nước ngoài.
Hoạt động của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài không chỉ chịu sự điều chỉnh của Luật đầu tư nước ngoài mà còn chịu sự điều chỉnh của pháp luật kinh tế nói chung. Hiện nay, môi trường kinh doanh của Việt Nam còn được đánh giá là còn nhiều hạn chế, gây cản trở cho hoạt động kinh doanh nói chung trong đó có các doanh nghiệp có vốn nước ngoài. Do đó, cần được gấp rút hoàn thiện hệ thống chính sách nhằm tạo điều kiện thuận lợi hơn cho hoạt động đầu tư nước ngoài.
Chính sách đất đai:
Luật Đất đai 1993 là một bước tiến đáng kể theo cơ chế thị trường. Sau Luật một loạt các Nghị định mới được triển khai nhằm cụ thể hoá luật. Tuy nhiên, việc ban hành các văn bản dưới luật nhìn chung còn chậm, thiếu đồng bộ gây khó khăn trong quá trình thực hiện. Ngoài ra cần soát xét lại giá cho thuê đất, mặc dù Nhà nước đã nhiều lần điều chỉnh giá cho thuê đất xuống cho phù hợp với giá thuê chung của khu vực xong cơ chế điều hành trong việc đền bù giải phóng mặt bằng vẫn còn nhiều điểm bất hợp lý, chưa thống nhất.
Cần sớm chấm dứt cơ chế doanh nghiệp Việt Nam góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất để tránh tình trạng doanh nghiệp liên doanh khi làm ăn thua lỗ, Nhà nước lại bị mất quyền sử dụng đất ngay trên đất nước mình và cũng để hạn chế tình trạng nhiều doanh nghiệp chỉ vì có quỹ đất rộng mà trở thành đối tác liên doanh trong khi lĩnh vực liên doanh không phù hợp với ngành nghề của mình và nghiễm nhiên ai có đất người đó trở thành chủ đầu tư liên doanh với nước ngoài. Nhà nước cần thực hiện việc thu hồi đất và giao cho các tổ chức kinh tế có đội ngũ cán bộ đủ năng lực chuyên môn, chuyên ngành để liên doanh với nước ngoài. Có như vậy mới khắc phục được sự yếu kém của đội ngũ cán bộ hoạt động trong bộ máy điều hành của các liên doanh với nước ngoài hiện nay.
Chính sách tài chính, tín dụng và ngoại hối.
Giảm dần tỷ lệ kết hối ngoại tệ để tiến tới xoá bỏ việc kết hối bắt buộc khi có điều kiện; từng bước thực hiện tự do hoá chuyển đổi ngoại tệ đối với các giao dịch vãng lai. Nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các giao dịch tiền tệ được diễn ra nhanh chóng trên thương trường, giảm thiểu chi phí đầu tư, chi phí kinh doanh.
Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được tiếp cận thị trường vốn; được vay vốn tín dụng kể cả trung và dài hạn tại các tổ chức tín dụng hoạt động tại Việt Nam tuỳ thuộc vào hiệu quả kinh tế, khả năng trả nợ của dự án và có thể bảo đảm bằng tài sản của các công ty mẹ ở nước ngoài, đây là cách thức mà các nước trong khu vực cũng như nhiều nước trên thế giới áp dụng nhằm tạo sự linh hoạt trong hoạt động của các doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài nói riêng.
Đồng thời phát triển mạnh thị trường vốn để các doanh nghiệp Việt Nam có thể góp vốn đầu tư bằng các nguồn huy động dài hạn như : trái phiếu, cổ phiếu; tiến tới thực hiện cổ phần hoá các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
Xây dựng quy chế quản lý hoạt động tài chính của doanh nghiệp đầu tư nước ngoài; ban hành chuẩn mực kiểm toán phù hợp với thông lệ quốc tế nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động của các doanh nghiệp, tạo dựng một nền tài chính doanh nghiệp rõ ràng, lành mạnh.
Bán nhà ở cho người nước ngoài.
“Có an cư mới lạc nghiệp”, đó không chỉ là câu châm ngôn của người Việt Nam mà còn là nhu cầu của tất cả mọi người, tạo ra tâm lý yên tâm, an toàn để làm ăn lâu dài. Điều này chi phối không nhỏ tới quyết định đầu tư của nhà đầu tư những dự án đầu tư dài hơn, lớn hơn có thể được thực hiện nếu họ có mặt trực tiếp ở đó với gia đình của họ, nhiều khi gia đình còn là cái cớ níu kéo họ. Gần đây Bộ Chính trị đã quyết định cho phép thí điểm nhà đầu tư nước ngoài được thuê đất xây dựng nhà ở theo hình thức 100% vốn đầu tư nước ngoài để cho thuê và bán đối với người Việt Nam và cho thuê đối với người nước ngoài. Đây là một chủ trương đúng, tuy nhiên, đến nay chưa có dự án nào được thực hiện bởi chính sách này chưa đủ sức hấp dẫn. Nhằm tạo điều kiện thuận lợi thu hút đầu tư vào các dự án xây dựng nhà ở, khu đô thị và để thị trường nhà ở khỏi bị đông kết, đề nghị cho phép bán nhà cho Việt kiều và người nước ngoài (được sở hữu nhà, nhưng thuê đất của Nhà nước) theo một quy chế chặt chẽ, chống đầu cơ và kinh doanh trái phép.
ãThực hiện đồng bộ chính sách khuyến khích đầu tư.
Muốn thu hút đầu tư nước ngoài vào các lĩnh vực,địa bàn và các dự án ưu tiên, khuyến khích đầu tư, cần tạo dựng và công bố một hệ thống ưu đãi cao hơn các nước trong khu vực, bởi Việt Nam là nước đi sau và lạc hậu hơn so với nhiều nước trong khu vực kể cả về sơ sở hạ tầng, trình độ khoa học công nghệ và nghèo. Nếu chúng ta không chịu thiệt để tạo ra những ưu đãi cao hơn các nước khác chúng ta sẽ không thể cạnh tranh được với họ.
Hoàn thiện các chính sách khuyến khích đầu tư trước hết là chính sách thuế.
Thuế ảnh hưởng đến quyết định đầu tư, bởi lợi nhuận tỷ lệ nghịch với tổng chi trong đó thuế chiếm tỷ trọng rất lớn; Thuế tạo ra thị trường đủ lớn cho nhà đầu tư sản xuất vào một ngành nào đó.Thuế quyết định dung lượng sản xuất và ảnh hưởng lớn đến quyết định đầu tư của nhà đầu tư; thuế là nguồn thu chính của mọi quốc gia, trên cơ sở nguồn thu, Chính phủ trang trải các nguồn chi trong đó có chi cho đầu tư phát triển tạo dựng môi trường kinh tế vĩ mô ổn định cho hoạt động đầu tư, là nguồn đối ứng quan trọng để thu hút đầu tư nước ngoài, vì thế thuế góp phần tạo dựng nên môi trường đầu tư ổn định hay bất ổn để các nhà đầu tư lựa chọn đầu tư.
Đối với nước sở tại, thuế là công cụ đòn bẩy trong tay Nhà nước, là biện pháp quan trọng để Nhà nước thực hiện việc khuyến khích hay hạn chế đầu tư vào một lĩnh vực nào đó, hướng đầu tư vào việc thực hiện các mục tiêu phát triển quốc kế dân sinh, thực hiện công bằng xã hội. Các ưu đãi về thuế là sự khuyến khích quan trọng về mặt tài chính để thu hút đầu tư nước ngoài.
Để nâng cao hiệu quả của công cụ thuế, hệ thống thuế đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài cần được cải tiến theo hướng :
- Dễ tính toán, đơn giản các mức thuế.
- Đảm bảo lợi ích quốc gia
- Có tác dụng khuyến khích đầu tư.
- Phù hợp với thông lệ quốc tế.
Cụ thể :
Cần thực hiện chính sách thuế nhập khẩu thực sự khuyến khích các doanh nghiệp sản xuất cơ khí, điện, điện tử, thiết bị viễn thông, cơ khí chế tạo, đặc biệt là công nghiệp phụ trợ sản xuất phụ tùng, linh kiện.
Bổ sung các ưu đãi cao hơn đối với các dự án chế biến nông, lâm thuỷ sản, đầu tư vào nông thôn và các địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn.
Đối với các dự án đặc biệt quan trọng cần xử lý đặc cách và có chính sách bảo hộ hợp lý trong lộ trình hội nhập.
Sử dụng các đòn bẩy kinh tế để khuyến khích doanh nghiệp hướng mạnh hơn nữa vào xuất khẩu (áp dụng chính sách thuế ưu đãi, thưởng xuất khẩu, đơn giản hoá thủ tục và thực hiện những biện pháp hỗ trợ ban đầu để tạo điều kiện cho doanh nghiệp xuất khẩu; khuyến khích chế biến sâu, sử dụng nguyên vật liệu sẵn có trong nước, tạo giá trị gia tăng cao).
4.Hoàn thiện hệ thống chính sách và pháp luật kinh tế về xuất khẩu.
ãNhà nước cần hoàn thiện các chính sách và biện pháp nhằm thúc đẩy việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, hướng mạnh hơn nữa vào xuất khẩu và ưu tiên, khuyến khích xuất khẩu đối với các doanh nghiệp trong nước cũng như doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam.
Đây là điều kiện vô cùng quan trọng, nó đòi hỏi phải thực hiện một cách nhất quán trong thực tiễn quản lý và điều hành các chủ trương xây dựng nền kinh tế hướng về xuất khẩu trong suốt tiến trình công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước. Đây là tiền đề rất quan trọng để định hướng các chính sách về tài chính, thương mại, đầu tư
Chính sách kinh tế hướng về xuất khẩu tự nó đảm bảo các yêu cầu về hội nhập quốc tế và khu vực, từng bước mở rộng thị trường đi liền với việc giảm dần các hàng rào thuế quan, bởi quan hệ kinh tế thị trường là dựa trên sự bình đẳng và cùng có lợi. Do vậy ta muốn phát triển mạnh xuất khẩu thì mặt khác ta cũng phải mở dần thị trường trong nước cho hàng hoá của các nước khác thâm nhập vào.
Phải căn cứ vào nhu cầu của thị trường trong nước kết hợp với nhu cầu của thị trường và các nước trong khu vực và thế giới làm cơ sở quyết định quy mô đầu tư để đảm bảo sự cạnh tranh của hàng hoá trên thị trường một cách hiệu quả nhất.
Chính sách kinh tế hướng mạnh về xuất khẩu phải thể hiện những yếu tố thông thoáng về môi trường đầu tư, do vậy cần có chính sách khuyến khích hơn nữa nhằm thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào phát triển kinh tế đặc biệt là phát triển sản xuất hàng xuất khẩu tại Việt Nam.
ãGiảm tối đa sự phân biệt đối xử giữa chủ đầu tư trong nước và nước ngoài, tạo một sân chơi bình đẳng đối với các loại hình doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế. Đặc biệt phải bình đẳng trong các lĩnh vực ưu đãi về hỗ trợ xuất khẩu (quỹ hỗ trợ xuất khẩu quốc gia, hỗ trợ lãi suất ) cũng như cần phải xoá bỏ sự phân biệt giữa các khoản chi gắn với xuất khẩu giữa các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài và doanh nghiệp trong nước.
Cho phép các nhà đầu tư có thể đầu tư vào các lĩnh vực mà pháp luật không cấm. Trước đây, pháp luật quy định các nhà đầu tư chỉ được phép đầu tư vào các lĩnh vực nhất định. Hiện nay, pháp luật đã cho phép các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài được phép đầu tư vào tất cả những lĩnh vực mà pháp luật không cấm. Nếu làm được điều này thì đồng nghĩa với việc có nhiều mặt hàng hơn để xuất khẩu. Tuy nhiên, quy định là thế còn thực hiện lại không được như thế, đặc biệt là trong kinh doanh xuất nhập khẩu. Đến đây nhìn chung vẫn còn tồn tại cơ chế “xin-cho”, có phần nặng về công việc hành chính mà chưa ngang tầm quản lý vĩ mô của ngành, tạo điều kiện cho tham nhũng, tiêu cực. Do đó, cần hết sức chú trọng tới việc quản lý điều hành theo pháp luật chứ không được duy trì cơ chế “xin cho”. Điều gì pháp luật không cấm làm thì phải được tự do kinh doanh theo đúng nghiã của nó chứ không để tình trạng gây khó khăn, phiền phức dưới mọi hình thức quản lý.
ãNhà nước cần có một chính sách thuế minh bạch, mềm dẻo và đồng thời quy định tỷ giá đồng nội tệ linh hoạt để đảm bảo khuyến khích phát triển xuất khẩu của các doanh nghiệp trong cả nước trong đó có doanh nghiệp vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam.
Tỷ giá đồng nội tệ có tác dụng thúc đẩy hoặc hạn chế xuất nhập khẩu hàng hoá, do vậy sử dụng công cụ tỷ giá là một việc làm của mọi Nhà nước và các Chính phủ trên toàn thế giới. Một tỷ giá tiền tệ hợp lý là hết sức cần thiết để phát triển xuất khẩu hàng hoá ở nước ta, góp phần xây dựng kinh tế đất nước.
5. Xây dựng hành lang pháp lý thống nhất, có hiệu lực.
Một hành lang pháp lý thống nhất sẽ góp phần tạo tâm lý yên tâm đầu tư kinh doanh của các nhà đầu tư nước ngoài, đặc biệt trong lĩnh vực kinh doanh xuất khẩu thường chịu nhiều rủi ro biến động của thị trường thế giới. Tuy nhiên trong thời gian qua, hệ thống pháp luật và quản lý nhà nước của Việt Nam vẫn còn rất nhiều vướng mắc, phức tạp, chồng chéo, gây cản trở đến hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp, đặc biệt là khu vực đầu tư nước ngoài vốn quen với những thủ tục đơn giản, rõ ràng. Trong hệ thống pháp luật có nhiều văn bản không thống nhất, giải thích không rõ ràng dẫn đến việc khi đi vào thực tế đã gặp phải nhiều rắc rối do sự chồng chéo, do sự giải thích sai lệch, do những lỗ hổng pháp luật. Hơn nữa, nhiều khi các văn bản của Nhà nước đã không khẳng định được hiệu lực pháp lý cuả mình làm hình thành nên tâm lý coi thường pháp luật hoặc không tin tưởng với những gì pháp luật quy định cũng như khuyến khích. Trong quản lý Nhà nước cũng diễn ra tình trạng chồng chéo, phủ định lẫn nhau, có những doanh nghiệp mỗi năm chiụ đến 4, 5 đợt kiểm tra, thanh tra của vài ba cơ quan Nhà nước thuộc những bộ ngành khác nhau. Việc quản lý này không những không phát huy hiệu quả mà còn gây nên nhiều phiền hà, rắc rối, mất thời gian cho các doanh nghiệp. Để khắc phục tình trạng trên, trong thời gian tới Nhà nước cần chú ý các mặt sau:
ãKhẩn trương tiến hành tổng rà soát văn bản quy phạm pháp luật, loại bỏ các văn bản lỗi thời, hết hiệu lực; khắc phục tình trạng trùng lặp, chồng chéo làm nảy sinh nhiều thủ tục phiền hà ngay trong quy định của pháp luật, nghiên cứu đổi mới phương thức và quy trình xây dựng văn bản pháp quy của Chính phủ và cán bộ để nâng cao chất lượng tính thống nhất theo đường lối, chính sách đổi mới, không bị chi phối bởi lợi ích cục bộ.
ãPhân định rõ ràng chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm và mối quan hệ giữa các cơ quan ở từng ngành, từng cấp, giữa Trung ương và địa phương trên cơ sở tách chức năng quản lý Nhà nước với chức năng quản lý sản xuất-kinh doanh của doanh nghiệp và họat động dịch vụ công ích của các đơn vị sự nghiệp.
ãThực hiện kết hợp hai yêu cầu: tăng cường vai trò lãnh đạo và quản lý tập trung, thống nhất của Trung ương về pháp luật, thể chế; mở rộng sự phân cấp, tăng quyền cho địa phương về quản lý kinh tế xã hội. Việc gì địa phương, cơ sở làm được và làm tốt thì phân giao rạch ròi, phát huy tinh thần chủ động, sáng tạo của địa phương, quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các doanh nghiệp, khắc phục tình trạng quan liêu, cục bộ.
ãCần có chế độ thưởng, phạt rõ ràng, kịp thời thì mới có tác dụng khuyến khích răn đe. Biện pháp sử dụng đòn bẩy kinh tế trong thời kỳ hiện nay thường được coi là biện pháp kích thích có hiệu quả nhất vì nó ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi của doanh nghiệp. Chế độ thưởng phát của Việt Nam cũng chuyển dần sang sử dụng các biện pháp kinh tế - đối với các doanh nghiệp hoạt động kinh doanh xuất khẩu, kể cả doanh nghiệp trong nước cũng như doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, nếu có thành tích tốt trong họat động xuất khẩu sẽ được thưởng xuất khẩu. Bên cạnh đó, nếu vi phạm các quy định của pháp luật thì cũng sẽ bị phạt nghiêm khắc. Tuy nhiên thời gian qua, việc thực hiện chế độ thưởng phát còn chưa linh hoạt, kịp thời nên chưa thực sự mang lại hiệu quả cao. Điều chỉnh vấn đề này trong thời gian tới sẽ góp phần thúc đẩy xuất khẩu nói chung và xuất khẩu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài nói riêng.
6.Ưu tiên vốn đầu tư nước ngoài phục vụ cho xuất khẩu.
ãTập trung vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào lĩnh vực nông nghiệp, chế biến nông lâm thuỷ sản, phát triển nông thôn nhằm tăng cường xuất khẩu của lĩnh vực này, góp phần đẩy mạnh công tác hiện đại hoá nông nghiệp. Trong thời gian tới, Nhà nước cần chú ý: tiếp tục bổ sung các ưu đãi, khuyến khích đầu tư nước ngoài đối với các dự án chế biến nông, lâm, thuỷ sản như miễn tiền thuê đất trong những năm đầu, áp dụng thuế suất, thuế thu nhập doanh nghiệp ưu đãi nhất trong khung (ở nước ta miễn thuế 8 năm còn ở Thái Lan miễn thuế 8 năm và giảm 50% trong 5 năm tiếp theo), ưu đãi đặc biệt cho các dự án tạo giống cây, giống con mới, chất lượng cao đáp ứng yêu cầu xuất khẩu.
ãHướng đầu tư nước ngoài vào xây dựng các ngành công nghiệp công nghệ cao để tạo ra hàng xuất khẩu có giá trị cao trong thời gian tới. Chính sách khuyến khích các ngành công nghiệp chế biến xuất khẩu cần xây dựng theo hướng sau:
Miễn giảm thuế thu nhập doanh nghiệp với mức cao hơn, thực hiện chế độ phân bố hạn ngạch xuất khẩu cho các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
Thu hẹp danh mục các sản phẩm phải đảm bảo xuất khẩu từ 80% trở lên theo hướng chỉ áp dụng yêu câù này đối với một số sản phẩm thật cần thiết phải bảo hộ, đối với những sản phẩm thực sự có lợi thế cạnh tranh, đồng thời xử lý linh hoạt bằng cách không bắt buộc các nhà đầu tư phải cam kết xuất khẩu ngay từ đầu mà có thể thực hiện từng bước. Đối với các dự án đang hoạt động, gặp khó khăn khách quan do thị trường bị thu hẹp có thể cho phép tăng tỷ lệ tiêu thụ nội địa trong trường hợp sản phẩm cùng loại vẫn phải nhập khẩu vào thị trường trong nước có nhu cầu. Thêm nữa, cần chuyển sang áp dụng các biện pháp kinh tế, dùng đòn bẩy kinh tế là chủ yếu để khuyến khích xuất khẩu.
7.Cải tiến thủ tục hành chính.
Đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính theo hướng tạo thuận lợi, giảm phiền hà, giảm thời gian đối với việc cấp giấy phép xuất khẩu, thủ tục hải quan, hoàn thuế VAT, thuế nhập khẩu nguyên liệu đối với các sản phẩm xuất khẩu. Cho tới nay, Tổng cục Hải quan đã phối hợp với Bộ Thương mại và Bộ Tài chính rà soát lại toàn bộ quy trình làm thủ tục hải quan cho hàng hoá xuất khẩu bao gồm quy trình kiểm hoá, quy trình thu và hoàn thuế, phương pháp áp mã tính thuế để giảm bớt những khâu không cần thiết, tạo thuận lợi hơn nữa cho hoạt động xuất khẩu.
8.Xây dựng cơ chế xúc tiến thương mại, cung cấp thông tin hỗ trợ xuất khẩu.
Xúc tiến thương mại đã thực sự thu hút được sự quan tâm của các cơ quan hoạch định chính sách và quản lý Nhà nước cũng như giới kinh doanh và ngày càng khẳng định vài trò quan trọng trong việc thúc đẩy sản xuất và tiêu thụ sản phẩm nhất là trong lĩnh vực xuất khẩu. Nhiều hoạt động được triển khai nhằm củng cố thêm nhận thức của xã hội, của các cấp ngành các doanh nghiệp như toạ đàm, viết bài trên báo chí, phóng sự truyền hình đề cập tới vấn đề cấp bách là tăng cường hoạt động xúc tiến thương mại, nâng cao năng lực cạnh tranh cho các doanh nghiệp trong bối cảnh của xu thế toàn cầu hoá, tự do hoá về thương mại và đầu tư.
Trước yêu cầu đẩy mạnh xúc tiến thương mại cho các doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài kinh doanh xuất khẩu, Việt Nam cần quan tâm hơn nữa đến việc phát triển chương trình này. Xúc tiến thương mại bao gồm một loạt các biện pháp về quảng cáo tiếp thị ở trong nước và nước ngoài, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp xuất nhập khẩu trao đổi, nắm bắt được nhu cầu mới của thị trường thế giới để vạch ra những kế hoạch sản xuất kinh doanh có hiệu quả hơn.
9.Công tác đào tạo cán bộ.
Công tác đào tạo con người là một nhiệm vụ quan trọng không chỉ riêng đối với một lĩnh vực nào. Trong điều kiện nước ta còn khó khăn về nhiều mặt, công tác đào tạo cán bộ cũng còn chưa được quản tâm đúng mức. Hiện nay, mặc dù lực lượng lao động rất đông đảo nhưng đội ngũ cán bộ có trình độ chuyên môn của Việt Nam vẫn còn hạn chế. Đặc biệt trong lĩnh vực xuất khẩu và đầu tư trực tiếp nước ngoài đòi hỏi rất nhiều kỹ năng chuyên môn như nghiệp vụ kinh doanh xuất khẩu, ngoại ngữ, hợp tác đầu tư , số lượng những cán bộ có thể đáp ứng được là ít. Công tác cán bộ cũng là công tác yếu kém nhất của Việt Nam thời gian qua trong lĩnh vực đầu tư cũng như thương mại quốc tế. Điều này đã khiến cho Việt Nam chịu rất nhiều thua thiệt. Chính vì vậy, trong thời gian tới, công tác đào tạo cán bộ cần phải được chú trọng đặc biệt.
ãĐội ngũ làm công tác quản lý, xây dựng cơ chế chính sách cần được lựa chọn, bố trí những cán bộ thực sự am hiểu, có kinh nghiệm, có thể làm tham mưu tốt về mặt chủ trương, chính sách, chiến lược cho ngành, không nên bố trí những người thiếu kiến thức, nặng sự vụ hành chính quan liêu.
ãTăng cường công tác cán bộ, kể cả ở các cơ quan quản lý Nhà nước. Tổ chức nhiều lớp đào tạo, bồi dưỡng kiến thức cho cán bộ quản lý và công nhân kỹ thuật của các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực xuất khẩu để cung cấp đủ kinh nghiệm cũng như kiến thức đóng vai trò quyết định trong việc đấu tranh bảo vệ lợi ích của bên Việt Nam.
ãQuản lý chặt chẽ và điều hành công tác xuất khẩu, phối hợp tốt với các doanh nghiệp sản xuất, các cơ quan chức năng góp phần chỉ đạo quản lý có hiệu quả, tránh sự gian lận cũng như chồng chéo, góp phần giữ vừng những cân đối lớn của nền kinh tế quốc dân.
II.Các giải pháp từ phía các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
Nhà nước chỉ hỗ trợ được phần nào hoặc góp phần tạo thuận lợi hơn cho xuất khẩu chứ không thể thay thế được bản thân các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Vì vậy, các doanh nghiệp không nên trông chờ quá nhiều vào những khuyến khích, những điều kiện thuận lợi từ phía Nhà nước mà cần phải tự mình chủ động phát huy tiềm năng của doanh nghiệp, đa dạng hoá mặt hàng, tìm kiếm thị trường, bạn hàng để nâng cao năng lực kinh doanh, đẩy mạnh xuất khẩu của mình.
1.Củng cố và phát huy tiềm năng của doanh nghiệp
Tiềm năng của doanh nghiệp có thể bao gồm vốn kỹ thuật, công nghệ, tổ chức quản lý kinh doanh Muốn kinh doanh thành công nói chung và xuất khẩu thành công nói riêng, các doanh nghiệp phải không ngừng củng cố và phát huy tiềm năng của mình.
ãVề vốn:
Vốn là vấn đề quan tâm hàng đầu của mọi đơn vị xản xuất-kinh doanh. Các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài có thể mạnh hơn các doanh nghiệp Việt Nam ở chỗ họ có thể có nhiều vốn hơn. Nhưng chỉ nhiều hơn thì chưa đủ mà phải biết sử dụng nguồn vốn đó như thế nào, phải huy động thêm vốn như thế nào để không ngừng mở rộng và phát triển sản xuất-kinh doanh.
Các doanh nghiệp có thể bổ sung vốn lưu động và vốn cố định của mình trích từ lợi nhuận hàng năm. Đây phải là nguồn vốn cơ bản của Công ty vì nguồn vốn bên trong bao giờ cũng là vốn quyết định năng lực thực sự. Sẽ tuỳ thuộc vào kết quả kinh doanh của mỗi năm mà nguồn vốn này có thể thay đổi. Nếu kinh doanh tốt thì nguồn vốn này sẽ được bổ sung thêm và ngược lại. Khi nguồn vốn được bổ sung và sử dụng có hiệu quả thì có cơ hội để kinh doanh tốt.
Nhưng một doanh nghiệp biết cách kinh doanh là một doanh nghiệp phải biết tận dụng không chỉ nguồn vốn tự có của mình. Việc huy động và sử dụng vốn bên ngoài cũng là một cách kinh doanh khác, vừa là để bổ sung cho tổng vốn, vừa để tận dụng hiệu quả nguồn lực nhàn rỗi của xã hội. Như ta thấy hiện nay, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài vẫn đang yêu cầu có cơ chế cho vay đơn giản từ phía Ngân hàng, các tổ chức tín dụng Sự lớn mạnh và phát triển của nền kinh tế thị trường đòi hỏi hệ thống ngân hàng và tổ chức tài chính, tín dụng phải phát triển một cách tương ứng. Ngược lại, những doanh nghiệp nào biết sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn ngoài nguồn sẵn có thì doanh nghiệp đó sẽ thành công.
Một nguồn vốn phụ khác có thể huy động được là từ phía đối tác kinh doanh. Trong nhiều trường hợp, doanh nghiệp có thể yêu cầu hỗ trợ tín dụng từ phía đối tác. Cụ thể là đối với một số hợp đồng xuất khẩu (quá lớn hoặc độ rủi ro cao) doanh nghiệp nên yêu cầu người mua (nhập khẩu) ứng trước một phần hoặc toàn bộ giá trị hợp đồng, doanh nghiệp có thể sử dụng số tiền ứng trước đó như vốn của mình.
ãVề kỹ thuật công nghệ
Ngày nay, khi khoa học công nghệ đã trở thành tư liệu sản xuất thì việc tăng cường đầu tư cho mặt này trong mỗi doanh nghiệp cũng là điều dễ hiểu. Khoa học kỹ thuật tiên tiến và phù hợp là tiền đề cho việc đa dạng hoá sản phẩm, nâng cao năng lực cạnh tranh.
Các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài có thể tận dụng tiềm lực vốn và công nghệ của mình để tăng năng suất lao động, giảm chi phí, tăng chất lượng hàng hoá, tăng khả năng cạnh tranh khi xuất khẩu. Không chỉ dừng ở việc chế tạo, lắp ráp, sơ chế mà phải dần theo hướng tinh chế nhằm tạo ra những mặt hàng mới, giá trị và chất lượng cao trong xuất khẩu.
Việt Nam có lợi thế quan trọng về lao động và tài nguyên, vì vậy trước mắt, khi chưa thể chuyển hẳn sang những ngành công nghệ cao, các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vẫn cần hướng vào những ngành sử dụng nhiều lao động như nông, lâm, thuỷ sản phục vụ xuất khẩu.
Không ngừng đầu tư vào công nghệ mới, khoa học kỹ thuật tiên tiến. Trong nhiều trường hợp, tận dụng những công nghệ sẵn có chưa đủ để giành được thắng lợi. Vì vậy khi cần thiết các doanh nghiệp vẫn cần mạnh dạn đầu tư vào những công nghệ tiên tiến nhất, vượt trội nhất để đạt được mục tiêu của mình. Công nghệ mới sẽ giúp cho doanh nghiệp có lợi thế trên thương trường khi tung ra một sản phẩm mới, đáp ứng được thị trường quốc tế luôn cạnh tranh gay gắt. Công nghệ kỹ thuật mới cũng giúp cho doanh nghiệp có được vị thế tốt.
ãVề vấn đề tổ chức hoạt động xuất khẩu.
Tổ chức hoạt động xuất khẩu không chỉ tập trung ở những khâu công việc cụ thể mà trước hết còn ở việc tổ chức hệ thống quản trị.
Để đối phó với một thị trường cạnh tranh gay gắt, việc nâng cao chất lượng công tác quản trị mang tính tất yếu. Nâng cao chất lượng công tác quản trị nhằm thích ứng với thay đổi của môi trường, chủ động và hiệu quả hơn. Việc đổi mới và hoàn chỉnh bộ máy tổ chức doanh nghiệp phải đảm bảo yêu cầu gọn nhẹ, hợp lý. Gọn nhẹ là để tránh vết mòn mà các doanh nghiệp Việt Nam thường đi qua là quá cồng kềnh dẫn tới chồng chéo, phủ định nhau, hơn nữa sẽ không phát huy được tối đa năng lực của mỗi người. Hợp lý là vừa để vận dụng được hiệu quả nguồn trí lực hiện có, vừa tạo ra kết quả tốt. Để đạt được điều này, các doanh nghiệp cần thực hiện việc phân định rõ trách nhiệm và quyền hạn của các nhà quản trị cấp cao; phân công đúng nhiệm vụ phù hợp với năng lực cho mỗi nhà quản trị; tổ chức sắp xếp lại thành viên trong các ban chức năng
Sau khi đã có một tổ chức quản lý hợp lý, doanh nghiệp mới có thể tiến hành tổ chức hoạt động xuất khẩu cho có hiệu quả được. Các doanh nghiệp xuất khẩu không chỉ là những đơn vị sản xuất hàng phục vụ xuất khẩu mà còn thực hiện thu mua tạo nguồn hàng xuất khẩu. Đối với những doanh nghiệp chỉ đơn thuần sản xuất hàng xuất khẩu thì biện pháp cần thiết để đẩy mạnh xuất khẩu là đa dạng hoá loại hình kinh doanh, đa dạng hoá mặt hàng xuất khẩu. Điều này sẽ được trình bày rõ hơn ở mục sau. Đối với các doanh nghiệp kinh doanh mặt hàng xuất khẩu thông qua thu mua, tạo nguồn thì biện pháp cần thiết là:
- Mở rộng hình thức tạo nguồn: Muốn hoạt động xuất khẩu tiến hành được thì điều kiện đầu tiên là phải có hàng hoá để xuất khẩu, nghĩa là phải có nguồn hàng xuất khẩu. Vì vậy, công tác tạo nguồn chiếm phần lớn thời gian trong cả quá trình thực hiện các nghiệp vụ xuất khẩu và đóng vai trò quan trọng đối với hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp. Thông thường thì các hoạt động tạo nguồn chủ yếu là do thu mua từ các địa phương rồi đem về phân loại, đóng gói. Với hình thức này, việc tạo nguồn diễn ra đơn giản, nhanh gọn, vốn quay vòng nhanh, không đòi hỏi máy móc thiết bị cồng kềnh, có thể chuyển đổi mặt hàng kinh doanh một cách linh hoạt. Tuy nhiên nếu chỉ sử dụng duy nhất hình thức này thì hiệu quả đạt được sẽ không cao vì như vậy doanh nghiệp chỉ có mối quan hệ kinh tế hết sức đơn điệu. Hơn thế, đối với những nguồn hàng nhỏ lẻ, cá thể thì các doanh nghiệp không thể mua trực tiếp được vì sẽ tốn rất nhiều thời gian. Vì thế đa dạng hoá các loại hình tạo nguồn cũng là điều cần làm. Các doanh nghiệp có thể tìm ra các hình thức tạo nguồn hàng xuất khẩu mới thông qua mạng lưới bạn hàng của mình. Các doanh nghiệp cũng có thể nhận xuất khẩu uỷ thác - hình thức này hiện nay đang rất được ưa chuộng. Các doanh nghiệp có thể lợi dụng mối quan hệ bạn hàng rộng rãi đa phương của mình để có thể thực hiện được nhiều hơn các hợp đồng uỷ thác xuất khẩu.
- Tổ chức tốt khâu bảo quản, dự trữ : Một trong những biện pháp nâng cao chất lượng hàng xuất khẩu là củng cố, hoàn thiện khâu dự trữ, bảo quản hàng hoá. Điều này ở các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài có phần tốt hơn các doanh nghiệp trong nước, mặc dù vậy vẫn cần chú ý đến nhiều hơn.
Trong tình hình hiện nay, có nhiều doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài muốn đầu tư vào những ngành và lĩnh vực được Nhà nước bảo hộ nhiều hơn là đầu tư vào kinh doanh xuất khẩu. Có những doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực cụ thể và đòi hỏi Nhà nước bảo hộ cho ngành mà mình hoạt động kinh doanh. Điều này thực sự không làm phát huy tính chủ động, sáng tạo, tính cạnh tranh lành mạnh trong nền kinh tế thị trường cũng như trong hoạt động xuất khẩu.
ãTóm lại các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài cần phát huy những lợi thế vốn có về vốn, về công nghệ kỹ thuật, về tổ chức sản xuất để đầu tư, sản xuất những sản phẩm mới có chất lượng cao và có sức cạnh tranh lành mạnh trên thương trường quốc tế.
2.Chủ động tìm kiếm thị trường, bạn hàng.
Doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam có ưu thế về thị trường và có nhiều kinh nghiệm về thâm nhập thị trường hơn các doanh nghiệp trong nước, do vậy cần phải phát huy những ưu điểm này để đẩy mạnh xuất khẩu hàng hoá ra nước ngoài.
Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thường có các công ty mẹ, các chi nhánh ở nước ngoài, do vậy đây là đầu cầu để tăng cường giao lưu trao đổi thông tin và bàn bạc ký kết hợp đồng thuận tiện hơn rất nhiều so với các doanh nghiệp trong nước. Khi phát huy được những lợi thế vốn có này sẽ góp phần đẩy mạnh phát triển xuất khẩu trong tương lai. Cụ thể, các doanh nghiệp có thể áp dụng một số hình thức sau:
ãĐẩy mạnh công tác marketing thương mại: chính sách marketing phù hợp sẽ là công cụ quan trọng để đạt mục tiêu của mỗi doanh nghiệp. Marketing hỗn hợp nếu sử dụng sai lệch thì không những không mở rộng được thị trường mà còn mất thêm khách hàng truyền thống. Điều này đòi hỏi mỗi doanh nghiệp phải xây dựng cho mình chiến lược marketing có tính khả thi kết hợp hài hoà với các tham số của nó.
- Về sản phẩm: Doanh nghiệp cần phải xác định các sản phẩm đưa ra thị trường nào thì phải phù hợp với thị trường đó. Do nhu cầu thị hiếu của các thị trường khác nhau và luôn thay đổi nên các mặt hàng của doanh nghiệp cũng phải không ngừng thay đổi theo.
- Về giá cả: Giá cả là công cụ giúp các doanh nghiệp thực hiện mục tiêu lợi nhuận song nó cũng là yếu tố quan tâm hàng đầu của khách hàng. Chính vì vậy các doanh nghiệp cần có chính sách định giá hợp lý vừa đảm bảo thực hiện mục tiêu của mình, vừa đảm bảo lợi ích cho khách hàng.
- Về phân phối: Xuất phát từ đặc điểm của môi trường kinh doanh là các thị trường khác nhau, do đó chi phí để thực hiện phân phối cũng khác nhau nên các doanh nghiệp cần phải xây dựng hệ thống kênh phân phối để tận dụng tối đa các nguồn lực, đồng thời tiết kiệm tối đa các chi phí phát sinh.
- Về xúc tiến: Xúc tiến thương mại có thể được thực hiện thông qua hội chợ, triển lãm, khuyến mại, quảng cáo Những hoạt động này cần phải được sử dụng một cách phù hợp trong mỗi điều kiện, mỗi hoàn cảnh, mỗi thị trường khác nhau.
ãCác doanh nghiệp nên chú trọng chuyển dịch cơ cấu thị trường theo hướng tăng nhanh các thị trường tiêu thụ trực tiếp và có sức mua lớn như EU, Nhật, Mỹ , giảm dần các thị trường trung gian, từng bước khôi phục lại các thị trường Liên bang Nga, các nước Đông Âu, tích cực tìm kiếm các thị trường mới.
3.Đa dạng hoá loại hình kinh doanh - mặt hàng kinh doanh.
Đa dạng hoá kinh doanh vừa để hạn chế rủi ro, vừa tận dụng hết những nguồn lực, đồng thời phục vụ được nhiều đối tượng, góp phẩn mở rộng thị trường. Đây là xu hướng chung của các doanh nghiệp trong tình hình hiện nay.
ãĐa dạng hoá mặt hàng kinh doanh.
Các doanh nghiệp cần chú ý đầu tư vào những ngành quy mô vừa và nhỏ làm phong phú mặt hàng kinh doanh. Những lĩnh vực đầu tư quy mô vừa và nhỏ tạo điều kiện cho doanh nghiệp chuyển đổi linh hoạt cơ cấu mặt hàng kinh doanh, tạo lợi thế cạnh tranh về sản phẩm. Nhưng đối với những doanh nghiệp đang hoạt động kinh doanh, việc cải tiến cơ cấu mặt hàng phải theo hướng khác. Mặc dù thông thường, mỗi doanh nghiệp đều phải có một hệ thống các sản phẩm hàng hoá xuất khẩu đa đạng nhưng theo đòi hỏi của thị trường thì việc đổi mới hệ thống này phải được thực hiện không ngừng Các doanh nghiệp cần không ngừng bổ sung những chủng loại hàng mới, chuyển đổi cơ cấu mặt hàng xuất khẩu theo yêu cầu của thị trường. Bên cạnh những mặt hàng truyền thống của doanh nghiệp cần tiếp tục phát huy vai trò chủ lực, các doanh nghiệp cũng cần chú trọng tới nhóm mặt hàng mới. Việc chuyên môn hoá vào những mặt hàng có lợi thế, những mặt hàng mới sẽ giúp cho cơ cấu mặt hàng xuất khẩu của các doanh nghiệp phong phú hơn.
Đa dạng hoá mặt hàng kinh doanh không chỉ có nghĩa là mở rộng danh mục mặt hàng mà điều cốt yếu quan trọng là phải không ngừng nâng cao chất lựơng hàng xuất khẩu của mình. Hàng hoá muốn xuất khẩu không thể không chú ý đến chất lượng, nhất là trong tình hình hiện nay, khi cung luôn vượt quá cầu thì chất lượng là một trong những vũ khí cạnh tranh hữu hiệu nhất. Chất lượng cũng không chỉ thể hiện ở sản phẩm mà còn thể hiện qua bao bì, qua giá cả, qua các dịch vụ kèm theo Chính vì vậy, việc nâng cao chất lượng hàng xuất khẩu là phải hoàn thiện đồng bộ các mặt trên. Việc đáp ứng nhu cầu của khách hàng bằng cách đẩy mạnh các hoạt động dịch vụ cũng sẽ mang lại hiệu quả đáng kể vì một khi các sản phẩm có chất lượng, giá cả tương đương nhau, dịch vụ tốt hơn sẽ thu hút nhiều khách hàng hơn.
ãĐa dạng hoá loại hình kinh doanh.
Bên cạnh việc đa dạng hoá mặt hàng xuất khẩu, các doanh nghiệp cũng cần phải đa dạng hơn các loại hình kinh doanh xuất khẩu. Có thể có các hình thức kinh doanh xuất khẩu như hình thức xuất khẩu tự doanh. Với hình thức này, các doanh nghiệp sẽ tự tìm kiếm, giao dịch và thực hiện hợp đồng với bạn hàng. Điều này cũng có nghĩa là các doanh nghiệp phải năng động, sáng tạo, chủ động hơn trong các hoạt động kinh doanh. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp còn có thể tiến hành xuất khẩu uỷ thác cho các đơn vị sản xuất kinh doanh khác để thu phí dịch vụ uỷ thác. Đối với loại hình này, các khâu nghiệp vụ được rút ngắn lại, các doanh nghiệp chỉ phải thực hiện việc ký kết, thực hiện hợp đồng với nước ngoài và làm những thoả thuận cần thiết (bằng văn bản) với các đơn vị sản xuất trong nước. Ngoài ra, các doanh nghiệp còn có thể xuất khẩu theo hình thức buôn bán đối lưu, qua đó đáp ứng nhu cầu của phía nước ngoài nếu họ đang tìm kiếm loại hàng hoá mà công ty kinh doanh bằng việc tiến hành trao đôỉ hàng hoá có giá trị tương đương với nhau. Doanh nghiệp có thể phối hợp sử dụng linh hoạt các hình thức này phù hợp với từng điều kiện cụ thể sao cho có hiệu quả tốt nhất.
4.Việt Nam vốn là một nước có thiên nhiên ưu đãi, có địa lý thuận tiện, có tiềm lực về lao động to lớn và có một chính sách khuyến khích sản xuất hướng mạnh xuất khẩu, do vậy đây là những cơ hội để các nhà đầu tư nước ngoài tại Việt Nam tranh thủ, tận dụng vào việc phát triển sản xuất hàng xuất khẩu.
5. Để đẩy mạnh xuất khẩu hàng hoá ra thị trường bên ngoài đòi hỏi các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam cần quan tâm đúng mức yếu tố con người trong các khâu từ sản xuất đến xuất khẩu hàng hoá, quan tâm trong việc đào tạo bồi dưỡng tay nghề, quan tâm trong việc tăng thêm thu nhập về lương và các chế độ chăm sóc sức khoẻ ngừơi lao động. Có như vậy mới phát huy được yếu tố con người trong chiến lược phát triển xuất khẩu.
Kết luận
Xuất nhập khẩu hàng hoá có một vai trò vô cùng quan trọng đối với một nền kinh tế thực hiện chiến lược kinh tế mở. Thông qua hoạt động xuất nhập khẩu hàng hoá giúp cho nền kinh tế đất nước phát triển mạnh mẽ, góp phần đưa nền kinh tế quốc gia hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới, phù hợp với xu thế chung về tính toàn cầu hoá nền kinh tế ngày nay.
Xuất khẩu hàng hoá ngày càng khẳng định là hướng đi đúng và là mục tiêu hàng đầu của một nền kinh tế mở. Do vậy Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm tới lĩnh vực xuất khẩu hàng hoá nên đã đề ra một loạt các giải pháp khuyến khích mạnh xuất khẩu đối với các doanh nghiệp trong nước cũng như đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam. Nước ta đã trải qua hơn 10 năm thực hiện chiến lược mở cửa nền kinh tế và cũng thời gian này, hàng hoá nước ngoài ngày càng thâm nhập vào thị trường nước ta, hàng hoá của chúng ta cũng vươn mạnh ra thị trường bên ngoài. Để đạt hiệu quả cao khi tham gia vào thương mại quốc tế, tất yếu đòi hỏi phải đẩy mạnh xuất khẩu hàng hoá của nước nhà. Hơn 10 năm thực hiện Luật đầu tư nước ngoài tại Việt nam, chúng ta đã thu hút một nguồn vốn đáng kể từ bên ngoài vào xây dựng và phát triển kinh tế, các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài có những ưu thế trội hơn so với các doanh nghiệp trong nước trong lĩnh vực phát triển xuất khẩu. Những ưu thế về vốn, thiết bị máy móc kỹ thuật và quy trình công nghệ tiên tiến, ưu thế về thâm nhập thị trường Khi được kết hợp với những chính sách ưu tiên khuyến khích xuất khẩu của Đảng và Nhà nước ta sẽ góp phần thúc đẩy mạnh xuất khẩu trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam.
Với những chủ trương, chính sách khuyến khích mạnh xuất khẩu của Đảng và Nhà nước, với những tiềm năng sẵn có trong nước cùng với tiềm năng vốn có của các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt nam, chúng ta hy vọng hoạt động xuất khẩu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam sẽ đạt được những kết quả lớn hơn trong những năm tới, đóng góp tích cực vào công cuộc công nghiệp hoá-hiện đại hoá đất nước ta trong thế kỷ 21.
Danh mục tài liệu tham khảo
1. Văn kiện Hội nghị TW, khoá VII
2. Báo cáo của Bộ Thương mại ngày 30/12/1994
3. Niên giám thống kê 1999
4. Báo cáo của Bộ Thương mại tháng 11/1996 và 11/1997.
5. Quyết định 28 TTg, ngày 13/1/1997 của Thủ tướng Chính phủ
6. Báo cáo của Bộ Thương mại tháng 3/1999
7. Báo cáo của Bộ Thương mại tháng 11/1998
8. Báo cáo của Bộ Thương mại ngày 15/11/1999
9. Tập tài liệu Vụ Đầu tư-Bộ Thương mại
10.Báo cáo tình hình thực hiện năm 2000-Vụ Đầu tư-Bộ Thương mại.
11. Nghị định số 10/1998/NĐ-CP về một số biện pháp khuyến khích đầu tư
12. Quyết định số 1921/QĐ-TM ngày 1/9/1999 về bãi bỏ việc duyệt xuất nhập khẩu
13. Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam sửa đổi năm 2000
14. Nghị định 12 CP
15. Thời báo kinh tế Việt Nam năm 2000
16. Giáo trình Khoa học quản lý- Trường ĐH KTQD
17. Giáo trình Quản lý kinh tế- Trường ĐH KTQD
Mục lục
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 6819.doc