Đề tài Thực trạng kinh tế hợp tác xã trong nông nghiệp ở nước ta

Trong nền kinh tế thị trường ồ ạt như hiện nay đâu đâu cũng chỉ thấy mọc lên những công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần hay doanh nghiệp tư nhân liệu có ai đặt ra câu hỏi rằng: đến khi nào đó mô hình kinh tế HTX hoàn toàn bị biến đổi hay bị thay thế bởi một mô hình kinh tế khác hay không? Bởi lẽ rằng ngay trước mắt kinh tế HTX đã mang trong mình nó bao bất cập, khó khăn: sự ràng buộc quá lớn giữa người với người gây ra sự trì trệ ỷ lại làm giảm đi tính năng động, mờ đi tính sáng tạo của con người dẫn đến sự không thể thích nghi được với nền kinh tế thị trường quá sôi động, quá nhạy bén. Phải chăng đến một lúc nào đó mô hình kinh tế HTX sẽ bị lãng quên? Lại có một vấn đề nữa đặt ra rằng trong thời đại đổi mới, xu thế toàn cầu hoá đưa các quốc gia xích lại gần nhau theo hướng hợp tác hoá liên hiệp hoá (tiêu biểu như tổ chức WTO mà sắp tới Việt Nam có thể sẽ gia nhập, tổ chức ASEM ) có như vậy thế giới mới phát triển ổn định trong hoà bình. Rõ ràng hợp tác hoá là điều kiện không thể thiếu được trong việc phát triển lâu dài và ổn định từ đó chúng ta lại càng khẳng định một điều rằng: Nền kinh tế Việt Nam- nền kinh tế đang trên đà phát triển sẽ không thể và không bao giờ xoá bỏ một cách sạch trơn mô hình kinh tế HTX. CNXH muốn phát triển phải dựa trên sức mạnh cộng đồng- hay đó chính là sức mạnh dân tộc. Chính vì vậy mô hình kinh tế HTX kiểu mới đã được sửa đổi để thích nghi với nền kinh tế thị trường là nền tảng của nền kinh tế bền vững và phát triển đó là kinh tế Việt Nam XHCN trong tương lai, cho ngày mai và cho cả mai sau

doc44 trang | Chia sẻ: Kuang2 | Lượt xem: 1125 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng kinh tế hợp tác xã trong nông nghiệp ở nước ta, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ình tổ chức kinh tế hợp tác trong nông nghiệp nông thôn cả nước đã có những biến đổi sâu sắc: khoảng 10-15% số HTX đã tự đổi mới chuyển phương thức hoạt động và thu được kết quả tốt thể hiện: kinh tế hộ gia đình xã viên được tự chủ và được tạo điều kiện phát huy tối đa khả năng hoạt động kinh doanh của mình. Quan hệ HTX và hộ xã viên được thực hiện dựa trên nguyên tắc bình đẳng, thoả thuận, HTX chuyển đến hoạt động sang kinh doanh dịch vụ cho hộ xã viên ở các khâu: hướng dẫn xã viên tiếp cận thị trường, tiêu thụ sản phẩm, tổ chức sản xuất, chuyển giao công nghệ, chăm lo xây dựng và quản lý kết cấu hạ tầng, phát huy các việc làm tình nghĩa, tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau để giúp kinh tế hộ phát triển, bộ máy quản lý gọn nhẹ, hoạt động có hiệu quả, thực hiện đúng các nguyên tắc về phân phối, tài chính, quản lý tốt đồng vốnnhờ đó hoạt động của HTX có hiệu quả rõ rệt, xã viên gắn bó với HTX. Những HTX hoạt động yếu kém. Trong nhiều năm chỉ tồn tại về mặt hình thức, hộ nông dân không gắn bó với HTX và muốn bứt khỏi sự ràng buộc của HTX do vậy các tổ chức kinh tế hợp tác này tự giải thể. Thực chất đây là quá trình tan rã mô hình HTX kiểu cũ. Tính đến cuối tháng 12 năm 1996 trong lĩnh vực nông nghiệp ở nước ta các tổ chức HTX kiếu cũ đã tan rã hoàn toàn, hoặc còn lại chỉ là hình thức thực tế chúng không hoạt động và không đem lại lợi ích cho kinh tế hộ. Ví dụ: Bắc Cạn theo báo cáo là còn 2 HTX nhưng thực chất đã giải thể hết. Lào Cai báo cáo là còn 178 HTX nhưng thực tế chỉ còn lại 14 HTX. - ở các tỉnh miền núi phía Bắc nhân dân tham gia HTX giảm từ 91% xuống còn 45%. - ở các tỉnh thuộc đồng bằng Sông Hồng: tính đến cuối tahngs 12 năm 1996 toàn vùng còn lại là 2.646 HTX trong đó có 431 HTX đã làm thủ tục giải thể chiếm 16,2%. Một số tỉnh không có tình trạng giải thể HTX nông nghiệp: Thái Bình, Ninh Bình, Hà Nam. Hà Tây. -ở Bắc Trung Bộ: Thanh Hoá là tỉnh có số HTX nông nghiệp giải thể nhiếu nhất 87,5% trong khi Nghệ An và Hà tĩnh không có HTX nào giải thể. - Các tỉnh duyên hải Miền Trung đến cuối tháng 12 năm 1996 còn lại 917 HTX nông nghiệp trong đó 166 HTX đã giải thể chiếm 18%. - Các tỉnh Tây Nguyên cuối tháng 12 năm 1996 còn lại 295 HTX nông nghiệp trong đó HTX nông nghiệp đã giải thể chiếm 41%. - Khu vực Đông Nam Bộ tính đến cuối tháng 12 năm 1996 theo báo cáo còn lại 398 HTX nông nghiệp. Trong đó số HTX đã giải thể là 127 chiếm 32 %. - Vùng đồng bằng Sông Cửu Long tính đến cuối tháng 12 năm 1996 tổng số HTX còn lại là 60 trong đó số HTX làm thủ tục giải thể là 22 chiếm 36,6%. Qua số liệu trên ta thấy moọt đặc điểm riêng của các tỉnh trung du miền núi phía bắc mặc dù số lượng HTX nông nghiệp được thành lập nhiều hơn một số tỉnh đồng bằng, thành phố lớn song trên thực tế số HTX như không hoạt động và cũng không làm thủ tục giải thể chiếm tỷ lệ cao hơn nhiều Việc tan rã các HTX kiểu cũ gây ra khó khăn về kinh tế và xã hội: Đó là mâu thuẫn về tranh chấp đất đai kinh tế hộ nông dân nghèo gặp nhiều khó khăn về sản xuất vì các khâu dịch vụ từ cung ứng vật tư (Đầu vào ) và tiêu thụ sản phẩm (Đầu ra) đến dịch vụ kỹ thuật hộ nông dân phải tự giải quyết trong khi không đủ điều kiện hoặc bị thua thiệt trong việc trao đổi sản phẩm nông sản với thị trường . Tuy vậy có thể khẳng định rằng NQ 10 Bộ chính trị cùng với Nghị quyết hội nghị lần thứ 6 ban chấp chấp hành TW khoá VI và luật đất đai năm 1993 với những quy định cụ thể về việc hộ xã viên được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng ruộng đất lâu dài và được hưởng năm quyền: Sử dụng chuyển đổi, chuyển nhượng thừa kế và chấp nhận đẫ có tác dụng tạo bước nghoặt cho sự phát triển sản xuất nông nghiệp: Đó là sản xuất nông nghiệp liên tục tăng ổn định với tốc độ > 4%. Đặc biệt là sản lượng lương thực tăng đáng kể Từ 1989 đến nay đã bả đảm đủ nhu cầu tiêu dùng lương thực trong nứơc và trở thành một trong ba nước đứng đầu thế giới về khối lượng lương thực xuất khẩu . Một số ngành khác cũng tạo được những bước phát triển đáng kể như ngành chè, cà phê cao su dâu tằm hoa quả thuỷ sản chăn nuôi trồng rừng. Kim ngạch nông sản tăng lên với tốc độ cao. Cơ sở vật chất kỹ thuật trong nông nghiệp đã được tăng cường một bước chủ yếu thông qua việc tự mua sắm của kinh tế nông hộ và kinh tế thị trường Việc áp dụng tiến bộ khoa học kỹ tthuật công nghệ mới vào sản xuất được coi trọng và đã tạo đưộc bước phát triển cho việc tăng năng suất cây trồng vật nuôi tăng hiệu quả sử dụng đất Hiệu quả kinh tế được nâng lên rõ rệt Cơ cấu nội bộ ngành nông nghiệp đã có sự chuyển dịch theo xu hướng tiến bộ. Từng bước khôi phục và hình thành các ngành nghề phi nông nghiệp ở nông thôn. Đặc biệt là sự hình thầnh sản xuất nông nghiệp hàng hoá tập trung hướng tới mục tiêu phát triển nền nông nghiệp hàng hoá có hiệu quả kinh tế ngày càng cao. Nhờ vậy đời sống kinh tế , vật chất tinh thần ở nông thôn từng bước được cải thiện. Từ việc nghiên cứu NQ 10Bộ chính trị và thực tiễn cho thấy một thực tế: Đó là nhu càu bức xúc của nông dân hiện nay trong việc giải thể những HTX kiểu cũ kém hiệu quả. Ngược lại những vùng có điều kiện thuận lợi thì người nông dân vẫn có nhu cầu xây dựng những HTX nông nghiệp kiểu mới phù hợp . 2. Kinh tế HTX trong nông nghiệp từ khi có luật HTX (1997-2003) 2.1- Những thành tựu đạt được Lịch sử loài người đã khẳng định; Hợp tác , giao lưu ,qua đó học hỏi kinh nghiệm, trao đổi hàng hoá phân công lao động là đòn bẩy thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hội của mọi dân tộc, mọi cộng đồng mọi cá thể. HTX nông nghiệp không nầm ngoài quy luật này. Tuy nhiên sự hợp tác phải dựa vào tính tự nguyện và boả đảm tính công bằng. Sự hưởng thụ phải tương xứng với mức đóng góp công sức tiền của bỏ ra và lợi nhuận qua sự hợp tác phải cao hơn lợi nhuận do tự thân làm ra. Phá vỡ quy luật này là phá vỡ hợp tác. Đầu những năm90 cuả thế kỷ XX, vì nhiều lý do khác nhau, quy luật này không được thực hiện ở phần lớn các HTX nông nghiệp trong cả nước. ý thức được vấn đề này, sau đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII, Đảng và nhà nước ta đã có nhiều chủ trương, chính sách đổi mới hoạt động của các HTX hoạt động theo luật (Ban bí thư TW Đảng có chỉ thị 68 –1996 Quốc hội đã ban hành luật HTX chính phủ ban hành 10 Nghị định hướng dẫn việc triển khai luật HTX ) Tính đến thời điểm 1996 cả nước có 13782 HTX nông nghiệp. Sau hơn ba năm(1997-2000) thực hiện luật HTX các địa phương đã rà soát, phân loại, cho phép giải thể 6222 HTX yếu kém, trên thực tế không tồn tại, số HTX thực sự chuyển đổi là 7531 HTX. Tới tháng 6/2000 cả nước đã chuyển đổi được 5692 HTX chiếm 75% so với tổng số HTX hiện còn, trong đó có 58% HTX được cấp giấy đăng ký kinh doanh. Đồng thời đã có 1319 HTX mới được thành lập. Những công việc chính đã được làm trong quá trình chuyển đổi là: Kiểm kê đánh giá lại tài sản của HTX cũ (Bình quân 1 HTX có 556 triệu đồng, 80%là TSCĐ ) bàn giao cho chủ cụ thể, quản lý chuyển giao cho chính quyền địa phương quản lý những tài sản, cơ sở vật chất dùng cho cả cộng đồng dân cư, làm rõ các khoản phải thu (Bình quân 1 HTX là148 đồng ) nợ phải trả (Bình quân 1 HTX là 82,5 đồng ) xác nhận và thu hồi được 20%- 30% công nợ trong HTX, phân bổ lại giá trị tài sản và vốn quỹ được kế thừa từ HTX cũ thành vốn góp của xã viên trong HTX mới. Làm rõ tiêu chuẩn xã viên và củng cố lại ban quản lý. Các HTX quy định lại tiêu chuẩn xã viên (Là hộ hay lao động trong độ tuổi ). Lập danh sách xã viên (ở miền bắc và miền trung, số xã viên HTX chiếm tỷ lệ 80%- 100%) + Tổ chức bộ máy của HTX gọn nhẹ, ban quản trị 2-3 người, bộ máy giúp việc 4- 6 người, chức năng nhiệm vụ của từng bộ phận được làm rõ hơn. + Định lại nội dung, phương pháp hoạt động của HTX, hướng chủ yếu vào dịch vụ điện, nước, giống, phân bón, bảo vệ thực vật, tiêu thụ sản phẩm. Phù hợp với điều kiện vốn, cơ sở vật chất kỹ thuật và khả năng quản lý của cán bộ HTX và các biện pháp nâng cao hiệu quả dịch vụ của HTX. Nhờ vậy tỷ lệ các HTX kinh doanh ổn định có lãi ngày càng tăng, nhiều mô hình mới điển hình tiến tiến xuất hiện. Từng bước khẳng định được vai trò vị trí của mình trong đời sống kinh tế xã hội của đất nước. Năm 1998 tổng sản phẩm trong nước do khu vực kinh tế HTX tạo ra đạt khoảng 32979 tỷ đồng (tăng 17% so với 1997). Năm 1993 ước tính đạt 35100 tỷ (tăng 6,6% so với 1998) chiếm 9% GDP cả nước. Giá trị sản lượng của các HTX tiểu thủ công nghiệp tăng 10,8%, xây dựng và sản xuất vật liệu xây dựng là 14%. Sau quá trình chuyển đổi hầu hết các HTX đã kế thừa, tiếp nhận, quản lý sử dụng các công trình thuỷ lợi điện, nước, đường giao thông, vốn quỹ và kinh nghiệm tổ chức các dịch vụ tích luỹ được từ nhiều năm qua. Một số nơi ở miền núi phía Bắc khi xoá bỏ HTX mà không có hình thức tổ chức khác phù hợp thay thế, nên đã xảy ra tình trạng cơ sở vật chất kỹ thuật không được quản lý chặt chẽ, bị thất thoát hư hỏng, xuống cấp nặng nề, sản xuất gặp nhiều khó khăn. Nhiều HTX chuyển đổi đã huy động vốn và công sức lao động của xã viên kết hợp với sự hỗ trợ của HTX đã tu bổ nâng cấp và xây dựng một số cơ sở hạ tầng nông thôn, nhất là phong trào kiên cố hoá kênh mương số HTX là dịch vụ thuỷ nông chiếm 95%, bảo vệ thực vật 62%, khuyến nông 48%, cung ứng giống cây trồng 41%, cung ứng vật tư 36%,điện 52%, làm đất 15%, tiêu thụ sản phẩm 10%. Một số HTX còn tổ chức chế biến nông sản và làm ngành nghề (HTX Đông Xuân ở Sóc Sơn – Hà Nội) nhiều HTX ở miền Trung có vốn lớn đã cho xã viên vay lại để phát triển kinh tế gia đình. Nhiều HTX đóng vai trò tích cực trong việc tìm tòi, hướng dẫn nông dân áp dụng tiến bộ kỹ thuật, áp dùng giống mới, chuyển đổi cơ cấu cây trồng, mùa vụ Các HTX cũng đã rà soát lại định mức thu chi của các dịch vụ phần lớn đã giảm giá nhưng vẫn nâng cao chất lượng dịch vụ cho xã viên. ở Thanh Hoá nhiều HTX đã giảm 30% phí dịch vụ thuỷ nông, phí bảo vệ thực vật đã giảm từ 0,8kg thóc/sào xuống còn 0,5kg/sào, ở nhiều nơi giá điện giảm từ 1000-1100đ/kwh xuống còn 550-700đ/ kwh. Đa số các HTX mới thành lập, xã viên tham gia tự nguyện nên một số có lượng vốn lớn ( ở An Giang 800000-830000đ trên cổ phần, Hưng Yên 200000-30000đ trên cổ phần, có nơi tử 2-3 triệu đồng trên cổ phần. Nhiều HTX làm tốt các dịch vụ cho xã viên, ở An giang 80% HTX làm dịch vụ 1-2 khâu: Tưới tiêu làm đất, hoặc cung ứng vật tư đã làm giảm giá dịch vụ về nước 80-130 kg thóc/ha/vụ, giảm giá cày xới 25kg –30kg/ ha. Nhiều HTX liên kết với doanh nghiệp nhà nước tiêu thụ tốt sản phẩm do nông dân làm ra: Như HTX Bình Hoà Bắc ở Long An, cac ở khu vực gần nông trươòng sông hậu (Cần Thơ) vùng Lam Sơn( Thanh Hoá). Một số HTX ở Nam Bộ đã thu hút nông dân không có đất sản xuất vào làm dịch vụ, tạo việc làm và thu nhập cho họ. ở Miền Trung HTX điển hình nổi bật là HTX Duy Sơn 2 (Quảng Nam) đây là HTX miền núi, quy mô thôn, ngoài việc làm tốt các dịch vụ tưới tiêu , dịch vụ điện công suất 1200 Kw để cung cấp cho xã viên, dịch vụ bảo vệ thực vật. Dịch vụ giống,dịch vụ vật tư HTX còn mở rộng mối quan hệ liên kết hợp tác với các ngành , các cấp, phát triển ngành nghề, như liên kết với nhà máy làm đế giày xuất khẩu, doanh thu trên 8 tỷ đồng/năm liên kết may với nhà may xuất khẩu, doanh thu trên 2 tỷ đồng, dệt xuất khẩu, xưởng mây tre đan xuất khẩu doanh thu trên 2 tỷ đôàng. Sản phẩm của HTX được xuất khẩu đi nhiều nước trên thế giới. Hàng năm tạo thêm việc làm cho gần 100 lao động với thu nhập ổn định từ 300-500 ngìn đồng/tháng/lao động. Doanh thu HTX năm 2000 là trên 21,5 tỷđồng. ở miền núi phía Bắc nổi lên có HTX Phù Nam, huyện Văn Chấn, tỉnh Yên Bái, tại HTX này đã hoạt động dịch vụ sản xuất, cung ứng giống và vật tư qua nhiều cửa hàng ở tất cả các tụ điểm dân cư, các bản làng. HTX còn tận dụng diện tích, tổ chức trồng cây ăn quả. Sản xuất kinh doanh, khai thác cát, sỏi vôi, kinh doanh vận tải và tiêu thụ ngô, lúa, sắn, chè,. Nhờ vậy mà doanh thu hàng năm của HTX đạt 4-5 tỷ đồng. Bên cạnh việc các HTX nông nghiệp tập trung phát triển cho nội bộ của mình, các HTX nông nghiệp còn mở rộng liên doanh, liên kết hợp tác kinh doanh với nhau và các loại hình kinh tế HTX khác tạo ra liên minh HTX. Liên minh HTX có tác dụng vô cùng to lớn trong việc thúc đẩy sản xuất hàng hoá, dịch vụ, tiêu thụ sản phẩm trên thi trường trong và ngoài nước. Qua một số kết quả thông kê về kinh tế nông nghiệp nông thôn nói chung và của HTX nông nghiệp nói riêng sau thời kỳ ban hành Luật HTX đến nay. Một số nhà nghiên cứu kinh tế đã thóng kê dược những bảng số liệu sau: Bảng 1: Tổng số HTX Nông nghiệp phân theo loại hình dịchvụ Vùng Tổng số Làm đất Giống cây trồng Thuỷ nông Số lượng % Số lượng % Số lượng % Cả nước 7171 1495 20,85 4259 59,39 6284 87,63 ĐBSH 3311 846 25,55 2022 61,07 3241 97,89 Đông Bắc 802 27 3,37 464 57,86 593 73,94 Tây bắc 242 10 4,13 101 41,74 96 39,67 Bắc Tung Bộ 1388 267 19,24 1073 77,31 1298 93,52 Duyên Hải Miền Trung 697 200 28,69 378 54,23 654 93,88 Tây Nguyên 116 19 16,38 47 40,52 64 55,17 Đông Nam Bộ 191 55 28,80 82 42,93 112 63,87 ĐBSCL 424 77 16,75 92 21,70 216 50,94 Vùng Bảo vệ thực vật Tiêu thụ sản phẩm Cung ứng vật tư SL % SL % SL % Cả nước 4323 60,28 538 7,50 3457 48,21 ĐBSH 2520 76,11 191 5,77 1291 38,99 Đông Bắc 359 44,76 89 11,10 530 66,08 Tây Bắc 69 28,51 9 3,72 95 39,26 Bắc Trung Bộ 1114 80,26 83 5,98 865 62,32 Duyên Hải Miền Trung 168 24,10 64 9,18 275 39,45 Tây Nguyên 38 32,76 29 25 84 72,41 Đông Nam Bộ 32 16,75 39 20,42 111 58,12 ĐBSCL 23 5,42 34 8,02 206 48,58 Bảng 2. Tổng số HTX nông nghiệp mới thành lập phân theo loại hình dịch vụ Vùng Làm đất Giống cây trồng Thuỷ nông Số lượng % Số lượng % Số lượng % Cả nước 131 14,03 410 43,90 557 59,60 ĐBSH 11 17,74 24 38,71 56 90,32 Đông Bắc 6 4,65 56 43,41 66 51,16 Tây Bắc 1 3,45 11 37,93 3 10,34 Bắc T.Bộ 23 9,20 197 78,80 220 88,00 DH Miền Trung 3 37,50 7 87,50 Tây Nguyên 7 25,00 13 46,43 4 14,29 Đông Nam Bộ 18 40,00 20 44,00 13 28,89 ĐBSCL 65 16,97 86 22,45 188 49,09 Vùng Bảo vệ thực vật Tiêu thụ sản phẩm Cung ứng Số lượng % Số lượng % Số lượng % ĐBSH 307 32,87 135 14,46 478 51,18 Đông Bắc 36 27,91 29 22,48 63 48,84 Tây Bắc 5 17,24 9 81,03 Bắc T.Bộ 191 76,4 31 12,40 158 63,20 DH Miền Trung 1 12,50 3 37,5 Tây Nguyên 7 25,00 14 50,00 21 75,00 Đông Nam Bộ 12 26,67 21 46,67 31 68,89 ĐBSCL 21 5,48 31 8,09 179 46,74 Bảng 3. tổng số HTX nông nghiệp chuyển đổi phân theo loại hình dịch vụ Vùng Làm đất Giống cây trồng Thuỷ nông Số lượng % Số lượng % Số lượng % Cả nước 1364 21,87 3849 61,71 5727 91,82 ĐBSH 835 25,70 1998 61,50 3185 98,03 Đông Bắc 21 3,12 408 60,62 527 78,31 Tây Bắc 9 4,23 90 42,25 93 43,66 Bắc T.Bộ 244 21,44 876 76,98 1078 94,73 DH Miền Trung 200 29,03 375 54,43 647 93,90 Tây Nguyên 12 13,64 34 37,64 60 68,18 Đông Nam Bộ 37 25,34 62 42,47 109 74,66 ĐBSCL 6 14,63 6 14,63 28 68,29 Vùng Bảo vệ thực vật Tiêu thụ sản phẩm Cung ứng vật tư Số lượng % Số lượng % Số lượng % Cả nước 4016 64,39 103 6,46 2979 47,76 ĐBSH 2486 76,52 182 5,60 1277 39,30 Đông Bắc 323 47,99 60 8,92 476 69,39 Tây Bắc 64 30,05 9 4,23 86 40,38 Bắc T. Bộ 923 81,11 52 5,57 747 62,13 DH Miền Trung 167 24,24 64 9,29 273 39,48 Tây Nguyên 31 35,25 15 17,05 63 71,59 Đông Nam Bộ 20 13,70 18 12,33 88 54,79 ĐBSCL 2 4,88 3 7,32 27 65,85 (Trích từ: Niên giám thống kê) 2.2. Những hạn chế Qua những bảng số liệu trên ta thấy từ khi có Luật HTX thì số lượng HTX chuyển đổi và mới thành lập phân theo loại hình dịch vụ khá đa dạng và phong phú nhưng bên cạnh đó còn tồn tại khá nhiều những hạn chế trong quá trình thực hiện luật HTX: Nhìn chung, hiện nay chúng ta vẫn còn lẫn lộn chưa rõ ràng về khái niệm HTX. Nhiều người vẫn cho rằng HTX có chức năng như doanh nghiệp và mang tính chất kinh doanh. Nhiều nơi còn coi việc xã viên đóng góp cổ phần và phân chia lợi nhuận theo cổ phần như doanh nghiệp, đó là một sự tiến bộ mới nhưng điều đó đã làm cho nhiều tư nhân đội lốt danh nghĩa HTX để kinh doanh trốn thuế Nhà nước. Bản chất HTX không mang tính chất kinh doanh và phi lợi nhuận, HTX chỉ giúp các xã viên kinh doanh và theo nguyên tắc một người một phiếu. Mặc dù chúng ta có nhiều chính sách về phát triển HTX nhưng nhìn chung phong trào HTX vẫn chưa có sự phát triển thực sự. Nguyên nhân chủ yếu là: - Các thể chế về HTX chưa sát thực tế. Luật HTX cũng như các quy định về tài chính, kiểm tra thuế, về vốn, đất đai không thực sự sát thực với tình hình nông dân quy mô nhỏ sản xuất nông nghiệp. Các quy định này hầu như chỉ phù hợp cho tầng lớp nông dân khá giả ở nông thôn, trong khi tầng lớp này lại không có nhu cầu thành lập HTX như tầng lớp trung bình và nghèo. - Các ban ngành TW và địa phương chưa thực sự có các chính sách cụ thể, các chương trình lớn cấp Nhà nước để dầu tư phát triển HTX như kiểu chương tình giống, chương trình 135. - Nhận thức về HTX và phát triển HTX nông nghiệp của các địa phương rất hạn chế, đâu đó chúng ta vẫn còn mô hình HTX của tỉnh uỷ, UBND tỉnh Nhà nước chỉ đạo thành lập HTX mang nặng tính chỉ đạo từ trên xuống và hành chính. Nhiều nơi chưa nhận thức được vai trò của HTX hiện nay là tập hợp hoọ gia đình nông dân, giúp đỡ kinh tế hộ phát triển. Khi đánh giá sự phát triển của HTX, chưa nới nào dùng chỉ tiêu đánh giá lợi ích mà các hộ gia đình nông dân được hưởng khi tham gia HTX, hiện nay chúng ta đánh giá lãi của HTX là chính, do vậy vai trò của HTX với kinh tế nông hộ không được coi trọng. - HTX còn lúng túng trong điều hành, chỉ đạo sản xuất, tổ chức làm dịch vụ. Có HTX chỉ thực hiện được 1- 2 khâu dịch vụ, tỉ lệ lãi còn thấp, một số HTX chưa tính đúng khấu hao TSCĐ theo quy định của Nhà nước, chưa đưa công quản lý vào đơn giá vai trò của HTX trong điều hành vụ , tham gia dồn ô, đổi thửa, từ ô thửa nhỏ thành ô thửa lớn. điều hành sản xuất khuyến nông ở một số nơi còn lu mờ. - Đội ngũ cán bộ tại các địa phương hạn chế năng lực về các kiến thức HTX cũng như thành lập HTX trong bối cảnh mới, kinh tế thị trường và sản xuất theo hướng chuyên môn hoá và chuyên nghiệp hoá. - Thiếu các lớp đào tạo nông dân về thành lập HTX: chúng ta vẫn chỉ coi trọng việc đào tạo các cán bộ HTX trong cơ cấu lãnh đạo dịa phương mà không cho rằng việc đào tạo nông dân tự thành lập các HTX có thể tổ chức cho mọi nông dân có nhu cầu. 76,1% tổng số cán bộ HTX và 91,8% cán bộ ban kiểm soát chưa được quan tâm đào tạo. Vẫn còn tính trạng vi phạm hoặc chưa thực hiện đúng luật HTX như: dùng dấu cũ, chưa chia lãi theo tỷ lệ. - Không có kinh phí nghiên cứu về HTX nông nghiệp trong nhiều năm qua cả Bộ nông nghiệp- phát triển nông thôn và Bộ KHCN đều có rất ít kinh phí nghiên cứu về lí luận cũng như xây dựng HTX. Kinh phí chưa chủ yếu tập trung vào các chương trình công nghệ nhưng chúng ta ít có kinh phí về thể chế nông thôn để đón nhận công nghệ mới. Còn nhiều HTX vẫn gặp khó khăn về vốn, số vốn còn lại thực chất là số nợ phải thu, tổng số nợ HTX có chiều hướng tăng. Bên cạnh đó HTX có hàng trăm triệu đồng tiền vốn nhưng chưa có phương án sử dụng hiệu quả nên phải gửi ngân hàng. Thực trạng đã cho thấy rõ một điều rằng: - HTX chậm tham gia vào tiến trình phát triển. Nguyên nhân có nhiều mà xét về góc độ triết lý chủ yếu là sự tác động đồng thời của 3 loại triết lý “trọng nông” của nền kinh tế tiểu nông chậm phát triển triết lý “đóng cửa” hướng nội của mô hình CNH cổ điển và triết lý “bình quân”, bảo đảm xã hội của mô hình kế hoạch hoá tập trung trong một thời kỳ dài trước đây. Mặc dù nền kinh tế nước ta đang chuyển theo mô hình phát triển hiện đại phù hớp voí cơ chế thị trường, song tiến trình này vẫn bị trì trệ bởi 3 loại quan điểm mang tính triết lý nêu trên hiện đang chi phối trong các chính sách và giải pháp cụ thể. Nhiều HTX và mô hình HTX nông nghiệp hoạt động và mang tính chất áp đặt, khi thị trường và chưa thực sự bình đẳng so với các doanh nghiệp Nhà nước. - Trong hệ thống HTX nhất là HTX nông nghiệp tuy đã tham gia vào tiến trình phát triển nhưng sự phát triển lại diễn ra chậm chạp về khách quan và do kinh tế thị trường Việt Nam còn sơ khai, yếu kém có tính hệ thống. Quan hệ tiền hàng chưa phát triển, hoạt động tài chính và ngân hàng chưa đủ sức vận hành nền kinh tế, thể chế chưa hoàn toàn phù hợp với thể chế chung của tiến trình kinh tế hiện đại thế giới, hệ thống doanh nghiệp còn non yếu sự quản lý của Nhà nước còn nặng theo quan điểm và triết lý của mô hình kế hoạch hoá tập trung. Bản thân kinh tế nông nghiệp vẫn còn là kinh tế tiểu nông chậm phát triển. Và chủ quan do năng lực nội tại của HTX nông nghiệp còn quá yếu, tư tưởng của xã viên còn mang nặng tính bao cấp, chưa rhực sự hiểu biết về hội nhập và phát triển. - Luật HTX đã bộc lộ nhiều nhược điểm cần sửa đổi, bổ sung cho phù hớp với tình hình mới. Hệ thống chính sách thuế, tài chính, tín dụng, vay vốn của Nhà nước đối với HTX còn bất cập và chưa đồng bộ. HTX hiện nay vẫn chưa được vay vốn của ngân hàng. Nhiều nguồn đầu tư, dự án lớn chưa được giành cho kinh tế HTX, HTX chưa có tư cách pháp nhân, xã viên chưa được hưởng chế bộ BHXH. - Trình độ KHCN áp dụng vào sản xuất ở các HTX còn thấp so với các nước trong khu vực, chưa thực sự thực hiện tốt quan hệ bốn nhà: nhà nông, nhà khoa học, doanh nghiệp Nhà nước, Nhà nước trong việc gắn sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. Tóm lại, sau 50 năm xây dựng đổi mới, phát triển mô hình kinh tế HTX nói chung và HTX nông nghiệp nói riêng đã trải qua nhiều bước thăng trầm nhưng nó đã đóng một vai trò quan trọng đối với nền kinh tế quốc dân cả trtong thời chiến và thời bình. Đó là nền tảng và cơ sở để phát triển thể chế CNXH ở nước ta. Trong thời gian tới phát triển HTX nông nghiệp vẫn là phương châm tích cực là chiến lược của Đảng và Nhà nước để tiến tới một mục tiêu lớn của năm 2020 trở thành một nước công nghiệp. Phần ba Phương hướng và những giải pháp để phát triển kinh tế HTX nông nghiệp I/ Phương hướng phát triển hoàn thiện các hình thức kinh tế hợp tác trong lĩnh vực nông nghiệp. Kinh tế HTX đã và đang là một trong những thành phần kinh tế chủ yếu của nền kinh tế quốc dân. Một lần nữa Nghị quyết Đại hội IX của Đảng đã khẳng định vai trò và ý nghĩa to lớn của lĩnh vực kinh tế HTX, quyết tâm tiếp tục khuyến khích phát triển mô hình kinh tế HTX trong một nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN “kinh tế tập thể phát triển với nhiều hình thức hợp tác đa dạng trong đó HTX là nòng cốt. Các HTX dựa trên sở hữu các thành viên và sở hữu tập thể, liên kết rộng rãi những người lao động các hộ sản xuất, kinh doanh, các doanh nghiệp nhỏ và vừa không giới hạn quy mô, lĩnh vực và địa bàn. Phát triển HTX kinh doanh tổng hợp đa ngành hoặc chuyên ngành”. Căn cứ vào mục tiêu của Đảng và Nhà nước đã đề ra mà đặc biệt là mục tiêu CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn để phát triển hoàn thiện kinh tế hợp tác trong nông nghiệp nước ta giai đoạn hiện nay (2001- 2010) thì chúng ta cần hiểu rõ và nên thực hiện tốt một số định hướng sau: Một là, phát triển kinh tế hợp tác gắn với mục tiêu CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn trong điều kiện hội nhập quốc tế hoá đoì sống kinh tế thì phải không ngừng phát triển sức sản xuất, nâng cao năng suất lao động, chất lượng và hiệu quả kinh tế HTX để kinh tế HTX đủ sức cạnh tranh tỏng quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Cụ thể là xây dựng nền nông nghiệp hàng hoá phát triển bền vững dựa trên cơ sở phát huy các lợi thế so sánh, phù hợp với nhu cầu của thị trường và điều kiện sinh thái của từng vùng. áp dụng nhanh thành tựu KHCN vào sản xuất nông nghiệp, đạt mức trung bình, tiên tiến trong khu vực về trình độ công nghệ và về giá trị gia tăng trên một đơn vị diện tích. Tăng năng suất lao động, nâng cao chất lượng và sức cạnh tranh của sản phẩm. Mở rộng thị trường tiêu thụ nông sản trong và ngoài nước, tăng thị phần của các nông sản chủ yếu trên thị trường thế giới. Nông thôn có kết cấu kinh tế hợp lý, nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ cùng phát triển, từng bước hình thành liên kết chặt chẽ có hiệu quả giữa nông nghiệp- công nghiệp- dịch vụ trên từng địa bàn và trong cả nước, thực hiện đô thị hoá, bảo đảm đủ việc làm không còn đói nghèo, xã hội nông thôn văn minh dân chủ và công bằng, đời sống dân cư được nâng cao rõ rệt. Giai đoạn 2001- 2010 phấn đấu đạt các chỉ tiêu cụ thể: năm 2010 tổng sản phẩm trong nước đạt gấp đôi 2000 trong đó giá trị sản lượng nông nghiệp, lâm nghiệp, thuỷ sản tăng bình quân hàng năm khoảng 4,5%. Duy trì khoảng 4 triệu ha đất để trồng lúa. Phấn đấu đạt nhịp độ tăng tổng sản phẩm trong nước 7%/năm. Trong đó tỷ trọng nông nghiệp trong GDP khoảng 16- 17%. Tỷ tọng ngành chăn nuôi trong tổng giá trị sản xuất nông nghiệp tăng lên 30%. Thuỷ sản đạt sản lượng 2,5- 3 triệu tấn. Bảo vệ tốt 10 triệu ha rừng tự nhiên, hoàn thành trồng 5 triệu ha rừng kim ngạch xuất khẩu nông lâm, thuỷ sản đạt khoảng 8- 9 tỷ USD trong đó thuỷ sản khoảng 3 tỷ USD. Với những yêu cầu nói trên đòi hỏi kinh tế nông hộ và trang trại sản xuất hàng hoá phải được khuyến khích phát triển mạnh mẽ: kinh tế hợp tác, HTX cần được phát triển để nhân thêm sức mạnh của kinh tế hộ, kinh tế trang trại. Kinh tế Nhà nước hướng dẫn, hỗ trợ kinh tế hộ, trang trại, kinh tế hợp tác và các thành phần kinh tế khác cùng phát triển. Hai là, kinh tế hợp tác với nhiều hình htức hợp tác mà nòng cốt là HTX dựa trên sở hữu của các thành viên và sở hữu tập thể, liên kết rộng rãi những người lao động, các hộ sản xuất kinh doanh các doanh nghiệp vừa và nhỏ thuộc các thành phần kinh tế không giới hạn về quy mô, về địa bàn, về phân phối theo lao động, theo vốn góp và mức độ tham gia dịch vụ hoạt động theo nguyên tắc tự chủ, tự chịu trách nhiệm. Thành viên kinh tế tập thể bao gồm cả người ít vốn và nhiều vốn, cùng góp vốn và góp sức trên cơ sở tôn trọng nguyên tắc tự nguyện bình đẳng, cùng có lợi và quản lý dân chủ. Đồng thời phát triển kinh tế HTX phải theo định hướng XHCN dưới sự quản lý của Nhà nước. Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN vận động theo yêu cầu và các quy luật khách quna vốn có của nó. Một mặt kinh tế thị trường tạo điều kiện phát huy mọi nguồn lực, thúc đẩy quá trình phát triển kinh tế mặt khác kinh tế thị trường còn mặt trái của nó như tạo nên sự phân hoá giàu nghèo, những hiện tượng như trốn lậu thuế, làm hàng giả, cạnh tranh phi kinh tế bởi vậy mục tiêu định hướng XHCN nền kinh tế thị trường đặt ra những yêu cầu đối với mọi vấn đề như cơ chế, chính sách, luật pháp. lãnh đạo và chỉ đạo thực hiện các quá trình kinh tế xã hội, các thành phần kinh tế nói chung, trong đó có khu vực kinh tế nông thôn và kinh tế hợp tác. Cho nên phát triển và hoàn thiện các hình thức kinh tế hợp tác cần phải đặt trong yêu cầu của sự phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta để khắc phục tư tưởng ỷ lại, chờ đợi cho rằng vào HTX để được sự trợ giúp, được bao cấp đồng thời cân fthấy rõ vai trò, trách nhiệm giúp đỡ của Nhà nước đối với kinh tế hợp tác, trước hết đối với đối tượng đồng đảo nông hộ nghèo có nhu cầu hợp tác, cũng như các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước đối với các thành phần kinh tế, trong đó có kinh tế hợp tác, HTX. Những việc làm nói trên nhằm mục tiêu tạo điều kiện cho kinh tế hợp tác, HTX phát triển với tư cách là một bộ phận không tách rời của cơ cấu kinh tế nhiều thành phần thoe đúng chủ trương, đường lối của Đảng. Ba là, kinh tế hợp tác và HTX lấy lợi ích kinh tế làm chính bao gồm lợi ích kinh tế của các thành viên và lợi ích tập thể. đồng thời coi trọng lợi ích xã hội của thành viên, góp phần xoá đói giảm nghèo, tiến lên làm giàu cho các thành viên, phát triển cộng đồng. Đánh giá hiệu quả kinh tế hợp tác và HTX phải trên cơ sở quan điểm toàn diện cả về kinh tế- chính trị- xã hội cả hiệu quả tập thể và của các thành viên. Phải tôn trọng các mục tiêu nguyên tắc của quá trình hợp tác theo đúng luật HTX năm 1996. Bốn là, trong quá trình phát triển kinh tế hợp tác và HTX nông nghiệp cần pahỉ đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cho khu vực kinh tế này. Vấn đề có tầm chiến lược hàng đầu là đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế hợp tác và HTX có chất lượng, có tinh thần cộng đồng cao, biết tin vào người lao động trong HTX, biết tiếp thu ý kiến và nguyện vọng sâu sa nhất của họ. Người quản lý pahỉ luôn quan tâm và biết chuyển giao kỹ thuật cồng nghệ sản xuất, kinh doanh để cho người lao động biết vận động và thuyết phục quần chúng xã viên áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ mới nhất. Năm là, tăng cướng sự lãnh đạo của các cấp uỷ Đảng, nâng cao vai trò quản lý của Nhà nước trong việc tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế hợp tác và HTX nông nghiệp Nhà nước ban hành các chính sách trợ giúp kinh tế tập thể trong quá tình xây dựng và phát triển, thông qua việc giúp đỡ và đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, ứng dụng KHCN, nắm bắt thông tin, mở rộng thị trường, xây dựng các quỹ hỗ trợ và phát triển, giải quyết nợ tồn đọng trước đây. khuyến khích việc tích luỹ và sự dụng có hiệu quả vốn tập thể trong HTX. Phát huy vai trò liên minh HTX Việt Nam của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân trong việc tuyên truyền, vận động quần chúng tham gia kinh tế tập thể, thực hiện tốt quy chế dân chủ cơ sở, bảo đảm công tác kiểm tra, kiểm soát của các thành viên, ngăn ngừa tham nhũng, quan liêu. Sáu là, phát triển kinh tế heo phương châm tích cực nhưng vững chắc. xuất phát từ nhu cầu thực tiễn, đi từ bậc thấp đến cao, đạt hiệu quả tích cự, vì sự phát triển của sản xuất, tránh duy ý trí, nóng vội gò ép, áp đặt, đồng thời không buông lỏng lãnh đạo để mặc cho tình hình phát triển tự phát, chậm nắm bắt và đáp ứng nhu cầu về phát triển kinh tế hợp tác của nhân dân. Bảy là, cùng với sự phát triển hoàn thiện kinh tế hợp tác, HTX trong lĩnh vực nông nghiệp cần coi trọng phát triển các ngành nghề phi nông nghiệp ở nông thôn: công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, xây dựng, dịch vụ Tám là, phát triển các mối quan hệ liên kết, hợp tác các vùng, địa phương, toàn quốc quan hệ với các nước trong khu vực và quan hệ quốc tế thông qua hệ thống tổ chức liên minh HTX Việt Nam và tổ chức liên minh HTX quốc tế nhằm nâng cao nhận thức về kinh tế hợp tác học hỏi kinh nghiệm, tăng cường quan hệ hỗ trợ giúp đỡ, tạo điều kiện phát triển kinh tế hợp tác và bảo vệ quyền lợi của người lao động để áp dụng vào Việt Nam. II/ Những giải pháp phát triển kinh tế HTX nông nghiệp ở nước ta Sau khi có luật HTX 2003 ra đời thì chúng ta đều thấy con đường để phát triển mô hình kinh tế hợp tác, HTX nông nghiệp đã cso phần thông thoáng hơn và đã tiếp cận được với nền kinh tế thị trường một cách trực tiếp. Nhưng qua phân tích thực trạng của các HTX nông nghiệp ở nước ta đã cho thấy thực tế còn nhiều bất cập. Hơn nữa, qua những phương hướng đã đề ra, để thực hiện được những phương hướng ấy thì chúng ta cần phải quán triệt tốt một số giải pháp sau: Thứ nhất, cần đẩy mạnh quá trình phát triển nền nông nghiệp hàng hoá, CNH HĐH nông nghiệp nông thôn tạo điều kiện phát triển kinh tế nông hộ và trang trại sản xuất hàng hoá. Kinh nghiệm thực tế của một số nước trên thế giới đã cho thấy: trình độ phát triển nền nông nghiệp hàng hoá là tiền đề vật chất cho sự ra đời của các tổ chức HTX, trước hết ở khâu chế biến, bảo quản và tiêu thụ nông sản, rồi đến cung ứng vật tư, tiếp thu KHCN đến lượt mình sự phát triển có hiệu quả các hình thức kinh tế hợp tác sẽ tạo điều kiện thúc đẩy nền nông nghiệp hàng hoá phát triển. Như vậy, các giải pháp phát triển kinh tế hợp tác không thể tách rời giải pháp phát triển nền nông nghiệp hàng hoá, bởi vì phát triển kinh tế nông hộ, trang trại gia đình vừa là mục tiêu, vừa là giải pháp để thúc đẩy sự ra đời và phát triển của HTX kiểu mới trong nông nghiệp. Thứ hai, mặc dù lợi nhuận không phải là mục tiêu mà chỉ là phương tiện để HTX tồn tại, phát triển và từ đó mới có thể hỗ trợ được thành viên trong các hoạt động kinh tế riêng của họ lâu dài, bền vững và ngày một tốt hơn nên việc đảm bảo lợi nhuận cho HTX nông nghiệp là mục tiêu hàng đầu trong quá tình hoạt động sản xuất kinh doanh. Muốn đảm bảo và tăng nguồn lợi nhuận thì HTX ngoài việc thu lợi nhuận từ cung ứng dịch vụ với giá rẻ hơn thị trường cho các hộ xã viên thì HTX phải tích cự tổ chức các công tác nghiên cứu thị trường để tìm đầu ra cho các sản phẩm nông nghiệp sản xuất được từ đó vừa đáp ứng được nhu cầu thị trường vừa tăng được nguồn vốn của HTX. Nhưng trước hết ta phải phân tích kỹ vấn đề lợi nhuận trong HTX nông nghiệp. Có ý kiến cho rằng HTX kiểu mới ra đời trước tiên là vì nhu cầu và mục tiêu phát triển kinh tế của mỗi hộ nông dân, chứ không phải để thay thế kinh tế hộ, đồng thời nó không coi lợi nhuận là mục tiêu tối thượng, mà sự phát triển và hiệu quả của kinh tế nông hộ mới là mục tiêu chính. Nhưng cũng vó không ít ý kiến quan điểm của các nhà khoa học các nhà quản lý và ngay cả của rất nhiều cán bộ HTX nông nghiệp đã cho rằng, mục tiêu của HTX nông nghiệp là lợi nhuận, vì nếu không vì lợi nhuận, không coi lợi nhuận là mục tiêu hàng đầu của HTX thì hợp tác để làm gì? bình thường nếu không có HTX thì mọi hoạt động dịch vụ giữa nông dân và những người cung cấp dịch vụ diễn ra theo quan hệ trực tiếp, tay đôi. Chính quan hệ trao đổi trực tiếp như vậy đã làm cho thị trường dịch vụ ở đây trở thành thị trường của người bán. Lợi thế thuộc về người bán. hộ nông dân với tư cách là người mua dịch vụ sẽ bị chèn ép về giá cả và chất lượng. Việc hộ nông dân tự mình đảm bảo các hoạt động dịch vụ cho sản xuất trong cơ chế thị trường như vậy đã không mang lại hiệu quả. Để chống lại sự chèn ép của nhưũng người cung cấp dịch vụ và nâng ao chất lượng của hoạt động dịch vụ các hộ gia định bắt buộc phải liên kết với nhau cùng làm dịch vụ thay vì từng gia đình tự làm trước đây. Hình thành nên HTX, khi đó HTX sẽ trở thành một hộ nông dân lớn, một hộ nông dân chung đứng ra làm dịch vụ cho mọi nhà. HTX như vậy chính là HTX của những hộ nông dân nó khác với HTX dịch vụ của những người kinh doanh dịch vụ. Rõ ràng với vai trò một HTX nông nghiệp dịch vụ mục tiêu của HTX không phải là lợi nhuận mà là hỗ trợ cho kinh tế gia đình. Nếu nói mục tiêu của HTX là lợi nhuận thì đó là lưọi nhuận của các hộ gia đình xã viên, chứ không phải lưọi nhuận chung được tạo ra bởi HTX. Để đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển của chính mình, HTX cũng cần phải có nguồn lựu tài chính. Do vậy HTX cũng cần tìm kiếm lợi nhuận, dù chỉ chút ít. Nhưng vì HTX là tổ chức kinh tế của chính những hộ nông dân lập ra, nên HTX không thể kiếm lời bằng cách kinh doanh đối với các hộ xã viên “kinh doanh trên lưng mình” để có lợi nhuận HTX phải tìm cách mua dịch vụ với giá rẻ để rồi bán lại cho hộ xã viên với giá cao hơn, nhưng không được cao hơn giá thị trường tự do, hoặc giá dịch vụ mà từng hộ nông dân tự mình mua trong trường hợp không HTX. Điều gì sẽ xảy ra nếu HTX nông nghiệp coi lợi nhuận là mục tiêu hàng đầu? Khi đó HTX nông nghiệp không những sẽ tìm cách cạnh tranh dịch vụ đối với các tổ chức, cá nhân kinh doanh dịch vụ trên thị trường mà còn kinh doanh đối với hộ xã viên. Và như vậy hộ nông dân đã tự mình “đẻ ra” tổ chức kinh tế để rồi chính tổ chức đó quay lai bóc lột mình. Họ đã biến HTX thành một tổ chức tín dụng chứ không còn là HTX nông nghiệp làm dịch vụ tín dụng cho hộ xã viên nữa. Sâu thêm nữa khi HTX nông nghiệp vì mục tiêu lợi nhuận đương nhiên nguồn tài chính (đặc biệt là các quỹ không chia) của HTX sẽ có điều kiện được tăng cường Sự gia tăng nguồn tài chính đó nhìn bề ngoài là kết quả của hoạt động kinh doanh dịch vụ, điều đó sẽ làm cho những người nắm giữ kinh tế HTX lầm tưởng rằng kết quả đó cso được là do công sức lao động của xã viên của chính mình. Đây chính là những nguy cơ tiềm ẩn cho những bất công trong phân phối cho tham ô công quỹ và là động lực thúc đẩy ban quản trị HTX kinh doanh dịch vụ kiếm lời từ các hộ xã viên của mình ngày càng nhiều hơn. Ngược lại, nếu không coi lợi nhuận là một yếu tố quan trọng của kinh tế tập thể thì rất dễ dẫn đến sự thờ ơ của xã viên đối với HTX, vì họ cho rằng vào HTX làm gì khi không có lợi nhuận? Hoặc là sự ỷ lại của xã viên HTX, vì họ lại cho rằng HTX phải có trách nhiệm hỗ trợ bao cấp cho họ. đây là một mối quan hệ cực kỳ phức tạp và không có quan đúng về lợ nhuận của HTX nông nghiệp. Chính vì vậy, việc tìm kiếm lợi nhuận để phát triển kinh tế tập thể, trên cơ sở kinh tế tập thể phát triển mà hỗ trợ nhiều hơn tốt hơn cho kinh tế hộ gia đình xã viên là một quá trình vận động liên tục, không ngừng song song với nhau. Chính vì quan niệm như vậy, nên mặc dù không coi lợi nhuận là mục tiêu hàng đầu, song những quy định về phân phối lãi vẫn là yếu tố quan trọng của kinh tế HTX nông nghiệp. Muốn có lợi nhuận thì con đường cơ bản là HTX phải mở rộng các hình thức hoạt động dịch vụ (bao gồm dịch vụ sản xuất, đời sống, dịch vụ nông nghiệp và phi nông nghiệp) đặc biệt là phát triển các hoạt động sản xuất kinh doanh tập trung mà cụ thể hơn nữa là các HTX nông nghiệp nên đi vào chuyên môn hoá để phát triển các HTX chuyên ngành nhằm phát huy lợi thế so sánh của địa phương nơi đã thành lập HTX nông nghiệp. Con đường phát triển này có vẻ như dễ dàng song đó là cả một thử thách lớn để nhằm phát triển đổi mới HTX vì nếu thành công htì không những đem lai nguồn lưọi nhuận tương đối lớn cho các HTX nông nghiệp mà còn tạo công ăn việc làm cho từng xã viên. Quá trình hội nhập đang diễn ra trên thị trường quốc tế và cả thị trường trong nước, sản xuất nông nghiệp đang đứng trước thử thách về giảm giá thành, chất lượng phù hợp với thị trường và ổn định chính những yêu cầu này đòi hỏi sự liên kết nông dân theo cùng ngành nghề cùng lĩnh vực sản xuất để hợp tác nhằm trả lời các đòi hỏi của thị trường. Thứ ba, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến, tổng kết rút kinh nghiệm, nhân rộng các mô hình kinh tế hợp tác có hiệu quả nhằm: Giúp cho mọi người nắm được sự cần thiết khách quan để phát triển các hình thức kinh tế hợp tác trong quá trình phát triển nền nông nghiệp hàng hoá. Mối quan hệ biện chứng giữa trình độ phát triển sản xuất hàng hoá nông nghiệp với quá trình hình thành, phát triển kinh tế hợp tác, HTX trong nông nghiệp, những bài học kinh nghiệm của các nước trên thế giới về kinh tế hợp tác HTX trong nông nghiệp. Việc tuyên truyền phổ biến về luật HTX và các văn bản hướng dẫn của Nhà nước giúp mọi người phân biệt đưọc sự khác nhau cơ bản giữa hai mô hình HTX kiểu cũ và HTX kiểu mới. Mục đích yêu cầu, tác dụng và các bước tiến hành cần thiết của quá tình chuyển đổi xây dựng HTX kiểu mới. Đồng thời góp phần nâng cao ý thức trách nhiệm của cán bộ trong việc thực hiện chủ trương chính sách của Đảng, Nhà nước đối với kinh tế hợp tác, HTX. Tránh lặp lại những sai lầm cũ như: chuyển đổi hình thức, chạy theo phong trào “HTX cả làng”ngược lại, không thể vì nhưũng sai lầm trong quá trình hợp tác hoá trước đây mà kì thị với hình thức kinh tế HTX. Tiếp tục thực hiện chủ trương chuyển đổi, xây dựng HTX kiểu mới theo đúng luật HTX. Đồng thời phải coi trọng việc tổng kết kinh nghiệm thực tiễn và nhân rộng mô hình có hiệu quả công việc này trước hết phải do cơ sở, địa phương thực hiện, kết hợp với sự giúp đỡ của các cơ quan chức năng và cơ sở nghiên cứu. Cùng với việc làm trên , cần chú ý tổ chức cho đại diện cán bộ HTX , nông dân vùng sâu, vùng xa đi tham quan thực tế các mô hoạt động có hiệu quả ở các địa phương khác học tập rút kinh nghiệm. Thứ tư, xây dựng và lựa chọn các mô hình kinh tế hợp tác, HTX phù hợp với từng lĩnh vực hoạt động, từng địa phương. Việc làm này có tác dụng phát huy hiệu quả thực sự của các hình thức kinh tế hợp tác đối với sự phát triển của sản xuất nông nghiệp, CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn. Khuyến khích hình thức tổ, hội nghề nghiệp, các tổ nhóm hợp tác ví dụ như ở những vùng sản xuất cây công nghiệp, hàng hoá tập trung trồng chè, hoặc cà phê, mía, cây ăn quả, cây dược liệu, gỗ nguyên liệu những tổ kinh tế hợp tác hoạt động tốt có hiệu quả thực sự cần hướng dẫn tạo điều kiện để hình thành HTX kiểu mới. Tuy nhiên hoàn toàn không được gò ép chuyển thành HTX khi hình thúc tổ kinh tế hợp tác không còn phù hợp voí yếu cầu, nguyện vọng của nhân dân. Đối với loại hình HTX nhất thiết phải phát triển và mở rộng mô hình HTX chuyên ngành ví dụ đối với những vùng trung du áp dụng những mô hình này ở những nơi trồng chè cà phê, trồng rừng làm nguyên liệu cho công nghiệp chế biến và các yêu cầu khác bên cạnh việc phát triển HTX chuyên ngành nên phát triển HTX dịch vụ đa chức năng kết hợp với sản xuất mở mang ngành nghề phù hợp với cả trong lĩnh vực nông nghiệp và một số ngành nghề khác trên địa bàn thị trấn, thành phố nói chung. Thứ năm, liên quan đến mức góp vốn của các thành viên, xã viên HTX. Theo nghiên cứu và kinh nghiệm thực tế ở nhiều nước về mô hình kinh tế HTX thì cần hạn chế các thành viên HTX góp vốn quá lớn nhằm tránh cho HTX hoặc bị lợi dụng là cái vỏ pháp nhân HTX cho một vài cá nhân hoặc HTX sẽ bị lệ thuộc vào một số ít người. Như vây mặc dù có tính chất dân chủ, bình đẳng, không phụ thuộc vào số vốn góp nhưng thực tế lại bị lệ thuôc vào số vốn của một số người HTX sẽ dễ bị họ gây sức ép chạy theo mục tiêu tìm kiếm lợi nhuận tối đa bằng cách các hoạt động kinh doanh với đối tượng ngoài thành viên và tìm cách chia cổ tức với tỷ lệ lớn nhất dẫn đến mâu thuẫn quyền lợi. Trong điều kiện hiện nay cần đảm bảo cho các thành viên góp vốn lớn không bị thua thiệt nhưng vẫn phải đảm bảo lưọi ích tập thể. Thứ sáu, tăng cường mối liên kết hợp tác giữa HTX với các thành phần kinh tế hợp tác trước hết là kinh tế Nhà nước. Trong điều kiện hiện nay, kinh tế Nhà nước vẫn giữ vai trò quan trọng có tính quyết định đến sự phát triển của toàn ngành nông nghiệp. Sự tác động đó chủ yếu thông qua các hệ thống thuỷ nông giao thông cung cấp điện, cung cấp tín dụng, khuyến nông, khuyến lâm bảo vệ thực vậttrong mối quan hệ này, HTX phải đóng vai trò người đại diện là cầu nối giữa kinh tế Nhà nước và kinh tế hộ. Một mặt, HTX thực hiện việc tiếp nhận sự hỗ trợ của Nhà nước, triển khai chương trình dự án có liên quan đến kinh tế hộ ở địa phương. Mặt khác HTX giúp doanh nghiệp nông nghiệp mở rộng phạm vi hoạt động, phục vụ trực tiếp có hiệu quả đến nông dân. còn doanh nghiệp Nhà nước tạo điều kiện cho HTX mở rộng và nâng cao hiệu quả hoạt động dịch vụ sản xuất kinh doanh như HTX làm đại lý, ký hợp đồng bao tiêu sản phẩm. Thứ bảy, tăng cường hệ thống tổ chức quản lý Nhà nước đối với kinh tế hợp tác, HTX bằng cách: - Thường xuyên nâng cao trình độ cán bộ quản lý Nhà nước đối với kinh tế hợp tác, HTX thông qua đào tạo bồi dưỡng trong hệ thống các trường từ tỉnh đến TW, kết hợp việc tham quan học hỏi kinh nghiệm trong và ngoài nước. - Nhà nước cần cấp một khoản kinh phí cần thiết cho hệ thống quản lý Nhà nước đối với kinh tế hợp tác, HTX. Cùng với hệ thống bộ máy quản lý Nhà nước đối với kinh tế hợp, HTX. Cần tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, sự phối hợp trách nhiệm của các tổ chức xã hội như: hội nông dân, hội phụ nữ, hội cựu chiến binh, liên minh HTX trong việc tuyên truyền vận động giúp đỡ phát triển các hình thức kinh tế hợp tác, HTX, phù hợp voí điều kiện thực tiên và nhu cầu của nông dân ở từng địa phương. Thứ tám, xây dựng cơ chế phối hợp có hiệu quả giữa tổ chức Đảng, chính quyền và HTX ttrên từng địa bàn. Để giải quyết tốt mối quan hệ này cần có cơ chế phối hợp hoạt động có hiệu quả. Tổ chức Đảng thực hiện vai trò lãnh đạo chung thông qua chủ trương, Nghị quyết và vai trò gương mẫu của người Đảng viên. Chính quyền địa phương có quyền, có trách nhiệm kiểm tra giám sát HTX trong việc tuân thủ pháp luật và các chủ trương chính sách của đảng Nhà nước. Nhưng tuyệt đối không được can thiệp trực tiếp vào công việc nội bộ của HTX, không làm thay chức năng của HTX, song phải tạo điều kiện hỗ trợ, giúp đỡ cho HTX hoạt động theo pháp luật. Thứ chín, đối với liên minh HTX: kiện toàn tổ chức liên minh HTX từ TW đến các tỉnh, thành phố thực sự vững mạnh, khắc phục mọi biểu hiện hành chính hoá trong tổ chức và hoạt động bảo đảm thực hiện tốt vai trò đại diện và hỗ trợ cho khu vực kinh tế hợp tác và HTX. Từng bước hiện đại hoá mạng lưới thông tin trong ngành giúp cho hoạt động của liên minh HTX Việt Nam được thông suốt kịp thời nâng cao chất lượng các hoạt động tư vấn về thị trường và KHCN đào tạo bảo lãnh tín dụng để liên minh HTX Việt Nam thực sự là tổ chức đại diện và hỗ trợ thúc đẩy kinh tế hợp tác và HTX phát triển. Thứ mười, cần có những chính sách vĩ mô cơ bản để phát triển kinh tế hợp tác và HTX từ nay đến năm 2010: - Nên có chính sách xoá nợ với các HTX nông nghiệp gặp thiên tai, lũ lụt, gây thiệt hại tài sản và một số HTX nông nghiệp tự giải thể hoặc tồn tại chỉ là hình thức. Xoá nợ thuế cho các HTX trước thời điểm thực hiện thu thuế trực tiếp đến hộ. Ngân sách Nhà nước sẽ cấp bù cho địa phưưong được Chính phủ cho xoá nợ số HTX còn nợ Nhà nước. - Chính sách đầu tư tài chính đối với kinh tế hợp tác trong nông nghiệp: Quỹ tín dụng nông thôn theo tinh thần chỉ thị Bộ chính trị ngày 13/10/2000 là tăng cường hình thức tín chấp thông qua các đoàn thể quần chúng và chính quyền cấp xã để các hộ khó khăn vay vốn sản xuất. Nên cho phép HTX nông nghiệp huy động cho vay nội bộ tăng cường kiểm soát, chấm dứt tình trạng cho vay nặng lãi ở nông thôn. Nhà nước cần giành một tỷ lệ chính đáng ngân sách Nhà nước đầu tư cho kinh tế HTX như: đầu tư cho công tác đào tạo cán bộ HTX và lao động nông thôn, đổi mới kỹ thuật công nghệ, xây dựng kết cấu hạ tầng nông thôn. - Chính sách thuế: Nên miễn thuế cho các hoạt động dịch vụ của HTX nông nghiệp gồm cung ứng vật tư sản xuất, chế biến, tiêu thụ sản phẩm. - Chính sách ruộng đất: Nhà nước cần có cơ chế kiểm tra đôn đốc các địa phương khẩn trương thực hiện chính sách giao đất giao rừng cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đến hộ nông dân. Cần thể chế hoá năm quyền trong luật đất đai. Khuyến khích quá trình tích tụ, tập trung ruộng đất (trong phạm vi cho phép) tới các hộ, trang trại phát triển sản xuất hàng hoá đồng thời cần tuyên truyền áp dụng kinh nghiệm của một số địa phương về việc dồn điền đổi thửa để hạn chế tình trạng manh mún ruộng đất, tạo điều kiện cơ giới hoá cho sản xuất nông nghiệp. Đối với các tỉnh miền núi vùng sâu, vùng xa, biên giới cần miễn không thời hạn tiền thuê đất mà HTX sử dụng để làm các công trình dịch vụ phục vụ sản xuất. đồng thời phải có cơ chế quản lý chặt chẽ để tránh tình trạng sử dụng đất lãng phí và các hiện tượng tiêu cực khác. - Chính sách thị trường: Cần phải cung cấp thông tin kịp thời cho các chủ thể sản xuất nông nghiệp đó là những thông tin về thị trường như: nhu câù tiêu thụ nông sản, tình hình sản xuất cạnh tranh, sự biến động giá cả.. trên thị trường trong nước và quốc tế. Cung cấp những thông tin về phương thức, về điều kiện, yêu cầu đảm bảo tính thống suốt tính toán kỹ hiệu quả kinh tế trước khi quyết định phương án đầu tư tổ chức sản xuất. - Chính sách đào tạo sử dụng cán bộ HTX và đào tạo nghề cho lao động nông nghiệp nông thôn: Nhà nước cần pahỉ có nhiều đề án cụ thể về công tác đào tạo cán bộ HTX trước hết đó là Chủ nhiệm HTX, kế toán rà soát củng cố hệ thống các trường đào toạ và tài liệu giáo trình, chương trình giảng dạy về HTX nông nghiệp theo tiêu chuẩn chung của cả nước và phù hợp với từng địa phương. - Chính sách khuyến nông, KHCN: cần tăng cường nghiên cứu áp dụng các thành quả mới nhất của KHCN nâng cao dân trí đào tạo bồi dưoững nhân lực tại chỗ, cung cấp kịp thời các tri thức khoa học công nghệ hiện đại vào các quy trình sản xuất của nông nghiệp. Đối với các chủ thể sản xuất chế biến và tiêu thụ nông sản được hỗ trợ kinh phí, hoặc trợ giá một phần cho việc đầu tư ứng dụng tiến bộ KHCN cho sản xuất nông nghiệp. Kết luận Trong nền kinh tế thị trường ồ ạt như hiện nay đâu đâu cũng chỉ thấy mọc lên những công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần hay doanh nghiệp tư nhân liệu có ai đặt ra câu hỏi rằng: đến khi nào đó mô hình kinh tế HTX hoàn toàn bị biến đổi hay bị thay thế bởi một mô hình kinh tế khác hay không? Bởi lẽ rằng ngay trước mắt kinh tế HTX đã mang trong mình nó bao bất cập, khó khăn: sự ràng buộc quá lớn giữa người với người gây ra sự trì trệ ỷ lại làm giảm đi tính năng động, mờ đi tính sáng tạo của con người dẫn đến sự không thể thích nghi được với nền kinh tế thị trường quá sôi động, quá nhạy bén. Phải chăng đến một lúc nào đó mô hình kinh tế HTX sẽ bị lãng quên? Lại có một vấn đề nữa đặt ra rằng trong thời đại đổi mới, xu thế toàn cầu hoá đưa các quốc gia xích lại gần nhau theo hướng hợp tác hoá liên hiệp hoá (tiêu biểu như tổ chức WTO mà sắp tới Việt Nam có thể sẽ gia nhập, tổ chức ASEM) có như vậy thế giới mới phát triển ổn định trong hoà bình. Rõ ràng hợp tác hoá là điều kiện không thể thiếu được trong việc phát triển lâu dài và ổn định từ đó chúng ta lại càng khẳng định một điều rằng: Nền kinh tế Việt Nam- nền kinh tế đang trên đà phát triển sẽ không thể và không bao giờ xoá bỏ một cách sạch trơn mô hình kinh tế HTX. CNXH muốn phát triển phải dựa trên sức mạnh cộng đồng- hay đó chính là sức mạnh dân tộc. Chính vì vậy mô hình kinh tế HTX kiểu mới đã được sửa đổi để thích nghi với nền kinh tế thị trường là nền tảng của nền kinh tế bền vững và phát triển đó là kinh tế Việt Nam XHCN trong tương lai, cho ngày mai và cho cả mai sau Bản thân em là một cử nhân tương lai nguyện sẽ cống hiến cho sự nghiệp đổi mới của đất nước sức khoẻ và kiến thức của tuổi thanh xuân bất kể khi nào đất nước cần. Bởi lẽ mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng văn minh không phải chỉ là khẩu hiệu mà là ước mơ của toàn Đảng, toàn dân mà còn là ước mơ cháy bỏng trong mỗi trái tim của mỗi một sinh viên như chúng em. Tài liệu tham khảo Tạp chí Nông nghiệp và phát triển nông thôn Số 2 năm 2004 Số 5 năm 2004 Số 2 năm 2001 Tạp chí phát triển kinh tế T3/2004 Tạp chí Kinh tế và dự báo T6/2001 Tạp chí nghiên cứu kinh tế số 280 - T9/2001 Tạp chí lý luận chính trị số 12/2001 Tạp chí nghiên cứu Trung Quốc số 6/2000 Giáo trình quản trị doanh nghiệp nông nghiệp - NXB Thống kê Những bài học kinh nghiệm từ các mô hình kinh tế HTX Nông nghiệp ở nước ta Cuốn Nông nghiệp Châu Âu, những kinh nghiệm phát triển Cuốn Kinh tế hợp tác trong nông nghiệp ở nước ta hiện nay Cuốn lý luận về kinh tế hợp tác, HTX và sự vận dụng ở nước ta. Mục lục

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docV0428.doc
Tài liệu liên quan