Đề tài Thực trạng phân phối thu nhập trong thời gian qua ở Việt Nam

Trong thời gian tới đây mạnh việc thực hiệ các giải pháp là một trong những nhiện vụ trung tâm và chủ yếu. Để làm được điều đó trước hết cần phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng và nhà nước trong việc không ngừng đổi mới các chính sách cho phù hợp với điều kiện mới. Bên cạnh đó những nguyên tắc phân phối theo lao động cũng phải được vận dụng một cách sáng tạo hơn. Bằng việc kết hợp đồng bộ giữa nỗ nực của nhà nước và mỗi cá nhân chắc chắn phân phối thu nhập sẽ dần được điều chỉnh hợp lý và thu được nhiều thành tựu mới kéo theo sự phát triển toàn diện và bền vững của xã hội. Một xã hội muốn công bằng thiết yếu cần phải thiết lập và duy trì được sự bình đẳng của mỗi ngưòi bằng cách phân phối thu nhập hợp lý và tối ưu nhất.

doc34 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 2338 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng phân phối thu nhập trong thời gian qua ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hội đối với phân phối thu nhập Bảo hiểm xã hội thực chất là một hình thức thay thế, bù đắp một phần thu nhập cho người lao động có tham gia đóng bảo hiểm. Trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung chính sách bảo hiểm được thực hiện như là chính sách đãi ngộ, ban thưởng của nhà nước với công nhân viên chức theo nguyên tắc xã hội và đoàn kết. Trước đây chế độ bảo hiểmxã hội gồm 6 loại trợ cấp: ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, mất sức lao động, hưu trí và tử tuất. Quĩ bảo hiểm xã hội chủ yếu do ngân sách nhà nước bao cấp, các đơn vị lao động chỉ đóng góp một tỉ lệ nhỏ còn người lao động không phải đóng bảo hiềm xã hội. Từ sau Đại hội lần thứ 7 đi đôi với việc cải cách tiền lương nhà nước cũng đồng thời cải cách một bước chế độ, chính sách bảo hiểm xã hội. Nội dung cải cách nhằm xoá bỏ tư duy bao cấp, ỷ lại trong lĩnh vực bảo hiểm, thực hiện cơ chế đóng góp để hình thành quĩ bảo hiểm xã hội, người lao động đóng góp 5% tiền lương hàng tháng. Chủ sử dụng lao động đóng 15% tổng quĩ lương và sự hỗ trợ của ngân sách nhà nước. Để triển khai tính chất thực hiện chính sách, chế độ bảo hiểm xã hội trong thời kỳ này nhà nước đã ban hành nghị định số 19 CP ngày 16/2/1995 về việc thành lập bảo hiểm xã hội Việt Nam trên cơ sở thống nhất các tổ chức bảo hiểm xã hội từ trung ương đến địa phương với chức năng nhiệm vụ, quyền hạn chủ yếu là: Tổ chức thực hiện việc thu bảo hiểm xã hội, chi trả các chế độ bảo hiểmxã hội giải quyết các chế độ, chính sách bảo hiểmxã hội. Xây dựng và tổ chức thực hiện các hoạt động đầu tư bảo toàn và tăng trưởng quĩ, kiến nghị với chính phủ và các cơ quan có liên quan việc sửa đổi bổ sung các chính sách chế độ bảo hiểm phù hợp với tình hình đất nước. bảo hiểm xã hội bao gồm 4 lĩnh vực là bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bồi thường tai nạn lao động và chính sách trợ cấp thôi việc. Qua 5 năm hoạt động bảo hiểmxã hội đã từng bước mở rộng các đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội bao gồm những người làm công ăn lương trong tất cả các thành phần, các khu vực kinh tế theo nguyên tắc đóng góp mới có hưởng thụ. Số người tham gia bảo hiểm xã hội năm 1996 là 2.821.444 người. Năm 1999 đã tăng lên 3.559.397 người và đến năm 2000 là 3.755.810 người. Năm 2002 số người tham gia bảo hiểmxã hội tăng gấp 2 lần so với năm 1995. Việc mở rộng đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội đã góp phần tạo ra được một thị trường lao động mới năng động hơn, linh hoạt hơn, người lao động được tự do di chuyển từ đơn vị này đến đơn vị khác thuộc tất cả các thành phần kinh tế loại hình xã hội, họ vẫn có quyền tham gia và được hưởng đầy đủ các chế độ bảo hiểm. Điều đó thúc đẩy nhanh sự phân công lao động làm cơ sở để phát triển nền kinh tế nhiều thành phần và đa hình thức sở hữu ở nước ta. Cũng trên cơ sở đó mà quĩ bảo hiểm xã hội đã tăng nhanh trong những năm qua thu bảo hiểm xã hội năm 1996 là 2.570 tỉ đồng, năm 1999 là 4.186 tỉ đồng. Đến năm 2000 là 4.940 tỉ đồng và đến năm 2001 đạt 6.334,6 tỉ đồng, số thu bảo hiểmxã hội năm 2002 gấp 3 lần năm 1996. Việc thành lập quĩ bảo hiểm xã hội độc lập với ngân sách nhà nước và nguồn hình thành quĩ chủ yếu bằng sự đóng góp của chủ sử dụng lao động là một chủ trương đúng đắn đã tạo được để xây dựng một cơ chế tài chính, hình thành và quản lí quĩ bảo hiểmxã hội đúng với nội dung đích thực vốn có của nó, phù hợp với chủ trương đổi mới về nền kinh tế của Đảng và từng bước hoà nhập với quĩ đạo của nền kinh tế thị trường hoà nhập với quĩ bảo hiểm xã hội của quốc tế. Mặt khác hình thành được một quĩ tiền tệ tập trung lớn có thời gian nhàn rỗi tương đối dài, đây là nguồn vốn nội lực rất quan trọng để tham gia hoạt động phát triển kinh tế xã hội của đất nước theo chủ trương phát triển kinh tế – xã hội của Đảng và nhà nước . Trong từng thời kỳ từ 1/7/1995 đến 31/8/2000 số dư quĩ bảo hiểm xã hội là 14.384 tỉ đồng, đã tham gia đầu tư phát triển kinh tế xã hội 12.317 tỉ đồng, tổng số lãi thu được từ năm 1997 đến năm 1999 là 1.348 tỉ đồng, ước tính năm 2000 là 865 tỉ đồng. Hệ thống tiêu chí, tiêu thức, tiêu chuẩn ứng với từng chế độ bảo hiểm xã hội được xây dựng theo quy định mới đã tương đối phù hợp với điều kiện cụ thể với tình hình kinh tế – xã hội trong giai đoạn hiện nay, đáp ứng được nguyện vọng của người lao động. Đã tách khỏi chế độ bảo hiểm xã hội một số chính sách xã hội như: Chế độ ưu đãi, chế độ cứu trợ xã hội, điều đó làm giảm bớt những vướng mắc chồng chéo trong việc thực hiện các chính sách xã hội của nhà nướ Ngoài ra do hệ thống bảo hiểmxã hội Việt Nam được tổ chức từ trung ương đến huyện, có cơ chế quản lí tập trung trên cả lĩnh vực giải quyết chính sách và quản lí tài chính do đó đã chấm dứt tình trạng quản lí trùng lặp, chồng chéo, lỏng lẻo gây nhiều thiếu sót, sai phạm trong quá trình thực hiện như trước đây đã từng xảy ra. Đã xác lập được mối quan hệ trực tiếp toàn diện giữa cơ quan bảo hiểm xã hội với chủ sử dụng lao động và người lao động trong toàn bộ quá trình tham gia và hưởng các chế độ bảo hiểmxã hội(thu bảo hiểmxã hội, giải quyết chế độ và chính sách, chi bảo hiểmxã hội. Vì vậy được người lao động đồng tình, ủng hộ góp phần làm lành mạnh các quan hệ xã hội, đảm bảo sự công bằng, văn minh, nhanh chóng, kịp thời, chính xác trong việc thực hiện chế độ đối với người lao động). 2.3 Chính sách xoá đói gảm nghèo đối với phân phối thu nhập Trong công cuộc đổi mới,xoá đói giảm nghèo là một trong những chính sánh xã hội cơ bản,là hướng ưu tiên trong toàn bộ chính sách kinh tế-xã hội ở nước ta được Đảng và nhà nước đặc biệt quan tâm ,cùng với việc đẩy mạnh cải cách, tạo động lực thúc đẩy động lực kinh tế Đảng ta luôn chủ trương khuyến khích làm giầu hợp pháp đi đi đôi với xoá nhanh đói nghèo. Nghị quyết đại hội Ix của Đảng cộng sản khẳng định xoá đói giảm nghèo là một trong những chương trình phát triển kinh tế - xã hội vừa cấp bách trước mắt vừa cơ bản lâu dài nhằm giải quyết các vấn đề xã hội tạo ra nhiều việc làm mới, mở rộng hệ thống bảo hiểm xã hội và an sinh xã hội cải cách cơ bản chế độ tiền lương, đẩy nhanh các chương trình xoá đói giảm nghèo. Tỷ lệ đói nghèo ở Việt Nam giảm nhanh từ 30% năm 1992 xuống còn 10% vào cuối năm 2000 mỗi năm bình quân giảm xuống 250.00 hộ, tính chung 10 năm qua đã có hơn 2 triệu hộ dân thoát khỏi đói nghèo, riêng giai đoạn 1996 – 2000 mỗi năm giảm 250.000 hộ hoàn thành mục tiêu giải quyết Đại hội Dẩng lần thứ 7 đề ra và được cộng đồng thế giới đánh giá là một trong những nước giảm tỷ lệ đói nghèo nhanh nhất. Đạt được kết quả đó do chúng ta đã thực hiện đồng bộ các giải pháp cả về kinh tế và xã hội. Các chương trình dự án hướng vào vùng nghèo, xã nghèo từ năm 1992 đến nay nhà nước đã đầu tư thông qua chương trình quốc gia liên quan đến mục tiêu xoá đói giảm nghèo khoảng 21.000 tỉ đồng. Riêng 2 năm 1999, 2000 nguồn vốn đầu tư cho chương tình xoá đói giảm nghèo khoảng 9.600 tỉ đồng trong đó ngân sách đầu tư của nhà nước khoảng 3000 tỉ đồng, nguồn lồng ghép các chương trình dự án khoảng 800 tỉ, huy động từ cộng đồng 300 tỉ và nguồn vốn tín dụng khoảng 5.500 tỉ đồng. Năm 2003 tổng số vốn nhà nước đầu tư cho chương trình xoá đói giảm nghèo là 660 tỉ đồng với mục tiêu giảm 330.000 hộ nghèo, khoảng 2,7 triệu lượt hộ nghèo được vay vốn ưu đãi với doanh số cho vay 8.000 tỉ đồng. Nhờ vốn đầu tư tập trung nhiều chương trình dự ánở các vùng nghèo đã phát huy hiệu quả. Trong số hơn 6.500 công trình cơ sở hạ tầng đã có 4000 công trình hoàn thành đưa vào sử dụng phục vụ sản xuất và đời sống nhân dân. Dự án hỗ trợ người nghèo về y tế giáo dục đã mua và cấp thêm 1,2 triệu thẻ bảo hiểmxã hội cho người nghèo, cấp giấy và thẻ bảo hiểmxã hội khám chữa bệnh miễn phí cho 1,3 triệu học sinh nghèo, miễn giảm đóng góp cho 1 triệu lượt học sinh nghèo. Dự án hỗ trợ đồng bào đặc biệt khó khăn đã hỗ trợ đời sống cho hơn 20.000 hộ đồng bào dân tộc, 90.000 hộ được vay vốn với lãi suất 0%, hỗ trợ định canh, định cư cho hơn 118.000 hộ, đi xây dựng vùng kinh tế mới 38.925 hộ và sắp xếp ổn định cuộc sống cho 23.543 hộ di dân tự do. Đặc biệt chương trình mục tiêu quốc gia xoá đói giảm nghèo đã triển khai có hiệu quả các dự án hướng dẫn kinh nghiệm làm ăn cho hàng triệu hộ dân nghèo, đẩy mạnh công tác khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư, xây dựng 900 mô hình, phát triển ngành nghề, chuyển giao công nghệ. Các mô hình xoá đói giảm nghèo có hiệu quả góp phần xoá đói giảm nghèo nhanh ở các xã đặc biệt khó khăn ở miền núi phía Bắc. Các bãi ngang vùng ven biển miền Trung, mô hình xây dựng cụm dân cư ở Tây Nguyên, xoá đói giảm nghèo ở các xã vùng sâu, vùng xa đồng bằng sông Cửu Long hay mô hình phát triển vùng nguyên liệugắn với xoá đói giảm nghèo ở các tổng công ty 91, mô hình địa phương có điều kiện kinh tế phát triển giúp các địa phương nghèo, các ngành địa phương liên kết giúp đỡ các địa phương nghèo. Tuy vậy, sự nghiệp xoá đói giảm nghèo ở nước ta còn nhiều nan giải bởi nước ta thuộc nhóm những nước rất nghèo. Nếu tính theo thu nhập đầu người, nước ta xếp thứ 132/174 nước. Nhiều vùng dân cư còn rất khó khăn, cơ sở hạ tầng yếu cho đời sống và cho sản xuất. Nhân dân còn nhiều thiếu thốn thấp kém. Cho đến nay vẫn còn hơn 20% số xã chưa có đường bê tông đến trung tâm xã, 40% xã đặc biệt khó khăn chưa có điện lưới quốc gia, 50% xã chưa có đủ công trình thuỷ lợi, 20% xã chưa có chợ và 55% số xã đặc biệt khó khăn chưa chủ động được nguồn nước sạch. Một bộ phận dân cư ở nước ta vẫn sống trong cảnh đói nghèo triền miên. Cho dù 5 năm tới tốc độ tăng trưởng kinh tế có cao hơn nhưng chưa xoá hẳn được đói nghèo. Theo tính toán cuối năm 2005 nước ta vẫn còn khoảng 10% dân số sống trong cảnh nghèo, giải quyết vấn đề việc làm trong những năm tới là một trong những nhiệm vụ trọng yếu của chiến lược phát triển kinh tế – xã hội. 2.4. Chính sách việc làm đối với phân phối thu nhập Giải quyết việc làm là vấn đề có ý nghĩa kinh tế – chính trị – xã hội quan trọng trong từng đơn vị kinh tế cơ sở cũng như trên phạm vi toàn quốc.Giải quyết việc làm được thực hiện thông qua các biện pháp về kinh tế – xã hội, nhằm đảm bảo cho mọi người có khả năng lao động, có nhu cầu làm việc đều có việc làm. Giải quết việc làm là một vấn đề có tính chất liên ngành, mang tính chất tổng hợp . Làm tốt công tác giải quyết việc làm góp phần phát triển sản xuất, tăng thu nhập cho người lao động, xoá đói giảm nghèo, hạn chế tệ nạn xã hội, nâng cao tỉ lệ sử dụng thời gian lao động. ở nông thôn, đẩy nhanh chuyển dịch lao động phù hợp với cơ cấu kinh tế. Với tầm quan trọng đó giải quyết việc làm là vấn đề bức xúc đối với nước ta, nhà nước đã thực hiện phải giải quyết việc làm trong một chính sách quốc gia rộng lớn về đầu tư và phát triển. nhà nước tạo cơ hội bình đẳng cho việc tạo việc làm và tìm kiếm việc làm. Chính sách việc làm là một trong những chính sách xã hội cơ bản nhất của quốc gia, góp phần đảm bảo an toàn ổn định và phát triển xã hội. chính sáchVL có mục tiêu xã hội rất rõ nét, là một trong những nội dung cơ bản của công bằng xã hội và góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống. Cùng với các chính sách xã hội khác, chính sách việc làm góp phần ổn định phát triển và tiến bộ xã hội. Nhờ nỗ lực rất lớn của Đảng, nhà nước và các thành phần kinh tế, số lao động làm việc trong nền kinh tế tại thời điểm 1/7 hàng năm ngày càng tăng. Năm 1996 mới có 33760 nghìn người, đến năm 1998 đã tăng lên 35232 nghìn người và năm 2000 là 36710, đến năm 2003 là 42128300 người. Năm 2001 số người đủ 15 tuổi trở lên hoạt động kinh tế thường xuyên lên tới 34498 nghìn người tăng nhiều so với trước đây. Trong số lao động có việc làm nói trên thì số việc làm mới tạo ra hàng năm tăng nhanh từ 863 nghìn người mỗi năm trong giai đoạn 1991 – 1995 lên 1,2 triệu người mỗi năm trong giai đoạn 1996 – 2000. Tăng trưởng việc làm bình quân là 2,9%. Cùng với tăng số lượng lao động hữu nghiệp, cơ cấu việc làm theo ngành cũng thay đổi. Nếu tổng số việc làm là 100% thì nhóm ngành nông – lâm – ngư nghiệp năm 1996 là 69%.công nghiệp và xây dựng là 10,9% và dịch vụ chiếm 20,1%. Năm 2001tương ứng là 60,5%; 14,4%; 25,1%. Như vậy tỉ trọng việc làm trong nông – lâm – ngư nghiệp đã giảm đi 8,5% và việc làm trong công nghiệp, xây dựng và dịch vụ tăng tương ứng 8,5%. Đến năm 2003 tổng số lao động có việc làm trong cả nước là 41.179.365 người trong đó lao động làm việc trong ngành nông – lâm – ngư nghiệp chiếm 59%, công nghiệp và xây dựng là 16,4% và dịch vụ là 24,6%. Kết quả giải quyết việc làm: năm 1991 số lao động hữu nghiệp tăng từ 30,9 triệu người lên 40,6 triệu người năm 2001 tăng 32,2%, bình quân hàng năm tăng 2,9%, chỗ làm việc mới hàng năm cũng có xu hướng gia tăng, nếu thời kỳ 91 – 95 số việc làm mới bình quân 863.000 người thì thời kỳ 96 – 2000 là 1,2 triệu người/năm. Theo thành phần kinh tế, trong giai đoạn 96 – 2001 mỗi năm ở khu vực nhà nước tăng thêm 159.000 việc làm, khu vực ngoài nhà nước tăng 510.000 việc làm. Xét tương đối, lao động quốc doanh do cải cách hành chính và sắp xếp lại doanh nghiệp quốc doanh giảm từ 14,7%/1991 xuống còn 9%/2000. Khu vực có vốn đầu tư nước ngoài sử dụng gần 1% lực lượng lao động. Tuy nhiên điều đáng lưu ý là từ năm 2001 đến nay tỉ trọng lao động làm việc trong khu vực kinh tế quốc doanh có xu hướng tăng trở lại năm 2003 chiếm 10,9%. Tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị giảm từ 10% năm 1991 xuống còn 6,44% năm 2000 và tiếp tục giảm trong những năm sau, năm 2001 là 6,25%; năm 2002 là 6,01% và 2003 là 5,78%. Hệ thống dạy nghề ở nước ta đến nay đã có trên 154 trường dạy nghề, 86 trung tâm dạy nghề, 320 trung tâm giáo dục kỹ thuật tổng hợp. Số học sinh đào tạo nghề dài hạn tăng 80.000 năm 1996 lên 150.000 năm 2000. Hệ thống các trung tâm dịch vụ việc làm hàng năm đã tư vấn đào tạo cho 30 vạn lượt người đào tạo ngắn hạn và bổ túc cho 8 vạn người. Vốn vay giải quyết việc làm thông qua hệ thống kho bạc nhà nước đã vào nề nếp, hàng năm doanh số cho vay 700 – 800 tỉ đồng. Về cơ cấu số người đủ 15 tuổi trở lên có việc làm thường xuyên chia theo thành phần kinh tế trong toàn quốc theo điều tra ngảy 1/7/2001 như sau: - Khu vực nhà nước 10,01%.Khu vực tập thể 16,31%.Khu vực tư nhân 2,78%.Khu vực cá thể 69,11%.Khu vực có vốn đầu tư nước ngoài 0,09%.Khu vực hỗn hợp là 0,08%. Số lượng lao động và chuyên gia làm việc nước ngoài cũng ngày càng tăng từ 1022 người năm 1991 lên 10050 người năm 1995 và lên 30000 người năm 2000 còn năm 2003 là 67000 người. Những thành tựu trên đây bắt nguồn từ chủ trương, đường lối đúng đắn của Đảng thực chất đó là sự thay đổi về nhận thức, đổi mới tư duy trong lĩnh vực lao động. Người lao động đã năng động và chủ trương tự tao việc làm cho mình và cho xã hội. Người sử dụng lao động được khuyến khích đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh, dịch vụ, việc làm. Bên cạnh đó chính sách việc làm vẫn là vấn đề bức xúc đối với toàn xã hội. Phần đông người lao động đến tuổi lao động đều mong muốn có việc làm nhưng khả năng thực tế chưa cao. Tỷ lệ thất nghiệp của lao động ở khu vực thành thị vẫn còn cao giai đoạn 1996 đến 2000 là 5,88% và 7,4% năm 1999, phi nông nghiệp từ tình trạng thiếu việc làm sẽ diễn ra một cách gay gắt trong các năm tới. . 2.5. Chính sách thuế đối với phân phối thu nhập Thuế là một công cụ tài chính rất quan trọng, có thể phân loại thuế theo nhiều tiêu thức: Theo đối tượng đánh thuế : thuế trực trực thu, thuế giảm thu, thuế tài sản. ở nước ta có thuế nông nghiệp, thuế doanh thu, thuế lợi tức, htuế tiêu thụ đặc biệt, thuế thu nhập, thuế xuất nhập khẩu, thuế tài nguyên, thuế sát sinh, htuế trước bạ, thuế môn bài. Từ năm 1986 đến nay nước ta đã trải qua hai bước tiến hành cải cách hệ thống chính sách thuế nhằm từng bước hoàn thiện hệ thống chính sách thuế đáp ứng yêu cầu chuyển sang nền kinh tế thị trường có nhiều thành phần kinh tế bình đẳng trong quá trình sản xuất- kinh doanh và trong nghĩa vụ thuế đối với nhà nước. Qua quá trình thực hiện nó đạt kết quả quan trọng: Về thu ngân sách nhà nước: Thuế và phí đã đáp ứng được nhu cầu chi tiêu cơ bản của nhà nước. Từ năm 1996 – 2001 tốc độ tăng trưởng thuế và phí năm sau so với nămk trước đều tăng( 1996 tăng 18,25; 1997 tăng 2,8%; năm 2000 tăng 16,7%; năm 2001 tăng 14%. Tỷ lệ động viên thuế và phí/GDP đã đạt được mục tiêu đề ra năm 1996 : 21,8% GDP; 1997: 19,4% GDP; 2001: 20,4% GDP ). -Thuế đã góp phần khuyến khích sản xuất-kinh doanh tạo điều kiện cho doanh nghiệp tăng trưởng và phát triển. Trong thời gian qua, chúng ta đã từng bước thực hiện giảm mức thuế suất của thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế chuyển quyền sử dụng đất…hệ thốngchính sách thuế đã góp phần tác động chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng tỷ trọng công nghiệp, dịch vụ trong tổng sản phẩm xã hội. Nước ta đã ký hiệp định tránh đánh thuế hai lần với 39 nước, nhằm tạo môi trường thuận lợi cho các nhà đầu tư. Với việc qui định thuế xuất khẩu, thuế xuất khẩu có 3 mức thuế suất: Thuế suất ưu đãi, Thuế suất đặc biệt ưu đãi, thuế suất phổ thông để áp dụng đối với hàng hoá nhập khẩu từ các thị trường khác nhau, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp trong lĩnh vực ngoại thương. Đối với hàng hoá trong nước sản xuất đã qui định thuế suất nhập khẩu cao để tạo điều kiện cho sản xuất trong nước phát triển. Hệ thống chính sách thuế được áp dụng cho mọi thành phần kinh tế, mọi loại hình doanh nghiệp đã tạo ra môi trường bình đẳng về thuế, bảo đảm cạnh tranh lành mạnh trong cơ chế thị trường. Thuế thu nhập đối với ngươig có thu nhập cao đã điều tiết một phần thu nhập của những người có thu nhập cao trong nước và ở nước ngoài nhằm hạn chế sự chênh lệch về mức sống giữa các thành viên tròn xã hội. Mặt khác, nhà nước có điều kiện thực hiện chính sách xã hội để hỗ trợ cho người nghèo, từng bước thực hiện hệ thống chính sách thuế đơn giản, ít thuế suất. Thuế giá trị gia tăng(GTGT) chỉ còn 4 mức thuế suất, thuế thu nhập doanh nghiệp chỉ còn một mức thuế suất phổ thông (32%) đã thống nhất cách xác định thu nhập chịu thuế giữa doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Về công tác chính sách thuế: Cùng với tiến trình cải cách nội dung chính sách thuế, Nhà nước đã từng bước thực hiện cải cách hành chính trong công tác quản lí thuế. Cơ quan thuế đã chú trọng đến công tác tuyên truyền, hướng dẫn đối tựng nộp thuế, đồng thời đổi mới công tác thanh tra, kiểm tra. Đồng thời phân cấp công tác quản lí thuế, thẩm quyền miễn giảm thuế, hoàn thuế để nâng cao trách nhiệm của cơ quan trực tiếp quản lí thuế và giảm bớt đầu mối quan hệ với người nộp thuế. Chính sách thuế thu nhập doanh nghiệp có hiệu lực từ 1/1/1999 đến nay đã phát huy được vì tác dụng tích cực, góp phần thu hút vốn đầu tư nước ngoài, khuyến khích các tổ chức, cá nhân đầu tư nhiều vào nghành nghề, khu vực cần khuyến khích phát triển, mở rộng qui mô kinh doanh, đổi mới công nghệ, cải thiện môio trường hoạt động. Việc thống nhất mức thuế suất phổ thông chung là 28%, mức thuế suất ưu đãi là 20%, 15%, 10%, bỏ thuế thu nhập bổ xung, bỏ thuế chuyển thu nhập ra nước ngoài sẽ giảm số thu cho ngân sách nhà nước khoảng 2704 tỉ đồng. Điều chỉnh mức thuế suất từ 32% xuống còn 28% với doanh nghiệp trong nước. Vận dụng động viên công bằng theo chiều dọc đối với dự án đầu tư áp dụng thuế suất 25%, 20% hoặc 15%. Việc áp dụng nhiều mức thuế thu nhập doanh nghiệp như trên là sự vận dụng quan điểm điều tiết thu nhập và thực hiện công bằng của Đảng và Nhà nước. Thuế thu nhập cá nhân là dòng thuế trực thu của người có thu nhập cao dựa vào ngân sách nhà nước để đáp ứng các khoản chi có tính chất công cộng. Kể từ ngày 1/4/1991 khi áp dụng pháp lệnh thuế thu nhập với người có thu nhập cao, số thuế thu được từ nguồn thu này ngày càng tăng. Từ 62 tỉ đòng năm 1991 lên 390 tỉ đồng năm 1994 và năm 2000 là 16.000 tỉ đồng. Hiện nay ở nước ta số thu của ttncn xấp xỉ bằng thuế sử dụng đất nông nghiệp của trên 10 triệu hộ nông dân thuộc đối tượng nộp thuế sử dụng đất nông nghiệp. Tuy nhiên chính sách thuế này hiện còn bộc lộ nhiều bất cập, chưa phát huy hết vai trò của nó trong việc tăng nguồn thu ngân sách nhà nước, điều tiết thu nhập của tầng lớp dân cư đáp ứng điều kiện thực tế của đất nước. Nhìn chung, hệ thống chính sách thuế hiện nay chưa bao quát hết các nguồn thu đang phát sinh hàng ngày. Cơ cấu thu chưa hợp lý, thuế trực thu còn chiếm tỉ lệ thấp. Về đối tượng chịu thuế còn nhiều đối tượng không thuộc diện chịu thuế giá trị gia tăng. Đối tượng chịu thuế tiêu thụ đặc biệt còn hẹp. Thuế thu nhập đối với người thu nhập cao, số lượng đối tượng nộp thuế còn hạn chế và chưa tạo được nguồn thu chưa bao quát và điều tiết hết các khoản thu nhập. 3. Đánh gía kết quả chung và những vấn đề đặt ra đối với phân phối thu nhập. 3.1. Đánh giá chung. Với đường lối chính sách đổi mới của Đảng và nhà nước, tình hình kinh tế – xã hội ở nước ta đã có những chuyển biến sâu sắc. Việc thực hiện chính sách phát triển kinh tế những thành phần đã tạo ra động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế – xã hội, nền kinh tế nước ta tăng trưởng liên tục với tốc đọ cao. GDP thời kỳ 1991-1995 là 8,2%;năm 1996-2000 là 7%/năm. Năm 2001 là 6,19%; năm 2002 là 7,04%, đây là tốc độ phát triển cao trong tình hình kinh tế – chính trị thế giới đang diễn biến phức tạp. Cùng với quá trình tăng trưởng GDP thu nhập của nhân dân ngày càng được cải thiện rõ rệt đáp ứng cuộc sống người lao động, thu nhập bình quân đầu người năm 1995 tăng 22,6% so với năm 1994, năm 1996 tăng 10% so với 1995. Thời kỳ 1996 – 1999 tốc độ tăng bình quân là 8,78%. Các chính sách tiền lương, bảo hiểm, xoá đói giảm nghèo, lao động việc làm đã thu được những kết quả vượt bậc. Nói chung trong thời kỳ đổi mới đời sống vật chất và tinh thần của tầng lớp dân cư và nông dân được cải thiện rõ rệt. Nền kinh tế tăng trưởng cao cùng với chính sách phân phối thu nhập hợp lý đã tạo ra sự ổn định và vững chắc về văn hoá và xã hội tạo lòng tin với các tầng lớp dân cư. Sự đổi mới của Đảng với các chính sách ngày càng giữ vai trò quan trọng trong đường lối chính sách và mục tiêu phát triển của đất nước. Về chính sách tiền lương Với vai trò là một chính sách quan trọng trong phân phối thu nhập, chính sách tiền lương luôn được Đảng và nhà nước quan tâm và luôn được điều chỉnh, cải cách. Tiền lương được coi là giá cả của sức lao động hay là giá trị của sức lao động để tái sản xuất. Với người lao động tiền lương là bộ phận của thu nhập vì vậy nó là động lực thúc đẩy người lao động quan tâm đến công việc của mình. Chúng ta đã dần cải cách được quan điểm cũ như tính bình quân trong tiền lương. Để thực hiện tiền lương có phân biệt giữa các khu vực hành chính, xác định được mức tiền lương tối thiểu đạt được nhiều thành tựu quan trọng bước đầu hình thành cơ chế quản lý tiền lương mềm dẻo , linh hoạt và bảo vệ được lợi ích của người lao động. Chính sách tiền lương đã trở thành công cụ quan trọng trong phân phối thu nhập. Chính sách thuế Từng bước thực hiện vai trò là công cụ quan trọng, chủ yếu để đảm bảo công bằng trong phân phối thu nhập qua các đợt cải cách thuế hệ thống thuế nhà nước đã ngày càng thống nhất, áp dụng bình đẳng đối với các thành phần kinh tế. Thuế ngày càng trở thành chính sách mang tính chiến lược cao trong vấn đề điều tiết thu nhập của nhà nước, tạo nguồn lực tài chính dồi dào cho ngân sách quốc gia để giải quyết các vấn đề xã hội trở thành công cụ vĩ mô của nhà nước trong q - Chính sách giải quyết việc làm: Là chính sách xã hội cơ bản với những nỗ lực đã đạt được trong thời gian qua như giảm tỉ lệ thất nghiệp tăng số việc làm và nâng cao trình độ kỹ thuật cho ngươig lao động. Chính sách việc làm ngày càng được chú trọng trở thành chính sách mang tính chất chiến lược của đất nước ta trong thời gian qua cũng như trong thời gian tới. Là chính sách tích cực trong quá trình thực hiện chính sách phân phối thu nhập. - Chính sách xoá đói giảm nghèo: Nước ta là một nước xuất phát từ nền kinh tế nông nghiệp, nghèo nàn lạc hậu vì vầy ngay từ đầu chính sách xoá đói, giảm nghèo được Đảng và nhầ nước đặc biệt quan tâm. Với những nỗ lực vừa qua chúng ta đã đạt được nhiều thành tựu trong quá trình thực hiện như tỉ lệ đói nghèo giảm nhanh. Cuộc sống nhân dân cả nước dần đến sự bình đẳng và công bằng. Với những thành tựu đó chính sách xoá đói giảm nghèo thực sự là chính sách mang hiệu quả cao trong thời gian qua ở Việt Nam. - Chính sách bảo hiểm xã hội: Trong quá trình đi lên cùng đất nước, bảo hiểm xã hội đã ngày càng đóng vai trò quan trọng trong vấn đề cải thiện đời sống nhân dân. Hệ thống bảo hiểm với bốn lực lượng chủ yếu là bảo hiểm xã hội, bhyt, bồi thường thiệt hại lao động và chính sách trợ cấp thôi việc đã đạt được những kết quả quan trọng. Số người tham gia bảo hiểm xã hội và bảo hiểm y tế ngày càng tăng. Số thu đóng góp vào ngân sách những năm qua đã tăng lên đáng kể. bảo hiểm xã hội ngày càng thể hiện là chính sách phân phối có hiệu quả của Đảng và nhà nước ta. 3.2 Những vấn đề đặt ra: Tuy chính sách phân phối thu nhập đã đạt được những thnàh quả quan trọng trong chính sách của Đảng và nhà nước. Song bên cạnh đóchúng ta không thể tránh khỏi những mặt trái của nó trong cơ chế thị trường. Sự phân hoá giàu nghèo, sự phân tầng xã hội vẫn còn là vấn đề phổ biến mang tính chất thời sự trong xã hội ta hiện nay. Tổng số hộ nghèo trong xã hội ta còn ở số lượng lớn và bên cạnh đó sự chênh lệch thu nhập giữa nhóm hộ giàu và nhóm hộ nghèo tăng qua các năm. Tuy so với thế giới đó chưa phải là sự chênh lệch lớn nhưng đó cũng là vấn đề đang đặt ra cần giải quyết trong xã hội ta. Bằng những công cụ đặt ra như những chính sách xã hội nhà nước ta bước đầu đã thu được nhiều kết quả khả quan thể hiện sự công bằng. Tuy nhiên các chính sách đó còn nhiều hạn chế và cần được giải quyết. - Chính sách tiền lương: Là một trong những chính sách phân phối chủ yếu nhưng hiện nay tiền lương tối thiểu thấp không đủ chi phí cho nhu cầu thiết yếu của người lao động. Tiền lương chưa thực sự là giá cả của sức lao động, tính chất bình quân chủ nghĩa vẫn còn nặng nề. Mức lương thực tế ngày càng rời xa mức lương danh nghĩa, vì thế tiền lương hiện nay còn chưa thực hiện tốt các chứcc năng của nó. Do đó phải tiến hành cải cách chính sách tiền lương đảm bảo cho tiền lương thực hiện các chức năng của nó. - Chính sách thuế: Thuế là nguồn thu trực tiếp của ngân sách nhà nước, là một phần đóng góp thành công của nhà nước trong vấn đề thực hiện các chính sách xã hội. Nhưng hiện nay hệ thống thuế chưa bao quát được hết các nguồn thu, tính công bằng của hệ thống thuế còn chưa cao và còn có sự phân biệt giữa các khu vực. Trên con đường phát triển như nước ta hiện nay việc hoàn thiện và tiếp tục cải cách chính sách thuế là vấn đề cần quan tâm để xây dựng hệ thống thuế có tính kinh hoạt, ổn định công bằng và hiệu quả - Chính sách việc làm: Giải quyết việc làm và các chính sách xã hội khác như xoá đói giảm nghèo, bảo hiểm xã hội cũng đạt thành công to lớn như nâng cao đời sống của tầng lớp nhân dân, chăm lo tốt hơn cho mọi tầng lớp trong xã hội đảm bảo công bằng xã hội. Tuy nhiên còn nhiều hạn chế và bất cập chưa thực sự hiệu quả và trong quá trình thực hiện còn vấp phải những sai lầm. III. Quan điểm và giải pháp thực hiện công bằng trong phân phối thu nhập trong thời gian tới. 1. Quan điểm thực hiện công bằng trong phân phối thu nhập: 1.1. Phân phối thu nhập trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa phải lấy nguyên tắc phân phối xã hội chủ nghĩa làm chủ đạo. Mục đích của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là phát triển lực lượng sản xuất, nâng cao đời sống của nhân dân, tăng trưởng kinh tế gắn liền với bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội. Để thực hiện mục đích đó phải thực hiện công bằng trong phân phối. Nền kinh tế của nước ta là nền kinh tế nhiều thành phần, nhiều hình thức sở hữu, mỗi thành phần kinh tế, mỗi hình thức xã hội có nguyên tắc phân phối nhất định vì thế trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta tồn tại nhiều hình thức phân phối thu nhập. phân phối theo lao động, phân phối theo mức đóng góp vốn, phân phối theo giá trị sức lao động, phân phối thông qua phúc lới xã hộitrong đó phảilấy các nguyên tắc phân phối của chủ nghĩaxã hội. phân phối theo lao động và thông qua phúc lợi xã hội lànm chủ đạo bởi lẽ phân phối theo lao động là đặc trưng, bản chất của nền kinh tế thị trường định hướng xã hộichủ nghĩa. Tại Đại hội IX của Đảng đã nêu:”kinh tế thị trường đinh hướng xã hộichủ nghĩa thực hiện phân phối chủ yếu theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế, đồng thời phân phối theo mức đóng góp vốn và các nguồn lực khác vào sản xuất, kinh doanh và thông qua phúc lợi xã hội. Chính sách tiền lương là hình thức thực hiện của phân phối theo lao động vì thế chính sách tiền lương đóng vai trò ưuan trọng trong quá trình thực hiện công bằng trong phân phối thu nhập. Chính sách tiền lương hiệu quả và hợp lý tạo điều kiện thúc đẩy tinh thần và tăng năng suất lao động của nền kinh tế ”. Phúc lợi xã hội là nguyên tắc phân phối thể hiện bản chất của xã hộichủ nghĩa. Sự phân phối này có ý nghĩa quan trọng trong việc thực hiện công bằng xã hội, nâng cao mức sống của nhân dân. Tạo sự công bằng, bình đẳng văn minh trong đời sống các tầng lớp dân cư từng bước cải thiện đời sống của người dân, rút ngắn khoảng cách giảu nghèo và phân hoá xã hội. Vì thế phân phối thu nhập trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hộichủ nghĩa phải lấy nguyên tắc phân phối xã hộichủ nghĩa làm chủ đạo đó là phân phối qua lao động và phân phối qua phúc lợi xã hội. 1.2. phân phối trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hộichủ nghĩa và kết hợp hài hoà các lợi ích kinh tế để tạo động lực thúc đẩy kinh tế. Hệ thống lợi ích kt trong nền kttt định hưóng xã hộichủ nghĩabao gồn lợi ích của người lao độnglợi ích của các doanh nghiệp và lợi ich xã hội. Trong đó lợi ích của cá nhân người lao động là động lực trực tiếp thúc đẩy sự phat triển kinh tế- xã hội. Nếu các lợi ích kinh tế đó được kết hợp một cách hài hoà sẽ tạo thành đọng lực thúc đẩy phat triển kinh tế- xã hội. Việc thực hiên công bằng các chính sách phân phối là hết sức cần thiết. Lợi ích của người lao động được thể hiên ở tiền lương, tiền thưởng và các khoản phụ cấp khác. Vì vậy xây dựng một chính sách tiền lương hiệu quả đẩm bảo cuộc sống để tái sản xuất xã hội phải mang tính chính xác cao. Đảm bảo cho lợi ích của người lao động được thoả mãn ở mọi tầng lớp dân cư. Chính sách tiền lương có công bằng, hợp lý hay không phụ thuọc vào hiệu quả tiền lương giữa các loại lao động, giữa các loại lực của nên kinh tế. Vì vậy phải xây dựng chính sách tiền lương thoả mãn lợi ích của mọi người dân. Cùng với chính sách tiền lương, chính sách thuế có vai trò quan trọng đối với phân phối và điều tiết thu nhập góp phần thực hiện công bằng xã hội. Thuế phản ánh quan hệ, lợi ích giữa các cá nhân, các chủ thể kinh tế vì thế chính sách thuế cần phải xây dựng đem lại công bằng với các đối tượng nộp thuế. Điều đó vừa thoả mãn lợi ích của tầng lớp dân cư vừa góp phần thúc đảy tăng trưởng kinh tế. 1.3. Phân phối thu nhập trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hộichủ nghĩa cần giải quyết hợp lý mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ xã hội. Tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội đó là hai mặt của một vấn đề xã hội. Làm sao để tăng trưởng đi đôi với công bằng xã hội. Với tư cách là động lực kinh tế của sự tăng trưởng, chính sách phân phối thu nhập có vị trí hết sức trọng yếu bởi nó là điểm gặp gỡ giữa những nhu cầu tăng trưởng kinh tế của đất nước và các nhà đầu tư nói chung. Với tinh thần, thái độ làm việc của những người lao động vì thế nếu chúng ta giải quyết hợp lý mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội sẽ đạt được sự hài hoà vừa thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên cùng với sự phát triển nền kinh tế thị trường sẽ hình thành khoảng cách về thu nhập vì tính chất công bằng trong phân phối thu nhập nhằm tạo ra động lực để tăng trưởng kinh tế chứ không phải là chủ nghĩa bình quân trong phân phối lượng sản phẩm xã hội. Nhưng sự chênh lệch về phân phối thu nhập không những không phải là bất bình đẳng mà trái lại đó mới là bình đẳng. Những bước thành công trong tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội mà Việt Nam đã đạt được trong những năm qua phần nào khẳng định tính khách quan trong quan điểm của Đảng ta về tăng trưởng và phân phối:”Mỗi bước tăng trưởng kinh tế gắn liền với cải thiện đời sống nhân dân”. 1.4. phân phối thu nhập trong nên kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa phải giải quyết công bằng trong phân phối giữa các tầng lớp dân cư đặc biệt là trong tầng lớp dân cư có thu nhập thấp. Cùng với thành tựu của các chính sách về phân phối và tăng trưởng kinh tế. Đất nước ta ngày càng vững bước đi lên. Tỉ lệ đói nghèo đã giảm xuống đáng kể, song bên cạnh đó cùng với sự phát triển các thành phần kinh tế, sự phân tầng xã hội, sự phân hoá giàu nghèo, sự khác biệt về văn hoá, giáo dục, sức khoẻ, đạo đức còn diễn ra giữa các tầng lớp dân cư trong xã hội. Như ta đã biết trong xã hội ta hiện nay vẫn còn sự cách biệt khá lớn giữa nông thôn và thành thị cùng với nó là sự chưa công bằng trong các vấn đề của xã hội. Như ở nông thôn tỉ lệ đói nghèo nhiều hơn ít được hưởng các thành tựu của khoa họckinh tế dẫn đến khoảng cách giữa nông thôn và thành thị ngày càng xa. Làm sao để xoá dần khoảng cách giàu nghèo, thực hiện công bằng trong các vấn đề dịch vụ phát triển đời sống nhân dân. Vì vậy đối tượng mà chính sách phân phối cần quan tâm nhất đó là các tầng lớp dân cư có thu nhập thấp, đời sống khó khăn. 2. Những giải pháp thực hiện công bằng thu nhập trong thời gian tới Quá trình đổi mới trong chính sách phân phối đã đem lại những thành quả đáng kể cho nền kinh tế – xã hội. Tuy nhiên sự tồn tại của những bất cập là khkông thể tránh khỏi bởi vì cơ chế thị trường không chỉ tạo ra thị trường lao động, tạo ra sự phát triển của phân công, da dạng hoá lao động xã hội. Cơ chế thị trường cũng phát sinh những quan hệ, những mâu thuẫn mới gay gắt vì thế vai trò của nhà nước cùng với chính sách cải cách về những vấn đề xã hội là hết sức quan trọng và là một trong những giải pháo hiệu quả nhất trong thực hiện chính sách phân phối. 2.1. GiảI pháp thực hiện công bằng thông qua chính sách tiền lương Chính sách tiền lương có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong phân phối thu nhập. Vì vậy cải cách chính sách tiền lương cho phù hợp với sự phát triển của đất nước trong tình hình mới là một trong những giải pháp cần thiết và cấp bách trong giai đoạn hiện nay. Cải cách chính sách tiền lương phải đảm bảo cho tiền lương đảm bảo tái sản xuất sức lao động, kích thích tăng năng suất lao động. Như ta đã biết tiền lương là biểu hiện bằng tiền của giá trị sức lao động hay là giá cả sức lao động. Còn giá trị sức lao động lại được qui thành giá trị những tư liệu sinh hoạt để người lao động nuôi sống bản thân và gia đình. Nếu cũng được qui định như vậy là tiền lương tối thiểu, tiền lương đó chỉ đủ cho người lao độngbù đắp được sức lao động và một phần tích luỹ. Như vậy theo chứcc năng và nhiệm vụ của tiền lương tối thiểu nó chưa thoả mãn được những nhu cầu thiết yếu cho bản thân người lao động. Do đó cần nâng cao tiền lương tối thiểu danh nghĩa đảm bảo cho tiền lương thực tế. Việc trả đúng, trả đủ tiền lương cho người lao động sẽ kích thích hị quan tâm đến kết quả lao động, nâng cao năng suất lao động và hiệu quả làm việc. Ngược lại tiền lương không đảm bảo được tái sản xuất sức lao động thì tác dụng kích thích của tiền lương sẽ giảm, do đó hiệu quả vad chất lượng vủa công việc cũng giảm theo. Vì vậy để tiền lương góp phần vào việc phân phối công bằng cần phải xác định mức lương tối thiểu chung, mức lương tối thiểu theo nghành, vùng, lương phait gứn với năng suất, chất lượng và hiệu quả, khoảng cách giữa các thang bậc lương phải hợp lý. Cải cách chính sách tiền lương gắn với sự phát triển kinh tế – xã hội, đảm bảo các nguyên tắc cân đối vĩ mô, giữ vững ổn định chính trị – xã hội. Phải thựch hiện chính sách tiền lương hợp lý sẽ thúc đẩy sự phát triển kinh tế – xã hội. Vì vậy cần phải căn cứ vào tốc độ tăng trưởng kinh tế trong từng thời kỳ để điều chỉnh mức tiền lương hợp lý. ở đây ta không nên quan niệm tiền lương thuần tuý là sự phân phối cho tiêu dùng cá nhân. Chính sách tiền lương liên quan đến những vấn đề vĩ mô như tích luỹ và tiêu dùng thu nhập quốc dân, thu và chi của ngân sách nhà nước, việc làm và thu nhập động chạm đến lợi ích của nhiều người, nhiều tầng lớp trong xã hội. Vì vậy cải cách chính sách tiền lương phải đảm bảo cân đối vĩ mô của nền kinh tế. Trong kinh tế thị trường tiền lương là giá cả sức lao động. Nhưng tiền lương ở nước ta hiện nay chưa thực sự là giá cả sức lao động nó chưa phản ánh giá trị sức lao động và mối tương quan cung – cầu. Vì vậy chính sách tiền lương là một trong những chính sách kinh tế – xã hội quan trọng. Tiền lương là tụ điểm của mọi vấn đề kinh tế, chính trị, xã hội và công bằng. Cải cách chính sách tiền lương liên quan đến lợi ích của tất cả người lao động. Mặt khác việc xác định tiền lương sao cho nó có thể thực hiện được các chức năng của nó là phù hợp với tốc độ phát triển kinh tế xã hội, là một việc khó khăn, phức tạp. Vì thế cải cách chính sách tiền lương cần được thực hiện từng bước thận trọng, không được nóng vội, chủ quan để xây dựng cơ chế tiền lương có hiệu quả 2.2. GiảI pháp thực hiện công bằng thông qua chính sách thuế Chính sách thuế là một trong những chính sách chủ yếu để nhà nước phân phối và điều tiết thu nhập. Vì vậy cải cách đồng bộ chính sách thuế là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hộichủ nghĩa và hội nhập kinh tế trong giai đoạn hiện nay và trong thời gian tới. Cải cách chính sách thuế theo hướng hệ thống thuế phải thực hiện được các chức năng cơ bản của thuế là động viên nguồn thu cho ngân sách nhà nước, điều tiết vĩ mô, đảm bảo công bằng xã hội. Cơ cấu lại mức huy động của từng sắc thuế tăng mức động viên các loại thuế và phí áp dụng hệ thống thuế thống nhất, giảm thuế suất, thực hiện thuế chung đối với các loại đối tượng. Thực hiện mở rộng chính sách thuế, giảm mức thuế với trường hợp ưu đãi cần được thay thế bằng các biện pháp hỗ trợ về tài chính, tín dụng. Mặt khác tính phức tạp của hệ thống thuế còn là vấn đề lớn, do đó yêu cầu cấp thiết của cải cách hệ thống thuế là làm đơn giản hoá hệ thống thuế. Hệ thống thuế rộng lớn và phức tạp, bao gồm luật thuế giá trị gia tăng, luật thuế tiêu thụ đặc biệt, luật thuế xuất nhập khẩu, luật thuế thu nhập doanh nghiệp, luật thuế thu nhập cá nhân, luật thuế sử dụng đất đai, luật thuế tài nguyên, pháp lệnh phí và lệ phí. Thuế thu nhập là một loại thuế trực thu đánh trực tiếp vào thu nhập thực tế của các cá nhân và các pháp nhân. Nó không chỉ là một trong những nguồn thu chủ yếu của ngân sách nhà nước mà còn là công cụ của nhà nước để điều tiết thu nhập và thực hiện công bằng xã hội. Phương hướng hoàn thiện thuế thu nhập trong thời gian tới là giảm mức thuế suất và mở rộng diện chịu thuế thu nhập cá nhân và các tài chính kinh tế đảm bảo tăng dần tỉ trọng của thuế thu nhập trong tổng số thu thuế. Thuế tiêu thhụ đặc biệt là loại thuế mục tiêu thực hiện chính sách điều tiết thu nhập của nhà nước đối với tiêu dùng hàng hoá và dịch vụ, hướng dẫn tiêu dùng đảm bảo nguồn thu cho ngân sách nhà nước trong điều kiện cắt giảm thuế nhập khẩu theo cam kết hội nhập kinh tế. Vì vậy trong thời gian tới cần mở rộng đối tượng chịu thuế thu nhập đặc biệt, việc cải cách hệ thống thuế sẽ đảm bảo cho hệ thống thuế thực hiện được các chức năng của nó tăng cường vai trò là một chính sách, phươnh pháp hiệu quả. 2.3. Giải pháp thực hiện công bằng qua chính sách giải quyết việc làm Là nhân tố quyết định đến phát huy nhân tố con người, làm lành mạnh hoá xã hội, đáp ứng nguyện vọng chính đáng của nhân dân tạo nhiều việc làm, giảm tỉ lệ thất nghiệp ở thành thị và nông thôn , là một trong những nhiệm vụ quan trọng trong sự phát triển kinh tế – xã hội và là vấn đề cấp bách hiện nay. Phát triển kinh tế, xã hội tạo việc làm là giải pháp cơ bản, quan trọng nhất, quyết định tăng, giảm chỗ làm việc. Vì vậy phải thực hiện các hoạt động nhằm giải quyết hợp lý mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và tạo việc làm mới duy trì tốc độ tăng GDP 7,5%/năm để giải quyết việc làm cho 2,4 triệu lao động. Mở rộng thị trường xuất khẩu lao động và chuyên gia là giải pháp quan trọng góp phần cải thiện môi trường lao động ngoài nước, đưa lao động ra nước ngoài làm việc có thời hạn. Tăng cường các hoạt động hỗ trợ trực tiếp để giải quyết việc làm và phát triển thị trường lao động, tổ chức cho vay từ quĩ hỗ trợ quốc gia, hỗ trợ việc làm mới và việc làm thêm cho người lao động. Tổ chức các hoạt động giới thiệu việc làm và tư vấn giới thiệu việc làm cho lao động xã hội, từng bước quy hoạch và hoàn thiện hệ thống trung tâm giới thiệu việc làm, phát triển thị trường lao động. Để thực hiện các mục tiêu đó cần giải quyết hai vấn đề then chốt có tính chất quyết định: Tăng trưởng kinh tế nhanh, bền vững và thực hiện nhất quán chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần. Việc thực hiện nhất quán chính sách kinh tế nhiều thành phần sẽ giải phóng sứcc lao động, động viên tối đa các nguồn lực bên trong và bên ngoài vào phát triển kinh tế, tạo việc làm, cải thiện đời sống của nhân dân. Các biện pháp gắn với nó là: Phát triển kinh tế tư nhân, phát triển kinh tế tư nhân có vai trò quan trọng đối với việc tạo nhiều việc làm, giảm bớt đói nghèo. Sự phất triển của kinh tế tư nhân chắc chắn sẽ tạo ra một số lượng lớn việc làm trong tương lai. Phát triển toàn diện kinh tế nông thôn như chúng ta đã biết lao động nông thôn chiếm tỷ trọng khá cao. Để giải quyết việc làm ở nông thôn cần tập trung sức đẩy mạnh hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn , nâng cao chất lượng nguồn lực để đào tạo, đổi mới nội dung và cơ cấu ngành nghề đào tạo phù hợp với ngành nghề trong nền kinh tế. Làm như vậy sẽ thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu lao động phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế, xã hội. 2.4. GiảI pháp thực hiện công bằng qua chính sách xoá đói giảm nghèo. Xoá đói giảm ngèo là nhiệm vụ phức thạp, đày khò khăn gian khổ, cần huy động sức mạnh của toèn đảng , toàn dân, thực hiện đồng bộ các giả pháp cả về cơ chế chính sách và chương trình dự án đầu tư, phân công trách nhiêm rõ ràng cho các nghành , các cấp tổ chức đoà thể và sức mạnh toà dân. Đối với người nghèo, xã nghèo, Đảng và nhà nước cần tiếp tục cos những chính sách ưu đãi nhằm tạo môi trường, cơ hội cho người nghèo được tham gía và hưởng thụ những thành quả của công cuộc đổi mới, tiếp tục sửa đổi , bổ xung và hoàn thiện cơ chế chính sách khuôn khổ pháp lý, điều chỉnh cơ cấu đầu tư hướng vào phát triển nông nghiệp, nông thôn, phát triển mạnh mẽ ngành nghề nông thôn. Tiếp tục thực hiên các chính sách ưu đãi về tín dụng cho người nghèo, xã nghèô. Đi dôi với cho vay vốn cần coi trọng chương trình bồi dưỡng, tập huần hường dẫn cho dân biết sử dụng đồng vốn chop vay vào phát triển sản xuất chăn nuôi có hiệu quả. Đối với hộ dân cư nghèo tiếp tục có chính sách trợ giúp về y tế , giáo dục để con em được đến trường, khi ốm đau dược khám chữa bệnh miễn phí, tạo điều kiện cho người nghèo được tham gia các khoá đào tạo nghề giúo cho họ có điều kiện tìm được việc làm ổn định đời sống. Tạo điều kiện cho nghwời nghèo tiếp cận các dịch vụ xã hội. Phúc lơị xã hôi là một công cụ mà nhà nước có thể sử dụng để làm giảm bớt sự chênh lệch quá lớn, đảm bảo công bằng xã hội. Tuy nhiên, một số công trình cho thấy những trợ cấp này còn chiếm tỷ lệ thấp trong tổng thu nhập của dân cư. 2.5. GiảI pháp thưc hiện công bằng thông qua chính sách bảo hiểm xã hội và bảo hiểm y tế. Trong thời gian qua, chính sách bảo hiểm xã hôi và bảo hiểm y tếdẫ từng bước hoàn thiện và trở thành một bộ phận quan trọng trong chiến lược phát triển con người của Đảng . Việc tực hiên chính sách bảo hiểmxã hội đã có những chuyển biến mạnh mẽ, bước đầu đạy dược những kết quả quan trọng. Tuy nhiên việc thực hiên chính sách bảo hiểmxã hội vẫn còn những hạn chế cần được khắc phục, đối tượng tham gia bảo hiểm vẫn còn hạn hẹp, nhận thức về chính sách bảo hiểm chưa đầy đủ. Để đổi mới chính sách bảo hiểm cần thực hiện biện pháp sau:Sớm xây dựng và ban hènh luật bảo hiểmxã hội. Tạo hành lang pháp lý cơ bản cho hoạt động bảo hiểmxã hội trong đó các chế độ bảo hiểmxã hội cần được quy định phù hợp, khản trương mở rộng đối tượng tham gia bảo hiểmxã hội để thu hút tất cả lao động thuộc các thàn phầ kinh tế có quyên và nghĩa vụ thực hiện bảo hiểmxã hội . Mức đóng góp và hưởng các chế đọ bảo hiểm cần được nghin cứu xác định phù hợp để đảm bẩo cuộc sống ổn định của đối tượng , tính toán đảm bảo công bằng giữâ đóng góp và hưởng thụ, cân đối giữa thu và chi để đảm bảo an toàn quỹ bảo hiểmxã hội lâu dài. Do đó cần xây dựng phương án bảo tồn và tăng trưởng quỹ bảo hiểm dài hạn để đảm bảo cân đối thu chi. Tiếp tục liện toàn bộ máy hệ thống bảo hiểm Việt Nam, nâng cao năng lực quản lý, đẩy manh cải cách hành chính, cải tiến lề lối làm việc, tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ. Mở rông thêm quyền hạn cho hệ thống bảo hiểmxã hội Việt Nam được thực hiện nhiêm vụ, kiểm tra, kiểm soát tình hình lao động và chủ sử dụng lao động. Tăng cường công tác thông tin tuyên truyền về chính sách chế độ bảo hiểmxã hội để mọi người, mọi đơn vị hiểu sâu rộng về nghĩa vụ và quyềnlợi khi họ tham gia bảo hiểmxã hội, góp phần tạo ra được thị trường lao dộng mới, làm lành mạnh các quan hệ xã hội. Kết luận Qua những phân tích ở trên có thể nói phân phối thu nhập là một trong những nhân tố quan trọng, tác động đến sự ổn định và phát triển nói chung của nền kinh tế và công bằng xã hội. Trong thời đại ngày nay phân phối thu nhập từng bước trơ thành một tiêu chuẩn đánh giá về sự phát triển bèn vững của toàn xã hội nhất lầ trong xã hộichủ nghĩa của chúng ta, một xã hội đề cao và côi trọng sự phát triển bình đẳng của con người. Hiện nay phân phối thu nhập đang được nhà nước điều chỉnh bằng hệ thống chính sách toàn diện và đồng bộ bao gồm: Chính sách tiền lưong, chính sách bảo hiểmxã hội, chính sách xoá đói giảm nghèo, chính sách việc làm vầ chính sách thuế. Mặc dù còn rất nhiều bất cập như tỷ lệ thất nghiệp chưa giảm thiểu một cách tối đa, viẹc xoá đói giảm nghèo còn bị ảnh hưởng lớn của cơ chế thị trường nhưng Đảng và nhà nước đang có những nỗ lực đáng kể để cải thiên từng bước tình trạng hiện nay. Trong thời gian tới đây mạnh việc thực hiệ các giải pháp là một trong những nhiện vụ trung tâm và chủ yếu. Để làm được điều đó trước hết cần phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng và nhà nước trong việc không ngừng đổi mới các chính sách cho phù hợp với điều kiện mới. Bên cạnh đó những nguyên tắc phân phối theo lao động cũng phải được vận dụng một cách sáng tạo hơn. Bằng việc kết hợp đồng bộ giữa nỗ nực của nhà nước và mỗi cá nhân chắc chắn phân phối thu nhập sẽ dần được điều chỉnh hợp lý và thu được nhiều thành tựu mới kéo theo sự phát triển toàn diện và bền vững của xã hội. Một xã hội muốn công bằng thiết yếu cần phải thiết lập và duy trì được sự bình đẳng của mỗi ngưòi bằng cách phân phối thu nhập hợp lý và tối ưu nhất. Danh mục tàI liệu tham khảo Đảng cộng sản Việt Nam văn kiện đạI hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII,IX Mai Ngọc Cương :Phương pháp thu nhập trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Lê Văn doanh: Tăng trưởng kinh tế và chính sách xã hội trong quá trình chuyển đổi từ 1991 đến nay Đàm Hữu Đắc : GiảI pháp xoá đói giảm nghèo _Tạp chí kinh tế và phát triển Nguyễn ĐạI Đồng : Lao động và việc làm năm 2003_Tạp chí lao động và xã hội Nguyễn Hữu Đổng : kết quả thực hiện mục tiêu giảI quyết việc làm và phương hương tới _Lao động và xã hội 2003 Nguyễn Ngọc Hà : ngyên tắc phân phối vì mục tiêu công băng xã hội ở nước ta hiên nay _ Triết học 2002 Trân Thị Hằng : Về phân phối thu nhập nước ta hiện nay_ Ly luận chính trị 2002 Trần Ngọc Hoàng : Thuế thu nhập doanh nghiệp _ Tạp chí kinh tế và phát triển Vũ Hoàng Ngân : Công cuộc xoá đói giảm nghèo ở Việt Nam _ Tạp chí kinh tế và phát triển Nguyển Công Ngự : Về thực trạng phân phối thu nhập trong các doanh nghiệp ở Việt Nam _ Tạp chí kinh tế và phát triển Phạm Đức Thành : Vấn đề giảI quyết viêc làm _ Tạp chí kinh tế và phát triển Mai Hữu Thực : Vai trò của nhà nước trong phân phối thu nhập ở nước ta hiện nay Đỗ Văn Sinh : Chính sách bảo hiểm xx hội trong thờ kỳ đổi mới _ Con số và sự kiện mục lục 1.3. Phân phối thu nhập trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hộichủ nghĩa cần giải quyết hợp lý mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ xã hội 1.4. phân phối thu nhập trong nên kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa phải giải quyết công bằng trong phân phối giữa các tầng lớp dân cư đặc biệt là trong tầng lớp dân cư có thu nhập thấp 2. Những giải pháp thực hiện công bằng thu nhập trong thời gian tới 2.1. GiảI pháp thực hiện công bằng thông qua chính sách tiền lương 2.2. GiảI pháp thực hiện công bằng thông qua chính sách thuế 2.3. Giải pháp thực hiện công bằng qua chính sách giải quyết việc làm 2.4. GiảI pháp thực hiện công bằng qua chính sách xoá đói giảm nghèo 2.5. GiảI pháp thưc hiện công bằng thông qua chính sách bảo hiểm xã hội và bảo hiểm y tế Kết luận Danh mục tàI liệu tham khảo Đảng cộng sản Việt Nam văn kiện đạI hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII,IX Mai Ngọc Cương :Phương pháp thu nhập trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Lê Văn doanh: Tăng trưởng kinh tế và chính sách xã hội trong quá trình chuyển đổi từ 1991 đến nay Đàm Hữu Đắc : GiảI pháp xoá đói giảm nghèo _Tạp chí kinh tế và phát triển Nguyễn ĐạI Đồng : Lao động và việc làm năm 2003_Tạp chí lao động và xã hội Nguyễn Hữu Đổng : kết quả thực hiện mục tiêu giảI quyết việc làm và phương hương tới _Lao động và xã hội 2003 Nguyễn Ngọc Hà : ngyên tắc phân phối vì mục tiêu công băng xã hội ở nước ta hiên nay _ Triết học 2002 Trân Thị Hằng : Về phân phối thu nhập nước ta hiện nay_ Ly luận chính trị 2002 Trần Ngọc Hoàng : Thuế thu nhập doanh nghiệp _ Tạp chí kinh tế và phát triển Vũ Hoàng Ngân : Công cuộc xoá đói giảm nghèo ở Việt Nam _ Tạp chí kinh tế và phát triển Nguyển Công Ngự : Về thực trạng phân phối thu nhập trong các doanh nghiệp ở Việt Nam _ Tạp chí kinh tế và phát triển Phạm Đức Thành : Vấn đề giảI quyết viêc làm _ Tạp chí kinh tế và phát triển Mai Hữu Thực : Vai trò của nhà nước trong phân phối thu nhập ở nước ta hiện nay Đỗ Văn Sinh : Chính sách bảo hiểm xx hội trong thờ kỳ đổi mới _ Con số và sự kiện

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc33667.doc
Tài liệu liên quan