Lý thuyết về những lợi thế so sánh đã được David Ricardo (1772-1823) nêu ra. Lý thuyết này xác định những cái lợi của thương mại bằng cách chứng minh rằng trao đổi, với những sự chuyên môn hóa mà nó tạo nên,đem lại lợi ích cho tấtcả nhữngngườicùng trao đổi với nhau. Mỗi nền kinh tế địa phương ắt sẽ có lợi trong việc chuyên môn hóa trong một hay một số khu vực có một lợi thế so sánh cho dù đó là nguồn nhân công dồi dào hay rẻ tiền, hay là tài nguyên khoáng sản và các tiềm năng về năng lượng: than đá, dầu mỏ,
Bản thân lợi thế so sánh được kiểm nghiệm bởi sự thật là một nước, trong một khu vực nhất định có được giá thất hơn cả so với những nước còn lại trong việc sản xuất ra của cải vật chất. Khi đó sự trao đổi giữa các quốc gia xem như là vô cùng có lợi ích do việc mua bán đều đem lại lợi ích cho cả hai quốc gia tham gia vào quá trình. Vì thế có thể nhận ra rằng, khi xem xét lợi thế so sánh giữa các quốc gia thì ta thấy được cách sử dụng hiệu quả các lực lượng sản xuất của các quốc gia và nói rộng ra là của quốc tế.
46 trang |
Chia sẻ: Dung Lona | Lượt xem: 1103 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng năng lực cạnh tranh của ngành da giầy Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
, châu Phi, tuy không yêu cầu cao về mẫu mã và chất lượng nhưng hàng Việt Nam vẫn không thể thâm nhập mạnh vào thị trường các nướcnày.
Nguyên vật liệu sản xuất của ngành da giày chiếm đến 80% giá trị của sản phẩm trong đó ngành sản xuất da đóng vai trò quan trọng nhất. Theo LEFASO, nhu cầu da thuộc năm 2007 của toàn ngành khoảng 350 triệu feet vuông, trong khi đó các nhà máy thuộc da của Việt Nam và nước ngoài đầu tư tại Việt Nam mới chỉ sản xuất và đáp ứng được khoảng 20% nhu cầu da thuộc của cả nước, 80% còn lại phải nhập khẩu.
Ngành phụ liệu sản xuất còn trầm trọng hơn, các doanh nghiệp Việt Nam mới chỉ sản xuất được một vài mặt hàng rất hạn chế như nhãn, ren, dây giày... nhưng lại “bỏ ngỏ” những loại phụ kiện tinh xảo là các sản phẩm nhựa có xi mạ như khoen, móc, cườm, các vật trang trí trên giày, đặc biệt là giày nữ và trẻ em.
Năng lực sản xuất của ngành chủ yếu tại các cơ sở ngoài quốc doanh và có yếu tố nước ngoài, chiếm trên 90% năng lực của cả ngành, chứng tỏ năng lực ngành phụ thuộc hoàn toàn vào làn sóng đầu tư của tư bản tư nhân trong nước.
Tuy có lợi thế giá nhân công rẻ, nguồn cung ứng lao động dồi dào do dân số trẻ, nhưng năng suất lao động của người Việt Nam rất thấp, trung bình trên 1 dây chuyền 450 lao động đạt mức sản lượng 500.000 đôi/năm, chỉ bằng 1/35 năng suất lao động của người Nhật, 1/30 của Thái Lan, 1/20 của Malaysia.
Hiện nay trình độ công nghệ của ngành da giày Việt Nam đang ở mức trung bình và trung bình khá, song khá lệ thuộc vào nước ngoài về trang bị máy móc. Khả năng đầu tư và chuyển giao công nghệ mới phụ thuộc vào nguồn tài chính hạn hẹp, đội ngũ chuyên gia hiểu biết sâu và cập nhật công nghệ còn quá ít và chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển của doanh nghiệp, kinh nghiệm và khả năng đàm phán, ký kết hợp đồng về công nghệ còn hạn chế...Đây là một trong những nguyên nhân làm hạn chế năng suất lao động và hiệu quả sản xuất kinh doanh của ngành trong thời gian trước mắt cũng như lâu dài. Điều này còn dẫn đến việc ngành có nguy cơ mất khả năng cạnh tranh trên thị trường, đặc biệt là thị trường quốc tế.
2.2. Phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của ngành
2.2.1. Yếu tố nguyên vật liệu của ngành da giầy.
Nguyên vật liệu sản xuất của ngành da giầy chiếm đến 80% giá trị của sản phẩm, trong đó ngành sản xuất da đóng vai trò quan trọng nhất. Tuy nhiên, đây cũng là khâu yếu nhất trong ngành da giầy vn.
Theo thống kê chưa đầy đủ, hiện nay cả nước co khoảng gần 7 triệu con trâu, bò.Trên lý thuyết, lượng da sống đủ sức phục vụ cho công nghiệp thuộc da hiện tại( năng lực 25 triệu sqft/năm). Tuy nhiên, trên thực tế chỉ thu được khoảng 70%( 22,9 triệu sqft). Theo LEFASO, nhu cầu thuộc da năm 2006 của toàn ngành khoảng 320 triệu sqt, trong khi đó các nhà máy thuộc da của vn và nước ngoài đầu tư tại vn mới chỉ sản xuất và đáp ứng được khoảng 20% nhu cầu da thuộc của cả nước( khoảng 65 triệu sqt), 80% còn lại phải nhập khẩu. Theo một chuyên gia quốc tế về da giầy của Italia, nếu vn tự gia công được sản phẩm da thô thành da tinh cho sản xuất, sẽ giảm được 15% đến 20% chi phí.
Ngành phụ liệu sản xuất còn trầm trọng hơn, có thể nói vn gần như để trống trong lĩnh vực này. Hiện nay, các doanh nghiệp vn mới chỉ sản xuất được một vài mặt hàng rất hạn chế như nhãn, ren, dây giàynhưng lại bỏ ngỏ các loại phụ liệu tinh xảo là các sản phẩm nhựa có xi mạ như khoen, móc, cườm, các vật trang trí trên giầy, đặc biệt là giầy nữ và giày trẻ em( hoa, nơ). Bên cạnh đó, chúng ta chưa có các ngành công nghiệp phu trợ( sản xuất mũi giầy, đế giầy), hầu hết các nhà máy trong ngành đều tự sản xuất toàn bộ các phần chinhscuar sản phẩm với quy mô vừa đủ đáp ứng sản xuất. Gần đây đã có một số cơ sở sản xuất nhỏ với quy mô đầu tư hạn chế,công nghệ lạc hậu, đặt trong các khu dân cư gây ô nhiễm nên cũng không được khuyến khích đầu tư mở rộng.
Chính vì nguyên nhân này đã khiến cho nhiều doanh nghiệp của nước ta rơi vào tình trạng bị động trong đầu vào tìm nguồn nguyên liệu, nhiều trường hợp còn bị các đối tác ép giá. Điều này làm cho chi phí sản xuất tăng cao, đồng thời cung khiến cho tốc độ cung ứng sản phẩm bị ảnh hưởng rất lớn do không chủ động được nguồn nguyên liệu.
2.2.2.Yếu tố thiết bị máy móc của ngành da giầy
Phần lớn máy móc thiết bị phục vụ cho ngành sản xuất giày dép, thuộc da, sản xuất nguyên liệu nhân tạo đều được nhập khẩu từ Ðài Loan, Hàn Quốc, Ý, Pháp, và Trung Quốc
Hiện nay một số nhà máy cơ khí trong nước và đặc biệt là tại thành phố Hồ Chí Minh đã nỗ lực sản xuất được những thiết bị giản đơn cho ngành da giày. Tuy nhiên những nhà máy này chỉ có trình độ công nghệ ở mức trung bình hoặc thấp.
Thiết bị sản xuất trong nước có giá bán chỉ bằng 50-70% so với giá nhập khẩu nhưng chất lượng của chúng thiếu ổn định và tuổi thọ không cao. Tuy vậy, có thể chấp nhận được khi so sánh các mặt tác dụng qua lại với nhau.
Tiêu chí so sánh
Việt Nam
Thái Lan
Trung Quốc
Ðài Loan
Hồng Kông
Indonesia
Thiết bị đơn giản, công nghệ thấp, so sánh các mặt
100
90
120
80
80
100
Thiết bị phức tạp công nghệ cao
100
110
100
150
150
100
2.2.3.Yếu tố công nghệ- kỹ thuật của ngành da giầy
Ðây là khâu yếu nhất của ngành da giày Việt Nam do tuổi đời của ngành chưa cao, thiếu kinh nghiệm. Trong khi đó nếu so với những nước trong khu vực thì họ đã có quá trình phát triển khá lâu. Việc sản xuất các loại giày đặc chủng, giày thể thao chuyên nghiệp, giày y tế yêu cầu công nghệ cao đều nằm ngoài tầm với của doanh nghiệp Việt Nam.
Tiêu chí so sánh
Việt Nam
Thái Lan
Trung Quốc
Ðài Loan
Hồng Kông
Indonesia
Ðối với công nghệ sản xuất thấp, chủ yếu là dùng sức lao động
100
90
110
80
80
100
Công nghệ trung bình, kết hợp thủ công và cơ khí
100
110
110
100
100
100
Công nghệ cao
100
110
110
1500
150
100
2.2.4.Yếu tố nguồn nhân lực của ngành da giầy
Da giầy là ngành sử dụng nhiều lao động xã hội. Tính đến hết năm 2006, toàn ngành đã thu hút 600.000 lao động ( chưa kể số lao động sản xuất tronh lĩnh vực nguyên phụ liệu và lao động tại các cơ sở nhỏ, các hộ gia đình và các làng nghề có thể lên tới hơn 1 triệu lao động ) chiếm khoảng 9% lực lượng lao động công nghiệp.
Bảng: Số lượng lao động ngành da giầy 2002- 2006
Năm
2002
2003
2004
2005
2006
Lao động ngành da giầy
470
480
510
540
550
Lao động ngành CN
4237
4639
5162
5618
5700
Tỷ trọng( %)
11,10
10,34
9,90
9,60
9,65
Nguồn: LEFASO( 2006)
Hiện tại, nhìn chung lao động trong ngành da giầy có trình độ văn hóa mức phỏ thong trung học chiếm tỷ lệ cao nhất: 66% ,tỷ lệ đại học và trên đại học chỉ chiếm khoản 5%.Phần lớn lao động trong ngành là lao đọng nữ, chiếm khoảng 80 đến 85%.Tỷ lệ lao động ngoại tỉnh trong ngành chiếm khoảng 65%. Độ tuổi phổ biến của người lao động trong ngành từ 18- 35 tuổi. Về năng suất lao động, hiện số lao động trên 1 dây chuyền là 450 lao động với mức sản lượng là 500.000 đôi/năm.
Khi sử dụng lao động giá rẻ, doanh nghiệp có thể tiết giảm được một phần trong quỹ tiền lương, nhưng thực tế chi phí mà họ bỏ ra để đào tạo, đầu tư nhân viên mới sẽ cao hơn. So với các nước khác, chi phí này của lao động vn cao hơn bình quân từ 15-20 lần. Mặt khác, năng suất lao động của người vn cũng rất thấp, chỉ bằng 1/135 năng suất lao động của người Nhật, 1/30 của người Thái Lan, 1/20 của người Malaysia và 1/10 của người Indonexia.
Đồng thời, theo nhận xét của LEFASO, đội ngũ thiết kế tạo mẫu giày hiện nay ở ta còn rất thiếu và yếu. Gọi là các “nhà tạo mẫu” cho sang trọng, nhưng phần lớn xuất thân từ công nhân, sau thời gian làm các dây chuyền sản xuất, được lựa chọn bồi dưỡng tại chỗ để làm ở bộ phận ra mẫu và phát triển sản phẩm. Những nhân viên này không được đào tạo có bài bản chuyên về thiết kế tạo mẫu giày, một số khác chỉ được tiếp thu trực tiếp qua các chuyên gia, các khóa ngắn hạn do doanh nghiệp cử đi học. Mặc dù thiếu thốn đội ngũ như vậy, nhưng đây cũng là ngành duy nhất không có trường lớp đào tạo kỹ thuật hay cử nhân thiết kế tạo mẫu. Hiện nay ngành giày thiếu vắng hẳn một lực lượng là những kỹ sư phác họa, mỹ thuật công nghiệp. Thiếu đội ngũ này thì không thể nào nói đến có được các mẫu mã sáng tạo, thời trang, không thể cạnh tranh với hàng các nước, càng không thể nói đến các thương hiệu nổi tiếng như Nike, Adidad... Hiện tại, chỉ có một số rất ít nhân viên học mỹ thuật công nghiệp ra và làm việc tại các phòng kỹ thuật của doanh nghiệp, như công ty giày An Lạc, 32, Công ty Xuất nhập khẩu da giày Sài Gòn
2.2.5.Yếu tố tiếp thị và tổ chức kinh doanh.
Ðây cũng là một mặt yếu kém của ngành da giày Việt Nam. Nguyên nhân chính là do các doanh nghiệp giày đều có quy mô vừa và nhỏ, thiếu vốn, thiếu năng lực để có thể tạo ra những mẫu mã mới, kiểu dáng mới. bên cạnh đó uy tín của doanh nghiệp Việt Nam trong lĩnh vực giày dép trên thế giới là chưa cao, không thâm nhập vào được các kênh kinh doanh, phân phối của các tập đoàn lớn và doanh nghiệp Việt Nam rất thiếu thông tin về thị trường, cả nước chưa có một đơn vị nào đảm trách việc thông tin chuyên cho ngành giày.
Tiêu chí so sánh
Việt Nam
Thái Lan
Trung Quốc
Ðài Loan
Hồng Kông
Indonesia
Công tác tiếp thị
100
120
120
150
150
100
Sáng tác mẫu mới
100
120
120
150
150
100
Quan hệ với những thị trường xuất khẩu lớn
100
120
110
150
150
100
Tổ chức công cuộc làm ăn
100
110
150
150
150
90
Tổ chức thông tin chuyên ngành
100
120
150
150
150
100
2.3. Nhận xét chung về năng lực cạnh tranh của ngành da giày
2.3.1. Điểm mạnh về năng lực cạnh tranh
Sản phẩm da giầy là một trong những mặt hàng xuất khẩu chủ lực của vn, hơn nữa đây còn là mặt hàng mà vn có lợi thế so sánh trong việc sử dụng nhiều lao động. Ngành cũng đang đón nhận sự chuyển dịch đầu tư và tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu trong ngành rất lớn. Vốn đầu tư cho ngành trên 1 đơn vị sản phẩm ở mức trung bình khá. Công nghệ sản xuất không quá phức tạp.
Đời sống càng ngày càng được nâng cao, khả năng mua sắm của xã hội ngày càng được cải thiện, đất nước càng hội nhập sâu rộng vào thế giới làm cho ngành du lịch phát triển là những cơ hội để ngành da giầy phát triển theo hướng xuất khẩu trực tiếp trên sân nhà. Chế độ xã hội ổn định và nhiều cơ hội thuận lợi cho doanh nghiệp phát triển đang được tạo ra thông qua cơ chế chính phủ phù hợp với tình hình trong nước và thông lệ quốc tế.
Xét về lợi thế so sánh, với mức dân số hiện nay trên 80 triệu dân, là một nước có cơ cấu lao động trẻ, tiền thuê lao động rẻ, đây là một yếu tố thuận lợi cho sự hoạt động của các doanh nghiệp trong ngành, nơi sử dụng chủ yếu là lao động thủ công.Vì thế, lợi thế cạnh tranh trong ngành da giầy chủ yếu là do nhân công giá rẻ, người lđ có tay nghề kỹ thuật, cần cù chịu khó, giá thành sp cạnh tranh. Xong, lợi thế này chỉ đem lại lợi ích ngắn hạn và giá trị gia tăng thấp. Bởi nhân công, tài nguyênchỉ là những lợi thế tĩnh và đang ngày càng mất ưu thế so với các lợi thế động là hàm lượng chi thức, chất xám, công nghệ, dịch vụViệc xuất khẩu tài nguyên ở dạng thô, việc lấy công làm lãi ở một số ngành nghề sẽ bị giảm dần lợi thế trong tương lai, khi khoa học phát triển với tốc độ nhanh như hiện nay. Vì vậy, để tồn tại, các doanh nghiệp vn cần tận dụng lợi thế về lđ cần cù, khéo léo của đọi ngũ công nhân vn.Tuy nhiên, để những lợi thế này có điều kiện tòn tại lâu dài, nguồn nhân lực này phải được đào tạo bài bản, có khả năng sử dụng các trang thiết bị hiện đại để áp dụng vào sản xuất sản phẩm.
Ngoài lợi thế về lao động thì vn còn có lợi thế do chính trị ổn định, nền kinh tế mở cửa, môi trường đầu tư thông thoáng. Các dự án đầu tư nước ngoài vào ngành thuộc da và làm giầy đều thuộc diện khuyến khichsvif sản phẩm chủ yếu để xuất khẩu. Các sp da giầy có thuế suất bằng 0% và được hoàn thuế VAT.Đồng thời , luật đầu tư sửa đổi đã tạo ra sân chơi bình đẳng giữa các thành phần kinh tế, tạo điều kiện cho các nhà đầu tư tư nhân vn bỏ vốn phát triển các trang trại chăn nuôi đại gia súc và phát triển công nghiệp thuộc da.
Ngoài ra, việc Việt Nam là thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) và Quốc hội Mỹ thông qua quy chế Thương mại bình thường vĩnh viễn (PNTR) với Việt Nam đã tạo cơ hội mở cửa cho các nhà nhập khẩu của Hoa Kỳ thâm nhập vào thị trường xuất khẩu của Việt Nam. Hiện nay, các nhà nhập khẩu giày dép của Hoa Kỳ đã có những kế hoạch mở rộng thị trường nhập khẩu từ Việt Nam, nhất là có các chi tiết sản xuất phức tạp, chất lượng từ trung bình khá trở lên, vì Việt Nam có đội ngũ lao động khéo tay sản xuất các sản phẩm phức tạp, đây sẽ là cơ hội cho các sản phẩm da giày của Việt Nam xuất khẩu vào thị trường này. Ngoài ra, còn nhiều yếu tố để khẳng định ngành giày dép của Việt Nam trong năm 2007 sẽ có cơ hội xuất khẩu mạnh vào thị trường này như: do việc thâm hụt thương mại của Hoa Kỳ với Trung Quốc ngày càng lớn và thị phần giày dép của Trung Quốc tại thị trường Hoa Kỳ quá lớn, ngày càng tăng. Để tránh phụ thuộc quá nhiều vào nhập khẩu từ Trung Quốc, đồng thời chủ động đối phó với khả năng thiếu nguồn lao động đang xuất hiện, gia tăng trong ngành giày dép của Trung Quốc, một số công ty của Hoa Kỳ đang có xu hướng tìm thêm nguồn hàng từ các nước khác, trong đó có Việt Nam. Các nước như Indonesia, Thái Lan cũng là nguồn cung cấp lớn về giày dép cho thị trường Hoa Kỳ. Tuy nhiên, do tình hình chính trị, xã hội tại các nước này không được ổn định, chính vì vậy các công ty Hoa Kỳ cũng có xu hướng giảm bớt nhập khẩu từ các thị trường này. Theo thống kê, kim ngạch xuất khẩu giày dép của Indonesia vào thị trường Hoa Kỳ năm 2004 giảm 13,5% so với năm 2003 và 32,5% so với năm 2002; kim ngạch xuất khẩu giày dép của Thái Lan năm 2005 vào thị trường này chỉ đạt 292 triệu USD, giảm so với 315 triệu USD năm 2001. Với những yếu tố nêu trên, đây sẽ là cơ hội rất lớn cho các doanh nghiệp sản xuất ngành giày dép của Việt Nam phát triển mạnh vào thị trường Hoa Kỳ trong những năm tiếp theo.
2.3.2. Điểm yếu về năng lực cạnh tranh
Theo ý kiến của nhiều chuyên gia thì nguyên phụ liệu và hệ thống phân phối của ngành Da giày đang là vấn đề nan giải. Về nguyên phụ liệu, phần lớn đều phải nhập khẩu từ nước ngoài, nên tuy giá trị kim ngạch xuất khẩu rất cao nhưng hiệu quả kinh tế thấp, giá trị gia tăng chỉ chiếm 25%. Vì vậy, phát triển ngành công nghiệp phụ trợ cho ngành Da giày là hết sức cần thiết.
Về hệ thống phân phối, có đến hơn 60% các sản phẩm da giày Việt Nam là gia công cho phía đối tác nước ngoài dưới hình thức làm theo đơn đặt hàng, với giá nhân công rẻ nên các doanh nghiệp Việt Nam chỉ giao hàng đến các nhà buôn mà không xuất khẩu trực tiếp đến các nhà phân phối chính. Đây là điểm rất yếu của ngành Da giày Việt Nam vì đa phần phụ thuộc vào hệ thống phân phối kinh doanh nước ngoài, điều đó đồng nghĩa với việc bị chi phối về sản xuất.
Bên cạnh đó việc tập trung quá lớn vào thị trường EU cũng làm cho ngành Da giày gặp nhiều khó khăn lúng túng khi thị trường này có biến động bất thường do tranh chấp thương mại. Theo thống kê của Hiệp hội Da Giày Việt Nam, hiện tỷ lệ xuất khẩu vào EU của ngành Da giày Việt Nam chiếm tới hơn 70%, vì thế khi xảy ra vụ kiện cả ngành Da giầy rơi vào thế lao đao. Đó là hậu quả của việc không xây dựng được hệ thống phân phối chiến lược. Hiện nay, một số doanh nghiệp Việt Nam đang tìm hướng chuyển đổi thị trường xuất khẩu để tránh phụ thuộc quá nhiều vào EU. Tuy nhiên, trong 2 năm tới, ngành Da giày Việt Nam sẽ vẫn còn nhiều khó khăn, bởi không thể chuyển đổi thị trường nhanh chóng được.
Một vấn đề khác cũng cần được đề cập tới đó là do quá chú trọng vào xuất khẩu nên phần lớn các doanh nghiệp da giày vẫn chưa có được một chiến lược đầu tư dài hạn nhằm phát triển thị trường nội địa. Điều này đã khiến cho ngành Da giày bị mất đi nguồn thu đáng kể ngay tại chính sân nhà. Có những doanh nghiệp da giày thay vì phải vạch ra hướng phát triển mới cho thị trường trong nước đã lựa chọn những sản phẩm xuất khẩu thừa hoặc lỗi mốt để đem tiêu thụ nội địa, điều này đã khiến cho giày dép nội địa trở nên kém hấp dẫn hơn. Nếu không giải quyết tốt những vấn đề hiện đang tồn tại thì việc duy trì tốc độ tăng trưởng cao trong thời gian tới của ngành da giầy chắc chắn sẽ rất khó khăn.
Tính cạnh tranh của cả ngành Da - Giầy Việt Nam còn yếu so với các nước xuất khẩu giầy dép trong khu vực, đặc biệt là với nước xuất khẩu giầy lớn (như Trung Quốc) do thiếu khả năng tự đảm bảo vật tư nguyên liệu trong nước, điều kiện kinh tế và hạ tầng dịch vụ của Việt Nam còn chưa theo kịp các nước và giá không cạnh tranh. Khi Việt nam gia nhập WTO sự cạnh tranh này khốc liệt hơn. Theo LEFASO, tổng lực lượng ngành giày dép cả nước hiện có trên 270 doanh nghiệp với 500.000 lao động, chưa kể các cơ sở nhỏ và hộ gia đình. Năm 2004 kim ngạch xuất khẩu của toàn ngành da giày Việt Nam đạt 2,19 tỷ USD, tăng trên 20% so với năm 2003. Tuy nhiên, niềm ưu tư lớn nhất lâu nay của ngành giày da Việt Nam vẫn là sự nghèo nàn về mẫu mã và thiếu thốn về thương hiệu. Năm ngoái, 11 gian hàng giày Việt Nam tham gia hội chợ Duseldorf tại Đức, đã phải lép vế trước trên 200 gian hàng của người khổng lồ Trung Quốc. Mẫu giày Việt Nam hầu như na ná nhau, giá lại cao hơn của Trung Quốc 20-30%.
Thiếu đội ngũ thiết kế tạo mẫu và phát triển sản phẩm và đội ngũ cán bộ marketing, kinh doanh giỏi - lực lượng chủ yếu quyết định chuyển đổi phương thức sản xuất (Từ gia công sang tự sản xuất toàn bộ), tạo điều kiện để DN có thể giao dịch trực tiếp với khách hàng.
Ưu thế của Việt Nam về công lao động vẫn là nhân tố cạnh tranh, nhưng đã có những khó khăn và có những biến động lớn; Công tác đào tạo lao động có tay nghề kỹ thuật chưa đáp ứng kịp nhu cầu của sản xuất.
Một số doanh nghiệp trong ngành có quy mô không lớn, chưa chủ động tiếp cận được với thị trường, vẫn phải gia công qua các đối tác trung gian nên hiệu quả sản xuất kinh doanh bị hạn chế, sản xuất dễ bị biến động do không có khách hàng truyền thống. Nhiều DN trong ngành chưa sẵn sàng hội nhập, chỉ tập trung vào sản xuất, cung ứng sản phẩm cho thị trường trong nước.
Do đó, chúng ta vẫn phải nhìn nhận thực tế rằng năng lực xuất khẩu của ngành da giày Việt Nam trên thị trường xuất khẩu thế giới còn yếu do thiếu khả năng tự thiết kế mẫu mã, tự đảm bảo vật tư nguyên liệu trong nước, quy mô sản xuất chưa đủ lớn, điều kiện kinh tế và hạ tầng dịch vụ của Việt Nam còn nhiều hạn chế, giá thành chi phí sản xuất cao, ưu thế về nhân công lao động tuy vẫn là nhân tố cạnh tranh, nhưng không còn thuận lợi như trước đây.
Thêm vào đó, chúng ta còn gặp phải thách thức lớn nữa, đó chính là việc Ủy ban châu Âu bãi bỏ ưu đãi thuế đối với da giày xuất khẩu của nước ta bắt đầu từ năm 2009 sẽ ảnh hưởng lớn tới lợi thế cạnh tranh của ngành. Không được hưởng GSP sẽ khiến mỗi sản phẩm xuất khẩu sang thị trường EU chịu thêm từ 3 – 5% thuế. Do đó lợi thế cạnh tranh về giá của hàng da giày nước ta sẽ giảm. Tác động thứ 2 là hiện hợp tác với các đối tác nhập khẩu châu Âu đều dựa trên lợi thế về giá mặt hàng này. Nếu như lợi thế này không còn nữa thì một số đối tác có thể tìm các nhà cung cấp khác có lợi thế hơn. Các doanh nghiệp trong ngành, đặc biệt là các doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ sẽ gặp khó khăn hơn. Ty nhiên, theo dự kiến, lượng đơn hàng chỉ giảm với mức độ nhất định, không có sự sụt giảm lớn. Sức ép với doanh nghiệp có khách hàng tiềm năng và có bạn hàng lâu năm sẽ lớn hơn các doanh nghiệp khác.
Những khó khăn, thách thức đối với da giày Việt Nam lại càng lớn hơn khi nước ta chính thức gia nhập WTO. Thứ nhất, việc loại bỏ trợ cấp xuất khẩu, mở rộng thị trường sẽ làm cho các sản phẩm da giày ở nước ta ngày càng phải cạnh tranh quyết liệt hơn. Thứ hai, sự phân biệt đối xử với các công ty tư nhân trong hệ thống tài chính làm cho việc mở rộng chiến lược theo hướng FOB và phát triển công nghiệp nguyên vật liệu trở nên khó khăn. Thứ ba, người mua có thể chuyển các hoạt động sang các nước khác có chi phí nhân công rẻ hơn như Trung Quốc, Indonesia... Thứ tư, nếu tham gia thị trường giày dép với sản phẩm chất lượng cao cấp thì không cạnh tranh được với sản phẩm của các quốc gia như: Italy, Pháp, Tây Ban Nha, Anh, Đức. Còn nếu chọn sản phẩm cấp thấp, có chất lượng trung bình thì lại không cạnh tranh được với sản phẩm sản xuất hàng loạt của Trung Quốc do công nghiệp vật liệu Trung Quốc đã phát triển và năng suất lao động ở Trung Quốc cao hơn. Thứ năm, các nước sản xuất có chi phí thấp khác có thể vượt lên Việt Nam tại các thị trường mới nổi do có sự hỗ trợ mạnh của nhà nước và thành phần tư nhân.
2.3.3. Nguyên nhân của điểm yếu
Thiếu trầm trọng nguồn nguyên liệu
Hiệp hội Da giầy Việt Nam cho biết: Nước ta hiện có 4 phương thức làm hàng da giầy. Một là, gia công thuần tuý (nhà máy chỉ nhận vật tư, nguyên liệu từ đối tác nước ngoài, làm ra sản phẩm rồi xuất giao lại cho phía đối tác nước ngoài và nhận tiền công). Hai là, mua nguyên liệu bán thành phẩm (gần giống phương thưc thứ nhất nhưng nhà máy phải tự mua vật tư và thanh toán tiền vật tư). Ba là, sản xuất theo hàng FOB - hoặc là xuất hàng FOB (sản xuất cho các thương hiệu nước ngoài, tiêu thụ ở thị trường XK) hoặc là sản phẩm mang thương hiệu của chính DN đó (nhưng phương thức này thực hiện được rất ít vì thương hiệu của ta chưa đủ mạnh). Đến nay, vẫn chưa có đôi giầy nào mang nhãn hiệu Việt Nam, mà một trong những nguyên nhân cơ bản là do ngành da giầy nước ta chỉ làm hàng gia công XK chứ chưa trực tiếp xuất với thương hiệu của mình. Sở dĩ như vậy, bởi trong số các nguyên liệu chủ yếu để sản xuất giầy là chất liệu da và giả da, các nguyên liệu phụ trợ (như keo dán, chỉ khau, nút, nhãn hiệu, cót), có đến 70-80% phải nhập khẩu từ các nước châu Á như: Hàn Quốc, Đài Loan, Trung Quốc Đế giầy là khâu nguyên phụ liệu được các DN Việt Nam chủ động cấu kết cũng mới đáp ứng được 30% nhu cầu san xuất của toàn ngành. Chất liệu giả da, đặc biệt được sử dụng nhiều cho giầy thể thao, mặc dù chiếm tỷ trọng XK gần bằng 50% giá trị da giầy XK nói chung, cũng sử dụng đến 80% nguyên liệu nhập ngoại.
Chỉ riêng về da, Việt Nam có sẵn nguồn nguyên liệu từ việc chăn nuôi bò, lợn. Tuy nhiên tập quán chăn nuôi thiếu tập trung và chưa áp dụng triệt để những kỹ thuật chăm sóc gia súc của người chăn nuôi nhỏ khiến da nguyên liệu thu đượckhông đẹp, chất lượng thấp, buộc nhà sản xuất phải tốn thêm nhiều chi phí để xử lý da thuộc. Theo tính toán của các chuyên gia, nếu cộng tất cả các khoản chi phí đầu tư máy móc, thiết bị kỹ thuật cũng như công sức lao động... thì giá thành da thuộc trong nước cao hơn giá da ngoại. Do đó, muốn nâng chất lượng da thuộc thì đầu tiên cần phải quy hoạch vùng nuôi gia súc lấy da và có chiến lược phát triển, đầu tư vào công nghệ thuộc và xử ly da. Song, nhiều DN da giầy cho rằng, muốn làm được việc này phải có sự phối hợp của nhiều ngành, đặc biệt là công-nông nghiệp.
Thiếu điều kiện để DN tự cường
Xuất khẩu trực tiếp là phương án tối ưu để phát triển ngành da giày. Phương án này đã được Hiệp hội Da giày xác định từ... 10 năm trước nhưng đến nay hầu như giậm chân tại chỗ. Hiện trong số gần 200 DN xuất khẩu giày da thì số DN xuất khẩu trực tiếp chỉ đếm trên đầu ngón tay.
Ông Trần Đăng Thanh, nguyên phó giám đốc Công ty Trường Lợi, người đã hơn 20 năm hoạt động trong lĩnh vực sản xuất da giày, chỉ ra nguyên nhân: Không có ngành công nghiệp nguyên liệu của ngành giày thì không thể mơ việc xuất khẩu trực tiếp. Phần lớn nguyên liệu giày phải nhập từ nước ngoài, thậm chí nhập từ các nước mà VN xuất khẩu giày sang. Một số DN thuộc da tương đối tốt ở trong nước thì lại xuất khẩu sang các nước khác. Ông Thanh lý giải: Nếu nhập nguyên liệu từ nước ngoài thì làm sao cạnh tranh với họ được. Theo số liệu của Hiệp hội Da giày VN, trong năm 2007, VN nhập da các loại từ nước ngoài là 950 triệu USD. Phần lớn nguyên liệu này dùng phục vụ ngành giày.
Chủng loại, mẫu mã ít
Từ trước đến nay, các sản phẩm giày được sản xuất trong nước chủ yếu theo mẫu mã nước ngoài và xuất hiện trên thị trường quốc tế dưới nhãn hiệu của các nước khác. Do vậy, vấn đề then chốt có tính chất quyết định tới sự phát triển của ngành giày là phải tạo dựng được một lực lượng thiết kế mẫu chuyên nghiệp, có đủ năng lực, trình độ tự thiết kế được khách hàng trong và ngoài nước chấp nhận”.
Theo nhận xét của LEFASO, đội ngũ thiết kế tạo mẫu giày hiện nay ở ta còn rất thiếu và yếu. Gọi là các “nhà tạo mẫu” cho sang trọng, nhưng phần lớn xuất thân từ công nhân, sau thời gian làm các dây chuyền sản xuất, được lựa chọn bồi dưỡng tại chỗ để làm ở bộ phận ra mẫu và phát triển sản phẩm. Những nhân viên này không được đào tạo có bài bản chuyên về thiết kế tạo mẫu giày, một số khác chỉ được tiếp thu trực tiếp qua các chuyên gia, các khóa ngắn hạn do doanh nghiệp cử đi học.
Hiện tại, nhu cầu về đội ngũ này ở các doanh nghiệp rất lớn. Chỉ riêng ở Công ty Biti’s Đồng Nai, đội ngũ cán bộ thiết kế, tạo mẫu, kỹ thuật viên tới trên 100 người. Các doanh nghiệp khác có quy mô lớn cần có số lượng tương tự.
Mặc dù thiếu thốn đội ngũ như vậy, nhưng đây cũng là ngành duy nhất không có trường lớp đào tạo kỹ thuật hay cử nhân thiết kế tạo mẫu. Hiện nay ngành giày thiếu vắng hẳn một lực lượng là những kỹ sư phác họa, mỹ thuật công nghiệp. Thiếu đội ngũ này thì không thể nào nói đến có được các mẫu mã sáng tạo, thời trang, không thể cạnh tranh với hàng các nước, càng không thể nói đến các thương hiệu nổi tiếng như Nike, Adidad... Hiện tại, chỉ có một số rất ít nhân viên học mỹ thuật công nghiệp ra và làm việc tại các phòng kỹ thuật của doanh nghiệp, như công ty giày An Lạc, 32, Công ty Xuất nhập khẩu da giày Sài Gòn
Thiếu sự hiểu biết và tính chuyên nghiệp trong kinh doanh
Mới đây, Liên minh châu Âu (EU) đã chính thức loại sản phẩm giày da của Việt Nam ra khỏi diện được hưởng Quy chế ưu đãi thuế quan phổ cập (GSP), nghĩa là từ 1/1/2009, mặt hàng này sẽ phải chịu mức thuế cao hơn hiện tại. Cơ sở để EU đi tới quyết định này là vì sản phẩm giày da của Việt Nam XK sang các nước châu Âu từ năm 2006 đã vượt quá 15% tổng kim ngạch XK của tất cả các nước được hưởng GSP, trong khi theo quy định, tỉ lệ tối đa chỉ là 15%. EU cho rằng, khi đạt được giá trị XK như vậy, chứng tỏ giày da Việt Nam đã thể hiện năng lực cạnh tranh mạnh mẽ, không cần cần phải hưởng GSP. Theo ông Nguyễn Đức Thuấn, Chủ tịch Hiệp hội Da giày Việt Nam, trên cơ sở áp dụng mức thuế cao hơn theo quy định của EU, nếu so với kim ngạch XK da giày năm 2007 khoảng 2,2 tỉ USD thì lợi thế cạnh tranh của ngành da giày Việt Nam sẽ bị thiệt hại khoảng 100 triệu USD mỗi năm
Trong vụ việc EU loại Việt Nam ra khỏi danh sách các nước được hưởng GSP, Bộ Công Thương, Hiệp hội Da giày Việt Nam cùng các cơ quan liên quan đang tiến hành nhiều biện pháp, hy vọng EU xem xét lại quyết định trên. Tuy nhiên, đây chỉ là cách “chữa trị”, bởi lẽ ra ngay từ những năm thâm nhập được thị trường “khó tính” này, các cơ quan quản lý nhà nước, doanh nghiệp XK da giày đã phải có được đầy đủ các thông tin, các quy định chặt chẽ từ EU. Cụ thể trong trường hợp này, “hạn ngạch” mà da giày XK của Việt Nam được hưởng GSP sẽ không nên vượt quá 15% tổng số da giày XK của 136 nước được hưởng GSP từ EU. Từ đó, đưa ra những biện pháp, kể cả “cứng rắn” để hạn chế sự phát triển ồ ạt một cách thiếu kiểm soát của doanh nghiệp XK da giày.
Chính tình trạng mạnh ai nấy làm, chưa có sự phối kết hợp giữa các doanh nghiệp trong nước và có vốn đầu tư nước ngoài, tranh mua tranh bán đã làm số lượng XK từ năm 2006 vào thị trường EU “vượt ngưỡng” lên tới gần 19%. Hậu quả là EU đã quyết định “loại” da giày Việt Nam ra khỏi danh sách các nước XK được hưởng GSP. Doanh nghiệp phải è lưng chịu mức thuế cao.
Gần đây, mấy chục doanh nghiệp XK điều của Việt Nam “suýt” bị các nhà NK nước ngoài kiện vì tội phá vỡ hợp đồng thương mại. Lý do một phần do yếu tố khách quan đem lại là giá thế giới tăng cao, doanh nghiệp sẽ lỗ nặng nếu tiến hành giao hàng theo giá ký trước đây so với thời điểm hiện nay. Tuy nhiên, bên cạnh đó, cũng cần phải nhìn nhận việc không ít doanh nghiệp Việt Nam còn xem nhẹ chữ tín với khách hàng, đồng thời còn mang tính “chụp giật”.
III. GIẢI PHÁP NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA NGÀNH DA GIẦY VIỆT NAM
1. Mục tiêu, phương hướng phát triển của ngành da giầy Việt Nam đến năm 2010
1.1.Mục tiêu của ngành da giầy đến năm 2010
Ngành da giày được xếp thứ 3 trong 7 nhóm ngành hàng giai đoạn 2001-2005 và xếp thứ 4 trong 6 nhóm ngành hàng giai đoạn 2006-2010 được ưu tiên xuất khẩu. Trong quy hoạch phát triển ngành da giày tới năm 2010, ngành da giày đưa ra chỉ tiêu đạt kim ngạch xuất khẩu 3,1 tỷ USD năm 2005 và phấn đấu đạt 6,2 tỷ USD năm 2010 với tốc độ tăng trưởng bình quân đạt 20-22%.
Mục tiêu sản lượng và giá trị xuất khẩu (2005-2010)
2005
2010
Giày dép các loại
(Đơn vị: 1.000 đôi)
Tổng sản lượng
470.000
720.000
Xuất khẩu
427.700
655.200
Cặp, túi xách
(Đơn vị: 1.000 đôi)
Tổng sản lượng
51.700
80.700
Xuất khẩu
50.500
78.470
Da thành phẩm
(Đơn vị: 1.000 sqft)
Tổng sản lượng
40.000
80.000
Xuất khẩu
25.000
65.000
Tổng XK (Triệu USD)
3.100
6.200
Nguyên liệu
Da thuộc:
Chỉ tiêu
Ðơn vị tính
2005
2010
1. Da thuộc
1.000 sqft
28.000
56.000
- Da cật
1.000 sqft
29.930
40.600
- Da váng
1.000 sqft
7.070
15.400
2. Da nguyên liệu
tấn
23.660
40.460
- Da trâu bò (nội địa)
tấn
19.460
26.110
- Da bò muối (nhập)
tấn
2.800
11.900
- Da váng (nhập)
tấn
1.400
2.450
Nguyên vật liệu chủ yếu:
Nguyên vật liệu
Ðơn vị tính
2005
2010
- Giả da
triệu yard
30
45
- Vải các loại
triệu yard
50
77,5
- Ðế
Triệu đôi
275
408
- Keo tổng hợp
tấn
3.276
5.000
- Phụ liệu
tấn
20.617,5
49.480
Lao động:
Lao động ( người)
2005
2010
Giày dép
232.000
311.000
Túi xách
13.400
21.000
Vốn:
Ðơn vị tính (triệu USD)
2005
2010
Sản phẩm
3.679.000
3.679.000
Nguyên vật liệu
1.619.000
1.472.000
Để thực hiện mục tiêu đến năm 2010, sản xuất giày dép các loại của Việt Nam đạt 720 triệu đôi trong đó xuất khẩu 655 triệu đôi; Cặp túi xách các loại đạt 80,7 triệu chiếc trong đó xuất khẩu 78,47 triệu chiếc; Da thuộc thành phẩm 80 triệu m2, trong đó xuất khẩu 65 triệu m2 đưa tổng kim ngạch xuất khẩu của ngành có thể đạt khoảng 6,5 tỷ USD, toàn ngành sẽ phấn đấu nâng cao chất lượng sản phẩm, gia tăng nhanh số lượng và kim ngạch xuất khẩu thông qua việc tranh thủ các lợi thế, đáp ứng tối đa nhu cầu của người tiêu dùng trong và ngoài nước, tạo thêm việc làm cho người lao động, đồng thời nâng cao hiệu quả, tăng sức cạnh tranh của các sản phẩm xuất khẩu trên thị trường quốc tế.
Đông Âu là vùng đất còn tiềm năng để da giày Việt Nam tiếp tục mở rộng thị trường. Việt Nam được các nước đánh giá là có lợi thế về phát triển ngành da giày, tuy nhiên con đường cạnh tranh vẫn là khâu khó nhất.
Một trong những yếu tố của chất lượng, theo các doanh nghiệp da giày, đó là mẫu mã. Việt Nam cần chú trọng đặc biệt đến thiết kế mẫu mã hơn nữa. Ngành da giày Việt Nam sẽ xây dựng một Trung tâm hỗ trợ kỹ thuật tại TP.HCM. Trong đó, Chính phủ Italia tài trợ 1 triệu USD cung cấp thiết bị, làm phòng thí nghiệm, huấn luyện kỹ thuậtvv.
Hiện tại vấn đề tiếp thị của da giày Việt Nam còn quá ít ỏi, gần như thế giới chưa biết đến. Có nhiều con đường để tiếp thị, đó là thường xuyên đi nước ngoài tìm đối tác, tham gia các hội chợ quốc tế, mở hội chợ trong nước, thành lập các Văn phòng đại diện, Trung tâm thương mại của da giày Việt Nam ở nước ngoài. Việc lập các cơ quan đại diện, văn phòng giao dịch, trung tâm thương mại tại nước ngoài là rất cần thiết để giao dịch, tìm kiếm đối tác. Từ đây, sẽ lập các kênh phân phối ở nước ngoài. Hội chợ là công tác tiếp thị rất cần thiết, nhưng mãi đến giờ phút này, da giày Việt Nam vẫn chưa có một hội chợ. Đó là điều các doanh nghiệp da giày rất tha thiết. 3 năm nay ngành da giày vẫn muốn có một hội chợ, nhưng cũng chưa thực hiện được. Lấy đơn hàng qua hội chợ không phải là mục đích chính, nhưng qua hội chợ, Việt Nam có cơ hội giới thiệu với đối tác, quảng bá hình ảnh ngành nghề ra thế giới, và có cơ hội học tập. Hiện tại, các doanh nghiệp quyết tâm trong thời gian tới tạo ra một hội chợ về da giày Việt Nam, trong đó sẽ không có sự hiện diện của các hãng giày dép nước ngoài.
Trong năm 2005 ngành da giày Việt Nam dành 14,5 tỷ đồng cho các hoạt động xúc tiến thương mại. Hơn 1/2 số tiền này sẽ được dành cho việc tham gia hội chợ, triển lãm quốc tế và khảo sát thị trường của các doanh nghiệp. Ngoài ra, chương trình xúc tiến thương mại của ngành còn tập trung vào một số nội dung chính là thông tin thương mại, tuyên truyền xuất khẩu, lập cơ sở dữ liệu hỗ trợ doanh nghiệp; tổ chức các khóa đào tạo, hội thảo liên quan tới hoạt động xúc tiến thương mại; và ứng dụng giao dịch trực tuyến trong thương mại điện tử.
Các doanh nghiệp Việt Nam dù xuất khẩu rất nhiều vào thị trường EU nhưng thật sự vẫn chưa hiểu được hết văn hóa, sở thích cũng như xu hướng tiêu dùng của dân bản xứ. Vì vậy mấu chốt để thành công trên thương trường quốc tế là phải đứng trên thị trường bằng thương hiệu riêng, vấn đề mà các doanh nghiệp ngành giày da Việt nam đang ý thức rất rõ. Phải làm cho khách hàng biết mình là ai là nền tảng xây dựng nền thời trang giày da Việt Nam. Với khối lượng xuất khẩu và sản xuất ngày càng tăng, doanh nghiệp Việt Nam cần phải dành chi phí cho các chương trình quảng bá, tiếp thị.
Gặp khó khăn ở những thị trường truyền thống, da giày Việt Nam đang tích cực tìm kiếm những thị trường mới nhằm đạt mục tiêu xuất khẩu 3,4 tỷ USD trong năm 2005. Hai thị trường mà ngành đang tập trung xúc tiến và xuất khẩu là Nhật Bản và châu Phi.
Mới đây, Hiệp hội Da giày đã tổ chức một đoàn doanh nghiệp sang Nhật Bản để tìm kiếm cơ hội xuất khẩu. Theo một quan chức của Hiệp hội da giày thì khả năng tăng xuất khẩu vào thị trường này là rất cao. Trong những năm gần đây, giày dép xuất khẩu vào Nhật tăng lên và đã khẳng định được vị trí trên thị trường này. Bộ Thương mại cho biết, hiện nay, Nhật Bản vẫn là thị trường xuất khẩu giày dép lớn nhất của Việt Nam trong khu vực châu Á. Trong những tháng đầu năm, mức tăng trưởng xuất khẩu sang thị trường này tăng khá cao, có thời điểm như hai tháng đầu năm tăng tới 75,8%. Xuất khẩu giày dép vào Nhật Bản đang tăng cả về thị phần và kim ngạch. Việt Nam đã vượt qua Inđônêxia vươn lên vị trí thứ 3, chỉ đứng sau Trung Quốc và Italia.
Bộ Thương mại cũng nhận định, nhu cầu nhập khẩu giầy dép của Nhật Bản vẫn trong xu hướng tăng. Do đó, xuất khẩu của Việt Nam sang Nhật Bản sẽ tiếp tục đạt được mức tăng trưởng cao trong năm nay. Theo đánh giá của Thương vụ Việt Nam tại Nhật Bản, giày dép Việt Nam có thể xuất vào Nhật với số lượng lớn là các loại giày, dép có đế ngoài và mũ giày bằng cao su hoặc plastic, da thuộc, hoặc da tổng hợp và mũ bằng da thuộc; dép xốp, dép quai hậu ...vv.
Tuy nhiên, thị trường Nhật Bản có những yêu cầu riêng về thiết kế, kích cỡ và phải phù hợp với thời tiết. Vì vậy, Hiệp hội da giày đang khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư và thay đổi trong việc thiết kế giày dép theo đúng thị hiếu của người dân Nhật Bản. Thậm chí, có thể nhập khuôn của Nhật để sản xuất cho phù hợp. Ngoài ra các nhà sản xuất cần quan tâm đến những xu hướng thời trang thay đổi theo mùa ở Nhật, theo thị hiếu của người tiêu dùng.
Tại thị trường châu Phi, mặt hàng giày dép hoàn toàn có thể cạnh tranh, thậm chí có sức cạnh tranh hơn hẳn cả về chủng loại và giá cả so với những giày, dép có xuất xứ từ nhiều nước khác được bày bán trong các siêu thị. Từ năm 2004, giày dép Việt Nam đã bắt đầu khai thác thành công thị trường châu Phi, đặc biệt là thâm nhập và thị trường Nam Phi. Theo thống kê của Bộ Thương mại, xuất khẩu giày dép sang Nam Phi trong 4 tháng đầu năm 2005 tăng rất cao, khoảng 175% và đạt kim ngạch 5,81 triệu USD. Thị trường châu Phi có nhu cầu khá đa dạng và rất nhiều chủng loại là thế mạnh sản xuất của Việt Nam như: giày thể thao, giày tennis, giày bóng rổ, giày luyện tập, giày thể thao có đế ngoài bằng cao su, plastic, da thuộc hoặc da tổng hợp và mũ bằng da thuộc hoặc bằng nguyên liệu dệt. Nhưng để thâm nhập sâu vào cả châu lục đầy tiềm năng này thì giày dép Việt Nam vẫn còn rất hạn chế. Theo Hiệp hội Da giày, bước đầu giày, dép Việt Nam đã thâm nhập sang một số thị trường tại châu Phi như: Mô Dăm Bích (Đông Phi), Xanh Hê len (Tây Phi) nhưng kim ngạch xuất khẩu sang các thị trường mới còn ít và thất thường. Cần tiếp tục làm tốt công tác xúc tiến, tìm kiếm các đối tác phân phối hàng hoá để xuất khẩu được nhiều hơn, thanh toán được thuận tiện hơn.
1.2.Phương hướng phát triển
Để đạt được những mục tiêu trên, các doanh nghiệp da giày cần tham gia tích cực Chương trình quốc gia trọng điểm hỗ trợ xúc tiến thương mại, và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn này. Việt Nam cần xây dựng các Trung tâm xúc tiến thương mại và dịch vụ chuyên ngành, các trung tâm này sẽ là nền tảng chất lượng và dịch vụ cho sự phát triển của các doanh nghiệp công nghiệp da giày của cả nước trong tương lai.
Giai đoạn từ nay đến năm 2010 ngành da giày Việt Nam vẫn cần duy trì và lựa chọn sử dụng công nghệ truyền thống như hiện nay,đồng thời cần kết hợp đi nhanh vào công nghệ tiên tiến, tiếp nhận công nghệ hiện đại ở những khâu quan trọng nhằm khắc phục nguy cơ chững lại, xuống dốc của ngành khi mất dần lợi thế so sánh về vị trí địa lý thuận lợi và giá nhân công rẻ. Từ nay đến năm 2010, thay dần trang thiết bị lạc hậu hết khấu hao, hiện đại hoá từng bước trong từng khâu quan trọng, đồng thời kết hợp với đầu tư mở rộng để tăng năng lực sản xuất, đa dạng hoá sản phẩm. Việc đầu tư mở rộng cần được thực hiện chủ yếu trong các khu công nghiệp hoặc cụm công nghiệp chuyên ngành. Đẩy mạnh chương trình chế tạo các thiết bị, phụ tùng chuyên ngành trên địa bàn thành phố và trong cả nước. Công việc này cần tiến hành trên cơ sở phối hợp chặt chẽ với các ngành liên quan theo phương thức hợp tác, liên doanh hoặc đầu tư trực tiếp 100% vốn nước ngoài (FDI). Đối với những công nghệ hiện đại cần có sự chuyển giao từ nước ngoài. Mặt khác các doanh nghiệp cũng cần chủ động phát động, đẩy mạnh các hoạt động sáng kiến cải tiến kỹ thuật. Trong đầu tư công nghệ, thiết bị máy móc các doanh nghiệp cần đặc biệt quan tâm đến bảo vệ môi trường. Bên cạnh đó phải tuân thủ các quy trình đánh giá tác động môi trường của mốt công trình đầu tư mới. Phấn đấu đến cuối năm 2010, hầu hết các doanh nghiệp da giày Việt Nam áp dụng thực hiện hệ thống quản lý ISO 14000 về bảo vệ môi trường. Bên cạnh đó cần có phương hướng đào tạo nhân lực theo xu thế hiện đại của thế giới. Phương thức đào tạo tiến hành đa dạng hoá: Đào tạo tại chỗ kết hợp kèm cặp ở doanh nghiệp, tại nơi sản xuất; Kết hợp đào tạo chính quy tại các trung tâm, các trường trong nước với đào tạo tại nước ngoài đối với những ngành nghề trong nước chưa có hoặc đã có nhưng còn yếu kém. Mở ra nhiều ngành chuyên sâu, có giá trị thực tiễn cao. Trong thời gian trước mắt cần ưu tiên các ngành nghề: thiết kế mẫu mốt, kỹ thuật sản xuất giày, kỹ thuật sản xuất da thuộc bởi đây là những ngành nghề có vai trò quyết định đến sự sống còn của doanh nghiệp. Cần thành lập các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, các doanh nghiệp liên doanh, các doanh nghiệp có 100% vốn nước ngoài (FDI), tạo điều kiện cho các doanh nghiệp giày xuất khẩu được tham gia thị trường tài chính; giảm dần hình thức cho vay bằng thiết bị máy móc vật tư trong đầu tư gián tiếp hiện nay bằng góp vốn bằng tiền mặt. Trong thời gian tới ngành da giày Việt Nam cần mạnh dạn mở rộng việc thu hút vốn từ các nhà đầu tư ở khu vực Châu Âu và một số Quốc gia có trình độ phát triển ngành da giày cao và tích cực tham gia Tổ chức quốc tế hỗ trợ phát triển kinh tế cho Việt Nam thông qua các quỹ hỗ trợ chính thức (ODA).
2. Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành da giầy Việt Nam
2.1 Nâng cao hiệu quả thu hút và sử dụng vốn
Nhu cầu về vốn đầu tư đang là vấn đề cấp thiết đặt ra đối với ngành da giầy nhằm đầu tư cho việc mua sắm các trang thiết bị và công nghệ phục vụ cho quá trình sản xuất, nâng cao năng suất lao động.Đồng thời, huy đông nguồn vốn để phát triển them các vùng nguyên liệu. để các doanh nghiệp trong nước không phải bị động trong sản xuất kinh doanh. Do vậy, trong thời gian tới nhành da giầy vn cần mạnh dạn mở rộng thu hút vốn từ các nhà đầu tư nước ngoài, tích cực tham gia tổ chức quốc tế hỗ trợ phát triển kinh tế của vn thông qua các quỹ hỗ trợ chính thức(ODA).Thêm vào đó, cần khuyến khích và kêu gọi vốn đàu tư trong khu vực dân cư thông qua hình thức cổ phần hóa, phát hành cổ phiếu, trái phiếu, thuê mua tài chính.
Thực hiện tốt chủ trương của nhà nước làm cho doanh nghiệp phát triển năng động, có hiệu qur và lành mạnh về tài chính, các chủ trương về đổi mới công tác quản lý, hạch toán kinh tế của các doanh nghiệp bắt kịp với phong cách kinh doanh hiện đại trên thế giới. Đó cũng là cách nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, tăng khả năng thu hút vốn FDI.
Do nguồn vốn của các doanh nghiệp bị hạn chế rất nhiều, do đó can phải nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn vốn có được bằng các biện pháp như xem xét lại cơ cấu và quy mô vốn phù hợp với điều kiện của doanh nghiệp, lựa cọn cơ cấu vốn hợp lý, tăng vòng quay sử dụng vốn.Giảm số vốn bị khách hàng chiếm dụng, thu hồi các khoản nợ khó đòi.Đồng thời tìm kiếm thêm các nguồn cung cấp nguyên liệu đầu vào ổn định như da thuộc, vải, giả da, cao su, đế giày,thiết lạp các mối quan hệ chặt chẽ với bạn hàng.
2.2 Đổi mới công nghệ và thiết bị máy móc
Giai đoạn từ nay đến năm 2010, ngành da giầy vn vẫn cần duy trì và lựa chọn sử dụng công nghệ truyền thống như hiện nay, đồng thời nhanh chóng tiếp nhận những công nghệ hiên đại ở những khâu quan trọng nhằm khắc phục nguy cơ xuống dốc của ngành khi mất dần lợi thế so sánh về nhân công, vị trí địa lý thuận lợi. Cần hiện đại hóa dần từng khâu, từng bước của quá trình, đòng thời tiến hành kết hợp đầu tư mở rộng để tăng năng lực sản xuất, đa dạng hóa sản phẩm. Việc đầu tư mở rộng cần được tiến hành chủ yếu trong các khu công nghiệp hay cụm công nghiệp chuyên ngành. Đẩy mạnh chương trình chế tạo các thiệt bị, phụ tùng trên địa bàn thành phố và cả nước. Công việc này cần tiến hành trên cơ sở phối hợp chặt chẽ với các ngành lien quan theo phương thức hợp tác, lien doanh hoặc đầu tư 100% vốn nước ngoài.Mặt khác, các doanh nghiệp cũng cần chủ động phát động, đẩy mạnh các hoạt động sáng kiến, cải tiến kỹ thuật.Đồng thời, cần có chính sách cụ thể phát triển các tổ chức tư vấn công nghệ để có thể hỗ trợ các doanh nghiệp trong việc đánh giá công nghệ, tìm kiếm các nguồn cung cấp công nghệ phù hợp, tiến hành nghiên cứu, triển khai, hỗ trợ, xá lập và đàm phán các hợp đồng chuyển giao công nghệ.
2.3 Phát triển nguồn nguyên liệu
Đến hết năm 2005, nhiều nguyên phụ liệu cho sản xuất giẩy: da thuộc thành phẩm, giả da, vải không dệt, da nhân tạo, tấm đế, keo dán, các loại nguyên liệu làm lót giầyđã được đầu tư trong nước, song phần nhập khẩu vẫn còn rất nhiều. Để tăng sản phẩm da thuộc thành phẩm, trước mắt đến năm 2010, ngành xác định vẫn phải nhập khẩu da thành phẩm, da nguyên liệu từ nước ngoài về phục vụ cho sản xuất, nhằm đáp ứng kịp thời về nhu cầu và nâng cao chất lượng sản phẩm.
Tập trung phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ để tăng cường khả năng cung ứng nguyên vất liệu, bán thành phẩm, phụ liệu đầu vào trong nước cho sản xuất, thúc đẩy mối quan hệ bổ trợ liên ngành giữa các ngành công nghiệp, tăng sự chủ động về nguyên vật liệu đầu vào nhằm giảm thiểu các tác động từ bên ngoài, giảm chi phí sản xuất và nâng cao giá trị gia tăng cho sản phẩm xuất khẩu.
Bên cạnh những nỗ lực của ngành nhằm giải quyết vấn đề này, Nhà nước cần có chính sách nhằm khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư vào sản xuất nguyên phụ liệu thay vì phải nhập khẩu như hiện nay; Các dự án xây dựng các khu “chợ” vật tư, nguyên liệu cho ngành giày ở các vùng có nhiều nhà máy tập trung cần nhanh chóng được triển khai, đưa vào hoạt động.
2.4 Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực
Trước hết cần phải chú trọng đào tạo cán bộ cao cấp do môi trường kinh doanh luôn thay đổi, các phương pháp và phương tiện quản lý cũng thay đổi nhanh chóng. Cán bộ quản lý của doanh nghiệp không đảm bảo trình độ tốt thì nguy cơ thua lỗ của doanh nghiệp là rất lớn. Đối với nhân viên, công nhân mới tuyển dụng càn giáo dục, nâng cao ý thức lao động, kỷ luật, tinh thần trách nhiệm, văn hóa doanh nghiệpĐây là bước quan trọng trong đào tạo nhân viên mới. Đối với các cán bộ, nhân viên đã làm việc ở doanh nghiệp trong thời gian dài cần kích thích sự sang tạo trong công việc và có chế độ khen thưởng, đãi ngộ hợp lý.
Chương trình, mục tiêu đào tạo phải cụ thể đối với từng đối tượng thì mới có hiệu quả cao. Nếu chương trình thiếu cụ thể, không có người chuyên trách thì không đảm bảo được chất lượng đào tạo, không đạt được mục tiêu của doanh nghiệp. Đẩy mạnh đào tạo thợ lành nghề, công nhân kỹ thuật, kỹ sư.Hiện nay ngành da giầy sử dung khaongr 600.000 lao động nhưng toàn ngành chưa có trường đào tạo chính quy nào cả.Công nhân được đào tạo chủ yếu theo lối kèm cặp ngay tại xí nghiệp sau khi tuyển dụng. Để cải thiện được tình trạng này, Nhà nước cần đưa ra những chính sách hỗ trợ phù hợp, mở 1 trường đào tạo nghề làm tiền đề cho chiến lược phát triển nguồn nhân lực lau dài của ngành. Nội dung đào tạo cần sát thực, vừa nâng cao vừa co tính chuyên sâu. Phải kết hợp đồng bộ giữa trách nhiêm của nhà nước và của doanh nghiệp trong công tác đào tạo, cần xóa dần tình trạng dạy nghề không phù hợp với công việc.
2.5 Phát triển hệ thống kênh phân phối
Đối với hệ thống phân phối sản phẩm, 60% các sản phẩm da giày Việt Nam là gia công cho phiá đối tác nước ngoài dưới hình thức theo đơn đặt hàng, với giá nhân công rẻ nên các doanh nghiệp chỉ giao hàng đến các nhà buôn mà không trực tiếp xuất khẩu đến các nhà phân phối. Do phải phụ thuộc rất nhiều vào hệ thống phân phối kinh doanh nước ngoài nên ngành da giày Việt Nam bị lệ thuộc vào nước ngoài trong quá trình sản xuất. Để tránh tình trạng trên, Chính phủ cần tiếp tục đàm phán với những thị trường xuất khẩu da giày lớn của nước ta là Mỹ và EU để họ công nhận Việt Nam có nền kinh tế thị trường. Như vậy, các doanh nghiệp Việt Nam mới phát huy được thế mạnh của mình và không gặp khó khăn lúng túng khi thị trường xuất khẩu có những biến động bất thường do những tranh chấp thương mại.
Để thúc đẩy hoạt động của ngành da giày, bên cạnh việc giải quyết vấn đề về nguồn nguyên phụ liệu phục vụ cho sản xuất và xuất khẩu, tăng cường xúc tiến thương mại và xây dựng chiến lược đào tạo đội ngũ công nhân chất lượng cao cũng được lãnh đạo các cấp bộ, ngành quan tâm. Từ năm 2003, được sự hỗ trợ của Chính phủ thông qua chương trình xúc tiến thương mại trọng điểm quốc gia, đến nay, Hiệp hội đã tổ chức gần 30 đoàn tham gia trưng bày sản phẩm và khảo sát thị trường tại Đức, Pháp, Mỹ, Ý, Trung Quốc với sự tham gia của trên 300 lượt doanh nghiệp trong cả nước. Các hoạt động trên đã giúp các doanh nghiệp tiếp cận trực tiếp với các khách hàng tiềm năng, giới thiệu, quảng bá các sản phẩm và nâng cao hình ảnh doanh nghiệp, nắm bắt sâu hơn nhu cầu và thị hiếu của người tiêu dùng ở từng khu vực khác nhau trên trường quốc tế. Do đó, các doanh nghiệp đã chú trọng tới việc chuẩn bị mẫu mã, các bộ sưu tập mới để trưng bày tại các gian hàng tham gia, có tính toán kỹ về gía cả, chi phí thực hiện các đơn hàng để ký kết hợp đồng ngay tại hội chợ. Sự hiện diện của các doanh nghiệp, gian hàng chung cuả Hiệp hội đã tạo dựng một hình ảnh ngành da giày Việt Nam trên trường quốc tế Ngoài ra, Hiệp hội còn tổ chức nhiều khoá đào tạo về thiết kế và phát triển sản phẩm, marketing, kinh doanh, xuất nhập khẩu và các khoá dành cho các doanh nghiệp hướng tới vượt qua các rào cản thương mại, đảm bảo các yêu cầu về môi trường, an toàn sức khoẻ của các nhà nhập khẩu. Hiệp hội tập trung công tác đào tạo vào hai đối tượng chính là đội ngũ cán bộ thiết kế và phát triển sản phẩm; đội ngũ maketing, xuất nhập khẩu. Hai lực lượng này là nhân tố quyết định giúp cho việc đáp ứng mẫu mã và thời hạn giao mẫu chào hàng. Song hành với các hoạt động trên, công tác tuyên truyền, quảng bá sản phẩm và giới thiệu hình ảnh doanh nghiệp cũng đã được ý thức và quan tâm.
KẾT LUẬN
Trong những năm qua, ngành da giầy vn được coi là ngành có lợi thế hướng ra xuất khẩu và là ngành sử dụng nhiều lao động với chi phí tiền công thấp. Tuy nhiên, lợi thế về chi phí nhân công rẻ đã và đang giảm đicùng với tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, cùng với sự di chuyển tự do của các nguồn lực từ nơi này xang nơi khác. Việc xuất khẩu những mặt hàng có giá trị gia tăng trong nước thấp sẽ bị giảm dần lợi thế trong tương lai, khi tiến bộ khoa học và ứng dụng công nghệ mới phát triển với tốc độ nhanh như hiện nay.
Mặc dù hiện tại các doanh nghiệp trong ngành đã có nhều nỗ lực thúc đẩy phát triển sản xuất, song khả năng cạnh tranh tổng thể của doanh nghiệp còn yếu so với các nước trong khu vực. Việc tìm ra các giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh là hết sức cần thiết đối với từng doanh nghiệp nói riêng và ngành da giầy nói chung, nhằm đối phó một cách linh hoạt, kịp thời và đúng hướng trước những biến động của môi trường kinh doanh.
Để nâng cao hiệu quả tối đa trong việc vận dụng các giải pháp vào thực tiễn cần có sự mềm dẻo, có nghĩa là có sự lựa chọn phương hướng khả thi nhất để đạt được mục tiêu đề ra,dựa trên việc tác động tích cực đến những nhân tố quyết định như tăng năng suất lao động, năng lực quản lý, hiệu quả quản lý, hiệu qur sản xuất, khinh doanh, trình độ khoa học công nghệ, các dịch vụ và chi phí đầu vàoTừ việc giảm chi phí, tăng lợi nhuận, doanh nghiệp mới có thể tồn tại và phát triển vững bước trên đôi chân của mình. Doanh nghiệp tồn tại có nghĩa là ngành tồn tại và phát triển bền vững. Chính vì vậy, nâng cao năng lực xuất khẩu của ngành sản xuât kinh doanh là một thực tế khách quan, nhằm hóa giải rủi ro, chủ động trong sản xuất kinh doanh để chiến thắng trên thương trường.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Khương Bình, WTO với doanh nghiệp Việt Nam, NXB Lao Động 2006
2. Báo cáo về xuất khẩu các mặt hàng cạnh tranh trực tiếp với một số nước của Việt Nam trong những năm qua-Viện nghiên cứu thương mại
3.Trần Đồng, cần chuyên nghiệp hóa đầu tư để thu hút vốn đầu tư
4.Micheal Porter, Lợi thế cạnh tranh quốc gia
5. PGS.TS Trần Văn Tùng, Cạnh tranh kinh tế - NXB thế giới 2004
6.Trần Sửu, Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp trong điều kiện toàn cầu hóa – NXB Lao Động
7. Một số trang web:
saigontimes.com.vn
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 6082.doc