TÓM TẮT ĐỀ TÀI
1. Lý do chọn đề tài
Với vai trò khởi động quá trình phát triển công nghiệp tại một số địa điểm chọn lọc,
tạo điều kiện phát triển công nghiệp rộng rãi trên phạm vi cả nước, góp phần quan trọng thực
hiện các mục tiêu phát triển kinh tế xã hội của Đảng và Nhà nước, càng ngày các khu công
nghiệp, khu chế xuất (KCN, KCX) càng khẳng định vai trò to lớn ấy của mình trong quá trình
hội nhập. Song bên cạnh những đóng góp to lớn cho nền kinh tế thì các KCN, KCX đang là
mối lo lắng của cộng đồng khi càng ngày mức độ ô nhiễm môi trường do các KCN, KCX gây
ra càng gia tăng. Nhất là tại TP HCM, việc các KCN, KCX gây ô nhiễm môi trường đã trở
thành mối đe dọa cho công cuộc “phát triển bền vững” của chính quyền và nhân dân thành
phố. Bởi vậy, đề tài nghiên cứu nhằm cung cấp một cái nhìn tổng thể và chi tiết thực trạng ô
nhiễm tại các KCN, KCX trên địa bàn TPHCM, làm rõ nguyên nhân phát sinh đồng thời đưa
ra một số giải pháp, kiến nghị để khắc phục tình trạng này.
2. Mục tiêu nghiên cứu
2.1. Mục tiêu lý luận:
Làm rõ vấn đề môi trường trong quá trình toàn cầu hóa (các vấn đề môi trường
và gìn giữ môi trường trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế)
Nghiên cứu kinh nghiệm của các nước trong vấn đề kiểm soát và ngăn chặn
hiện tượng ô nhiễm môi trường có liên quan đến phát triển kinh tế và rút ra bài học cho
việc ngăn chặn ô nhiễm tại các KCN TP.HCM
2.2. Mục tiêu thực tiễn:
Đánh giá thực trạng ô nhiễm môi trường nước, khí và chất thải rắn liên quan
đến sự phát triển công nghiệp hóa và phát triển công nghiệp ở các KCN tại TPHCM
Nghiên cứu các nhân tố tác động đến tình hình ô nhiễm tại các KCN TPHCM
Đề xuất hệ thống các giải pháp kinh tế – xã hội – pháp luật để giải quyết tình
trạng ô nhiễm ở các KCN TPHCM
3. Cách tiếp cận, phương pháp nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu
3.1. Phương pháp nghiên cứu:
Phương pháp khảo sát thực tế thông qua phát phiếu điều tra
Phương pháp nghiên cứu tại bàn.
Phương pháp nghiên cứu điển hình (Case study)
3.2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
3.2.1. Đối tượng nghiên cứu: Nghiên cứu vấn đề ô nhiễm môi trường có liên quan đến
phát triển kinh tế ở các khu công nghiệp tại TP HCM
3.2.2. Phạm vi nghiên cứu: Tại các khu công nghiệp điển hình TP HCM
4. Nội dung nghiên cứu: bao gồm có 3 chương và các phụ lục kèm theo
Chương 1: Vấn đề ô nhiễm môi trường liên quan đến phát triển kinh tế trong giai đoạn
hội nhập kinh tế quốc tế
Chương 2: Thực trạng ô nhiễm môi trường ở các khu công nghiệp, khu chế xuất
TP.HCM
Chương 3: Những giải pháp ngăn ngừa và khắc phụcc hiện tượng ô nhiễm môi trường
tại các khu công nghiệp tại TP.HCM
5. Đóng góp của đề tài:
Đề tài đưa ra nghiên cứu vấn đề khá “nóng bỏng” hiện nay, đó là vấn nạn ô nhiễm môi
trường tại các KCN, KCX TP.HCM mà trong các đề tài báo cáo nghiên cứu trước đây (chẳng
hạn: “Báo cáo vấn đề BVMT trong phát triển các KCN, KCX ở Việt Nam”, GS.TSKH Ngô
Thế Thi, trường ĐH Xây dựng; Tiểu luận về “Thực trạng các KCN ở Việt Nam và những giải
pháp”, Văn Thị Thanh Tuyền, Trương Thị Như Hiếu, Trường ĐH Kinh Tế TP.HCM; ) thì
những vấn đề môi trường trong các KCN được đề cập rất ít và dàn trải, hoặc vấn đề được báo
cáo trên góc độ quá vĩ mô. Chưa có một đề tài nào nghiên cứu chi tiết về thực trạng ô nhiễm
KCN trên địa bàn TPHCM và các giải pháp kinh tế khắc phục. Vì vậy tính cấp thiết và thực
tiễn của đề tài là ở chỗ phản ánh kịp thời, cung cấp được cách nhìn khá chi tiết về tình hình ô
nhiễm tại các KCN TPHCM và đồng thời đưa ra các giải pháp, kiến nghị phù hợp.
6. Hướng phát triển của đề tài:
Đề tài mở ra hướng nghiên cứu sâu hơn nguồn gốc phát sinh ô nhiễm tại các doanh
nghiệp trong các KCN, KCX trên toàn bộ lưu vực sông Sài Gòn-Đồng Nai nhằm đưa ra các
giải pháp kinh tế tích hợp, mang tính ứng dụng chung cho toàn khu vực
48 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 2176 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng ô nhiễm môi trường ở các khu công nghiệp, khu chế xuất thành phố Hồ Chí MInh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
lý môi trường – HEPZA)
Ngoài những văn bản chính kể trên, theo thống kê của Bộ Tư Pháp, đến nay Việt Nam
đã ban hành khoảng 300 văn bản pháp luật BVMT khác, tuy nhiên, hệ thống văn bản này vẫn
còn chưa chặt chẽ thậm chí còn thiếu nhiều quy định quan trọng, cụ thể. Ví dụ như: qui định
về thuế BVMT; kiểm toán môi trường; quy định chi tiết chế độ bảo hiểm trách nhiệm bồi
thường thiệt hại môi trường; thiếu chính sách cụ thể khuyến khích ngành công nghiệp môi
trường, xã hội hóa BVMT ... và chưa có quy định đặc thù về nguyên tắc bồi thường trong lĩnh
vực môi trường. Ngoài ra đối với các hoạt động thu gom lưu chứa CTNH trong các KCN còn
bị hạn chế do thiếu các văn bản hướng dẫn cụ thể của Nhà nước, như là: “Quy chế quản lý
CTNH” mặc dù đã được ban hành từ năm 1999, nhưng chưa có văn bản hướng dẫn thực hiện
26
cụ thể; chưa có các quy định quy phạm kỹ thuật đối với phương tiện thu gom và lưu giữ tạm
thời CTCNNH; chưa có quy định về thủ tục xin phép vận chuyển hoặc quá cảnh CTNH…
Một vấn đề khác nữa là tính ổn định văn bản pháp luật BVMT của Việt Nam không
cao. Có văn bản mới ban hành chưa lâu đã phải sửa đổi, bổ sung như Nghị định 80/2006/NĐ-
CP ban hành năm 2006, qua 1 năm áp dụng đã phải sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định
21/2008/NĐ-CP. Các văn bản luật và các quy phạm pháp luật hiện nay có thể nói vừa thiếu
vừa không đồng bộ. Ngoài ra, ngay Luật BVMT cũng còn nhiều bất cập. Theo luật này, chỉ có
1 tội danh không phải xử lý hành chính mà được khởi tố ngay, nhưng 9 tội còn lại để có thể
khởi tố cần phải có 2 điều kiện bắt buộc là đã xử lý hành chính cơ sở vi phạm nhưng tái phạm
hoặc cơ sở để xảy ra hậu quả nghiêm trọng trong khi thế nào là để xảy ra hậu quả nghiêm
trọng lại hết sức mơ hồ. Vậy phải chăng Pháp luật đang để lọt lưới nhiều tội danh? Thực tế
nhiều vụ việc gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng, nhưng hậu quả ngay tức thì không thể
nhìn thấy được mà kéo dài dai dẳng hàng chục năm sau mới bùng phát thành dịch bệnh trong
khi chế tài xử phạt còn quá nhẹ, chỉ là giải pháp tạm thời có tính chất cảnh cáo. Mức phạt cao
nhất là 70 triệu đồng trong khi phải đầu tư thiết bị xử lý môi trường hàng tỷ đồng, rõ ràng với
mức phạt này các doanh nghiệp sẵn sàng chịu phạt.
Theo ông Nghiêm Vũ Khải - phó Chủ nhiệm ủy ban KH, CN&MT, việc chưa có vụ vi
phạm về môi trường nào được xử lý nghiêm, phần lớn là còn vướng về pháp luật, trong đó
khâu yếu nhất trong xử lý vi phạm về môi trường là năng lực của cơ quan quản lý Nhà nước
trong lĩnh vực này còn yếu kém. Ở đây, rõ ràng các nhân tố về pháp lý và quản lý Nhà nước về
môi trường đóng một vai trò rất to lớn trong việc kiểm soát ô nhiễm nói chung và ô nhiễm
công nghiệp nói riêng, là công cụ cần thiết và hữu hiệu nhất góp phần quan trọng trong việc
điều chỉnh và xử lý những hành vi của con người trong mối quan hệ với môi trường.
2.3.2. Các nhân tố có liên quan đến quy hoạch phát triển kinh tế.
Quy hoạch phát triển kinh tế hay rõ hơn là quy hoạch phát triển các KCN, KCX là
nhân tố tiền đề cho hoạt động về sau của các KCN, KCX. Quy hoạch gồm có xác định vị trí
các khu, cụm công nghiệp; xác định địa hình, hướng gió, nguồn nước; mật độ phân bố,… có
ảnh hưởng lớn đến môi trường hoạt động của doanh nghiệp KCN, KCX lẫn môi trường sống
của dân cư khu vực lân cận. Trong quy hoạch các KCN, KCX trước đây chưa thực sự gắn phát
27
triển KCN, KCX với công tác BVMT , tức là chưa phát triển hoạt động của KCN, KCX song
hành với sự phát triển của hạ tầng XLNT, công nghệ xử lý thải tiên tiến... mà thực tế trong
thời gian qua trên địa bàn thành phố diễn ra thường xuyên tình trạng “ hoạt động trước, báo
cáo sau”, xây dựng trái với quy hoạch và không đặt sự phát triển của các KCN, KCX trong
mối tương quan với phát triển đô thị bền vững.
Như ở phần 2.1 đã đề cập, chính những đặc điểm phát triển của các KCN, KCX có liên
quan chặt chẽ đến khâu quy hoạch là nguyên nhân chính gây ra ô nhiễm công nghiệp nặng nề.
Chỉ cần sơ suất dù là nhỏ trong quy hoạch cũng có thể sẽ dẫn tới những thiệt hại đáng kể sau
này. Khó khăn hiện tại trên địa bàn TPHCM là công tác quy hoạch tổng thể chưa đảm bảo tính
“đi trước” do được xây dựng khá muộn, khi đã hình thành một loạt KCN, KCX. Nói cách khác,
quy hoạch trên thực tế là chạy theo để khắc phục việc đã rồi, thiếu sự đồng bộ giữa qui hoạch
tổng thể và qui hoạch chi tiết các hạng mục hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội phục vụ cho các
KCN, KCX như nhà ở cho công nhân, điện, nước, đường xá, hệ thống thoát nước, hệ thống xử
lý nước thải….Nhân tố quy hoạch được xem là khởi đầu cho quá trình hoạt động của DN
KCN, KCX và cho cả sự phát triển sau này. Quy hoạch còn biểu hiện trình độ quản lý và khả
năng thu hút nhà đầu tư vào KCN, KCX. Do đó nhân tố này cần phải được đầu tư quan tâm
đúng mức hơn nữa.
2.3.3. Các nhân tố có liên quan đến quản lý hành chính, kiểm tra, kiểm
soát
Các nhân tố liên quan đến quản lý hành chính về vấn đề môi trường nói chung thường
dựa vào các biện pháp chỉ huy và kiểm soát từ trên xuống, hoặc kiểm soát trực tiếp bằng luật
lệ do cảnh sát môi trường trực tiếp tiến hành. Tác động tích cực vào nhân tố này cho phép các
cơ quan QLMT kiểm soát hành vi của các cá nhân hay tập thể trong khu vực mình quản lý,
giám sát hậu quả của các hành vi đó đối với môi trường vì nhân tố quản lý hành chính, kiểm
tra, kiểm soát luôn có tính cưỡng chế, bắt buộc đối với việc tuân thủ các quy định của pháp
luật về BVMT. Tuy nhiên nhân tố này thường chỉ áp dụng đối với các hành vi đang ở mức độ
nhẹ, nghĩa là chưa tới mức phải đưa ra truy tố trước pháp luật về các tội danh quy định như
trong Luật BVMT. Cho nên ở một khía cạnh nào đó, vai trò của quản lý hành chính, kiểm tra,
kiểm soát đảm bảo vừa rất kịp thời trong việc thực thi áp dụng, vừa phù hợp với tầm quản lý
28
và quyền hạn của cấp cơ sở, cơ quan quản lý môi trường. Hiện nay, công tác thanh tra, kiểm
tra, giám sát hoạt động của các KCN, KCX vẫn còn hạn chế xét về nhiều khía cạnh (lĩnh vực
hoạt động, phạm vi hoạt động, chất lượng kết quả thanh tra, chế tài thanh tra, kiểm tra…). Sự
phối hợp giữa các cơ quan chức năng trong công tác thanh tra còn chưa thật chặt chẽ, chưa có
sự phân công, phân nhiệm rõ ràng. Đội ngũ cán bộ thanh tra, kiểm tra còn mỏng, phương tiện
làm việc còn hạn chế. Các chế tài xử lý vi phạm trong hoạt động của KCN về các lĩnh vực kế
hoạch, đầu tư, môi trường… còn thiếu và chưa đảm bảo tính cương quyết. Người thực thi
nhiệm vụ chưa dám mạnh tay với DN (như cúp điện, cúp nước, đình chỉ hoạt động…) vì ngại
ảnh hưởng đến công ăn việc làm của người lao động…Việc thanh tra, kiểm tra còn chồng chéo,
cùng một nội dung chấp hành Luật BVMT nhưng có khi cùng lúc hoặc liên tiếp có các đoàn
đến kiểm tra. Có hiện tượng như vậy là do hiện nay có đến 6 cơ quan có trách nhiệm và thẩm
quyền được kiểm tra giám sát doanh nghiệp thực hiện Luật BVMT. Đó là: Thanh tra Bộ TN-
MT, Thanh tra Sở TN-MT, Phòng TN-MT các quận huyện, Thanh tra môi trường của Ban
quản lý KCN, KCX, Cục Cảnh sát môi trường thuộc Bộ Công an, Phòng cảnh sát môi trường
thuộc công an tỉnh, thành. Nếu nhân tố pháp lý và QLNN về môi trường được xem là đặt
khuôn khổ cho mọi hoạt động hay nhận thức của DN về vấn đề môi trường, còn nhân tố quy
hoạch là nền móng, là khởi đầu cho HĐKDSX của DN thì nhân tố quản lý hành chính, kiểm
tra, kiểm soát được ví như chất xúc tác trực tiếp thúc đẩy hành vi BVMT, khiến cho DN có
thái độ, nghĩa vụ và trách nhiệm đối với công tác xử lý chất thải tại cơ sở của mình.
2.3.4. Các nhân tố có liên quan đến nội tại doanh nghiệp, cơ sở kinh
doanh sản xuất.
Các nhân tố có liên quan đến nội tại DN, cơ sở KDSX bao gồm: quy mô hoạt động,
ngành nghề kinh doanh, cơ sở, cấu trúc hạ tầng, trình độ quản lý tại DN, cơ sở SX... Chính
những nhân tố này quy định mức độ vận hành và thải loại các loại chất thải ra môi trường
ngoài. Tại các KCN, KCX TP.HCM hơn 80% DN hoạt động là các DN vừa và nhỏ, quy mô
vốn không nhiều trong khi việc xây dựng hệ thống XLCT lại tốn kém nhiều chi phí (chiếm 15
- 20 % số vốn của DN, quá lớn so với chi phí kinh doanh), lắp đặt lại khó khăn thì việc vận
hành lại càng khó khăn hơn. Có nhiều DN đã có hệ thống XLCT nhưng không vận hành hoặc
vận hành không đạt tiêu chuẩn, nhiều DN không xây dựng hệ thống XLCT mà cố ý thải trực
29
tiếp ra sông, kênh, rạch… Đó chính là nguyên nhân chủ quan gây ô nhiễm cho các con sông
và ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống của người dân xung quanh KCN, KCX. Kiểm soát,
tác động vào chính các nhân tố nội tại của DN là cách chữa bệnh trực tiếp nhất để làm giảm
ngay tức khắc việc xả thải gây ô nhiễm môi trường KCN, KCX và các khu vực lân cận.
2.3.5. Các nhân tố có liên quan đến con người và đào tạo nguồn nhân lực
(NNL).
Nếu con người được được định nghĩa là tổng hòa các mối quan hệ, là chủ thể tác động
đến mọi sự vật thì trong vấn đề môi trường, chính con người là chủ thể phải chịu nhiều trách
nhiệm nhất cho những hành vi gây ô nhiễm môi trường sinh thái. Con người càng cố gắng
phát triển kinh tế bao nhiêu thì dường như chất lượng môi trường lại là con số nghịch đảo bấy
nhiêu.
NNL tác động đến yếu tố môi trường tại các KCN, KCX bao gồm 2 thành phần chính
là đội ngũ công nhân lao động và tầng lớp quản lý (bao gồm: chủ DN và cán bộ QLMT tại
KCN, KCX). Xét về đội ngũ công nhân lao động tại các KCN, KCX TPHCM, đa số đều ở độ
tuổi thanh niên, có sức khỏe, khả năng làm việc tốt, song trình độ phần lớn chỉ ở mức phổ
thông, chưa qua đào tạo nghề chiếm đến 70%. Chính vì trình độ thấp nên đa số công nhân có ý
thức tự giác chưa cao, hành xử tùy tiện, thêm vào đó là mức độ hiểu biết pháp luật tương đối
thấp. Trong năm 2008, năm thực hiện nếp sống văn minh đô thị nhưng nhiều công nhân vẫn
vứt rác vô tư ngoài đường, trước cổng KCN, KCX gây ô nhiễm và mất mỹ quan KCN, KCX.
Trong quá trình làm việc, chính vì không có ý thức về môi trường, về chất độc hại mà DN
mình đang phục vụ đang thải loại ra môi trường nên không thể và nếu có cũng không dám
phản ánh kịp thời đến BQL của KCN, KCX. Xét về tầng lớp quản lý, phần lớn mặc dù được
đào tạo một cách chính quy và là tầng lớp quản lý lãnh đạo nhưng ý thức về BVMT của chủ
DN còn yếu kém, thậm chí có thái độ làm ngơ, không đầu tư xây dựng hệ thống xả thải đạt
tiêu chuẩn mà cố ý xả thẳng ra bên ngoài. Trong khi lực lượng QLMT tại các KCN, KCX còn
quá mỏng, chưa xâu sát toàn bộ hoạt động xử lý thải của DN, cộng thêm trình độ chuyên môn
chưa đáp ứng tốt công tác rà soát, kiểm tra,…Theo Th.S Lê Thị Thu Hương - GV Khoa Môi
trường - Trường ĐH Lạc Hồng thì: “Phát triển kinh tế đi đôi với vấn đề bảo vệ môi trường bền
vững và để tham gia thực hiện các giải pháp công nghệ, tham gia QLMT có hiệu quả, một đội
30
ngũ cán bộ, kỹ sư, kỹ thuật viên có kiến thức chuyên môn về lĩnh vực môi trường phải được
đào tạo và cung cấp cho các KCN”. Hiện tại nguồn nhân lực phục vụ trong lĩnh vực công nghệ
quản lý môi trường hướng tới phục vụ cho các KCN, KCX TP.HCM đang rất thiếu hụt. Theo
thống kê của Bộ Tài nguyên - Môi trường hiện nay nguồn nhân lực cho ngành QLMT nói
chung chỉ chiếm 20-30% nhu cầu. Đây là một tỉ lệ đáng phải xem xét vì nhân tố con người và
đào tạo NNL có quan hệ mật thiết chặt chẽ với việc tổ chức quản lý hành chính, kiểm tra, kiểm
soát ô nhiễm công nghiệp, nó được xem như một yếu tố đầu vào để bổ sung và tăng cường
hiệu quả cho nhân tố kia.
2.3.6. Các nhân tố khác.
Ngoài những nhân tố chính kể trên, còn có một số nhân tố khác như khó khăn trong
việc đền bù, giải phóng mặt bằng để xây lắp hệ thống xử lý thải của KCN, KCX, Bộ KH-CN
& MT vẫn chưa đưa ra mô hình XLNT nào phù hợp với DN, công tác quản lý, xử lý ô nhiễm
trên lưu vực sông Sài Gòn-Đồng Nai còn gặp quá nhiều khó khăn khiến công tác quản lý và
giải quyết ô nhiễm công nghiệp trên địa bàn thành phố cũng bị vướng mắc theo, quy trình thu
hút đầu tư còn nhiều bất cập mà điển hình là quy trình “đầu tư ngược”. Ngược là ở chỗ, thành
phố cho phép mỗi KCN chỉ khi nào số DN đầu tư vào lấp đầy 50% diện tích đất thì chủ đầu tư
KCN mới phải xây dựng hệ thống XLCT. Điều này làm ảnh hưởng rất lớn đến quá trình xử
thải ngay giai đoạn ban đầu và trong các giai đoạn tiếp theo do có sự không đồng bộ và gián
đoạn do cần có thời gian thăm dò và quy hoạch xây dựng cho hệ thống xử lý thải chung của cả
KCN. Ngoài ra trên phạm vi toàn thành phố thì cho đến nay vẫn chưa có bãi chôn lấp hoặc nhà
máy xử lý CTNH, hệ quả là CTNH trong sản xuất công nghiệp có thải mà không có thu gom,
xử lý, gây ô nhiễm nặng nề.
31
Thực tế khảo sát tại các khu công nghiệp TP.HCM về vấn đề ô nhiễm môi trường.
Nhóm nghiên cứu tiến hành phỏng vấn tay đôi (PVTĐ) với một số cán bộ QLMT tại
BQL KCN, KCX TP.HCM, và tại hai khu KCN Tân Tạo và KCX Tân Thuận về thực trạng
QLMT tại các KCN, KCX TPHCM hiện nay và hướng giải pháp khắc phục. Đồng thời nhóm
cũng tiến hành phát phiếu khảo sát hộ dân cư xung quanh KCN Tân Tạo để tìm hiểu tác động
ô nhiễm đến đời sống.
Kết quả thực tế cho thấy:
Đối với phương pháp PVTĐ:
Qua một số câu hỏi phỏng vấn (xem chi tiết Phụ lục 18), được biết đến nay HEPZA đã
chính thức có bộ phận thanh tra riêng trực tiếp kiểm soát ô nhiễm tại các DN KCN, KCX định
kỳ 2 lần/năm, ngoài ra có phối hợp các đợt kiểm tra đột xuất với Cảnh sát môi trường hay bộ
phận thanh tra của Sở TN&MT. Theo Anh Hồ Trung Hiếu - Phó phòng QLMT tại HEPZA,
hàng năm BQL có xếp hạng doanh nghiệp xanh để vừa kiểm tra vừa khuyến khích các doanh
nghiệp thực hiện tốt công tác QLMT hơn nữa. Theo kiến nghị chung của các cán bộ làm công
tác QLMT thì bên cạnh việc tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát, kiến nghị cần tăng mức
chế tài xử phạt đối với các hành vi gây ô nhiễm, từ mức phạt cao nhất hiện nay là 70 triệu
đồng lên mức gấp 10 lần.
Đối với phương pháp khảo sát:
Khảo sát thực tế cho thấy loại ô nhiễm gây tác động nhiều nhất đến đời sống khu dân
cư xung quanh KCN Tân Tạo chủ yếu là các khí thải từ các nhà máy và mùi hôi bốc lên từ các
kênh dẫn thải của KCN khi trời nắng gắt hoặc gió lộng. Đồng thời qua cuộc khảo sát nhận
thức về ô nhiễm và tác động của ô nhiễm cũng như ý thức BVMT của người dân khu vực rất
hạn chế.
(Xem chi tiết đợt khảo sát thực tế, báo cáo đánh giá tác động ô nhiễm, danh sách doanh
nghiệp vi phạm ô nhiễm và bị phạt hành chính tại Phụ lục 19-21)
32
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2
Không thể phủ định vai trò to lớn của các KCN, KCX trong quá trình CNH-HĐH của
nước ta nhưng chính những đặc điểm phát triển chung hiện nay của các KCN, KCX đã mang
lại những hệ lụy nghiêm trọng về môi trường trong và ngoài KCN, KCX, ảnh hưởng trầm
trọng đến sinh hoạt và sức khỏe của người dân mà đặc biệt với 2 loại ô nhiễm chính là ô nhiễm
không khí và nguồn nước. Qua nghiên cứu các KCN, KCX trên địa bàn, có 2 đặc điểm lớn bao
trùm, là tác nhân, nguyên nhân gây ô nhiễm công nghiệp tại thành phố đó chính là các đặc
điểm về quy hoạch ( vị trí; phân bố KCN, KCX; phân bố các DN trong KCN, KCX,…) và đặc
điểm từ chính nội tại DN ( quy mô, cấu trúc, cơ sở hạ tầng, ngành nghề kinh doanh và ý thức
về môi trường của chủ đầu tư,…). Thực trạng ô nhiễm tại các KCN, KCX đã trở thành vấn
nạn lớn khi càng ngày có càng nhiều các DN KCN vi phạm hơn ( nổi cộm lên gần đây là tình
trạng vi phạm gây ô nhiễm của các DN KCN Lê Minh Xuân & Tân Tạo) và cách thức vi phạm
càng tinh vi hơn. Thực trạng này có các nhân tố tác động khách quan và chủ quan đến từ nhiều
phía mà theo nhóm nghiên cứu thuộc 5 nhóm chính là : về hệ thống pháp lý, thể chế; về quy
hoạch phát triển kinh tế; về quản lý hành chính, kiểm tra, kiểm soát; nhân tố về nội tại DN; và
về con người và đào tạo NNL. Ngoài ra còn một số nhân tố tác động khác (đền bù, giải tỏa,
quản lý ô nhiễm trên lưu vực rộng, về quy trình đầu tư,…) cũng có ảnh hưởng không kém.
Nhân tố nào cũng đóng một vai trò riêng mà nếu xử lý tác động không khéo léo và đồng bộ thì
sẽ ảnh hưởng dây chuyền đến việc thúc đẩy hiệu quả tác động của các nhân tố kia. Nhóm
nghiên cứu xin đưa ra sơ đồ tác động tương hỗ giữa các nhân tố như sau:
Hệ thống pháp lý & QLNN đối với ô nhiễm
Quy hoạch phát
triển kinh tế
Quản lý hành
chính, kiểm tra,
kiểm soát,…
Nội tại doanh nghiệp, cơ sở kinh doanh
Con người &
đào tạo nguồn
nhân lực
Ô nhiễm
Khuôn khổ
Nền móng
Giám sát, thúc đẩy
Tác nhân trực tiếp
Hình 2.3 – Sơ đồ tác động tương hỗ giữa các nhân tố có ảnh hưởng đến ô nhiễm môi trường
33
CHƯƠNG 3
NHỮNG GIẢI PHÁP NGĂN NGỪA VÀ KHẮC PHỤC HIỆN TƯỢNG Ô NHIỄM
MÔI TRƯỜNG TẠI CÁC KHU CÔNG NGHIỆP TẠI TP.HỒ CHÍ MINH
3.1. Các quan điểm đề xuất giải pháp:
3.1.1. Duy trì thế kiềng 3 chân trong phát triển bền vững: phát triển kinh tế - xã
hội và môi trường
Thuật ngữ “Phát triển bền vững” xuất hiện lần đầu tiên vào năm 1980 trong ấn phẩm
“Chiến lược bảo tồn thế giới”
do Hiệp hội bảo tồn thiên nhiên
và tài nguyên thiên nhiên quốc tế
công bố. Tuy nhiên cho tới năm
1987 thì thuật ngữ này mới được
phổ biến rộng rãi thông qua bản
báo cáo có tựa đề “Tương lai
của chúng ta” do Ủy ban môi
trường và Phát triển thế giới đưa
ra. Trong báo cáo này đã nêu rõ
“Phát triển bền vững là sự phát
triển có thể đáp ứng được những nhu cầu hiện tại mà không ảnh hưởng, tổn hại đến khả năng
đáp ứng nhu cầu của các thế hệ tương lai”. Phát triển bền vững như một chiếc kiềng được giữ
vững bởi 3 “chân” : kinh tế - xã hội – môi trường. Như vậy, sự phát triển bền vững có thể nói
theo cách khác: là sự phát triển đảm bảo tính hiệu quả về kinh tế, tính công bằng xã hội và môi
trường được bảo vệ, gìn giữ...Thế nhưng thực tế cho thấy, do tốc độ phát triển khá nhanh,
nhiều nước đã và đang khập khiễng trong cái thế kiềng này. Ý tưởng về tính bền vững hiện chỉ
nhằm mục đích kết nối con người trong các lĩnh vực hoà bình và dân chủ, nâng cao đời sống,
cải thiện môi trường sinh thái, và quyền con người. Như vậy, câu hỏi đặt ra là có thể đạt được
tính bền vững như thế nào? Các giải pháp đưa ra trong bài nghiên cứu này dựa trên sự hoà giải
các mục đích phát triển xã hội và các sức ép môi trường trong khung thời gian dài nhằm duy
trì thế đứng: “kinh tế - xã hội – môi trường”.
34
3.1.2. Không hy sinh môi trường để đổi lấy sự phát triển
Phát triển kinh tế mù quáng sẽ huỷ hoại môi trường. Song, phát triển một nền kinh tế
với phương châm công nghiệp hoá, hiện đại hoá một cách có ý thức, sáng suốt, có sự kiểm
soát chặt chẽ của Nhà nước, của toàn thể xã hội thì việc BVMT sẽ được đảm bảo. Đã có rất
nhiều bài học cho các nước vì quá coi trọng tăng trưởng kinh tế nhanh, tạo được sự bứt phá
lớn về kinh tế, mong vượt lên các nước khác về kinh tế, đã phải trả giá đắt về việc làm cạn kiệt
và suy thoái môi trường. Trung Quốc – quốc gia có sự phát triển thần kỳ về nền kinh tế đã trở
thành gánh nặng cho môi trường chính là một ví dụ điển hình.
Cũng giống như một số nước đang phát triển khác, tình trạng ô nhiễm môi trường do
tăng trưởng kinh tế gây ra ở Việt Nam là điều không tránh khỏi, đang là một trong những vấn
đề bức xúc đòi hỏi phải giải quyết hiện nay. Bộ trưởng Bộ TN&MT Phạm Khôi Nguyên đã
nhấn mạnh: “20 năm tăng trưởng kinh tế liên tục, nhưng cứ tăng 1 GDP mà không có chiến
lược môi trường thì sẽ mất đi 3GDP về môi trường”. Vì vậy, chúng ta không thể chạy theo các
chỉ số tăng trưởng kinh tế mà bất chấp tình trạng môi trường sống đang bị hủy diệt quá nhanh.
Đứng trên những sự phân tích này, quan điểm thứ hai của việc đề xuất giải pháp chính
là “ không hy sinh môi trường để đổi lấy sự phát triển”. Bởi vì sự đánh đổi môi trường sống
của chính mình để đổi lấy sự tăng trưởng kinh tế thì đó là một sự đánh đổi vô nghĩa.
3.1.3. Quan điểm phát huy dân chủ trong kiểm soát, kiểm tra ô nhiễm môi
trường
Một trong những nguyên nhân khiến cho DN xem nhẹ việc quản lý BVMT tại các
KCN, KCX là do công tác kiểm tra, kiểm soát thiếu tính minh bạch, những cuộc khảo sát kiểm
tra chỉ mang tính chất hành chính, các DN đã móc nối với nhau để che đậy cho hành vi gây ô
nhiễm của mình. Thực tế ở các DN không chỉ thiếu hạ tầng XLNT, CTNH, công tác kiểm tra
xử lý vi phạm ô nhiễm môi trường gần như đã bị buông lỏng trong một thời gian dài. Ngay cả
việc kiểm soát hoạt động xử lý rác thải nguy hại của nội bộ DN cũng không được thực hiện
chặt chẽ nên các nhà máy cũng vi phạm hàng loạt qui định về lưu giữ và xử lý CTNH. Vì vậy,
các giải pháp đề ra trong bài nghiên cứu này còn dựa trên quan điểm phát huy tính dân chủ
trong kiểm tra kiểm soát nhằm minh bạch hóa, và hiệu quả hóa công tác QLMT tại các KCN,
KCX nói chung.
35
3.2. Cơ sở đề xuất giải pháp
3.2.1. Cơ sở mang tính yếu tố quốc tế
“Làm thế nào để giải quyết vấn đề môi trường đi đôi với thúc đẩy tăng trưởng kinh tế
và đảm bảo tiến bộ xã hội nhằm thực hiện mục tiêu phát triển bền vững” vẫn là một trong
những thách thức của thời đại mới. Nhận thức được tầm quan trọng của việc phát triển kinh tế
nhưng không gây tổn hại đến môi trường, chính phủ các nước trên thế giới đã nhiều lần quy tụ,
đề xuất các nguyên tắc, kế hoạch chiến lược nhằm giải quyết những mối đe dọa cho môi
trường sống. Đây được coi là vấn đề toàn cầu, nhất thiết phải có sự hợp tác giữa các nước phát
triển cũng như đang phát triển, là vấn đề ưu tiên đối với tất cả các quốc gia, các tổ chức quốc
tế, các thành phố cũng như các công dân.
3.2.2. Cơ sở thực tiễn
Dựa vào những nghiên cứu được đúc kết ở chương 2 và kết quả nghiệm thu thực tế
khảo sát KCN Tân Tạo, TP.HCM, các giải pháp của nhóm nghiên cứu đề xuất nhằm giải quyết
những tồn đọng dựa trên những đặc điểm và tình hình hiện tại của các KCN, KCX trên địa bàn
TP.HCM. Lấy cơ sở từ việc nghiên cứu các nhân tố tác động đến vấn đề ô nhiễm tại các KCN,
KCX trên địa bàn, giải pháp đề xuất nhấn mạnh đến tính thực tiễn áp dụng và tính đồng bộ có
trọng tâm trong việc thực thi các biện pháp.
3.3. Các giải pháp đề xuất
3.3.1. Nhóm giải pháp hoàn thiện luật và thể chế liên quan đến quản lý môi
trường trong phát triển các KCN, KCX của TP. HCM
Càng ngày tội phạm vi phạm pháp luật về BVMT đang có diễn biến phức tạp, nhất là
trong hoạt động sản xuất kinh doanh, khai thác tài nguyên, KCN, khu đô thị. Do vậy, trong bối
cảnh môi trường nước ta đang xuống cấp nghiêm trọng, hệ thống văn bản Luật và các thể chế
cần phải được xem xét, bổ sung và sửa đổi theo một số hướng như sau:
Điều chỉnh và cơ cấu lại một số quy định trong văn bản Luật Môi trường, thêm các quy
định về thuế BVMT; kiểm toán môi trường; quy định chi tiết chế độ bảo hiểm trách
nhiệm bồi thường thiệt hại môi trường; chính sách cụ thể khuyến khích ngành công
nghiệp môi trường, xã hội hóa BVMT...
36
Cần làm rõ các khái niệm về hành vi gây ô nhiễm môi trường cũng như mức độ ảnh
hưởng và hậu quả để lại, làm rõ thế nào là gây tác hại nghiêm trọng và lượng hóa được
các mức thiệt hại đó.
Tăng cường mức chế tài xử phạt, cần cứng rắn và mạnh tay trong vấn đề xử phạt hành
chính cũng như xử phạt hình sự đối với các tội danh vi phạm luật BVMT, có các hành
động gây ô nhiễm và tái vi phạm gây ô nhiễm.
Nâng cao tính ổn định của các văn bản Luật bằng cách đầu tư sâu hơn nữa cho công
tác xây dựng các văn bản này trước khi văn bản có hiệu lực.
Ngoài ra, việc nghiên cứu đề xuất các chương trình nghị sự, tìm hiểu và phổ biến văn
bản Luật liên quan đến môi trường cho các cán bộ DN, CSSX; có chế độ khen thưởng bằng
vật chất hoặc những ưu đãi cụ thể cho DN có ý thức tốt trong công tác BVMT bên cạnh các
chế tài xử phạt nghiêm khắc cũng là một giải pháp thiết thực nhằm khơi gợi mối quan tâm,
tinh thần trách nhiệm và lòng nhiệt tình của DN trong công tác quản lý và BVMT tại KCN,
KCX.
3.3.2. Nhóm giải pháp về quy hoạch phát triển trong và ngoài khu công nghiệp
Vấn đề quy hoạch sử dụng đất, quy hoạch xây dựng và phát triển các KCN, KCX đóng
vai trò không nhỏ trong vấn đề phòng ngừa và giảm thiểu ô nhiễm. Quy hoạch có tính đến các
yếu tố môi trường sẽ cho phép giảm thiểu được những tác động gây ô nhiễm môi trường. Đúc
kết từ chương 2, bất cập lớn nhất trong quy hoạch là quy hoạch không đảm bảo tính “đi trước”
và không đồng bộ trong việc xây lắp cấu trúc hạ tầng, các hạng mục, vì mục tiêu lợi nhuận
trong thu hút đầu tư mà quy hoạch tràn lan gây ô nhiễm nguồn nước, nguồn đất qua việc DN
xả thải vô tội vạ không qua xử lý do không đầu tư xây dựng hệ thống XLNT, CTNH.
Trước thực trạng trên, một yêu cầu cấp bách đặt ra là quy hoạch làm sao để các KCN
phát triển mà không ảnh hưởng đến môi trường và cuộc sống của người dân, cần hoạch định
rõ ràng về một chiến lược phát triển KCN gắn với quy hoạch phát triển tổng thể, cảnh quan
kiến trúc và môi trường trong việc xây dựng và phát triển các KCN ở Việt Nam. Cụ thể là
theo các hướng sau:
Một là, theo hướng lâu dài, bền vững; chuyển đổi các KCN, KCX dần sang mô hình
“công viên công nghiệp”, “khu công nghiệp sinh thái” (xem phụ lục 22) theo điều kiện phát
37
triển riêng của nước ta; chuyển đổi cơ cấu kinh tế để hình thành những đô thị mới, những đô
thị vệ tinh phục vụ cho phát triển các KCN-KCX.
Hai là, việc quy hoạch mới và mở rộng KCN-KCX phải gắn với quy hoạch các ngành
công nghiệp mũi nhọn của thành phố như lắp ráp ô tô, sản xuất các phương tiên vận tải đường
thuỷ và các nhà máy vệ tinh; máy móc phục vụ cho sản xuất nông nghiệp, công nghiệp chế
biến; công nghệ thông tin ưu tiên sản xuất linh kiện, phụ tùng, các sản phẩm điện tử công
nghiệp điện tử viễn thông, máy tính thương hiệu Việt, điện, điện tử, hóa chất cơ bản, cơ khí,
chế biến thực phẩm... và công nghiệp phụ trợ, quy hoạch tổng thể từng khu vực chức năng
trong KCN: khu các xí nghiệp công nghiệp, khu kỹ thuật đầu mối, khu văn phòng, khu xử lý
chất thải, khu vực cây xanh,…
Ba là, đồng bộ trong xây dựng hạ tầng kỹ thuật (đường xá, hệ thống điện, cấp thoát
nước, bến bãi, kho tàng…) và hạ tầng xã hội (khu nhà ở chuyên gia, nhà lưu trú công nhân,
phòng khám y tế, trung tâm sinh hoạt – văn hóa công nhân, trạm xăng, kho ngoại quan, dịch
vụ ngân hàng và hệ thống ATM, khu ăn uống vui chơi giải trí thể thao, văn phòng cho thuê,
khu dân cư – tiểu đô thị phụ cận….). Điều này đòi hỏi sự kết hợp, phối hợp chặt chẽ từ giữa
các cơ quan chức năng trên địa bàn. Để có quy hoạch tối ưu, trong điều kiện cần thiết có thể
thuê chuyên gia quy hoạch nước ngoài.
Bốn là, việc phát triển các KCN-KCX, cụm công nghiệp, khu dịch vụ ở TP.HCM phải
chú ý đến mối quan hệ liên kết với nhau và với KCN-KCX các tỉnh lân cận nhằm khắc phục
nhược điểm manh mún, dàn trải, cạnh tranh không hiệu quả.
Năm là, thường xuyên rà soát và bổ sung quy hoạch đối với các KCN, KCX, CCN để
có thể khắc phục ngay tình trạng xuống cấp cơ sở hạ tầng, đặc biệt là đối với hệ thống cấp
thoát nước có liên quan đến việc xả thải của doanh nghiệp.
(Xem phụ lục 23: Bảng tổng hợp dự kiến điều chỉnh quy hoạch các KCN, KCX TPHCM đến
năm 2020, có tính đến năm 2025)
38
3.3.3. Giải pháp có liên quan quản lý hành chính (điều kiện cấp giấy chứng nhận
đầu tư; điều kiện vận hành dự án…)
Muốn phát huy hiệu quả của quá trình quản lý hành chính có liên quan đến kiểm soát ô
nhiễm thì cần chủ trương thực hiện “ Đúng và chặt chẽ ngay từ đầu” theo quy trình sau:
Tất cả các dự án đầu tư vào KCN đều phải lập hồ sơ và phải được Hội đồng thẩm định
thông qua (Hội đồng này do BQL KCN chỉ định và có đại diện của Sở KHCN&MT địa
phương). Trong hồ sơ dự án có phần giải trình riêng về khía cạnh môi trường và các
biện pháp bảo vệ môi trường của dự án.
Sau khi được cấp phép đầu tư, chủ đầu tư phải tiến hành lập Bản đăng ký đạt tiêu
chuẩn môi trường theo mẫu quy định tại Thông tư 490/1998/TT-BKHCNMT trình Bộ
KHCN&MT hoặc Sở KHCN&MT xem xét. Sau khi bản đăng ký này được cơ quan
quản lý nhà nước về BVMT chấp thuận dự án mới được phép khởi công xây dựng.
Sở KHCN&MT phối hợp với BQL KCN tiến hành kiểm tra thẩm định các hệ thống và
thiết bị XLCT của các nhà máy đầu tư vào KCN trước khi nhà máy đi vào vận hành
Ngoài ra cần:
Khuyến khích và ưu tiên các nhà đầu tư vào KCN với các ngành sản xuất có công nghệ
sạch, ít ô nhiễm. Bảo đảm cơ cấu ngành nghề phù hợp với thực tế và khả năng giải
quyết ô nhiễm của địa phương.
Tiến hành thống nhất các quy định về thẩm định môi trường đối với các dự án trong
KCN, nếu cần thiết cần đổi mới các quy định cho phù hợp với tình hình thực tế
Cần nâng cao chất lượng công tác thẩm định và phê duyệt báo cáo đánh giá tác động
môi trường theo 2 cấp: cấp toàn KCN và cấp từng DN KCN.
3.3.4. Giải pháp tổ chức quản lý môi trường trong các KCN, KCX
Các KCN, KCX thuộc hệ thống quản lý theo ngành dọc là BQL KCN Việt Nam trực
thuộc Chính phủ và BQL KCN ở địa phương (thuộc UBND các tỉnh, thành phố có các KCN).
Ngoài ra về lĩnh vực môi trường các KCN, KCX chịu sự quản lý của cơ quan QLNN ở cấp
TW là Bộ KHCN&MT và địa phương là UBND các tỉnh/thành phố mà trực tiếp là Sở KHCN.
Thực tế cho thấy Sở TNMT chỉ đáp ứng phần nào việc quản lý các vấn đề môi trường
bên ngoài hàng rào KCN như việc quản lý chất lượng các dòng nước thải đổ ra từ các KCN,
39
chất lượng môi trường nước và không khí xung quanh các KCN, còn các vấn đề bên trong
hàng rào chỉ có thể quản lý tốt bởi chính bộ phận chức năng quản lý môi trường của từng
KCN (phòng QLMT). Do đó để kiểm soát vấn đề ô nhiễm trong các KCN, KCX cần tổ chức
quản lý môi trường theo các hướng sau:
Thực hiện chặt chẽ và đúng theo quy chế Bảo vệ môi trường KCN do Bộ trưởng Bộ
Khoa học, Công nghệ và Môi trường ra quyết định ban hành ngày 9/8/2002. (xem Phụ
lục 24).
Việc phân cấp QLMT KCN phải được thực hiện hợp lý, phân công cụ thể trách nhiệm,
quyền hạn trong công tác QLNN về BVMT đối với các phòng, ban có chức năng trong
các KCN, KCX và thường xuyên có kế hoạch kiểm tra, đôn đốc thực hiện theo chức
năng và thẩm quyền được phân công;
Xây dựng lại các quy định, thủ tục về BVMT theo hướng gỡ bỏ tính chất rườm rà, gây
tâm lý e ngại cho doanh nghiệp trong việc liên hệ chấp hành quy định BVMT
Tăng cường công tác hậu kiểm thực hiện đánh giá tác động môi trường hay cam kết
BVMT mà doanh nghiệp đã đăng ký với cơ quan chức năng.
3.3.5. Giải pháp giám sát, kiểm tra môi trường
Năm 2008 là năm Bộ TN&MT coi việc thanh tra, kiểm tra là một hoạt động trọng tâm.
Kết quả là nhiều doanh nghiệp đã bị bắt quả tang trong việc đổ chất thải chưa qua xử lý ra môi
trường. Để phát huy tính hiệu quả của công tác thanh tra, giám sát môi trường cần tiến hành
một số giải pháp như sau:
Xây dựng và hoàn thiện Tổ kiểm tra liên ngành về môi trường phục vụ công tác lên kế
hoạch và chương trình kiểm tra việc chấp hành các quy định pháp luật về BVMT tại
các KCN, KCX trên địa bàn.
Tăng số lần tổ chức thanh tra định kỳ và xử lý nghiêm ngặt (cảnh cáo, phạt hành chính
và gửi công văn yêu cầu DN chấm dứt ngay hành vi gây ô nhiễm,…)
Tăng cường tiến hành rà soát, lên danh sách các cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm
trọng và giám sát chặt chẽ các hoạt động XLCT của các DN đó.
Có kế hoạch tiến hành kiểm tra đột xuất (kể cả ngoài giờ) đối với doanh nghiệp trong
diện bị tình nghi là có khả năng gây ô nhiễm môi trường tại KCN, KCX.
40
Phối hợp liên ngành, nhất là lực lượng cảnh sát môi trường (CSMT), song cần phân
định rõ nhiệm vụ của CSMT và thanh tra môi trường. Cần có các cơ chế tăng cường
năng lực và quyền hạn của lực lượng CSMT trong công tác phát hiện và truy tố
Tăng cường năng lực (ưu tiên bố trí biên chế, cơ sở vật chất, trang thiết bị chuyên
ngành môi trường) phục vụ công tác kiểm tra, thanh tra và xử lý vi phạm pháp luật
trong lĩnh vực bảo vệ môi trường;
Tổ chức kiểm tra, thanh tra đối với các cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng,
các khu (cụm) công nghiệp và làng nghề, các cơ sở sản xuất và chế biến: tinh bột sắn,
mủ cao su, hoá chất, nhuộm, thuộc da, mạ kim loại, thuỷ sản, rượu bia và nước giải
khát, giấy,… đặc biệt là các doanh nghiệp hoạt động trên các lưu vực sông và vùng ưu
tiên bảo vệ môi trường;
Xử lý nghiêm các tổ chức, cá nhân vi phạm quy định pháp luật về BVMT. Đối với các
doanh nghiệp hoạt động sau ngày Luật Bảo vệ môi trường năm 2005 có hiệu lực, kiên
quyết xử lý nghiêm theo quy định, đặc biệt là áp dụng các biện pháp tạm thời đình chỉ
hoạt động sản xuất, cấm hoạt động hoặc buộc di dời ra khỏi khu dân cư. Đối với các
doanh nghiệp hoạt động trước ngày Luật BVMT năm 2005 có hiệu lực, đưa ra lộ trình
cụ thể nhằm xử lý các nguồn thải đảm bảo quy chuẩn kỹ thuật về chất thải;
Tổ chức đánh giá mức độ và khoanh vùng các KCN, KCX và các vùng lân cận có môi
trường bị ô nhiễm để công khai cho nhân dân biết và phòng tránh thiệt hại; chỉ đạo và
tổ chức thực hiện các biện pháp xử lý cụ thể để phục hồi môi trường bị ô nhiễm.
3.3.6. Giải pháp đào tạo nguồn nhân lực cho công tác môi trường
Dựa trên thực tế tình hình nhân lực phục vụ cho công tác môi trường hiện nay, nhóm
nghiên cứu xin đưa ra một số giải pháp cơ bản như sau:
Cùng với việc đào tạo NNL mới có chất lượng phục vụ nhu cầu phát triển của
các KCN, cần xây dựng kế hoạch định kỳ đào tạo, bồi dưỡng, tạo điều kiện cho cán bộ, công
chức làm công tác QLMT tại các KCN tham dự các lớp tập huấn, tham gia các hội thảo
chuyên đề về chuyên môn QLMT, các giải pháp kinh tế và công nghệ …nhằm giảm thiểu ô
nhiễm môi trường tại các KCN.
41
Xã hội hoá giáo dục môi trường cần được thực hiện và triển khai nhanh chóng
đối với các chủ thể kinh tế. Bởi lẽ, sự tác động vào môi trường tự nhiên một cách tự phát và
gây thảm hoạ không chỉ cho môi trường tự nhiên mà còn tác động xấu đến sự tăng trưởng kinh
tế khi những chủ thể này chưa nhận thức đúng đắn vai trò của môi trường, của công tác bảo vệ
môi trường trong hoạt động kinh tế.
Ưu tiên bố trí kinh phí từ nguồn ngân sách cho nghiên cứu khoa học - công
nghệ ( KHCN) ngành kinh tế môi trường nhằm xây dựng và phát triển thị trường này. Khuyến
khích các doanh nghiệp, đặc biệt khu vực ngoài quốc doanh đầu tư cho KHCN xử lý các loại
chất thải công nghiệp và hệ thống xử lý chất thải. Đồng thời tăng cường bảo hộ sở hữu trí tuệ,
phát minh, sáng chế để tạo động lực cho đầu tư nghiên cứu khoa học.
Có chế độ ưu đãi đặc biệt nhằm thu hút các trí thức, chuyên gia giỏi, thợ lành
nghề đến làm việc tại vùng khó khăn về kinh tế - xã hội. Khuyến khích đào tạo chuyển giao
kinh nghiệm và phát triển nguồn nhân lực. Thiết lập trung tâm cung cấp thông tin, tư vấn và
chuyển giao công nghệ tiên tiến, hiện đại cho các doanh nghiệp.
3.3.7. Giải pháp đặc thù kiểm soát, giám sát để hạn chế ô nhiễm môi trường ở
vùng nông nghiệp Đồng bằng Sông Cửu Long (ĐBSCL)
ĐBSCL chiếm 1/3 đất nông nghiệp của cả nước, là một vùng sinh thái đặc biệt, một
vùng đất bảo đảm chiến lược về an ninh lương thực quốc gia. Trong những năm gần đây, vùng
ĐBSCL có tốc độ tăng trưởng nhanh, cao hơn bình quân chung của cả nước. Bên cạnh những
thành tựu khả quan về mặt kinh tế trong hai thập niên qua, do thiếu chiến lược và giải pháp
BVMT hiệu quả, tình trạng ngập lụt và ô nhiễm nguồn nước do chất thải công nghiệp tại nhiều
KCN, KCX ở khu vực ĐBSCL thải ra một cách bừa bãi. Các sông bị ô nhiễm nặng hiện nay
được ghi nhận là sông Tiền, Vĩnh Tế, Trà Sư (An Giang), sông Hậu, Cổ Chiên (Vĩnh Long),
Vàm Cỏ Đông, Vàm Cỏ Tây, Cần Giuộc (Long An), Phụng Hiệp (Hậu Giang), Khánh Hội,
Bảy Háp, Sông Đốc (Cà Mau)… Ô nhiễm ngày càng gia tăng theo tỷ lệ thuận với quá trình đô
thị hoá, CNH-HĐH của vùng. Trên bình diện rộng, kiểm soát ô nhiễm vùng ĐBSCL tác động
tương hỗ đến công tác chống ô nhiễm trên địa bàn lưu vực sông Sài Gòn – Đồng Nai. Một số
giải pháp được đề xuất nhằm kiểm soát ô nhiễm như sau:
42
Ưu tiên phát triển các ngành kinh tế chủ lực vùng ĐBSCL theo hướng nông
ngư nghiệp, du lịch và công nghiệp nhẹ ít gây ô nhiễm. Các vùng đã thường xuyên bị lũ lụt
vẫn nên phát triển thế mạnh của mình về nông - ngư nghiệp và các ngành kinh tế không gây ô
nhiễm. Bởi vì, tại đây nguy cơ ô nhiễm lan rộng đến mức không kiểm soát nổi khi có lũ lụt
xảy ra là rất lớn, và chi phí cải tạo sau lũ sẽ cao hơn rất nhiều lần lợi ích mà phát triển công
nghiệp có thể đem lại.
Chú trọng đến việc xây dựng và phát huy hiệu quả các hệ thống và công trình
thủy lợi đã có, làm tốt hơn nữa công tác quy hoạch, thực hiện các dự án phát triển kinh tế
trong tương lai
Tăng cường công tác giáo dục, nâng cao ý thức cộng đồng về BVMT khu vực
sinh sống, đặc biệt là bảo vệ nguồn tài nguyên nước.
Ứng dụng công nghệ tiên tiến trong quản lý quy hoạch kiến trúc cho phép các
sở và ban, ngành chia sẻ thông tin về hiện trạng lẫn các dự án trong nhiều lĩnh vực đặc biệt là
lĩnh vực quản lý quy hoạch kiến trúc sao cho phù hợp với tổng thể vùng và những vấn đề liên
quan đến môi trường để kịp thời can thiệp và giải quyết.
Khi thực hiện những giải pháp trên, các tỉnh, thành phố trong vùng ĐBSCL cần phối
hợp với nhau để cùng đi đến những giải pháp chung cho toàn vùng, trong đó có tính đến các
nhu cầu và điều kiện riêng biệt của từng địa phương. Các giải pháp chung phải có chuẩn mực
chung mang tính quốc gia hoặc vùng để việc chia sẻ thông tin giữa các địa phương được thuận
tiện. Như vậy, việc ứng dụng công nghệ tiên tiến trong quản lý quy hoạch kiến trúc theo xu
hướng đa ngành mới có thể đạt hiệu quả cao; việc phân công, phân vùng phát triển các chức
năng kinh tế giữa các địa phương trong toàn vùng mới bảo đảm phù hợp nhằm giúp đỡ nhau
cùng phát triển.
3.3.8. Giải pháp đặc thù áp dụng trong KCN, KCX, cụm công nghiệp tập trung
để kiểm soát ô nhiễm môi trường.
Sản xuất sạch hơn
Trong điều kiện nền công nghiệp của nước ta còn lạc hậu, yếu tố quản lý cũng như
những yếu tố kỹ thuật còn yếu kém, thì sản xuất sạch hơn chính là một giải pháp vừa giải
quyết được vấn đề kinh tế vừa có lợi cho môi trường. Giải pháp này có thể không yêu cầu đầu
43
tư lớn nhưng lại mang lại hiệu quả nhanh và thiết thực. Nước ta có Trung tâm Sản xuất sạch
thuộc mạng lưới các trung tâm sản xuất sạch của toàn cầu. Tính đến năm 2002, Việt Nam đã
có hơn 100 doanh nghiệp tham gia các dự án thí điểm về sản xuất sạch với sự hỗ trợ từ các dự
án nước ngoài và trong nước, chưa kể đến các hoạt động tự nguyện diễn ra ở nhiều doanh
nghiệp với các quy mô khác nhau.(xem thêm Phụ lục 25)
Hệ thống quản lý môi trường ISO 14000:
Hệ thống quản lý môi trường mặc dù đã được đề cập đến rất nhiều trong những năm
gần đây, các DN, đặc biệt là các DN trong nước vẫn chưa mặn mà với giải pháp này do còn có
quá nhiều rào cản. Rào cản lớn nhất đó là vấn đề ưu tiên của các DN, chưa phải là vấn đề môi
trường, trừ những DN xuất khẩu sản phẩm sang các nước tiên tiến có xu hướng áp dụng giải
pháp này, vì đây là một trong những yêu cầu để xuất khẩu hàng hóa. Tuy nhiên, từ kinh
nghiệm những DN đã áp dụng giải pháp này, hệ thống QLMT là một công cụ khá tiện lợi và
có ích cho chính bản thân DN rất nhiều. (xem thêm Phụ lục 26)
Xử lý chất thải tập trung (nước thải, chất thải rắn, chất thải nguy hại):
Xử lý chất thải tập trung cho phép các doanh nghiệp giảm chi phí XLCT, vì công trình
XLCT thường yêu cầu đầu tư lớn, nếu xây dựng hệ thống XLCT đơn lẻ các doanh nghiệp
thường không sử dụng hết công suất. Mặt khác giá thành xử lý trên một đơn vị chất thải sẽ
giảm khi công suất xử lý chất thải tăng. Hình thức XLCT tập trung phổ biến nhất hiện nay là
XLCT tập trung trong các KCN. Ngoài ra, xử lý chất thải rắn và CTNH công nghiệp tập trung
cũng là những giải pháp cần thiết. Ở nước ta hiện còn rất thiếu loại hình xử lý tập trung này.
Thực hiện các dự án về cải tạo, bảo vệ môi trường
Thực hiện các chương trình trồng cây xanh, giữ gìn đa dạng sinh học, xây dựng các
công trình làm sạch môi trường ngay trong các KCN, KCX. Phát triển các dịch vụ môi trường
như trồng vườn hoa, thu gom rác thải, cung cấp nước sạch, xây dựng các vườn sinh thái, vườn
cây cảnh...
3.4. Các kiến nghị với các cơ quan có thẩm quyền
Qua một số giải pháp được đề xuất ở trên, nhóm nghiên cứu xin đưa ra một số kiến
nghị cơ bản đối với các cơ quan thẩm quyền như sau:
44
3.4.1. Với các cơ quan Chính phủ
Tiếp tục hoàn thiện, đẩy nhanh việc ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành
Luật BVMT; hoàn thiện dự án Luật Đa dạng sinh học để trình Quốc hội xem xét, cho ý kiến;
sửa đổi, bổ sung phần Tội phạm môi trường Bộ luật Hình sự 1999, Pháp lệnh xử phạt vi phạm
hành chính theo hướng tăng tính cưỡng chế, nghiêm minh đối với các hành vi vi phạm pháp
luật về BVMT.
Kiến nghị tăng chi từ ngân sách cho các hoạt động BVMT, phấn đấu đến năm
2010, đầu tư cho sự nghiệp BVMT đạt mức 2% tổng chi ngân sách nhà nước; xã hội hoá mạnh
mẽ các nguồn đầu tư cho BVMT; tăng tỷ lệ đầu tư cho môi trường từ nguồn vốn đầu tư phát
triển và vốn ODA...
Kiến nghị Quốc hội, Chính phủ xem xét, nghiên cứu bổ sung nội dung quy định
về thẩm quyền, điều kiện rút giấy chứng nhận đầu tư đối với các DN KCN để nâng cao tính
hiệu quả của công tác quản lý.
Kiến nghị Chính Phủ đưa ra những chương trình nghiên cứu về kinh nghiệm
chống ô nhiễm công nghiệp tại các nước trên thế giới, khuyến khích nghiên cứu thực trạng ô
nhiễm tại các vùng, miền trên cả nước, đặc biệt là tại 2 địa bàn trọng điểm là Hà Nội và
TPHCM và có chương trình phổ biến sâu rộng các chương trình này.
Đối với Bộ Tài nguyên và Môi trường:
Ban hành các quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về chất thải và quy định lộ trình, hệ
số áp dụng theo khu vực, vùng, ngành phù hợp với điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội của
từng địa phương.
Nghiên cứu, xem xét điều chỉnh việc quy định KCN, KCX phải xây dựng hệ
thống XLNT tập trung trước khi tiến hành công tác thu hút đầu tư vào KCN, KCX vì sẽ gây
trở ngại đến hiệu quả về đầu tư kinh doanh kết cấu hạ tầng và kêu gọi đầu tư hạ tầng KCN,
KCX.
Phối hợp với Bộ Xây dựng sớm thiết lập trung tâm xử lý CTNH tập trung để xử
lý CTNH phát sinh, hạn chế các vi phạm của một số đơn vị XLCT trong thời gian qua.
Tăng cường tổ chức đào tạo, tập huấn kiến thức, nghiệp vụ về công tác BVMT
nhằm nâng cao hiệu quả công tác QLMT KCN.
45
3.4.2. Với các cơ quan quản lý địa phương
Đối với Sở TN&MT
Tăng cường hơn nữa công tác thanh tra, kiểm soát tình hình ô nhiễm của thành phố,
đặc biệt là đối với ô nhiễm từ các KCN, KCX đang là vấn đề nhức nhối của xã hội.
Đề xuất hoàn thiện hơn nữa tiêu chí phân hạng xanh của DN về vấn đề BVMT, xem
xét kết quả phân hạng và ra quyết định công bố đến cộng đồng.
Tiếp tục triển khai thực hiện, hoàn thành chương trình khảo sát, đánh giá, xác lập danh
mục các cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng trên toàn địa bàn thành phố từ nay đến
năm 2010.
Xem xét toàn diện hiệu quả hoạt động của các cơ sở bị liệt kê trong danh sách các cơ
sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng để đề xuất UBND TPHCM các chính sách xử lý
đồng bộ
Tăng cường tổ chức quản lý công tác thu phí BVMT đối với nước thải công nghiệp
theo Nghị định số 67/2003/NĐ-CP của Chính phủ và đưa quỹ bảo vệ môi trường địa phương
đi vào hoạt động nhằm hỗ trợ cho các doanh nghiệp trong phương án nâng cấp và hoàn thiện
các hạng mục công trình về môi trường nhằm giảm thiểu ô nhiễm môi trường nước và tiết
kiệm trong việc sử dụng tài nguyên nước.
Phối hợp với các cơ quan ban, ngành liên quan tổ chức nhiều buổi tọa đàm, hội thảo
tạo điều kiện cho doanh nghiệp tiếp cận và áp dụng các công nghệ sản xuất sạch, công nghệ
XLNT đạt tiêu chuẩn môi trường và tiết kiệm trong việc sử dụng tài nguyên nước.
Đối với UBND Quận, Thành phố
Đề nghị UBND Quận chỉ đạo, giám sát và kiểm tra, kiểm soát chặt chẽ tình hình ô
nhiễm môi trường và xử lý dứt điểm các cơ sở được liệt kê, có báo cáo kịp thời để Sở
TN&MT phúc tra; lập danh mục các nguồn nước bị ô nhiễm, suy thoái, cạn kiệt và đề xuất
giải pháp xử lý, khôi phục; thực hiện kiểm soát đối với việc thải nước thải sinh hoạt và công
nghiệp vào các nguồn nước mặt, xây dựng các hệ thống XLNT cho các khu dân cư tập trung
để giảm tải và cải thiện chất lượng của hệ thống sông ngòi, kênh rạch trên địa bàn;
Đề nghị UBND cấp Thành phố chỉ đạo việc bố trí đủ cán bộ QLMT cấp quận/huyện;
chỉ đạo kiểm tra việc bố trí ngân sách chi thường xuyên cho sự nghiệp môi trường; tổ chức
46
công tác kiểm tra, thanh tra, thẩm định theo quy định về thẩm định dự án, xác nhận việc thực
hiện quyết định phê duyệt báo cáo đánh giá tác động môi trường thuộc thẩm quyền;
Đề nghị UBND các Quận họp bàn tới một thị trường trao đổi và tái chế chất thải (xem
phụ lục) như là một cách khả thi nhất để giải quyết lượng chất thải khổng lồ.
Đề nghị UBND Thành phố xóa bỏ tên của các cơ sở khỏi danh sách DN gây ô nhiễm
môi trường và các DN gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng nếu các hành động BVMT của
họ được cải thiện và đồng thời bổ sung những cơ sở gây ô nhiễm môi trường khác.
3.4.3. Với ban quản lý KCN, KCX.
Đề nghị các Ban Quản lý KCN, KCX tiếp tục tăng cường quản lý, phổ biến, hướng dẫn,
kiểm tra, giám sát, thanh tra và xử phạt vi phạm hành chính việc thực hiện quy định, quy
hoạch, kế hoạch có liên quan tới BVMT trong và ngoài KCN, KCX.
Chủ động chủ trì, phối hợp với các cơ quan có liên quan xây dựng Quy chế phối hợp
làm việc với các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cấp thành phố hoặc các cơ quan
có liên quan để thực hiện các nhiệm vụ và quyền hạn được giao theo cơ chế “một cửa”.
Có kế hoạch phối hợp chặt chẽ với chính quyền địa phương để nhanh tiến độ lập quy
hoạch phát triển dài hạn các KCN, KCX.
Xây dựng chương trình, kế hoạch về xúc tiến đầu tư phát triển các KCN, KCX bên
cạnh đảm bảo việc vận hành hiệu quả các hệ thống XLCT của từng DN và của cả KCN, KCX.
Phối hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu tư trong việc xây dựng và quản lý hệ thống thông
tin, đặc biệt là hệ thống thông tin về quản lý môi trường của các KCN, KCX thuộc thẩm quyền
quản lý;
Tổ chức phong trào thi đua và khen thưởng cho DN trong KCN, KCX hoàn thành tốt
và xuất sắc công tác BVMT tại KCN, KCX.
Tổ chức và phối hợp với các cơ quan quản lý nhà nước trong việc thanh tra, kiểm tra,
giải quyết khiếu nại, tố cáo, phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực và xử lý các hành vi
vi phạm hành chính trong khu.
47
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3
Đề giải quyết vấn nạn ô nhiễm môi trường ngày càng có xu hướng gia tăng tại các
KCN, KCX TPHCM, các giải pháp đưa ra dựa trên 3 quan điểm đó là: duy trì thế kiềng 3 chân
trong phát triển kinh tế (kinh tế – xã hội – môi trường), không hy sinh môi trường để đổi lấy
sự phát triển và quan điểm phát huy dân chủ trong kiểm tra, kiểm soát. Các nhóm giải pháp
chủ yếu xoay quanh việc hoàn thiện hệ thống pháp lý và thể chế trong QLNN đối với vấn đề ô
nhiễm, hoàn thiện hệ thống thu thuế, phí BVMT; nhóm giải pháp về quy hoạch các KCN,
trong đó nhấn mạnh tính “đi trước” và “đồng bộ” trong thực hiện kết cấu các hạng mục hạ
tầng, dần chuyển đổi sang các mô hình “ khu công nghiệp sinh thái”, “công viên công nghiệp”;
nhóm giải pháp về quản lý hành chính trong đó nhấn mạnh đến vai trò của việc thẩm định và
cấp phép đầu tư có tính đến yếu tố môi trường, tuân thủ nguyên tắc “làm đúng ngay từ đầu”;
giải pháp tổ chức QLMT trong các KCN, KCX đề cao công tác phân cấp quản lý rõ ràng và
quản lý chặt chẽ theo quy chế BVMT KCN do Bộ trưởng Bộ KH-CN&MT ra quyết định ban
hành ngày 9/8/2002; nhóm giải pháp giám sát, kiểm tra ô nhiễm; giải pháp về đào tạo nguồn
nhân lực phục vụ cho công tác môi trường, giải pháp kiểm soát ô nhiễm tại vùng nông nghiệp
ĐBSCL với việc chú trọng thực hiện tốt hệ thống thủy lợi và quy hoạch phát triển các ngành
nông ngư nghiệp, công nghiệp nhẹ, ít gây ô nhiễm; và nhóm giải pháp đặc thù áp dụng trong
các KCN, KCX, cụm công nghiệp như khuyến khích các DN sản xuất theo công nghệ sạch,
tiên tiến, áp dụng quản lý theo tiêu chuẩn ISO 14000,…nhằm giảm thiểu ô nhiễm. Các giải
pháp này không đứng riêng lẻ mà phải được phối hợp đồng bộ với nhau. Có như vậy mới phát
huy được hết hiệu quả của các giải pháp. Song điều quan trọng là phải xác định mức độ ưu
tiên áp dụng các giải pháp. Trước thực trạng ô nhiễm công nghiệp nghiêm trọng hiện nay,
chúng ta cần một khung pháp lý vững chắc và hoàn thiện để có thể chi phối mọi hoạt động
kiểm soát ô nhiễm, có chương trình cảnh báo rộng rãi nguy cơ phát triển mất cân đối của nền
kinh tế và “tín hiệu kêu cứu từ môi trường” bằng cách phổ biến, giáo dục ý thức BVMT sâu
rộng trong cộng đồng.
48
KẾT LUẬN CHUNG
Trải qua 18 năm phát triển, hệ thống các KCN đã khẳng định được vai trò to lớn của
nó trong sự nghiệp đổi mới của Đảng và Nhà nước, là nhân tố góp phần thúc đẩy công nghiệp
phát triển, tăng trưởng kinh tế, đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng
CNH-HĐH để hình thành các trung tâm công nghiệp gắn liền với phát triển đô thị, góp phần
giải quyết việc làm cho lao động địa phương.
Tuy nhiên, sự phát triển của các KCN, KCX trong thời gian qua đã bộc lộ nhiều hạn
chế và yếu kém cần được nghiêm túc khắc phục, đó chính là tình trạng ô nhiễm môi trường do
các KCN, KCX gây ra, trong đó đáng kể đến là vấn nạn ô nhiễm nguồn nước và không khí.
Trong quá trình vận hành máy móc, thiết bị nhằm phục vụ cho quá trình hoạt động sản xuất
kinh doanh của mình, một bộ phận lớn các DN đã thiếu đi sự quan tâm đúng mức đến vấn đề
BVMT trong và ngoài KCN, KCX, đã gây ra những hệ lụy về môi trường nghiêm trọng. Bên
cạnh đó sự tồn đọng nhiều bất cập trong hệ thống pháp lý và quản lý lỏng lẻo của các cơ quan,
ban, ngành tạo điều kiện cho ô nhiễm càng
BVMT sinh thái trong quá trình tăng trưởng kinh tế chính là yếu tố đảm bảo sự bền
vững trong phát triển các KCN, KCX; là điều kiện tiên quyết để phát triển sản xuất, kinh
doanh, đem lại hiệu quả kinh tế cao, bảo đảm cho sự thắng lợi của công cuộc CNH-HĐH và
hội nhập thành công. Do đó trong thời gian tới, bên cạnh việc khắc phục những tồn đọng và
đẩy nhanh sự phát triển của các KCN một cách toàn diện theo hướng CNH-HĐH và hội nhập
kinh tế quốc tế, cần coi trọng và giải quyết tốt hơn nữa vấn đề BVMT để đảm bảo cho các
KCN có thể phát triển một cách bền vững.