Đề tài Thực trạng nhập khẩu thủy sản của Hoa Kỳ từ Việt Nam và một số giải pháp

Trong điều kiện hội nhập kinh tế hiện nay, tất cả các nước đang hướng tới một nền kinh tế mở, một nền thương mại tự do. Các cam kết dỡ bỏ các hàng rào thuế quan làm thị trường các nước trở nên thông thoáng. Cũng chính vì thế các doanh nghiệp cũng gặp phải sự cạnh tranh khốc liệt không chỉ trên trường quốc tế, trên thị trường nước ngoài mà còn trên chính thị trường của nước mình. Nếu không đủ sức cạnh tranh doanh nghiệp sẽ rơi vào tình trạng thua lỗ và có thể dẫn tới bị phá sản. Đứng trước tình trạng đó, chính phủ các nước không thể khoanh tay đứng nhìn mà họ phải làm một cái gì đó để bảo vệ doanh nghiệp của mình, bảo vệ nền kinh tế của đất nước mình. Do đó các rào cản kỹ thuật được dựng lên thực hiện nhiệm vụ đó. Hoa Kỳ là một siêu cường về kinh tế nhưng đồng thời cũng là một thị trường hứa hẹn sự thành công với các doanh nghiệp nước ngoài, đặc biệt trong lĩnh vực thủy sản, Hoa Kỳ là một quốc gia nhập khẩu thủy sản lớn thứ ba trên thế giới, cho nên các doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản khó lòng có thể bỏ qua thị trường đầy hấp dẫn này. Thế nên để bảo vệ ngành thủy sản của nước mình, bảo vệ người tiêu dùng trong nước tránh dùng phải các loại hàng hóa nhập khẩu kém chất lượng, để bảo vệ môi trường Hoa Kỳ phải dựng lên rất nhiều rào cản. Các doanh nghiệp muốn thâm nhập vào thị trường này phải vượt qua được các rào cản ấy.

doc67 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 2401 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng nhập khẩu thủy sản của Hoa Kỳ từ Việt Nam và một số giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Cá tra và cá basa là mặt hàng quan trọng và được ưa chuộng ở thị trường nhiều nước, hai loại cá này chiếm tỷ trọng xuất khẩu thủy sản cao nhất trong quý I/2009 là 36% tương ứng 208.4 triệu USD, giảm 5% cùng kỳ. Tuy nhiên ngày càng có nhiều thị trường tiêu thụ sản phẩm này của Việt Nam đã và đang sử dụng các chương trình truyền thông nhằm làm mất uy tín của hai loại cá này của Việt Nam, để bảo vệ thị trường cá trong nước. Thêm vào đó do nguồn nguyên liệu thiếu trầm trọng vì dịch bệnh, vì đồng USD rớt giá trong khi đầu ra bị thu hẹp dẫn tới tồn kho lớn, nguồn vốn không đảm bảo, cho nên nhiều nhà máy chỉ sản xuất cầm chừng, điều này gây ảnh hưởng rất lớn tới việc sản xuất và xuất khẩu cá của Việt Nam. Sự việc này đã diễn ra trước đây tại thị trường Hoa Kỳ do các doanh nghiệp sản xuất cá tra và basa Hoa Kỳ không cạnh tranh được với cá tra và basa của Việt Nam. Vì vậy các doanh nghiệp, hiệp hội thủy sản cần chuẩn bị sẵn tâm lý cũng như biện pháp để phản hồi với những thông tin đúng đắn, sát thực giúp người tiêu dùng có cái nhìn chính xác hơn. Thủy sản Việt Nam ngày càng rớt giá so thủy sản các nước. Tôm Việt Nam được đánh giá là mặt hàng cao cấp, phong phú về chủng loại và chất lượng cao, được người dân các nước nhập khẩu ưa chuộng, vậy mà quý I/2009, tôm đông lạnh chỉ xuất khẩu đạt 181.2 triệu USD, giảm 7.3% so cùng kỳ 2008. Giá tôm bán trên thị trường thường thấp hơn tôm Thái Lan 0.1 – 0.2 USD/kg trong khi giá đầu vào cao hơn 15 – 20%. Chính điều này sẽ khiến các doanh nghiệp nhập khẩu hạn chế nhập khẩu tôm Việt Nam mà chuyển sang nhập khẩu tôm Thái Lan vì dễ tiêu thụ và lợi nhuận cao. Ngoài ra cá ngừ là mặt hàng cao cấp sụt giảm mạnh nhất, với gần 40% so cùng kỳ, đạt 19 triệu USD và cũng là mức thấp nhất trong 4 năm trở lại đây. Mực, bạch tuộc xuất khẩu được trên 38 triệu USD, giảm gần 15% so cùng kỳ, mặc dù tháng 3 có dấu hiệu phục hồi nhưng cũng không đủ bù đắp cho sự sụt giảm hai tháng đầu năm. Các mặt hàng khô xuất khẩu đạt 19.2 triệu USD, giảm 14.3% so cùng kỳ 2008. Do ảnh hưởng của khủng hoảng nên sức mua tại các thị trường chính, trong đó có Hoa Kỳ đều giảm, xuất khẩu sang thị trường Hoa Kỳ giảm 3.3% so cùng kỳ năm 2008 cùng với việc đóng cửa xuất khẩu cá tra, basa sang thị trường Nga cũng góp phần đáng kể làm giảm xuất khẩu thủy sản của Việt Nam. Cùng với việc nền kinh tế Hoa Kỳ đang có dấu hiệu phục hồi trở lại, các thị trường đóng cửa như Nga, Ai Cập cũng đồng loạt mở cửa sẽ là dịp cho xuất khẩu thủy sản Việt Nam tăng tốc trở lại. Mặc dù có nhiều rào cản nhưng Hoa Kỳ vẫn được đánh giá là thị trường tiềm năng, mục tiêu là giữ thị phần ở mức 30% trong năm 2009, 2010 với sản phẩm chủ lực là tôm, cá ngừ, cá rô phi, cua và ghẹ. 2.3. Đánh giá thực trạng xuất khẩu thủy sản của Việt Nam sang thị trường Hoa Kỳ. 2.3.1 Thuận lợi và khó khăn khi xuất khẩu thủy sản sang Hoa Kỳ. 2.3.1.1 Thuận lợi. Sau khi Hiệp định thượng mại Việt Nam – Hoa Kỳ được kí kết, nó như một công cụ mở đường cho các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam mang hàng hóa sang thị trường Hoa Kỳ. Đồng thời Việt Nam đã là thành viên của WTO, được hưởng ưu đãi tối huệ quốc của các nước, được hưởng những quy chế bình đẳng trong thương mại, khắc phục được tình trạng bị phân biệt đối xử. Việt Nam được nâng cao vị thế quốc gia trên trường quốc tế thông qua việc tham gia các tổ chức, diễn đàn toàn cầu, không bị phân biệt đối xử về các tiêu chuẩn, chất lượng hàng hoá: Việt Nam ký các hiệp định song phương đặc biệt là hiệp định thương mại Việt - Mỹ, là thành viên của WTO nên có quyền được hưởng quy chế tối huệ quốc và quy chế đối xử quốc gia khi đưa ra các quy định quản lý kỹ thuật. Có nghĩa là, các quy định này phải đảm bảo có sự đối xử như nhau giữa các nước thành viên và giữa hàng hoá sản xuất trong nước và hàng nhập khẩu vào nước mình. Tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế cũng góp phần giải toả rào cản thương mại, mở rộng thị trường cho hàng hoá Việt Nam, tạo điều kiện thu hút đầu tư trong và ngoài nước, thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nâng cao năng lực quản lý và sản xuất, phát huy lợi thế cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam... Nguồn lao động dồi dào, giá rẻ, tài nguyên thủy sản phong phú, đa dạng, có đủ điều kiện thuận lợi để nuôi trồng…Các loại thủy sản phù hợp thị hiếu tiêu dùng của người dân khó tính Hoa Kỳ. Hoa Kỳ là nước nhập khẩu thủy sản lớn thứ ba trên thế giới, chỉ sau EU và Nhật Bản. Thêm vào đó, các mặt hàng như tôm các loại, cá ngừ, cá rô phi, cá tra, cá basa và cua là các mặt hàng được người dân Hoa Kỳ rất ưa chuộng, lại là các sản phẩm có ưu thế của Việt Nam. Đặc biệt là tôm, Hoa Kỳ là nước nhập khẩu tôm lớn nhất thế giới, mỗi năm Hoa Kỳ nhập khẩu khoảng 550 nghìn tấn. Thị trường Hoa Kỳ với sức mua cao, trung bình sản lượng tiêu thụ thủy sản của người dân vào khoảng 15 pao/năm và dự đoán sức tiêu thụ tăng cao hơn nữa trong những năm gần đây. Hiện nay Hoa Kỳ tiêu thụ khoảng 12 tỷ pao thủy sản/năm và nhu cầu sẽ tăng 4.4 tỷ pao ( hai triệu tấn ) so hiện tại. Thị trường Hoa Kỳ có nhu cầu cao với thủy sản nhưng khả năng cung cấp của thị trường nội địa không đủ đáp ứng được các nhu cầu đó và đang có nguy cơ ngày càng giảm. Hiện nay thủy sản tiêu thụ tại thị trường này có tới 70% có nguồn gốc nhập khẩu. Và Việt Nam là một trong những nhà cung cấp thủy sản lớn tại thị trường Hoa Kỳ. Sau khi gia nhập WTO, để hội nhập với nền kinh tế thế giới, các doanh nghiệp Việt Nam không ngừng thay đổi để phù hợp với các tiêu chuẩn TBTs. Vì thế hiện nay, Việt Nam đã có 175 công ty thủy sản được phép xuất khẩu sang Liên Hiệp Châu Âu, 295 công ty được phép xuất khẩu sang Hàn Quốc, và 300 công ty hội tụ đủ điều kiện để xuất khẩu sang thị trường Hoa Kỳ. Thủy sản xuất khẩu là ngành mũi nhọn, thu nhiều ngoại tệ và giải quyết hàng triệu việc làm cho người lao động, cho nên Nhà Nước, các bộ ngành đều chú trọng phát triển ngành thủy sản xuất khẩu. Nhiều biện pháp đã và đang được thực hiện nhằm giải quyết các khó khăn, nâng cao hiệu quả trong lĩnh vực kinh doanh xuất khẩu thủy sản sang thị trường nước ngoài. Đây cũng là mặt thuận lợi thúc đẩy xuất khẩu thủy sản phát triển. Việt Nam có nhiều thuận lợi khác nữa trong lĩnh vực xuất khẩu thủy sản. Trước tiên cần kể đến đó là địa hình thuận lợi cho việc khai thác và nuôi trồng. Việt Nam có 3 mặt giáp biển, có nhiều sông ngòi chằng chịt thuận lợi cho việc đánh bắt các loại thủy sản nước ngọt, mặn và lợ với chủng loại phong phú đa dạng. Ngoài ra hệ thống sông ngòi kết hợp thời tiết thuận lợi tạo điều kiện cho việc nuôi trồng các loại thủy hải sản. Ví dụ như cá tra và cá basa của Việt Nam có chất lượng cao, sản lượng lớn, giá thành rẻ hơn Hoa Kỳ một phần là do Việt Nam có điều kiện nuôi trồng quanh năm, còn việc nuôi trồng loại cá này của Hoa Kỳ bị gián đoạn. Điều này cũng là một thuận lợi lớn của Việt Nam. Kết cấu dân số trẻ, người lao động chịu khó cũng là một thuận lợi cung cấp nguồn lao động dồi dào, giá rẻ, có chất lượng cho ngành nuôi trồng và chế biến thủy sản. 2.3.1.2 Khó khăn Hoa Kỳ là một thị trường có nhiều rào cản nhất, các rào cản thường khó nắm bắt và thường xuyên thay đổi. Nhưng không vì thế mà thị trường Hoa Kỳ giảm bớt sự hấp dẫn vốn có của nó với các doanh nghiệp thực hiện nhiệm vụ xuất khẩu. Do Hoa Kỳ là nhà nhập khẩu hàng đầu cho nên Hoa Kỳ vẫn là thị trường thu hút sự quan tâm của cả thế giới. Vì vậy sự cạnh tranh giữa các nhà xuất khẩu vào Hoa Kỳ vô cùng gay gắt và quyết liệt. Việt Nam mới chỉ thâm nhập vòa thị trường Hoa Kỳ từ năm 2002, sau khi hiệp định thương mại song phương Việt – Mỹ chính thức có hiệu lực, trong khi các đối thủ cạnh tranh đã có hệ thống bạn hàng cũng như các kênh phân phối, tiêu thụ tại thị trường này từ trước đó. Đây là một thách thức lớn cho các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam khi thâm nhập vào thị trường Hoa Kỳ. Các nhà cung cấp thủy sản cho thị trường Hoa Kỳ như Thái Lan, Canada, Ecuado…là các nhà cung cấp thủy sản chủ yếu cho Hoa Kỳ với thị phần hàng năm cho mỗi nước vào khoảng 15% - 20%, trong đó Thái Lan là nhà cung cấp chính về tôm. Sản lượng tôm Thái Lan cao và ổn định, giá đầu vào thấp hơn so với giá tôm đầu vào của Việt Nam nên được các doanh nghiệp nhập khẩu Hoa Kỳ ưa chuộng. Còn Ecuado là bạn hàng lâu đời của Hoa Kỳ với sản phẩm tôm chân trắng, tôm sú, xếp thứ 5 về giá trị nhập khẩu tại thị trường Hoa Kỳ. Canada thì coi Hoa Kỳ là thị trường nhà và Hoa Kỳ luôn là thị trường nhập khẩu 60% giá trị xuất khẩu thủy sản của Canada, với sản phẩm là tôm hùm, cá philê. Ngoài ra còn nhiều nước như Trung Quốc, Ấn Độ… cũng đều là các nhà cạnh tranh mà Việt Nam cần vượt qua để chiếm lĩnh thị trường tiềm năng Hoa Kỳ. Thủy sản chế biến của Việt Nam xuất khẩu sang Hoa Kỳ chưa nhiều, chủ yếu xuất khẩu dưới dạng sơ chế cho nên giá trị thấp, trung bình một năm thủy sản Việt Nam chỉ chiếm khoảng 6% thị phần tại thị trường này. Mặt khác, các doanh nghiệp Việt Nam vẫn chưa hiểu hết cũng như chưa nắm bắt được sự thay đổi trong nhu cầu tiêu dùng của người dân Hoa Kỳ cho nên gặp nhiều khó khăn, có khi sản phẩm sản xuất ra bị khan hiếm, có khi lại bị tồn đọng dẫn tới thiệt hại. Hầu như các đối thủ cạnh tranh của thủy sản Việt Nam là các nước có nền kinh tế cũng như kỹ thuật phát triển hơn, có kinh nghiệm hơn trong việc kinh doanh xuất khẩu ở thị trường Hoa Kỳ, thêm vào đó Việt Nam chưa có nhiều sự hợp tác đầu tư với Hoa Kỳ về công nghệ chế biến thủy sản. Các khâu từ nhập con giống, nuôi trồng cho tới chế biến, bảo quản của nhiều doanh nghiệp Việt Nam còn gặp nhiều hạn chế, không đảm bảo đáp ứng đước các tiêu chuẩn mà Hoa Kỳ đưa ra dẫn tới sản phẩm không được thông quan. Các biện pháp bảo hộ sản xuất nội địa, mà núp dưới nó là các rào cản kỹ thuật của Hoa Kỳ ngày càng có chiều hướng gia tăng. Hoa Kỳ thường đặt ra rất nhiều bộ luật, nhiều tiêu chuẩn, nhiều quy định, có khi quy định đó trái ngược với các tiêu chuẩn quốc tế với mục đích bảo hộ nền sản xuất trong nước. Ví dụ như trường hợp cá tra và cá basa của Việt Nam bị kiện bán phá giá tại thị trường Hoa Kỳ, nguyên nhân cũng vì bảo hộ thị trường cá trong nước. Các tiêu chuẩn Việt Nam ( TCVN ) có mức độ hài hòa không cao so các tiêu chuẩn quốc tế. Theo tổng cục tiêu chuẩn đo lường Việt Nam thì trong số 5.600 TCVN áp dụng cho nhiều lĩnh vực thì chỉ có 27% trong số này hài hòa với TCQT. Mức độ hài hòa của các TCVN càng lớn thì càng thuận lợi cho hàng hóa Việt Nam thâm nhập sang thị trường nước ngoài. Hoa Kỳ là nước có hệ thống pháp luật đồ sộ, chặt chẽ và phức tạp bậc nhất thế giới. Ngoài luật pháp liên bang còn có hệ thống pháp luật của riêng từng bang. Vì thế quan hệ thương mại thường xuyên phải gắn với tư vấn pháp luật. Các nhà xuất khẩu sang thị trường Hoa Kỳ phải am hiểu luật pháp để tránh bị thua thiệt trong kinh doanh. Từ giữa năm 2007 đến nay, nền kinh tế Hoa Kỳ rơi vào tình trạng suy thoái, người dân tiết kiệm chi tiêu cho nên hải sản bị hạn chế trong tiêu thụ, vì thế sản lượng cũng như trị giá xuất khẩu thủy sản Việt Nam sang thị trường Hoa Kỳ sụt giảm nhanh chóng. Đến nay, nền kinh tế đang dần phục hồi nên thủy sản sang Hoa Kỳ cũng đang dần phục hồi trở lại. Khó khăn trong việc xuất khẩu thủy sản còn do chính từ các nguyên nhân trong nước. Trước tiên là do quy mô nhiều doanh nghiệp còn nhỏ bé, thiếu vốn đầu tư mở rộng cơ sở sản xuất kinh doanh, thiếu vốn đầu tư mua các trang thiết bị hiện đại cho chế biến và bảo quản, tỷ lệ lao động lành nghề không cao dẫn tới năng suất thấp, chất lượng không đảm bảo. Cơ cấu ngành chưa hợp lý, các ngành công nghiệp hỗ trợ chưa phát triển tương xứng với nhu cầu. Các chi phí đầu vào như vận tải, thông tin liên lạc…còn cao so các khu vực khác trên thế giới. Khó khăn trong các hoạt động liên quan do cơ chế quản lý của nhà nước với thủy sản xuất khẩu chưa hợp lý, khó khăn trong việc giao dịch tài chính tiền tệ, thủ tục cấp phép, thông tin thị trường… Thủy sản đánh bắt chủ yếu ở ven bờ nên kích cỡ, chủng loại và số lượng không phong phú. Do thiếu vốn nên không có phương tiện đánh bắt xa bờ hiện đại để có thể đi xa trong nhiều ngày mà vẫn bảo quản được chất lượng thủy sản. Đây là điểm yếu kém của ngành thủy sản Việt Nam so ngành thủy sản Hoa Kỳ. Hoa Kỳ có đội tầu đánh bắt xa bờ hiện đại với công nghệ bảo quản chất lượng cao, có đủ phương tiện chế biến ngay ngoài khơi nên chất lượng rất đảm bảo. Thủy sản được các hộ gia đình và doanh nghiệp nuôi trồng với quy mô nhỏ lẻ, chưa chuyên môn hóa cao, năng suất thấp, gây khó khăn cho việc thu mua của các doanh nghiệp chế biến. Mặt khác không đảm bảo quy trình nuôi trồng hợp tiêu chuẩn, khi có dịch bệnh xẩy ra thì khó kiểm soát, khó khăn trong việc phổ biến, hướng dẫn cách áp dụng các tiêu chuẩn cho phù hợp với thị trường nhập khẩu. Người lao động trong nhiều cơ sơ làm việc trong môi trường chưa đảm bảo tiêu chuẩn, chế độ làm việc và quyền lợi chưa phù hợp cũng gây khó khăn trong việc xuất khẩu thủy sản. Các loại giống thủy hải sản ngư dân sử dụng năng suất và chất lượng thấp hơn các nước cạnh tranh trong cùng khối, chưa hình thành nên thị trường cung ứng giống chuyên nghiệp chất lượng cao. Tuy nhiều khó khăn nhưng các doanh nghiệp cũng như ngư dân đang dần khắc phục và thu được nhiều thành công. Điều này được thể hiện trong kết quả xuất khẩu thủy sản trong những năm qua, trong uy tín và sự ưa chuộng mặt hàng thủy sản của Việt Nam ở thị trường Hoa Kỳ và các thị trường khác. 2.3.2 Ưu nhược điểm và nguyên nhân vượt rào cản kỹ thuật Hoa Kỳ của thủy sản Việt Nam. 2.3.2.1 Ưu điểm. Trong điều kiện hiện nay, cuộc sống của con người ngày càng được chú trọng và quan tâm hơn. Việc bảo vệ con người, bảo vệ môi trường sinh thái là một vấn đề toàn cầu. Các rào cản kỹ thuật đặt ra nhằm bảo vệ sức khỏe con người, bảo vệ môi trường sinh thái…Các doanh nghiệp sản xuất đáp ứng được các tiêu chuẩn kỹ thuật này sẽ góp phần làm xã hội càng phát triển hơn. Hoa Kỳ là một quốc gia phát triển với khoa học kỹ thuật tiến bộ, việc đáp ứng được các rào cản kỹ thuật của Hoa Kỳ giúp các doanh nghiệp sản xuất mặt hàng xuất khẩu đáp ứng được hoặc giảm thiểu sự khác biệt về tiêu chuẩn kỹ thuật ở các thị trường khác, nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp trên trường quốc tế. Tuy nhiều rào cản nhưng Hoa Kỳ với mức tiêu thụ thủy sản cao, trong khi sản xuất trong nước không đủ đáp ứng nhu cầu tiêu thụ, chỉ đáp ứng được 30% nhu cầu trong nước cho nên Hoa Kỳ phải nhập khẩu thủy sản và trở thành thị trường nhập khẩu thủy sản lớn thứ ba của thế giới sau EU và Nhật Bản. Cho nên Hoa Kỳ trở thành thị trường hấp dẫn của các nhà xuất khẩu thủy sản trên thế giới. Đáp ứng được các tiêu chuẩn kỹ thuật Hoa Kỳ thì thị trường tiêu thụ sản phẩm của Việt Nam được mở rộng. Các doanh nghiệp Việt Nam nâng cao uy tín của mình trên thị trường quốc tế. Đồng thời các doanh nghiệp này có điều kiện đầu tư nâng cao năng lực sản xuất, vượt qua các áp lực cạnh tranh trong điều kiện hội nhập. 2.3.2.2 Nhược điểm. Áp lực cạnh tranh khốc liệt mà rào cản về thuế suất đã dần dỡ bỏ theo quy định của WTO và quy luật chung của điều kiện hội nhập. Để bảo vệ thị trường trong nước, bảo vệ các doanh nghiệp sản xuất và đảm bảo sự phát triển kinh tế theo mục tiêu đặt ra trước sự cạnh tranh khốc liệt từ các doanh nghiệp của các quốc gia khác trên thế giới có lợi thế hơn, các quốc gia đã thiết lập các rào cản để bảo vệ mình và Hoa Kỳ cũng không nằm ngoại lệ. Hoa Kỳ thường đặt các tiêu chuẩn kỹ thuật của mình theo tình hình kinh tế - chính trị của đất nước, các quy định và tiêu chuẩn mà Hoa Kỳ đặt ra liên tục thay đổi khó nhận biết. Ngoài các rào cản kỹ thuật có cơ sở khoa học, còn có các rào cản kỹ thuật vô lý mà các quốc gia đặt ra, không phù hợp với thông lệ quốc tế nhằm hạn chế hàng nhập khẩu, cản trở tự do thương mại. Thị trường Hoa Kỳ với sức mua cao, nhập khẩu thủy sản lớn thứ ba thế giới nhưng thị hiếu người tiêu dùng cũng thường xuyên thay đổi. Các nhà xuất khẩu khi bước chân sang thị trường này phải nắm bắt được thị hiếu người tiêu dùng mới mong thành công. Ngoài ra, Hoa Kỳ có nhiều tầng lớp dân cư với thu nhập chênh lệch nhau khá lớn, cho nên chủng loại sản phẩm và giá cả của sản phẩm đó cũng khác nhau. Mặt khác khi mua, người tiêu dùng Mỹ chú trọng thứ nhất là tới chất lượng sản phẩm, thứ hai là tới mẫu mã, thứ ba là tới giá cả hàng hóa cho nên sản phẩm phải đảm bảo chất lượng, mẫu mã đa dạng và giá cả phù hợp đáp ứng được nhu cầu của từng đối tượng dân cư. Người dân Hoa Kỳ cũng ưa thích các sản phẩm mang nhãn hiệu của các nhà cung cấp nổi tiếng vì họ cho rằng các sản phẩm của các hãng nổi tiếng thì đảm bảo chất lượng hơn cho dù giá cả của sản phẩm đó có cao hơn giá cả của sản phẩm cùng loại, chất lượng ngang nhau nhưng không phải là sản phẩm của hãng nổi tiếng. Trong khi đó, thủy sản Việt Nam mới thâm nhập vào thị trường Hoa Kỳ từ sau khi BTA có hiệu lực, sau các nhà cung cấp truyền thống của Hoa Kỳ như Thái Lan, Ecuado, Canada… Các doanh nghiệp Việt Nam chưa xây dựng được hệ thống tiêu thụ lớn như các nước này nên thương hiệu sản phẩm Việt chưa được cư dân Mỹ biết tới nhiều. Đây là một khó khăn lớn mà doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản Việt Nam cần khắc phục để người tiêu dùng hiểu đúng hơn về chất lượng sản phẩm của doanh nghiệp mình. Các cán bộ hoạt động trong lĩnh vực xuất khẩu của Việt Nam trình độ chưa cao, đội ngũ maketing và đội ngũ cán bộ về pháp lý, ngoại ngữ…còn thiếu về số lượng và yếu về trình độ, chưa đủ khả năng để bảo vệ doanh nghiệp khi có tranh chấp ở thị trường nước ngoài. Đặc biệt tại thị trường Hoa Kỳ, gồm 50 bang, ngoài chế độ pháp lý chung cho toàn liên bang lại còn chế độ pháp lý riêng của từng bang, gây khó khăn cho các doanh nghiệp tham gia xuất khẩu. Vì thế các doanh nghiệp Việt Nam dễ bị thiệt thòi khi xảy ra tranh chấp nếu không thật sự nắm rõ pháp lý của thị trường này. Ví dụ như vụ kiện bán phá giá cá tra và cá basa của Việt Nam tại thị trường Hoa Kỳ. Năng lực quản lý sản xuất kinh doanh, chế biến và xuất khẩu thủy sản chưa đáp ứng được yêu cầu trong điều kiện tự do hóa thương mại, đặc biệt là khâu maketting, dự tính dự báo thị trường. Mối liên kết kinh tế giữa các khâu sản xuất – chế biến - xuất khẩu, giữa khâu cung ứng vật tư đầu vào và tiêu thụ sản phẩm đầu ra…chưa thiết lập được một cách vững chắc để đảm bảo sự ổn định về số lượng và chất lượng cũng như hiệu quả sản xuất kinh doanh hàng thủy sản xuất khẩu theo yêu cầu thị trường. Hoa Kỳ là quốc gia có khoa học công nghệ phát triển, các tiêu chuẩn kỹ thuật đặt ra với hàng hóa, đặc biệt là hàng thủy sản nhập khẩu vô cùng chặt chẽ. Hoa Kỳ đã đưa ra quy đinh, doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản vào thị trường Hoa Kỳ phải đảm bảo tiêu chuẩn HACCP mới được thông quan. Để vượt rào thì đối với đa số các doanh nghiệp Việt Nam, trình độ công nghệ chưa cao, nguồn vốn đầu tư máy móc thiết bị còn thiếu, trình độ tay nghề còn thấp, thiếu cơ sở hạ tầng, các tiêu chuẩn về môi trường làm việc, hạ tầng cơ sở phục vụ cho việc vận chuyển, bốc dỡ và bảo quản, đặc biệt với hàng thủy sản tươi sống còn hạn chế, chưa đủ điều kiện để đáp ứng đầy đủ các tiêu chuẩn đó, và qua đó giá thành sản phẩm và phí gián tiếp tăng nhanh. Gia nhập WTO cũng đồng nghĩa với hàng rào thuế quan giữa các quốc gia sẽ được dỡ bỏ dần theo lộ trình, thay vào đó là các hàng rào kỹ thuật trong thương mại (TBTs) sẽ được dựng lên. Đây là cách làm duy nhất và tất yếu để các nước bảo vệ người tiêu dùng, lợi ích quốc gia, sản xuất trong nước… nhưng nó cũng là thách thức lớn đối với các doanh nghiệp Việt Nam. Nhiều doanh nghiệp chưa thực sự hiểu rõ về TBTs. Theo GS-TS Nguyễn Quang Toản, Giám đốc Trung tâm Chất lượng Quốc tế IQC, Chủ tịch Câu lạc bộ ISO VN, tính đến hết năm 2005, cả nước mới chỉ có khoảng hơn 2.000 tổ chức đã áp dụng các tiêu chuẩn quốc tế của TBT. Ông Lê Quốc Bảo, Văn phòng TBT VN cũng thừa nhận, nhiều tổ chức, DN còn hiểu khái niệm TBT rất mờ nhạt, thậm chí ở cả cấp chỉ đạo, hoạch định vĩ mô, trong khi TBT đã có hiệu lực từ ngày 1-1-1980. Các văn phòng TBT ở Việt Nam tuy đã ra đời, nhưng hoạt động của nó chưa thực sự đưa lại hiệu quả mong muốn. Thực tế cũng cho thấy, tại nhiều DN khi lập dự án đầu tư, do sức ép của giá thành thấp nên các nhà hoạch định phải tính toán qua loa “chi phí môi trường”. Các nhà máy sản xuất thực phẩm, dược phẩm khi xây dựng cũng chưa quan tâm nhiều đến GMP, HACCP, ISO 14000 bởi các kỹ sư thực phẩm, dược phẩm… không được trang bị kiến thức về các tiêu chuẩn trên. Vào WTO, các doanh nghiệp Việt Nam phải thực hiện 3 nguyên tắc của WTO là bình đẳng; công khai, minh bạch và cạnh tranh. Muốn gia tăng vị thế cạnh tranh, muốn quảng bá thương hiệu, các doanh nghiệp cần công khai minh bạch hệ thống quản lý của mình trong việc thực hiện pháp luật, các quy định từ TBT. Cấp vĩ mô cần hệ thống hóa các tiêu chuẩn Việt Nam, giảm thiểu sự khác biệt đối với các tiêu chuẩn mà Hoa Kỳ đưa ra. Như vậy hàng hóa Việt Nam mới thuận lợi trong quá trình vượt rào, không chỉ đối với thủy sản sang thị trường Hoa Kỳ mà còn với thủy sản và các loại hàng hóa khác vào thị trường quốc tế. 2.3.2.3 nguyên nhân vượt rào. Chính từ các thuận lợi và khó khăn khi thủy sản Việt Nam thâm nhập vào thị trường Hoa Kỳ đã đặt ra mục tiêu cho các doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản Việt Nam là: Buộc phải vượt rào! Có vượt rào thành công các doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản Việt Nam mới mở rộng thị trường tiêu thụ, thu ngoại tệ, tìm được chỗ đứng trên thị trường quốc tế, mới khẳng định được tên tuổi của doanh nghiệp mình. Hoa Kỳ là thị trường nhập khẩu thủy sản lớn thứ 3 trên thế giới và đây là thị trường hấp dẫn các nhà xuất khẩu thủy sản Việt Nam. Người Mỹ có nhu cầu tiêu dùng cao và giá cả ở thị trường này cũng cao so các thị trường khác và thị trường nội địa. Nhu cầu của người Mỹ về thủy sản ngày càng tăng và thị hiếu của họ là các sản phẩm mà Việt Nam đủ điều kiện để cung cấp, thuận lợi cho các doanh nghiệp thủy sản Việt Nam xuất khẩu sang thị trường này. Các tiêu chuẩn kỹ thuật của Hoa kỳ được xếp vào hàng chặt chẽ và khắt khe, doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam vượt rào thành công sẽ giảm bớt sự khác biệt về tiêu chuẩn giữa sản phẩm của Việt Nam so sản phẩm của các nước khác, giảm áp lực vượt rào. Các tiêu chuẩn mà Hoa Kỳ áp dụng là các tiêu chuẩn: Quy định về an toàn và đảm bảo sức khỏe người tiêu dùng (HACCP ), quy định về trách nhiệm xã hội ( SA8000 ), quy định về bảo vệ môi trường ( ISO14000 ), tiêu chuẩn về chất lượng ( ISO9000 ). Các doanh nghiệp phải chứng tỏ mình đủ tiêu chuẩn đáp ứng được các quy định trong tiêu chuẩn về an toàn và đảm bảo sức khỏe người tiêu dùng HACCP và trình đơn xin cấp phép, nếu cấp thẩm quyền Hoa Kỳ xem xét thấy phù hợp sẽ cấp giấy chứng nhận cho doanh nghiệp đó. Các doanh nghiệp muốn được cấp giấy chứng nhận là vì các nguyên nhân sau: Giúp các doanh nghiệp cải tiến phương pháp nội bộ. Giảm bớt những việc liên quan tới pháp lý. Cải thiện cơ hội xuất khẩu và truy nhập tới thị trường đòi giấy chứng nhận như là một điều kiện của sự tiếp nhận. Nâng cao độ tin cậy của người mua. Là lợi thế cạnh tranh với các doanh nghiệp chưa có giấy chứng nhận. Nâng cao hình ảnh doanh nghiệp. Việc áp dụng quy định về trách nhiệm xã hội ( SA8000 ) vào hoạt động của doanh nghiệp mang lại nhiều lợi ích như sau: Tạo ra sự tin tưởng cao từ phía khách hàng, rằng sản phẩm và dịch vụ được tạo ra trong một môi trường làm việc an toàn và công bằng, đem lại cho các nhà quản lý cũng như doanh nghiệp “ sự yên tâm về trách nhiệm xã hội”. Giúp doanh nghiệp đạt được lợi thế cạnh tranh, thâm nhập thị trường, thu hút khách hàng, nâng cao hình ảnh. Tạo cho doanh nghiệp chỗ đứng tốt trong thị trường lao động, cam kết rõ ràng về các chuẩn mực đạo đức và xã hội giúp doanh nghiệp thu hút các nhân viên được đào tạo và có kỹ năng. Cam kết về phúc lợi xã hội cho người lao động làm tăng thêm lòng trung thành của họ với doanh nghiệp. Lợi ích của việc áp dụng hệ thống quản lý chất lượng ISO9000 của doanh nghiệp được thể hiện như sau: Nâng cao uy tín doanh nghiệp nhờ nâng cao khả năng thỏa mãn của khách hàng về chất lượng sản phẩm. Tăng lượng hàng hóa dịch vụ Giảm chi phí nhờ quá trình hoạch định tốt và thực hiện có hiệu quả. Nâng cao sự tin tưởng nội bộ nhờ các mục tiêu rõ ràng và hiệu quả hoạt động của hệ thống. Nâng cao khả năng lao động của các nhân viên. Được sự đảm bảo của bên thứ ba. Là điều kiện cần thiết để vượt rào thành công. Quy định về bảo vệ môi trường ( ISO14000 ) là tiêu chuẩn không thể thiếu nếu doanh nghiệp muốn xuất khẩu sang thị trường Hoa Kỳ và các thị trường lớn khác. ISO14000 cung cấp cho doanh nghiệp phương pháp tiếp cận có hệ thống và phương pháp này hỗ trợ các doanh nghiệp rà soát, kiểm tra các mối nguy tiềm ẩn, đồng thời kiểm soát chúng để phòng ngừa các sự cố có thể xảy ra đột ngột. Hệ thống ISO14000 đặc biệt quan trọng vì nó có thể tự động đánh giá các tác động tới môi trường. Tất cả các quy định này nếu thực hiện được không chỉ giúp các doanh nghiệp thủy sản Việt Nam xuất khẩu sang thị trường Hoa Kỳ mà còn giúp các doanh nghiệp nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. Hoa Kỳ là một nước lớn và tiêu biểu, có tầm ảnh hưởng lớn tới thị trường quốc tế, việc vượt rào thành công ở thị trường Mỹ sẽ tạo thanh thế cho hàng thủy sản Việt Nam khi bước chân sang thị trường các nước khác. Chương 3. Giải pháp thúc đẩy xuất khẩu thủy sản của Việt Nam sang Hoa Kỳ. 3.1. Triển vọng xuất khẩu thủy sản Việt Nam sang Hoa Kỳ. Hoa Kỳ được xem như thị trường quan trọng nhất của Việt Nam trong tương lai, đã mở ra triển vọng cho các nhà xuất khẩu Việt Nam trong vòng 10 năm tới như chiến lược xuất khẩu của Chính phủ Việt Nam trong giai đoạn 2001 – 2010 đã đề cập. Tỷ trọng xuất khẩu sang Mỹ dự kiến tăng 15 – 20% vào năm 2010 so với 5 – 6% năm 2001. Việc ký kết Hiệp định thương mại song phương Việt Nam – Hoa Kỳ đã mở ra cánh cửa cho hàng hoá của Việt Nam. Nhu cầu tiêu thụ thủy sản của Hoa Kỳ rất lớn, trong khi việc cung ứng hải sản trong nước từ ngành cá của Hoa Kỳ liên tục giảm. Xét về sản lượng đánh bắt, Hoa Kỳ đứng hàng thứ tư sau Trung Quốc, Nhật Bản và ấn Độ. Cơ quan hải sản quốc gia (National Marine Fisheries Service) ước tính hiện có đến 62 loại cá trên lãnh hải Hoa kỳ đã bị khai thác quá mức và có tới 109 loài có nguy cơ bị khai thác cạn kiệt. Cá tra và basa phù hợp thị hiếu người tiêu dùng nhưng sản lượng thấp do việc nuôi trồng bị gián đoạn, phải theo thời vụ, không đủ cung cấp cho nhu cầu trong nước. Hàng năm Hoa Kỳ chỉ đáp ứng được 30% nhu cầu hải sản trong nước, còn 70% nhập khẩu kể cả tôm và tôm sú, chiếm thị phần lớn nhất (40%). Châu Á trở thành nơi cung cấp chính cho thị trường hải sản của Mỹ (50% tổng lượng nhập khẩu). Thủy sản Việt Nam gồm tôm, cá ngừ, cá tra, cá basa và cá rô phi là các loại thủy sản có sản lượng cao lại phù hợp thị hiếu tiêu dùng của người dân Hoa Kỳ, cho nên đây là một thế mạnh thuận lợi cho việc xuất khẩu thủy sản sang thị trường tiềm năng này. Thêm vào đó, việc nhà nhập khẩu Hoa Kỳ cảnh giác với thủy sản nhập khẩu từ Trung Quốc do không đủ tiêu chuẩn an toàn thực phẩm giúp các doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản Việt Nam giảm bớt đối thủ cạnh tranh, tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp Việt Nam trên thị trường Hoa Kỳ. 3.2 Các giải pháp về phía chính phủ Hội nhập kinh tế, các rào cản về thuế được loại bỏ nhưng những rào cản về kỹ thuật mà cụ thể là hàng loạt quy định về tiêu chuẩn chất lượng, tiêu chuẩn môi trường… sẽ được các nước "dựng lên" để bảo hộ nền sản xuất trong nước. Trong khi đó, các tiêu chuẩn Việt Nam (TCVN) vẫn còn lạc lậu, chưa hài hoà với khu vực và quốc tế và thường không được đối tác công nhận sẽ gây ra nhiều khó khăn cho các doanh nghiệp. Để tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp tham gia xuất khẩu thủy sản chính phủ cần thực hiện các công tác sau: Thứ nhất: Chính phủ cần lên kế hoạch để tiến hành ký kết một hiệp định cấp chính phủ với Hoa Kỳ để công nhận lẫn nhau kết quả xét nghiệm của cơ quan có thẩm quyền đối với các sản phẩm thuỷ sản. Việc này tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp Việt Nam khi đưa thủy sản sang thị trường nước ngoài, hạn chế tối đa rủi ro do sản phẩm đem xuất khẩu không đáp ứng được các yêu cầu của nước nhập khẩu dẫn đến sản phẩm không được đem vào tiêu thụ, phải tái xuất sang nước khác hoặc phải mang về gây tổn thất cho doanh nghiệp. Để hỗ trợ cho các nhà sản xuất trong nước đảm bảo an toàn thuỷ sản khi đưa vào thị trường Hoa Kỳ, Chính phủ Việt Nam cần có định hướng và xúc tiến đàm phán với FDA Hoa Kỳ nhằm tranh thủ sự trợ giúp trong việc phổ biến và ứng dụng các tiêu chuẩn an toàn thực phẩm của Hoa Kỳ cho các đối tượng có liên quan của Việt Nam. Việc các doanh nghiệp và đối tượng liên quan được phổ biến và áp dụng các tiêu chuẩn an toàn thực phẩm của Mỹ sẽ giúp các đối tượng này đáp ứng đúng các tiêu chuẩn mà thị trường nhập khẩu đưa ra, hạn chế tối đa rủi có thể gặp phải. Do các nguồn lực của Việt Nam hiện còn có những hạn chế, sự hỗ trợ trước tiên cần tập trung vào việc đào tạo các kỹ thuật viên giám định thuỷ sản. Cần có các khoá đào tạo ngắn hạn về chế biến thuỷ sản, giám định, xuất khẩu, thu mua và chứng nhận chất lượng sản phẩm. Sự hỗ trợ này bao gồm cả việc mời FDA của Hoa Kỳ và các chuyên gia về thuỷ sản tiến hành các khoá đào tạo thường xuyên tại Việt Nam như họ đã tiến hành đối với các đối tác thương mại chủ yếu xuất khẩu thuỷ sản vào Hoa Kỳ. Thứ hai: Đối với Chính phủ, điều cần làm thường xuyên là có kế hoạch và ngân sách để tuyên truyền rộng rãi tại cấp cơ sở, triển khai các lớp tập huấn cho ngư dân và các nhà sản xuất, khuyến cáo họ không sử dụng các chất kháng sinh và các hoá chất độc hại nhằm tạo dựng một môi trường thuỷ hải sản sạch. Những chiến dịch như thế sẽ đem lại lợi ích cho cả các ngư dân và các nhà xuất khẩu thuỷ hải sản, đảm bảo các lô hàng xuất khẩu sau khi rời Việt Nam sẽ không bị là nạn nhân của các tiêu chuẩn khắt khe và có thể là các rào cản đối với các sản phẩm xuất khẩu của Việt nam khi nhập khẩu vào Hoa Kỳ. Chính phủ đưa ra các tiêu chuẩn kiểm soát chặt chẽ chất lượng, dư lượng thuốc kháng sinh và những yêu cầu khác phù hợp với những quy định về chất lượng sản phẩm và bảo vệ môi trường của Hoa Kỳ. Đối với Bộ Thuỷ sản, cơ quan quản lý trực tiếp về các lĩnh vực nuôi trồng, đánh bắt, chế biến và tiêu thụ thuỷ hải sản, cần nhanh chóng soạn thảo và ban hành Quy chế truy xuất nguồn gốc sản phẩm thuỷ sản, nhằm quy định trách nhiệm và quyền hạn của các đơn vị liên quan tới hoạt động mã hóa và truy xuất nguồn gốc sản phẩm thủy sản. Đối tượng áp dụng bao gồm các cơ quan quản lý Nhà nước, vùng nuôi thủy sản, các cơ sở sản xuất/kinh doanh thủy sản. Quy chế Truy xuất nguồn gốc sản phẩm thuỷ sản giúp các cơ quan có thẩm quyền có khả năng nhận diện một thực phẩm, sẵn sàng loại bỏ sản phẩm thuỷ sản không an toàn thực phẩm từ thị trường và cơ sở phân phối để đảm bảo sức khỏe người tiêu dùng và chính lợi ích của những người xuất khẩu thuỷ sản. Các bộ tập dượt cho các doanh nghiệp bằng cách kiểm tra ngẫu nhiên và gắt gao hơn cả các đoàn kiểm tra nước ngoài nhằm giúp các doanh nghiệp nhìn lại chính mình để khắc phúc các thiếu sót một cách nhanh chóng. Bộ cũng mạnh tay với các doanh nghiệp xuất khẩu hàng kém chất lượng gây ảnh hưởng tới uy tín chung cho cả ngành Thứ ba: Nhà nước cần xây dựng quy hoạch cụ thể vùng nuôi thủy sản tập trung với quy mô lớn, có đầu tư thủy lợi hoàn chỉnh để tránh tình trạng nuôi tự phát, thả tràn lan, ảnh hưởng tới nguồn nước, gây dịch bệnh và khó kiểm soát nếu dịch bệnh xảy ra. Chọn lựa và có chính sách cụ thể khuyến khích đầu tư vốn, tạo ra các vùng sản xuất chuyên canh ứng dụng kỹ thuật tiên tiến, công nghệ sau thu hoạch, đánh bắt để bảo đảm sản phẩm có năng suất cao, chất lượng tốt, đồng đều, giá thành hạ và khối lượng lớn. Cần có chính sách phát triển nguồn giống chất lượng cao và đủ khả năng cung cấp cho ngành nuôi trồng. Phát triển các ngành trồng trọt chế biến nguyên liệu làm thức ăn cho ngành nuôi trồng, hạn chế nhập khẩu để làm giảm giá thành. Thứ tư: Nhà nước tạo cơ hội để các doanh nghiệp, các cơ sở sản xuất vừa và nhỏ đưa sản phẩm tiếp cận thị trường: nắm bắt tập quán và thị hiếu của người tiêu dùng ở từng nơi từng lúc, thông tin phản hồi cho sản xuất để nâng chất lượng sản phẩm sát nhu cầu thị trường. Nhà nước cần có chính sách hỗ trợ cho các doanh nghiệp tham gia hội chợ việc làm hoặc hội thảo chuyên đề thị trường giúp các doanh nghiệp tiếp cận trực tiếp thị trường, trực tiếp tìm hiểu nhu cầu thị trường và trực tiếp giao dịch với các nhà nhập khẩu chính của thị trường. Thứ năm: Phát triển nguồn nhân lực cho việc đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu. Con người là yếu tố quan trọng trong quá trình sản xuất để tạo ra sản phẩm có chất lượng cao và đáp ứng tốt nhu cầu thị hiếu của người tiêu dùng. Ngoài việc trang bị máy móc thiết bị hiện đại phải có những cán bộ kỹ thuật giỏi và công nhân lành nghề. Hiện nay, nước ta rất thiếu cán bộ kỹ thuật và công nhân kỹ thuật có tay nghề cao. Do đó khả năng cạnh tranh quốc tế của hàng hóa rất thấp. Bởi vậy để khắc phục tình trạng này Chính phủ Việt Nam cần tổ chức nhiều chương trình đào tạo chuyên sâu cho các cán bộ kỹ thuật và công nhân kỹ thuật thuộc các lĩnh vực để tạo ra đội ngũ cán bộ, công nhân kỹ thuật lành nghề, mở các trung tâm đào tạo công nhân cho các khu chế biến, tránh tình trạng nhận các công nhân phổ thông không qua đào tạo. Đồng thời Việt Nam nên phối hợp với các nước để gửi cán bộ kỹ thuật và công nhân kỹ thuật trẻ, còn triển vọng ra đào tạo ở nước ngoài. Ngoài vấn đề chú trọng đào tạo cán bộ kỹ thuật và công nhân kỹ thuật, Viêt Nam cần phải quan tâm đào tạo để đội ngũ cán bộ thương mại giỏi thì mới có thể đưa sản phẩm có chất lượng cao tới được thị trường. Thị trường Hoa Kỳ với nhiều luật pháp, không chỉ luật pháp của liên bang mà còn luật pháp của riêng từng bang. Ngay cả người dân Hoa Kỳ cũng không thể sống yên ổn nếu không có luật sư, cho nên hoạt động thương mại tại thị trường này không thể thiếu các cán bộ xuất nhập khẩu có trình độ và hiểu sâu sắc các vấn đề liên quan tới luật pháp. Có như vậy doanh nghiệp mới không bị thua thiệt khi tham gia kinh doanh tại thị trường này. Thứ sáu: Chính phủ cần tạo điều kiện cho các doanh nghiệp cải tạo và xây dựng mới hệ thống nhà kho bảo quản hợp lý với kỹ thuật, công nghệ bảo quản phù hơp. Tạo điều kiện hơn nữa trong việc vay vốn cho sản xuất và đầu tư trang thiết bị, nhà xưởng. Chính phủ đưa ra các chính sách định hướng và thúc đẩy việc phát triển đánh bắt thủy sản xa bờ, hạn chế phát triển đánh bắt ven bờ. Như vậy mới đánh bắt được với số lượng lớn, chất lượng cao. Thứ bẩy: Chính phủ sửa đổi lại các thủ tục hành chính, thủ tục hải quan, giảm bớt các thủ tục nhưng vẫn chặt chẽ tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp thực hiện công tác xuất khẩu. Hoàn chỉnh hệ thống pháp luật trong nước để được công nhận trên trường quốc tế, đủ khả năng bảo vệ doanh nghiệp khi xảy ra tranh chấp bất đồng thương mại. Thứ tám: Chính phủ nâng cao chức năng của hiệp hội ngành hàng trong việc cung cấp thông tin thị trường, doanh nghiệp vì chính hiệp hội ngành hàng là sợi dây kết nối giữa chính phủ và doanh nghiệp, là pháp nhân thay mặt nhà nước đại diện cho doanh nghiệp đồng thời chính phủ phải tìm các cơ chế can thiệp kịp thời khi có biến động mạnh về giá cả và thị trường tiêu thụ nhằm bảo đảm quyền lợi của người sản xuất và doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu, cũng như duy trì chiến lược phát triển lâu dài cho sản xuất và xuất khẩu mặt hàng này. 3.3 Các giải pháp về phía doanh nghiệp. Thứ nhât: Nhiều doanh nghiệp nói chung, nhất là doanh nghiệp vừa và nhỏ còn chưa biết trang bị những kiến thức thông tin về thị trường và luật pháp, thông lệ quốc tế cũng như những cam kết của ta với các nước và của các nước với nước ta như ưu đãi thuế quan, cắt giảm hàng rào phi thuế quan, cắt giảm quota, các quy định về tiêu chuẩn chất lượng... Công tác dự báo thị trường, xử lý thông tin chậm nên hiệu quả kinh doanh chưa cao. Trước hết mỗi doanh nghiệp phải ý thức cho đúng TBT là gì, tầm quan trọng của nó đối với những sản phẩm mà doanh nghiệp đang sản xuất. Để đối phó với hàng rào kỹ thuật của Hoa Kỳ, nhất là trong lĩnh vực thực phẩm rất phức tạp, cách tốt nhất là tự mỗi doanh nghiệp cần có sự nghiên cứu về chuẩn mực yêu cầu đối với từng khu vực thị trường, pháp luật chi phối, các rào cản nào sẽ gặp phải… Bên cạnh đó, các doanh nghiệp cũng phải xây dựng hệ thống tiêu chuẩn riêng cho các sản phẩm, dựa trên các tiêu chuẩn kỹ thuật của VN và quốc tế. Muốn cạnh tranh, thì các doanh nghiệp chế biến thủy sản phải nghiên cứu các tiêu chuẩn mà các doanh nghiệp chế biến thủy sản Hoa kỳ đang dùng để sản xuất theo công nghệ của họ. Biện pháp này giúp các doanh nghiệp chế biến thủy sản xuất khẩu giảm thiểu sự khác biệt giữa hàng thủy sản Việt Nam và hàng thủy sản của các doanh nghiệp Hoa Kỳ sản xuất. Thứ hai: Để có thể tận dụng mọi cơ hội mang lại khi hội nhập kinh tế quốc tế, ngành thủy sản Việt Nam đang và sẽ phát triển theo hướng lựa chọn, tập trung phát triển những ngành hàng, những nhóm hàng có khả năng cạnh tranh, đẩy mạnh đầu tư và đầu tư có trọng điểm, kết hợp với đầu tư chiều sâu đổi mới công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm… Vì vậy, các doanh nghiệp phải chủ động vượt qua các rào cản kỹ thuật trong thương mại. Muốn vậy các doanh nghiệp cần: - Phát triển các loại hình doanh nghiệp, mở rộng và tăng cường liên kết giữa các doanh nghiệp, không chỉ là doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp tư nhân, mà phải phát triển cả các loại hình doanh nghiệp liên doanh, 100% vốn nước ngoài. - Cần có sự liên kết giữa các thành phần kinh tế: Các doanh nghiệp chế biến cần có sự liên kết chặt chẽ với các hộ gia đình, các doanh nghiệp nuôi trồng thủy hải sản nhằm mục đích bám sát số lượng, chất lượng, chủng loại sản phẩm, các doanh nghiệp chế biến hiểu rõ các tiêu chuẩn của thị trường nhập khẩu cần hướng dẫn bà con nuôi trồng phù hợp, nhằm đáp ứng được một cách tốt nhất nhu cầu tiêu thụ sản phẩm của thị trường, nuôi trồng và chế biến theo nhu cầu của thị trường, tránh trường hợp sản phẩm nuôi trồng của bà con nông dân không đáp ứng được nhu cầu dẫn tới ế, thừa gây thiệt hại cho bà con, gây tâm lý chán nản hoang mang và không đủ khả năng nuôi trồng cho mùa vụ sau; tưd đó các doanh nghiệp chế biến lại gặp khó khăn trong việc thu mua nguyên liệu đầu vào sản xuất. Như vậy cả hai bên cần phải hợp tác hỗ trợ nhau nhằm thu được lợi nhuân cao và ổn định. - Cần đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của doanh nghiệp; tăng khả năng nhanh nhạy phù hợp với điều kiện thị traòang luôn biến động. - Tăng cường các hoạt động nghiên cứu thị trường, xúc tiến thương mại; Đầu tư, đổi mới công nghệ, nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp và hàng hoá khi xuất khẩu vào thị trường. - Triển khai áp dụng các hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn quốc tế và đáp ứng yêu cầu bảo vệ sức khoẻ và môi trường; Phát triển và mở rộng hệ thống phân phối hàng hoá của doanh nghiệp tại thị trường nước ngoài; Đào tạo nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ quản trị doanh nghiệp... Tất cả đều hướng tới lợi ích cuối cùng là thoả mãn ở mức cao nhất những nhu cầu cơ bản của nền kinh tế, của thị trường, vượt rào cản thành công và trở thành ngành hàng có sức mạnh cạnh tranh. Thứ ba: Vì các sản phẩm thuỷ sản phải đáp ứng tất cả các yêu cầu để qua được các điểm kiểm tra ở cửa khẩu của Hoa Kỳ, các nhà xuất khẩu của Việt Nam cần biết các quy định và tiêu chuẩn của Hoa Kỳ về chất lượng, kích cỡ, đóng gói, nhãn mác, v.v.. Các nhà chế biến của Việt Nam cần chú trọng tăng cường các chương trình phòng chống rủi ro thông qua việc đánh giá sự phù hợp với HACCP trong sản xuất và chế biến. Điều này sẽ giúp các nhà xuất khẩu đảm bảo an toàn thực phẩm một cách hiệu quả hơn trong khâu chế biến để có thể qua bất kỳ một điểm kiểm tra nhập khẩu tại cửa khẩu Hoa Kỳ. Đề cập đến vấn đề nhãn mác, tất cả các thành viên của VASEP cần chú ý đầy đủ tới các quy định của Việt Nam hiện nay: chẳng hạn như Thông tư số 03/2000/TT-BTS của Bộ Thuỷ sản hướng dẫn thực hiện Quyết định 178/1999/QD-TTg quy định về dán nhãn mác đối với các sản phẩm thuỷ sản để đảm bảo rằng tất cả các sản phẩm xuất khẩu của doanh nghiệp Việt Nam đều phải có nhãn mác phù hợp. Nhằm giúp các công ty thuỷ sản của Việt Nam chứng tỏ năng lực cạnh tranh của mình và có được chỗ đứng vững vàng trên thị trường Hoa Kỳ, họ cần cân nhắc các cách để đảm bảo chất lượng cao cho các sản phẩm của họ xuất sang Hoa Kỳ. Để đạt được mục tiêu này, tất cả các công ty cần phải: - Tiến hành các chương trình phòng ngừa nguy cơ lây nhiếm các hoá chất độc hại đối với các sản phẩm thuỷ sản xuất khẩu. - Lấy chứng nhận sản phẩm không có tạp chất, hoác chất và các vi sinh gây hại cho tất cả các sản phẩm xuất khẩu. - Chú trọng không buôn bán hoặc sử dụng các hoá chất độc hại trong chế biến thuỷ hải sản. - Tăng cường đầu tư các thiết bị hiện đại và đảm bảo chất lượng sản phẩm bằng việc áp dụng ISO 9000, ISO 14000 và các tiêu chuẩn HACCP. - Thiết lập mối quan hệ gần gũi giữa các nhà cung cấp thuỷ hải sản và các công ty chế biến và chủ động tiến hành ký kết hợp đồng thu mua với ngư dân vào đầu vụ thu hoạch để đảm bảo nguồn cung cấp nguyên liệu bền vững. Người tiêu dùng Hoa Kỳ vốn khó tính và họ coi trọng các sản phẩm có nguồn gốc rõ ràng, có thương hiệu nổi tiêng. Cho nên muốn hàng thủy sản Việt Nam có khả năng cạnh tranh tại thị trường Hoa Kỳ, các doanh nghiệp cần tăng cường đầu tư cho việc xây dựng thương hiệu hàng thủy sản, coi trọng đăng kí thương hiệu, thiết kế nhãn mác và mẫu mã, bao bì cho sản phẩm, liên kết với người sản xuất nguyên liệu đăng kí xuất xứ hàng hóa, đảm bảo các chứng chỉ cần thiết khi xuất khẩu vào thị trường. Thứ năm: Các doanh nghiệp nên tham dự hội chợ trong nước và ngoài nước, các hội trợ, triển lãm chuyên đề, tổng hợp và ngoại giao, tuỳ yêu cầu và quy mô của từng cuộc mà đề xuất hỗ trợ về tài chính, chuyên môn và nhất là tranh thủ nguồn xúc tiến thương mại từ Bộ thương mại cho công tác nghiên cứu thị trường nước ngoài. Phối hợp với các tổ chức hội nghề nghiệp, các hợp tác xã, công ty, xí nghiệp, cơ sở sản xuất... Tổ chức các đợt xúc tiến mở kênh phân phối trong nước bằng hình thức hợp tác các doanh nghiệp sở tại có năng lực và thị phần sẵn làm nhà phân phối, đại lý, tạo vệ tinh, từng bước hình thành hệ thống tiêu thụ ổn định. Bằng việc áp dụng các biện pháp này, các nhà xuất khẩu và chế biến thủy hải sản có khả năng hạn chế rủi ro thiếu nguyên liệu và đối phó một cách hiệu quả với các hàng rào được dựng lên để ngăn cản dòng sản phẩm thủy sản nhập khẩu từ Việt Nam vào các thị trường, đặc biệt là thị trường khó tính Hoa Kỳ. 3.4 Giải pháp về phía hiệp hội Hiệp hội thủy sản Việt Nam nên đề ra các biện pháp, các chính sách hỗ trợ hiệu quả cho các doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản sang thị trường các nước, đặc biệt là các doanh nghiệp xuất khẩu sang thị trường khó tính như Hoa Kỳ. Thứ nhất: Hiệp hội cần tổ chức hội chợ, triển lãm trong và ngoài nước, triển lãm chuyên đề, triển lãm tổng hợp và ngoại giao…chính các hội chợ, triển lãm này giúp các doanh nghiệp xuất khẩu gắn bó với nhau, tạo điều kiện giúp đỡ lẫn nhau, đặc biệt là các doanh nghiệp cùng kinh doanh trên một khu vực thị trường nước ngoài. Đây cũng là nơi các doanh nghiệp tìm kiếm bạn hàng, kí kết các hợp đồng và cũng là nơi giúp các doanh nghiệp nâng cao uy tín, quảng bá thương hiệu cho doanh nghiệp mình. Thứ hai: Hiệp hội phải là pháp nhân đứng ra bảo vệ quyền lợi của doanh nghiệp khi có tranh chấp bất đồng về lợi ích với các doanh nghiệp nước ngoài. Khi có tranh chấp bất đồng xảy ra hiệp hội cần phải liên kết các doanh nghiệp trong nước lại với nhau để bảo vệ lợi ích cho nhau. Để làm được điều đó hiệp hội cần trang bị đủ trình độ về pháp luật, ngoại ngữ cũng như kinh phí để theo đuổi các vụ kiện, tránh việc e ngại không dám theo kiện dẫn tới thua thiệt, lép vế. Như vậy không những gây thiệt hại về kinh tế cho doanh nghiệp mà còn để lại ấn tượng không tốt về danh tiếng của doanh nghiệp nói riêng và của ngành hàng nói chung. Thứ ba: Hiệp hội là kênh thông tin liên lạc giữa doanh nghiệp và nhà nước, hiệp hội giúp các doanh nghiệp giải quyết các khúc mắc trong việc thực thi các chính sách của nhà nước có liên quan đến doanh nghiệp mình, giúp các doanh nghiệp phản ánh các khó khăn gặp phải khi thực hiện kinh doanh xuất nhập khẩu và yêu cầu sự giúp đỡ từ phía nhà nước. Và hiệp hội là nơi giúp chính phủ nắm bắt thông tin từ các doanh nghiệp để chính phủ kịp thời giúp đỡ các doanh nghiệp khi cần thiết. Thứ tư: Hiệp hội tìm kiếm thông tin về thị trường cũng như bạn hàng, tạo luồng thông tin mở cho các doanh nghiệp. Hiệp hội duy trì hoạt động thường xuyên và liên tục, cập nhập thông tin từ thị trường, doanh nghiệp cũng như các chính sách trong và ngoài nước một cách nhanh chóng chính xác, cung cấp cho doanh nghiệp một cách kịp thời. Hiệp hội tư vấn cho các doanh nghiệp thông tin khi thực hiên đầu tư, tìm kiếm thị trường tiêu thụ…dự báo nhu cầu tiêu dùng về chủng loại cũng như trữ lượng giúp các doanh nghiệp xuất khẩu giảm thiểu tối đa rủi ro khi xuất khẩu sang thị trường nước ngoài. Kết Luận Trong điều kiện hội nhập kinh tế hiện nay, tất cả các nước đang hướng tới một nền kinh tế mở, một nền thương mại tự do. Các cam kết dỡ bỏ các hàng rào thuế quan làm thị trường các nước trở nên thông thoáng. Cũng chính vì thế các doanh nghiệp cũng gặp phải sự cạnh tranh khốc liệt không chỉ trên trường quốc tế, trên thị trường nước ngoài mà còn trên chính thị trường của nước mình. Nếu không đủ sức cạnh tranh doanh nghiệp sẽ rơi vào tình trạng thua lỗ và có thể dẫn tới bị phá sản. Đứng trước tình trạng đó, chính phủ các nước không thể khoanh tay đứng nhìn mà họ phải làm một cái gì đó để bảo vệ doanh nghiệp của mình, bảo vệ nền kinh tế của đất nước mình. Do đó các rào cản kỹ thuật được dựng lên thực hiện nhiệm vụ đó. Hoa Kỳ là một siêu cường về kinh tế nhưng đồng thời cũng là một thị trường hứa hẹn sự thành công với các doanh nghiệp nước ngoài, đặc biệt trong lĩnh vực thủy sản, Hoa Kỳ là một quốc gia nhập khẩu thủy sản lớn thứ ba trên thế giới, cho nên các doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản khó lòng có thể bỏ qua thị trường đầy hấp dẫn này. Thế nên để bảo vệ ngành thủy sản của nước mình, bảo vệ người tiêu dùng trong nước tránh dùng phải các loại hàng hóa nhập khẩu kém chất lượng, để bảo vệ môi trường… Hoa Kỳ phải dựng lên rất nhiều rào cản. Các doanh nghiệp muốn thâm nhập vào thị trường này phải vượt qua được các rào cản ấy. Chương một của bài viết đã nêu khái quát về các rào cản nói chung và rào cản tại thị trường Hoa Kỳ nói riêng, nêu khái quát hiệp định rào cản kỹ thuật trong thương mại cùng mục đích và nguyên tắc của hiệp định giúp các doanh nghiệp có cái nhìn tổng quan nhất về các loại rào cản kỹ thuật trong thương mại và các quy chế, thể chế của Hoa Kỳ đối với ngành thủy sản nhập khẩu. Cũng trong chương một, bài viết giúp các doanh nghiệp có cái nhìn tổng quan về đất nước Hoa Kỳ, với các thể chế, quy định, luật pháp, cũng như các đặc điểm về kinh tế, về con người của đất nước này. Các đặc điểm về thị trường thủy sản Hoa Kỳ cũng là phần không thể thiếu trong chương một. Chương hai, đề tài nghiên cứu này chỉ rõ tình hình xuất khẩu thủy sản của Việt Nam vào thị trường Hoa Kỳ cụ thể là các hàng rào kỹ thuật thương mại của Hoa Kỳ đối với ngành thủy sản nhập khẩu từ Việt Nam và tình hình xuất khẩu thủy sản của các doanh nghiệp Việt Nam vào Hoa Kỳ từ giai đoạn 1994 đến nay. Đề tài cũng đưa ra các đánh giá về tình hình xuất khẩu thủy sản vào Hoa Kỳ của Việt Nam, các thuận lợi cũng như khó khăn gặp phải trong thực tế. Qua đó đề tài xác định được các nguyên nhân và sự cần thiết của việc vượt rào sang thị trường này. Chương ba, đề tài xác định triển vọng xuất khẩu thủy sản Việt Nam sang thị trường Hoa Kỳ và nêu ra một số giải pháp nhằm hỗ trợ, thúc đẩy xuất khẩu thủy sản sang thị trường này bao gồm các giải pháp về phía nhà nước, giải pháp của hiệp hội ngành hàng và các doanh nghiệp tham gia hoạt động xuất khẩu thủy sản. Tất cả các hoạt động đó nhằm mục đích đảm bảo, tạo dựng được chỗ đứng và thị phần bền vững trên thị trường Mỹ. Chính phủ Việt Nam cần có các động thái mạnh mẽ hơn trong công cuộc hội nhập, nhất là khi chúng ta đã là thành viên của WTO, để giúp các doanh nghiệp và người sản xuất các sản phẩm nông sản, thuỷ hải sản bảo vệ có hiệu quả các lợi ích hợp pháp của mình khi nhằm đến các thị trường xuất khẩu ngoài nước. Tài liệu tham khảo PGS.TS Đỗ Đức Bình – ThS Bùi Huy Nhượng, Đặc điểm và một số vấn đề lưu ý khi xâm nhập thị trường EU và Mỹ, Nghiên cứu Châu Âu, số 1, 2004. TS Lê Thị Anh Vân (2003), Đổi mới chính sách nhằm thúc đẩy xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam trong quá trình hội nhập, NXB Lao Động. Trung tâm nghiên cứu phát triển InvestCosnult (2003), Tìm hiểu Hoa Kỳ cho mục đích kinh doanh, NXB Chính trị Quôc gia. TS Nguyễn Hữu Khải (2005), Hàng rào phi thuế quan trong chính sách thương mại quốc tế, NXB Lao động – Xã hội. Nguyễn Thiết Sơn (2004), Việt Nam – Hoa Kỳ: Quan hệ thương mại và đầu tư, NXB Khoa học xã hội. Dự án STAR Việt Nam và Viên quản lý kinh tế trung ương (2003), Đánh giá tác động của Hiệp định thương mại song phương Việt Nam – Hoa Kỳ, NXB Chính trị Quốc gia, HN. Bộ thương mại (2004), Nghiên cứu các rào cản trong thương mại quốc tế và đề xuất các giải pháp đối với Việt Nam, Đề tài: 2003 – 78 – 020, HN. GS.PTS Tô Xuân Dân chủ biên, Giáo trình chính sách kinh tế đối ngoại:Lý thuyết và kinh nghiêm quốc tế, NXB thống kê, HN. Tạp chí Kinh tế và Phát triển, Trường ĐH KTQD Báo điện tử: Thời báo kinh tế. Báo điện tử: Việt Nam net. Báo điện tử: Việt Báo. Quy định nhập khẩu thủy sản Hoa Kỳ. Hàng rào kỹ thuật của Mỹ đối với thủy sản nhập khẩu vào Việt Nam của TS Trần Văn Nam, trường ĐH KTQD Tạp chí thương mại thủy sản. Cẩn nang thâm nhập thị trường Mỹ của tác giả Hồ Sĩ Hưng, Nguyễn Việt Hưng 2003, nhà xuất bản Thống kê. Báo điện tử của trung tâm xúc tiến thương mại Hồ Chí Minh www.itpc.hochiminh.gov.vn MỤC LỤC Danh mục bảng biểu Bảng 1: Xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam sang Mỹ giai đoạn 1995-2000. 23 Bảng 2: Cơ cấu hàng thủy sản xuất khẩu sang thị trường Hoa Kỳ giai đoạn 1995 – 2000. 24 Bảng 3: Cơ cấu hàng thủy sản Việt Nam xuất khẩu sang Hoa Kỳ giai đoạn 2000 – 2004. 25 Bảng 4: Xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam giai đoạn 2001-2003 26 Bảng 5: Các nước xuất khẩu thủy sản sang Hoa Kỳ giai đoạn 2000 – 2003 28 Bảng 6: Xuất khẩu thủy sản chính ngạch từ tháng 1 đến tháng 12 năm 2005 30 Bảng 7: Xuất khẩu thủy sản chính ngạch từ tháng 1 đến tháng 12 năm 2006 31 Bảng 8: Kim ngạch xuất khâu của Việt Nam sang Hoa Kỳ. 32

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc22156.doc
Tài liệu liên quan