Đề tài Thực trạng phát triển khu công nghiệp, khu chế xuất ở Việt Nam

Như vậy qua việc nghiên cứu tình hình phát triển của KCN, KCX ở Việt Nam, chúng ta thấy vai trò của KCN, KCX với sự phát triển kinh tế xã hội là hết sức to lớn. Điều này không chỉ đúng với Việt Nam mà còn đúng với tất cả các nước. Chính vì vậy hình thức KCN, KCX đã trở thành phổ biến trên thế giới đặc biệt là trong các quốc gia đang phát triển. Việc phát triển các KCN, KCX đối với những nước đang phát triển như Việt Nam sẽ giúp giải quyết khó khăn về vốn, việc làm, công nghệ học tập được kinh nghiệm quản lý tiên tiến và nâng cao tay nghề cho công nhân, thay đổi cơ cấu xuất khẩu phục vụ mục tiêu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Còn đối với những nước phát triển sẽ chuyển giao được công nghệ lạc hậu, sử dụng được vốn nhàn rỗi, kéo dài vòng đời sản phẩm, mở rộng thị trường. Việc phát triển KCN, KCX ở Việt Nam tuy đã đóng vai trò hết sức to lớn, cải tiến đáng kể nền công nghiệp lạc hậu. Nhưng chúng ta cũng cần nhìn nhận những thiếu sót hạn chế trong việc phát triển KCN, KCX vừa qua để phát huy tối đa lợi ích của KCN, KCX.

doc27 trang | Chia sẻ: Kuang2 | Lượt xem: 918 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng phát triển khu công nghiệp, khu chế xuất ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời nói đầu ở Việt Nam hiện nay khu công nghiệp (KCN), khu chế xuất (KCX) đã trở thành những thực thể không thể thiếu được trong nền kinh tế. KCN, KCX góp phần tăng sản lượng công nghiệp, tăng xuất khẩu, giảm thất nghiệp, tăng thu nhập người dân hình thành cơ cấu kinh tế hợp lý hơn. Để tìm hiểu rõ hơn từ đó rút ra những giải pháp thì việc nghiên cứu tình hình phát triển KCN, KCX là điều cần thiết. Mục đích của đề tài này là nhằm xem xét tình hình thực tế trong các KCN, KCX của Việt Nam thời gian qua (tính đến tháng 9 năm 1999) từ đó đưa ra những giải pháp cần thiết cho sự phát triển các KCN, KCX ở nước ta. Nội dung của đề tài gồm 3 phần: Phần I: Những vấn đề chung về KCN, KCX Phần II: Thực trạng phát triển KCN, KCX ở Việt Nam Phần III: Giải pháp và kiến nghị nhằm phát triển KCN, KCX ở Việt Nam. Trong đề tài này cũng xem xét kinh nghiệm của một số nước trong việc phát triển KCN, KCX như Thái Lan và Đài Loan. Đây là vấn đề bức xúc và mang tầm vĩ mô, vì vậy không thể tránh khỏi những thiếu sót rất mong có sự góp ý của các bạn và các thầy cô giáo. Để hoàn thành Đề án này em xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo trong bộ môn kinh tế và kinh doanh quốc tế trường Đại học Kinh tế Quốc dân và đặc biệt là Thạc sỹ Nguyễn Anh Minh, đã giúp đỡ em hoàn thành đề án này. phần I những vấn đề chung về KCN, KCX 1. Khái niệm và đặc điểm của KCN, KCX 1.1. Khu công nghiệp * Khái niệm KCN: Khu công nghiệp (KCN - Industrial Zone) còn gọi là khu công nghiệp tập chung là khu chuyên sản xuất hàng công nghiệp và các dịch vụ phục vụ cho sản xuất công nghiệp được Chính phủ nước sở tại thành lập hoặc cho phép thành lập. Trong các KCN có các doanh nghiệp KCN hoạt động đó là những doanh nghiệp được thành lập và hoạt động trong KCN. * Đặc điểm KCN: Mỗi nước khác nhau có các chính sách phát triển KCN khác nhau. Căn cứ vào qui chế về KCN ta có thể rút ra các đặc điểm chung cho một KCN điển hình: - KCN có ranh giới địa lý xác định, chuyển sản xuất công nghiệp và thực hiện các dịch vụ sản xuất công nghiệp, trong KCN không có dân cư sinh sống, KCN trên lãnh thổ nước nào thì do Chính phủ nước đó thành lập hoặc cho phép thành lập (tạm gọi là Chính phủ nước sở tại). - Trong KCN có các doanh nghiệp KCN hoạt động là doanh nghiệp của nước sở tại, doanh nghiệp nước ngoài hoặc doanh nghiệp KCX. - Trong KCN thông thường các doanh nghiệp được đầu tư trong các lĩnh vực sau: + Xây dựng và kinh doanh công trình cơ sở hạ tầng. + Sản xuất, gia công, lắp ráp các sản phẩm công nghiệp để xuất khẩu hoặc tiêu thụ trong thị trường nước đó. + Thực hiện các dịch vụ hỗ trợ sản xuất công nghiệp. - Doanh nghiệp KCN có những quyền chính sau: + Thuê đất trong KCN để xây dựng nhà xưởng và công trình kiến trúc phục vụ sản xuất kinh doanh. + Sử dụng có trả tiền các công trình cơ sở hạ tầng, các tiện nghi diện tích công cộng và các dịch vụ khác trong KCN. + Tổ chức sản xuất kinh doanh, xuất nhập khẩu phù hợp với giấy phép và điều lệ của doanh nghiệp. + Thuê phương tiện vận tải và các dịch vụ khác ở ngoài KCN. - Doanh nghiệp KCN có những nghĩa vụ chính sau: + Tuân thủ pháp luật nước sở tại, qui chế điều lệ của KCN. + Đăng ký với ban quản lý KCN về số lượng sản phẩm xuất khẩu hoặc tiêu thụ tại thị trường nước sở tại. + Thực hiện các nghĩa vụ tài chính với Nhà nước sở tại. + Thực hiện các qui định về an toàn lao động vệ sinh môi trường, kế toán và an ninh trật tự phù hợp với qui định của KCN. - Chính phủ nước sở tại luôn mong muốn và tạo điều kiện thuận lợi để các doanh nghiệp KCN xây dựng và phát triển cơ sở hạ tầng trong KCN. 1.2. Khu chế xuất: * Khái niệm khu chế xuất: Khu chế xuất có nhiều tên gọi khác nhau với các định nghĩa khác nhau. KCX ngày nay là sự hoàn thiện của cảng tự do và khu vực mậu dịch tự do. Theo tổ chức phát triển công nghiệp của Liên hiệp quốc (UNIDO); KCX là một khu vực tương đối nhỏ, phân cách về địa lý trong một quốc gia nhằm thu hút các xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài hướng về xuất khẩu bằng cách cung cấp cho các xí nghiệp những điều kiện về đầu tư và mậu dịch thuận lợi đặc biệt so với nội địa. KCX cho phép nhập khẩu hàng hoá dùng cho sản xuất để xuất khẩu miễn thuế dựa trên cơ sở kho quá cảnh. Theo Việt Nam: KCX là khu công nghiệp chuyên sản xuất hàng xuất khẩu, thực hiện các dịch vụ cho sản xuất hàng xuất khẩu và hoạt động xuất khẩu có ranh giới địa lý xác định, do Chính phủ thành lập hoặc cho phép thành lập, bao gồm một hoặc nhiều doanh nghiệp. Doanh nghiệp KCX là những doanh nghiệp được thành lập và hoạt động trong KCX dưới dạng công ty trách nhiệm hữu hạn. * Đặc điểm KCX: - KCX là khu vực chuyên môn hoá sản xuất hàng công nghiệp chủ yếu vì mục đích lợi nhuận. - Là khu vực biệt lập, có ranh giới địa lý xác định, có chế độ mậu dịch và thuế quan riêng theo phương thức tự do. - Hàng hoá ra vào KCX phải được kiểm tra nghiêm ngặt. - Xây dựng KCX, Nhà nước sở tại mong muốn tăng xuất khẩu tăng thu ngoại tệ, tạo công ăn việc làm, mở ra hướng phát triển công nghiệp theo hướng hiện đại hoá hoà nhập nền kinh tế với khu vực và thế giới. - Các lĩnh vực đầu tư chủ yếu trong KCX gồm có: sản xuất, lắp đặt, gia công, kinh doanh các dịch vụ cho hoạt động trên và cho xuất khẩu. - Các điều kiện chủ yếu để được đầu tư vào KCX: + Đối với cơ sở sản xuất thì tuyệt đại bộ phận sản phẩm phải được xuất khẩu, sản xuất không gây ô nhiễm môi trường, ưu tiên sử dụng lao động nội địa. + Đối với cơ sở dịch vụ như vận chuyển, bốc dỡ, sửa chữa, bảo hiểm, ngân hàng hỗ trợ có hiệu quả cho hoạt động sản xuất, xuất nhập khẩu ở KCX. - Để hoạt động trong KCX, nhà đầu tư phải làm thủ tục theo quy chế KCX và chỉ có tư cách pháp nhân sau khi được ban quản lý cấp giấy phép kinh doanh và chứng nhận đăng ký điều lệ doanh nghiệp. - Doanh nghiệp KCX có quyền thuê đất trong KCX, xây dựng nhà xưởng, sử dụng các công trình kết cấu hạ tầng, các dịch vụ ở KCX, được tuyển dụng lao động và trả lương theo sự thoả thuận, được nhập thiết bị, nguyên vật liệu cho quá trình sản xuất kinh doanh. - Doanh nghiệp KCX phải tuân theo pháp luật, chế độ kế toán tài chính, chế độ bảo hiểm, an toàn lao động và các tiêu chuẩn vệ sinh môi trường phù hợp với quy định của nước sở tại. - Hàng hoá của doanh nghiệp KCX ra vào nội địa coi như hàng xuất nhập khẩu và phải chịu sự kiểm tra của hải quan, thủ tục hải quan của nước sở tại. 2. Phân biệt KCN với KCX * Điểm giống nhau: KCN, KCX đều là những địa bàn sản xuất công nghiệp gồm những xí nghiệp qui mô vừa và nhỏ, không có dân cư sinh sống, các loại dịch vụ nhằm phục vụ trực tiếp cho hoạt động công nghiệp do Chính phủ nước sở tại quyết định thành lập có ranh giới pháp lý riêng và Ban quản lý riêng. * Điểm khác nhau: - KCX là khu vực sản xuất hàng hoá chủ yếu để xuất khẩu. Quan hệ giữa doanh nghiệp KCX với thị trường nội địa là quan hệ ngoại thương, cũng giống như quan hệ giữa thị trường trong nước và thị trường ngoài nước. KCX là khu vực thương mại tự do vì hàng hoá từ KCX ra thị trường nước ngoài cũng như từ thị trường nước ngoài vào KCX không phải chịu thuế xuất nhập khẩu và ít bị ràng buộc bởi các biện pháp phi thuế quan. - KCN là khu vực sản xuất hàng hoá dùng cho cả xuất khẩu và tiêu thụ nội địa. Quan hệ giữa doanh nghiệp KCN với thị trường nội địa là quan hệ nội thương. KCN không phải là khu vực mậu dịch tự do vì hàng hoá từ KCN ra thị trường nước ngoài và từ thị trường nước ngoài vào KCN phải chịu thuế xuất nhập khẩu. KCN chỉ là khu vực sản xuất tập trung. - Đối với nước sở tại (nước thành lập KCN, KCX) thì KCX thường coi là có nhiều lợi ích hơn KCN vì lý do sau đây: + Do doanh nghiệp KCX không được sử dụng thị trường nội địa nên nhìn chung không cạnh tranh với nền sản xuất trong nước. + Nhà nước không phải lo cân đối ngoại tệ cho các doanh nghiệp mà ngược lại nguồn ngoại tệ của xã hội được tăng lên nhanh chóng nhờ sự hoạt động của KCX. + Thúc đẩy việc mở cửa thị trường nội địa nhanh hơn phù hợp với chủ trương xây dựng một nền kinh tế mở, hướng mạnh về xuất khẩu. Đây cũng chính là sự phù hợp với xu hướng chung của thế giới. + Những gì coi là thuận lợi của nước sở tại thì lại là khó khăn với nhà đầu tư. Để có thể xuất khẩu 100% sản phẩm. Việc tổ chức sản xuất phải đạt chất lượng cao, đồng đều, giá hợp lý phù hợp với điều kiện cạnh tranh trên thị trường quốc tế. - Các nhà đầu tư thường quan tâm hơn đến hình thức đầu tư trong KCN nhằm tận dung lợi thế về thị trường nội địa chính điều này đã tạo nên khó khăn khi xây dựng thành công KCX. 3. Sự cần thiết phải phát triển các KCN, KCX trong nền kinh tế. Từ khi xuất hiện hình thức KCN, KCX cho đến nay, thực tế đã cho chúng ta thấy chúng có vai trò hết sức quan trọng trong nền kinh tế đặc biệt là đối với các nước đang phát triển đang thiếu vốn và kỹ thuật việc tập chung các doanh nghiệp sản xuất trong KCN, KCX đã tạo ra nguồn vốn lớn từ nước ngoài cũng như sự tập chung được nguồn vốn trong nước tạo điều kiện đưa kỹ thuật mới vào sản xuất, thúc đẩy tiến bộ khoa học công nghệ, xây dựng các ngành mũi nhọn, nâng cao vị trí chủ đạo của công nghiệp trong nền kinh tế đảm bảo tăng trưởng kinh tế bền vững. - Tăng cường xuất khẩu, thu được nhiều ngoại tệ, phân bố lại các khu vực sản xuất và sinh hoạt thực hiện đô thị hoá nông thôn, chuyển dời các cơ sở sản xuất từ thành phố ra ngoại thành, thực hiện độ thị hoá nông thôn, cải tạo môi trường sống cho dân cư đô thị, tạo thêm nhiều việc làm cho lao động thành phố và nông thôn. - Việc phát triển KCN, KCX ngoài việc giải quyết khó khăn về vốn, việc làm còn giúp cho Chính phủ nước sở tại học tập kinh nghiệm quản lý tiên tiến, khai thác có hiệu quả lợi thế so sánh của quốc gia mình mở ra khả năng phát triển công nghiệp theo hướng hiện đại hoá góp phần thực hiện chính sách mở cửa nền kinh tế, hoà nhập nền kinh tế với khu vực và thế giới. - Việc tham gia trong các KCN, KCX, giúp cho doanh nghiệp tăng khả năng cạnh tranh, khuyến trương nhãn hiệu hàng hoá của mình. Giúp cho nước chủ nhà xuất khẩu được vốn, chuyển giao được những công nghệ đã lỗi thời để kéo dài vòng đời sản phẩm. Do những vai trò hết sức to lớn của KCN, KCX đến tất cả các bên trong việc phát triển kinh tế nên từ khi ra đời KCN, KCX đã phát triển manh mẽ trong tất cả các quốc gia. Tại nhiều quốc gia việc phát triển thành công KCN, KCX đã góp phần to lớn làm thay đổi bộ mặt kinh tế của quốc gia mình theo chiều hướng tích cực. 4. Những điều kiện và chính sách cần thiết để phát triển KCN, KCX. Sản phẩm của KCN được tiêu dùng chủ yếu ở nước sở tại, sản phẩm của KCX thì chủ yếu là xuất khẩu nên những ngành nghề trong KCN, KCX phải đáp ứng được những nhu cầu trước mắt và lâu dài ở thị trường nội địa và thị trường mà doanh nghiệp hướng tới. Hàng hoá ở KCN, KCX có lợi thế về chi phí vận tải về thủ tục nhập khẩu, về thuế. Để phát triển KCN, KCX thì ngay từ khi dự kiến xây dựng phải xem xét tới những điều kiện sau đây: - Địa điểm phải thuận tiện, kết cấu cơ sở hạ tầng thuận lợi & đầy đủ cả bên trong và bên ngoài KCN, KCX (vận tải đường bộ, đường sắt, đường thuỷ, sân bay, bến cảng, hệ thống kho tàng điện nước nhà ở,...). - Các thủ tục phải đơn giản, nhanh chóng, đủ hấp dẫn với các nhà đầu tư, quản lý và điều hành nhanh nhạy, ít đầu mối. - Có đủ các dịch vụ thuận tiện cho sản xuất kinh doanh và giá cả phải chăng (đặc biệt là giá cho thuê đất và cơ sở hạ tầng trong khu). - Cần lựa chọn để xác định hướng phát triển hợp lý trong sản xuất của từng khu tránh độc quyền và tránh những trùng lặp không cần thiết. - Đánh giá kỹ khả năng thu hút các doanh nghiệp và các nhà đầu tư. 5. Kinh nghiệm của một số nước trong việc phát triển KCN, KCX. KCN của thế giới được thành lập đầu tiên tại Anh vào năm 1896. Người ta sớm nhận ra ưu điểm của hình thức tổ chức này do đó số lượng KCN được xây dựng ngày càng tăng trên thế giới. Việt Nam là nước đi sau để thực hiện mục tiêu “đi tắt đón đầu” trong phát triển kinh tế đòi hỏi chúng ta phải học hỏi kinh nghiệm của các nước đi trước để tiến hành phát triển KCN, KCX cho phù hợp với điều kiện phát triển của Việt Nam. 5.1. Kinh nghiệm của Thái Lan. Vào năm 1960 Luật KCN được Nhà nước Thái Lan ban hành từ đó đến nay có hơn 40 KCN hoạt động. Nhà nước Thái Lan qui hoạch phát triển KCN dựa trên qui hoạch phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Những KCN được Nhà nước bảo trợ tuy bị lỗ nhưng vẫn hoạt động đảm bảo cho sự phát triển như KCN Bắc Thái Lan, có khoảng 11 KCN được xây dựng không nằm trong qui hoạch miễn là họ có thị trường. Diện tích KCN, mặt bằng KCN có thể được mở rộng hơn dự án đã được duyệt nếu có thoả thuận với người có đất mà mình được dùng. Về quản lý do Cục quản lý KCN Thái Lan và ngoài ra Cục còn có chức năng kinh doanh. Về chính sách đối với xây dựng và kinh doanh cơ sở hạ tầng, Nhà nước không ưu đãi cho vay vốn, tuy nhiên Nhà nước đứng ra bảo lãnh cho các công ty Nhà nước vay mà không phải thế chấp. Mọi ưu tiên đều dành hết cho các KCN trong nước. Mọi khách hàng muốn đầu tư vào KCN họ sẽ được tạo điều kiện cần thiết để biết về KCN, mạng lưới KCN. 5.2. Kinh nghiệm của Đài Loan. Đài Loan là một trong những quốc gia thành công trong việc phát triển KCN, KCX. Từ cuối những thập kỷ 50, Đài Loan đã nhận được vị thế kinh tế của mình là kinh tế hải đảo đất chật người đông, tài nguyên nghèo nàn kinh tế phụ thuộc rất lớn vào ngoại thương. Nhận thức được điều này, Đài Loan chỉ phát triển những ngành công nghiệp nhỏ sử dụng nhiều lao động. Các xí nghiệp vừa và nhỏ xuất hiện rất nhiều trong KCN, KCX và các doanh nghiệp này được sử dụng cơ sở hạ tầng thuận lợi cùng một số điều kiện ưu đãi khác. Hiện nay Đài Loan có 3 KCN, KCX. Trung ương quản lý 12 KCN có tầm quan trọng nhất nằm trong qui hoạch được chính quyền tự phê duyệt, các KCN còn lại được địa phương hoặc tư nhân quản lý. Các KCN ở Đài Loan phân bố khắp nước, hầu như huyện nào cũng có KCN, mỗi KCN là một hạt nhân để phát triển bền vững. Đây là những kinh nghiệm quí báu để cho Nhà nước Việt Nam đánh giá lại tiềm năng, năng lực định vị lại vị thế của mình để phát triển KCN, KCX một cách hợp lý nhất. Phần II Thực trạng phát triển KCN, KCX ở Việt Nam 1. Quá trình hình thành và phát triển KCN, KCX ở Việt Nam Trong quá trình đổi mới hội nhập kinh tế cùng thế giới, Nhà nước Việt Nam đã sớm nhận biết được tầm quan trọng của KCN, KCX đối với sự phát triển kinh tế cũng như thu hút đầu tư nước ngoài. Vì vậy từ những năm 80 Nhà nước ta đã có chủ trương cho phép thành lập KCN, KCX. Mở đầu cho sự phát triển KCN, KCX ở Việt Nam là sự ra đời của KCN, KCX Tân Thuận tại TP. Hồ Chí Minh liên doanh với Đài Loan vào tháng 11/1990 có vốn đầu tư 89 triệu USD, vốn pháp định 30 triệu USD, diện tích 300ha. KCX Linh Trung liên doanh với Hồng Kông (cấp giấy phép năm 1992), vốn đầu tư 14 triệu USD, vốn pháp định 6 triệu USD, diện tích 60ha. Dẫn đầu trong thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài hiện nay là KCX Biên Hoà 2 (900 triệu USD). Tính đến hết năm 1996 các dự án trong KCN đã thu hút gần 40 vạn lao động trực tiếp sản xuất khối lượng hàng hoá trị giá 730 triệu USD trong đó xuất khẩu 406 triệu USD, và có hơn 50 xí nghiệp KCX hoạt động xuất khẩu khối lượng hàng hoá trị giá 116 triệu USD, và có trên một vạn lao động làm việc. Tính đến tháng 9 năm 1999 cả nước có 66 KCN và 3 KCX. Cho đến nay số lượng KCN, KCX đã lần lượt được mở rộng khá nhanh chóng. Xu hướng ở nước ta là hình thành KCN. Từ năm 1991 đến tháng 9 năm 1999, tốc độ phát triển của các KCN, KCX tăng đặc biệt nhanh vào các năm 1996, 1997, 1998. Các KCN nằm hầu hết ở phía Nam với 40 khu, miền Bắc 13 khu, miền Trung 13 khu. Về loại hình KCN có 16 KCN thuộc loại KCN được thành lập trên cơ sở có một số doanh nghiệp công nghiệp đang hoạt động. 10 KCN phục vụ di dời từ nội đô lớn. 21 KCN có qui mô nhỏ ở đồng bằng Bắc Bộ, Duyên Hải Miền Trung và đồng bằng sông Cửu Long phục vụ chế biến nông lâm thuỷ sản. 19 KCN mới, hiện đại trong đó có 13 KCN hợp tác với nước ngoài để phát triển cơ sở hạ tầng thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Diện tích đất sử dụng của 66 KCN là trên 1 vạn ha (không kể KCN Dung Quất), bình quân 1 khu là 160ha. Có 1/3 số KCN là có diện tích 100ha. Về ngành nghề KCN gồm công nghiệp nhẹ, hoá chất, điện tử, chế biến thực phẩm, nông lâm thuỷ sản phục vụ sản xuất nông nghiệp, phục vụ xuất khẩu. Công nghiệp nặng gắn với cảng nước sâu ở các vùng kinh tế trọng điểm (tam giác phát triển vùng phía Bắc, phía Nam và vùng Đà Nẵng). Dung Quất có thêm công nghiệp hoá chất. Bà Rịa Vũng Tàu có công nghiệp chế biến. Cơ cấu ngành nghề được gắn với lợi thế từng vùng tránh triệt tiêu lẫn nhau. Như vậy các KCN Việt Nam rất đa dạng về loại hình, diện tích đất, ngành nghề, đối tượng thu hút đầu tư, không gian và thời gian hoạt động. Quá trình hình thành và phát triển KCN đã hình thành mạng lưới KCN, phân bố rộng khắp trên các vùng của đất nước phù hợp với nhịp độ phát triển của các vùng trên đất nước. Bảng 1: Một số KCN, KCX tại Việt Nam đã được phê duyệt Tên KCN, KCX Địa điểm Năm cấp giấy phép Diện tích (ha) Vốn đầu tư (triệu USD) Chủ đầu tư xây dựng CSHT Số DA ĐTNN đã cấp giấy phép KCX Tân Thuận TP HCM 1991 300 89 Đài Loan 100 KCX Linh Trung TP HCM 1992 60 14 Trung Quốc 19 KCX An Đồn Đà Nẵng 1994 68 24 Malaysia 2 KCN Cần Thơ Cần Thơ 1994 300 14.2 Việt Nam 10 KCN Nomura Hải Phòng 1994 153 125 Singapore 6 KCN Anmata Đồng Nai 1994 100 46 Thái Lan 6 KCN A Tuy Hạ Đồng Nai 1995 448 28 Việt Nam 8 KCN Biên Hoà II Đồng Nai 1995 376 18 Việt Nam 90 KCN Sóng Thần Bình Dương 1995 180 25 Việt Nam 7 KCN Gò Dầu Đồng Nai 1995 210 18 Việt Nam 15 KCN VN-Singapore Bình Dương 1996 100 52 Singapore 11 KCN Loteco Đồng Nai 1996 100 41 Nhật Bản 6 KCN Sài Đồng B Hà Nội 1996 97 12 Việt Nam 11 KCN Hải Phòng 96 Hải Phòng 1997 150 75 Hồng Kông 12 Nguồn: Vụ KCN, KCX - Bộ Kế hoạch và Đầu tư 2. Những thành quả và tồn tại trong KCN, KCX ở Việt Nam 2.1. Những thành quả: Hoạt động trong KCN, KCX đạt được kết quả tăng nhanh hơn so với nền kinh tế nói chung, ngành công nghiệp nói riêng. Bảng 2: Giá trị đạt được trong KCN, KCX Chỉ tiêu Năm Giá trị sản lượng Đóng góp xuất khẩu 1997 1.155 848 1998 1.871 1.300 1999 1.700 1.170 Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư Năm 1997 đạt giá trị sản lượng 1.155 triệu USD, chiếm 15% giá trị sản xuất công nghiệp. Đóng góp cho xuất khẩu 848 triệu USD, gần bằng 10% giá trị xuất khẩu của cả nước, 47% giá trị xuất khẩu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, tăng 2 lần so với năm 1996. Năm 1998 cá KCN đạt giá trị sản lượng 1.871 triệu USD chiếm gần 20% giá trị sản xuất công nghiệp, đóng góp cho xuất khẩu 1.300 triệu USD bằng 14% giá trị xuất khẩu cả nước, 65% giá trị xuất khẩu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, tăng 50% so với năm 1997. Trong 9 tháng đầu năm 1999 các KCN đạt giá trị sản lượng 1.700 triệu USD, chiếm 20% giá trị sản lượng công nghiệp cả nước trong đó xuất khẩu đạt 1.170 triệu USD chiếm 13% giá trị xuất khẩu của cả nước. Cả hai chỉ tiêu này tăng 30% so với cùng kỳ năm 1998. Trong các KCN đã thu hút 13,7 vạn lao động, tạo ra sức mua cho xã hội khoảng 1.000 tỉ đồng mỗi năm. Ngoài số lao động trực tiếp, các KCN, KCX đã tạo ra việc làm cho hàng vạn lao động làm việc trong các ngành dịch vụ, xây dựng cơ bản phục vụ cho các KCN. Tay nghề công nhân, trình độ cán bộ quản lý được nâng lên. Mức lương và thu nhập của người dân cao hơn. Nhiều KCN trả lương cho công nhân với mức 1 triệu đồng/tháng. Công nhân làm việc trong KCN Bình Dương có mức lương trung bình là 680.000 đồng/tháng. KCN tác động đến phát triển các cơ sở cho nguyên liệu, dịch vụ cho nông nghiệp, nâng cao giá trị cho nông sản, mở rộng thị trường, hình thành các đô thị vệ tinh. Thu hẹp khoảng cách phát triển giữa các vùng và góp phần xoá đói giảm nghèo, phát triển kinh tế gắn với văn minh tiến bộ và công bằng xã hội. Đầu tư nước ngoài góp phần quan trọng trong việc hình thành và phát triển các KCN, KCX ngược lại KCN, KCX là những địa bàn thuận lợi cho việc phát triển, thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Trong những năm gần đây số dự án và số vốn đầu tư nước ngoài tăng nhanh trong các KCN, KCX. Nhiều dự án đầu tư đi vào hoạt động ổn định góp phần tạo ra nhiều sản phẩm công nghiệp với số lượng lớn, chất lượng cao đủ sức cạnh tranh trênthị trường khu vực và xuất khẩu. Chính những yếu tố này tạo nên tốc độ ổn định về xuất khẩu của cả nước trong những năm gần đây. Nhất là năm 1999 tốc độ tăng trưởng 23% gấp 3 lần kế hoạch. Các doanh nghiệp KCN, doanh nghiệp KCX không những thúc đẩy nền kinh tế phát triển với nhịp độ cao và tương đối ổn định mà còn tạo tiền đề và điều kiện để chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH - HĐH. 2.2. Những tồn tại. - Chưa thống nhất trong nhận thức và vận dụng phát triển KCN, KCX: Sau 9 năm hoạt động, vai trò của KCN, KCX là không thể phủ nhận. Nhưng trong chỉ đạo và tổ chức thực hiện vẫn còn tồn tại nhận thức cho rằng KCN, KCX chỉ là “một túi đứng các doanh nghiệp công nghiệp” nên vẫn còn trường hợp thực thi chính sách, tổ chức quản lý KCN, KCX như các doanh nghiệp riêng rẽ. Nói cách khác trong tư duy vẫn chưa coi chúng như một thực thể kinh tế xã hội, từ đó xuất hiện những biểu hiện bàng quang đứng ngoài, thậm chí có tư tưởng phủ định vai trò của KCN, KCX cho rằng phát triển chúng trong thời gian qua là theo phong trào. Thay vì phải cùng hợp lực để phát huy vai trò hiệu quả của nó vì lợi ích của ngành của địa phương của nền kinh tế, có địa phương cho rằng KCN, KCX là của Trung ương và khoán trắng cho ban quản lý và công ty phát triển hạ tầng. - Luật pháp còn chưa đồng bộ, chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển: + Vẫn còn có sự khác biệt giữa doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp nước ngoài. Do vẫn còn duy trì sự bảo hộ doanh nghiệp trong nước (tuy sự bảo hộ đã ngày càng giảm theo đà phát triển kinh tế) nên đến nay vẫn chưa tạo được sân chơi bình đẳng giữa các doanh nghiệp, tạo sự cạnh tranh trong một môi trường pháp lý công bằng và minh bạch. - Công tác quy hoạch và phát triển KCN, KCX dựa trên cơ sở đề nghị của UBND tỉnh, chưa thực sự gắn quy hoạch ngành nghề với lãnh thổ dựa trên quy hoạch tổng thể. Danh mục các KCN mới nêu tên, địa điểm và diện tích đất, chưa có nội dung kinh tế - kỹ thuật nên khi xem xét không đủ thông tin, căn cứ để ra quyết định chính xác KCN nào làm trước, KCN nào cho phép triển khai sau. - Đối với các doanh nghiệp trong nước chưa có quy định khuyến khích nhiều cho các doanh nghiệp trong KCN nên các doanh nghiệp trong nước vẫn còn thực hiện đầu tư ngoài KCN, chưa mặn mà đầu tư vào KCN dẫn đến khó khăn khi thực hiện quy hoạch phát triển. - Chậm thực hiện chính sách đào tạo nguồn nhân lực nên việc cung cấp lao động cho các KCN, KCX còn tồn tại nghịch lý thừa lao động giản đơn nhưng thiếu lao động kỹ thuật nhất là các chuyên gia. Dẫn đến việc tiêu tốn ngoại tệ để thuê chuyên gia hoặc tư vấn nước ngoài. Trong số hơn 12 vạn lao động đang làm việc trong các KCN, KCX có không ít các lao động từ ngoại tỉnh trong khi đó tỉnh vẫn còn hàng vạn lao động chờ việc làm. Nguyên nhân chủ yếu là do lao động của địa phương vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu công việc như chưa có tay nghề cao hoặc chưa có đủ điều kiện về trình độ học vấn để học nghề. - Việc đền bù trong giải phóng mặt bằng đang còn là vấn đề nổi cộm, làm chậm quá trình phát triển KCN, KCX gây nhiều khó khăn cho các nhà đầu tư trong và ngoài nước trong xây dựng cơ sở hạ tầng, trong thành lập doanh nghiệp. Công tác giải phóng mặt bằng nhanh cũng phải mất một năm, ở các tỉnh miền Bắc còn dài hơn. Thủ tục hành chính về đất còn rất phức tạp, qua nhiều cửa, kéo dài thời gian thực hiện. Chủ đầu tư thiếu vốn để đền bù. ở miền Nam để có đất của nông dân sau đó phải trả tiền thuê đất cho Nhà nước. Nếu không có sự chỉ đạo thường xuyên của các cơ quan chính quyền địa phương trong vận động, giải thích thuyết phục di dời để lấy đất làm KCN, KCX thì việc đền bù, giải phóng mặt bằng vẫn là khó khăn lớn nhất đối với công ty phát triển hạ tầng trong giai đoạn đầu phát triển KCN, KCX. - Vấn đề môi trường còn nhiều bất cập. Chúng ta chưa có một chiến lược chung về bảo vệ môi trường phù hợp với đối tượng là các KCN, KCX. Sự phối hợp giữa Bộ, ngành, Trung ương, các sở và ban quản lý chưa chặt chẽ. Tình trạng những dòng kênh hứng chịu những chất thải chưa qua xử lý cũng như nhiều cư dân đô thị vẫn tiếp tục hứng chịu khói bụi và tiếng ồn từ các cơ sở sản xuất gây ô nhiễm. Kế hoạch di dời các cơ sở ô nhiễm còn chưa cụ thể. Trên chỉ đạo xuống dưới, dưới chưa có đủ cơ sở kỹ thuật để lập “bản đồ hiện trạng”. Sống chung với ô nhiễm là sự trả giá cho sự phát triển không đồng bộ. - Vấn đề tổ chức còn nhiều vướng mắc, ở Trung ương vẫn chưa thực hiện cơ chế một đầu mối giải quyết vấn đề liên quan đến KCN, KCX. Chính vì vậy vẫn tồn tại tình trạng đùn đẩy sợ trách nhiệm do vậy kéo dài thời gian xử lý hoặc rơi vào im lặng. Nhiều khi cần biết ý kiến của cơ quan chủ quản thì không biết đầu là cơ quan chủ quản. Các ban quản lý các tỉnh hoạt động còn lúng túng, thiếu kinh nghiệm quan hệ giữa một số ban quản lý cấp tỉnh với một số ban ngành còn vướng mắc. - Vấn đề giá các dịch vụ trong KCN, KCX còn chưa thực sự công bằng. Hiện nay tuy đã có chủ trương một giá nhưng việc thực hiện cơ chế một giá với các nhà đầu tư vẫn còn tình trạng ép giá đối với người nước ngoài. Giá thuê đất ở nước ta còn cao hơn các nước trong khu vực, điều đó làm giảm sự thu hút các nhà đầu tư nước ngoài. Chính sách thuế ở nước ta chưa đồng bộ, vẫn còn tình trạng chồng chéo và gian lận trong thương mại như: trốn thuế, hàng giả, hàng lậu,... - Vấn đề “một cửa tại chỗ” tuy đã có nêu ra nhưng việc thực thi chưa có hiệu quả, vẫn còn tình trạng thủ tục hành chính rườm rà, qua nhiều cửa, nhiều cấp phức tạp gây nhiều khó khăn phiền hà cho các nhà đầu tư. Như vậy sau 9 năm đi vào hoạt động, KCN, KCX đã trở thành một động lực kinh tế không thể thiếu được ở nước ta. Nhìn lại ta thấy được nhiều thành quả, bên cạnh đó vẫn còn tồn tại những vướng mắc. Điều đó buộc Nhà nước Việt Nam phải nhanh chóng phát huy những kết quả đạt được và khắc phục tồn tại để phát triển hơn nữa các KCN, KCX ở Việt Nam. Bảng 3: Một số KCN, KCX được ưu tiên phát triển Tên KCN, KCX Chỉ tiêu Đài Tư Deawo - Hanel Thăng Long Nội Bài Sài Đồng B Diện tích 40 197 128 100 97 Tổng vốn đầu tư (triệu USD) 12 152 53 30 12 Góp vốn % VN 0 40 42 30 100 NN 100 60 58 70 Đối tác nước ngoài Công ty phát triển HN - Đài Tư (Đài Loan) Deawo - Hàn Quốc Sumitomo - Nhật Bản Vista Spectium - Malaysia Diện tích đất cho thuê (ha) 0 0 0 6.5 25.4 Giá thuê đất áp dụng cho nhà đầu tư KCN (USD m2/năm) 0.2 0.18 0.18 0.18 0.27 Nguồn: Vụ KCN, KCX - Bộ Kế hoạch và Đầu tư phần III Giải pháp và kiến nghị nhằm phát triển KCN, KCX ở Việt Nam 1. Phương hướng phát triển các KCN, KCX ở Việt Nam Chúng ta phải khẳng định lại chủ trương phát triển KCN, KCX ở nước ta là đúng đắn và cần thiết. Phát triển KCN, KCX không còn là việc riêng của từng ngành mà là sự nghiệp của toàn Đảng, toàn dân. Trong Nghị quyết đại hội Đảng lần thứ VII đã đề ra phương hướng cho phát triển KCN, KCX là “cải tạo các KCN, KCX hiện có về kết cấu hạ tầng và công nghệ sản xuất, xây dựng KCN, KCX phân bố rộng trên các vùng”. Từ sự chỉ đạo của văn kiện Đại hội Đảng VII chúng ta xác định phát triển KCN, KCX theo các hướng sau: - Xây dựng KCN, KCX trở thành lực lượng công nghiệp mạnh, có hiệu quả và sức cạnh tranh, phát triển theo hướng ngoại, nâng cao tay nghề công nhân, nắm bắt và vận dụng được nhiều thành tựu mới nhất của khoa học và công nghệ. Thực hiện bảo vệ môi trường, phát huy hơn nữa vai trò lan toả, dẫn dắt của KCN, KCX đối với sản xuất, kinh doanh thị trường trong nước. - Từ nay đến 2020 phấn đấu đưa KCN khoảng một nửa tổng giá trị sản lượng công nghiệp cả nước đảm bảo tốc độ bình quân hàng năm từ 15% đến 18%. - Chuyển dần tư công nghiệp gia công sang công nghiệp chế tạo nhằm nâng cao giá trị hàm lượng quốc gia của sản phẩm. Hạn chế thua thiệt như hội nhập thị trường quốc tế và thị trường khu vực. Đến năm 2010, tạo điều kiện cho các địa phương có kế hoạch từng bước phát triển KCN, KCX, có tính đến khả năng của nền kinh tế. Theo đó cố gắng trong tất cả 61 tỉnh thành trong cả nước sẽ có KCN, KCX. Phát triển KCN, KCX theo chiều sâu và nâng cao chất lượng hiệu quả của nó theo hướng: lấp đầy diện tích đất công nghiệp, chuyển dịch cơ cấu bên trong thông qua chuyển giao công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm cuối cùng, phát triển công nghệ cao thuộc các lĩnh vực thông tin, cơ điện, điện tử, vật liệu mới và công nghệ sinh học. Các doanh nghiệp công nghiệp thành lập hoặc di dời theo hướng: từ những dự án đòi hỏi gần nguồn nguyên liệu, cần diện tích đất lớn vài trăm hecta, các dự án theo chiều sâu không thuộc diện di dời và phù hợp với quy hoạch, còn lại kiên quyết hướng các nhà đầu tư vào KCN, KCX. Cải tạo các làng nghề truyền thống và cơ sở sản xuất tiểu thủ công nghiệp hiện có về kết cấu hạ tầng và công nghệ sản xuất. Hình thành các KCN nhỏ tại các vùng nông thôn. Các KCN, KCX đã thành lập phải cố gắng lấp đầy khoảng trống thông qua những biện pháp chính sách hấp dẫn các nhà đầu tư trong và ngoài nước. Theo hướng như vậy, Nhà nước ta dự báo nhu cầu vốn đầu tư cho phát triển KCN, KCX ở Việt Nam thời gian tới là: Bảng 4: Biểu nhu cầu vốn đầu tư phát triển KCN, KCX Việt Nam năm 2000 - 2010 TT Chỉ tiêu Đơn vị 2000 2010 2010/2000 1 Số KCN, KCX khu 80 100 1,25 2 Tổng diện tích ha 26.000 31.000 1,19 3 Vốn phát triển hạ tầng: triệu USD 3.600 5.100 1,42 - FDI 1.620 500 - Vốn trong nước 1.980 2.6000 4 Tỉ trọng FDI/Tổng vốn % 45 49 5 Vốn đầu tư cho sơ sở hạ tầng bình quân 1 km triệu USD 48 51 Nguồn: Vụ KCN, KCX - Bộ Kế hoạch và Đầu tư Dự báo đến 2010 cả nước định hình khoảng trên dưới 100 KCN, KCX, đây là con số rất lớn đòi hỏi sự nỗ lực cố gắng của tất cả các ngành các cấp. Tuy nhiên cùng với việc tăng về số lượng các KCN, KCX, chúng ta cũng gia tăng về chất lượng các KCN, KCX đáp ứng được sự đòi hỏi của nền kinh tế với vai trò của KCN, KCX. 2. Một số giải pháp và kiến nghị giúp phát triển KCN, KCX trong thời gian tới. 2.1. Tạo ra quy hoạch KCN, KCX hợp lý. Phát triển KCN, KCX một cách có quy hoạch có định hướng là vấn đề bức xúc mang tính cấp thiết. Việc phát triển có quy hoạch không những tạo điều kiện sử dụng tiết kiệm có hiệu quả vốn mà còn tạo ra lòng tin trong các nhà đầu tư để họ yên tâm tiếp tục rót vốn đầu tư trong KCN, KCX. Muốn vậy, công tác quy hoạch trước hết căn cứ vào điều kiện, tiềm năng, đặc điểm tự nhiên, khí hậu phong tục tập quán,... của từng vùng từng địa phương các KCN, KCX trước đây, quy hoạch chưa hợp lý, hoạt động không hiệu quả không khai thác được tiềm năng của vùng của địa phương cần được xử lý một cách dứt điểm. Mỗi tỉnh, thành phố nên nghiên cứu thế mạnh lớn nhất của mình để thành lập KCN, KCX xem đây là thế mạnh là trung tâm để phát triển vùng, địa phương đó. Do điều kiện, đặc điểm của đất nước ta còn nghèo, trình độ phát triển chưa cao nên ưu tiên phát triển các KCN, KCX vừa và nhỏ. Song cũng cần thành lập các KCN, KCX lớn có tầm cỡ quốc tế để tham gia tốt tiến trình hội nhập. Việc thành lập các KCN, KCX tại các tỉnh thành phố phải được tính toán hợp lý tránh tình trạng đua nhau thành lập, dẫn đến các KCN, KCX mọc lên tràn lan không có chất lượng. Tính đến tháng 9 năm 1999 tại Việt Nam có khoảng 66 KCN, với số lượng như vậy chúng ta cần chú ý đầu tư vào việc lấp đầy các khoảng trống trong KCN này sao cho có hiệu quả. Hiện nay nông nghiệp vẫn được chú trọng phát triển. Vì vậy các KCN thành lập cần có các đề án để sử dụng hợp lý các sản phẩm nông nghiệp tạo ra sự liên kết chặt chẽ giữa công nghiệp - nông nghiệp - dịch vụ. Cần tăng cường công tác kiểm tra ngăn chặn việc buôn lậu ở KCX tạo sự yên tâm cho các nhà đầu tư trong KCX để Nhà nước vừa thu được lợi ích của việc phát triển KCX vừa ngăn chặn được tình trạng mất ổn định do việc buôn lậu trong các KCX tạo ra. 2.2. Phát huy dân chủ trong hoạt đông kinh tế. Tạo mối quan hệ hợp lý giữa Nhà nước và KCN, KCX. Vấn đề tạo mối quan hệ hợp lý giữa Nhà nước và KCN, KCX là vấn đề phức tạp. Nhà nước với vai trò quản lý vĩ mô của mình nền quản lý và kiểm soát các KCN, KCX ở tầm vĩ mô thông qua các định hướng phát triển. Còn các chính sách cụ thể thì nên để cho các KCN, KCX tự linh hoạt, xử lý. Hay nói cách khác Nhà nước nên giao quyền tự quyết, tự quản cho các KCN, KCX miễn là kết quả không trái với định hướng, với mục tiêu phát triển kinh tế, xã hội của đất nước. Nhà nước nên tạo điều kiện cho các doanh nghiệp, các nhà đầu tư được giao dịch một cách trực tiếp với cơ quan có thẩm quyền của Nhà nước để được tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc. Cần phát huy dân chủ trong hoạt động kinh tế, khi xây dựng các thể chế kinh tế Nhà nước cần lấy ý kiến của các đối tượng thi hành, đặc biệt là các doanh nghiệp, các nhà đầu tư. Bảo đảm cho mọi quy định được phù hợp với thực tế kết hợp hài hoà lợi ích doanh nghiệp với lợi ích của Nhà nước. Trong mối quan hệ giữa các doanh nghiệp trong và ngoài nước, Nhà nước cần tạo ra sự công bằng vô tư cho các doanh nghiệp. Nhà nước cần phải có một cơ chế thành lập ban chủ quản để giải quyết các vấn đề liên quan đến KCN, KCX. Đồng thời Nhà nước cần có biện pháp yêu cầu doanh nghiệp tuân thủ pháp luật, hợp lực với Nhà nước xây dựng môi trường kinh doanh lành mạnh, đấu tranh chống các hành vi gian lận thương mại, vi phạm pháp luật. Điều đó đáp ứng yêu cầu và lợi ích của các doanh nghiệp muốn làm ăn chính đáng và cạnh tranh lành mạnh. 2.3. Cải thiện chính sách thuế, giảm thuế cho thuê đất. Mức thuế suất hợp lý cũng là một yếu tố thu hút các nhà đầu tư. Mặc dù KCN, KCX ở Việt Nam đã có một số ưu đãi về thuế nhưng so với các nước trong khu vực thì vẫn chưa có ưu đãi về thuế, cụ thể như thuế XNK, thuế VAT,... Chính sách thuế của ta nhiều khi còn chồng chéo lên nhau. Chính vì vậy Nhà nước cần đưa ra những chính sách hợp lý để quản lý thuế, cần cụ thể, chặt chẽ tránh tình trạng gian lận trốn thuế làm lũng đoạn thị trường. Hoạch định chính sách thuế phải phù hợp với xu thế hội nhập của thế giới, với định hướng tham gia vào các tổ chức thương mại khu vực và thế giới. Cần thí điểm một vài KCN, KCX để thực hiện chính sách giảm thuế nhằm thấy được tác động cụ thể để khắc phục. Trong vấn đề thuế, một vấn đề nổi bật lên là thuế cho thuê đất. Hiện nay mức thuế cho thuê đất ở nước ta vẫn còn cao, việc này ảnh hưởng đến việc phát triển cơ sở hạ tầng trong KCN, KCX. Vì vậy Nhà nước cần cho thuê đất với mức giá ưu đãi nhất thậm chí nếu có thể nên thu tượng trưng để phát triển cơ sở hạ tầng và nên coi đất trong KCN, KCX khác hẳn với đất giành cho phát triển đô thị và kinh doanh các bất động sản khác thì mới đẩy nhanh tiến trình thu hút đầu tư đặc biệt là thu hút FDI cho phát triển KCN, KCX. Nhà nước cũng nên điều chỉnh giá thuê đất ở ba miền cho hợp lý tránh tình trạng chênh lệch nhau quá lớn. 2.4. Hoàn thiện cơ sở hạ tầng trong KCN, KCX. Đây là công việc tạo thuận lợi, một tâm lý hài lòng của chủ đầu tư khi đầu tư vào KCN, KCX đây cũng chính là cách giữ chân các nhà đầu tư khi muốn họ tiếp tục đầu tư trong các KCN, KCX. Chính vì vậy Nhà nước ngoài nguồn vốn ngân sách cần huy động tối đa tất cả các nguồn vốn của tất cả các thành phần kinh tế để phát triển cơ sở hạ tầng. Cho phép xây dựng các ngân hàng hay mở các chi nhánh ngân hàng, bưu điện, sân bay, hải cảng,... trong KCN, KCX. Nhà nước có thể ban hành nhiều chính sách như: cho vay ưu đãi (có thể không có lãi để xây dựng cơ sở hạ tầng trong KCN, KCX). Không thu thuế đất của các doanh nghiệp xây dựng cơ sở hạ tầng hoặc giảm thuế, ưu đãi khác cho các doanh nghiệp xây dựng cơ sở hạ tầng trong KCN, KCX. 2.5. Xây dựng và hoàn thiện mô hình quản lý, thực hiện nguyên tắc một cửa tại chỗ. Hiện nay tuy Nhà nước đã có sửa đổi nhưng vấn đề tổ chức, quản lý các doanh nghiệp trong KCN, KCX vẫn chưa đồng bộ. Vẫn còn nhiều thủ tục rườm rà và gây khó khăn cho chủ đầu tư. Chính vì vậy, các cơ quan Nhà nước phải gấp rút nghiên cứu để xây dựng một mô hình tổ chức quản lý phù hợp để thúc đẩy sự phát triển của KCN, KCX. Cần xây dựng cơ chế quản lý “một cửa - tại chỗ” từ Trung ương đến địa phương phải làm cho cơ chế này thực sự có hiệu quả. Tuy nhiên thực tế vấn đề này chưa áp dụng được thành công là do vấn đề bổng lộc quyền lợi chung của nhiều cán bộ không đúng, chưa công bằng do đó Nhà nước cần có chế độ tiền lương hợp lý đồng thời giáo dục với đội ngũ cán bộ. Tăng cường hiệu lực của Ban quản lý KCN, KCX của Trung ương, ban này cần trở thành ban chủ quản cấp trên tuy nhiên cũng tạo điều kiện cho ban quản lý KCN, KCX có nhiều quyền tự quyết, chủ động sáng tạo trong công việc cụ thể. Phải xác định rõ ban quản lý KCN, KCX cấp tỉnh là của địa phương, còn ban quản lý cấp Trung ương chỉ là đầu mối thực hiện giúp mọi việc cho địa phương, cấp Trung ương chỉ nên tập chung vào việc tháo gỡ cơ chế, chính sách. Các KCN, KCX cần bỏ dần cơ chế xin cho để chủ động huy động vốn và làm ăn có trách nhiệm hơn. Có cơ chế tài chính cần phù hợp cho hoạt động của ban quản lý như mạnh dạn cho phép ban quản lý để lại một tỷ lệ thoả đáng các nguồn thu để trang trải cho mình. 2.6. Chủ động vận động đầu tư và tiếp thị vào KCN, KCX Với chính sách đa phương hoá, đa dạng hoá các mối quan hệ của Đảng và Nhà nước ta đã tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình hội nhập nền kinh tế và thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Do đó các doanh nghiệp trong KCN, KCX phải biết tự vận động, chủ động hoà mình vào các hoạt động kinh tế quốc tế, phải xây dựng hệ thống thông tin tiếp thị vừa trực tiếp vừa từ xa, theo đó phải cử người ra nước ngoài để thương thuyết vận động các tập đoàn, nhiều doanh nghiệp đầu tư vào Việt Nam, giới thiệu cho họ biết về doanh nghiệp về tiềm năng của KCN, KCX chỉ cho họ thấy rõ những lợi ích sẽ đạt được khi đầu tư trong các KCN, KCX. Cần mở rộng hơn nữa diện đối tác ở các nước có tiềm năng lớn về vốn về công nghệ. Trong phạm vi thẩm quyền cho phép ban quản lý hoặc công ty phát triển hạ tầng nên giao dịch trực tiếp với các cá nhân tổ chức nước ngoài, tham quan, khảo sát thị trường thực tế của các nước tổ chức hội thảo, tìm hiểu học hỏi kinh nghiệm thực tế trong tổ chức điều hành KCN, KCX của ban quản lý tỉnh bạn. Cũng có thể liên kết với tỉnh bạn trong quan hệ mở rộng thị trường đầu tư thế giới. Trong công tác tiếp thị với đối tác nước ngoài nên cung cấp đầy đủ thông tin cần thiết như khả năng cung cấp sản phẩm, tiến độ thực hiện xây dựng các công trình hạ tầng trong KCN, KCX, các chính sách ưu đãi khuyến khích cũng như những cải cách về thủ tục hành chính đã thực hiện. Trong việc thành lập KCN, KCX cũng cần xem xét tới yếu tố địa lý, kết cấu cơ sở hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội của địa bàn định xây dựng KCN, KCX. Vì đây là những yếu tố thiết thực trong việc thu hút các doanh nghiệp đầu tư vào KCN, KCX. 2.7. Đồng bộ hoá hệ thống pháp luật, tạo môi trường thông thoáng cho các nhà đầu tư khi đầu tư vào KCN, KCX. Hệ thống pháp luật là một trong những điều kiện ràng buộc liên quan đến công việc làm ăn của các nhà đầu tư. Vì vậy để tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển KCN, KCX Việt Nam cần ban hành những chính sách cơ chế còn chưa phù hợp hoặc chưa có, tạo môi trường pháp lý đồng bộ “luật chơi hoàn chỉnh” cho hoạt động của KCN, KCX. Nghiên cứu kinh nghiệm của các nước đồng thời sáng tạo và đưa ra các sáng kiến mới để cụ thể hoá luật pháp. Các chính sách về luật trước lúc ban hành cần được làm thí điểm để đánh giá những tác động thực tế của nó. Vấn đề địa điểm KCN, KCX cần được luật hoá. Vấn đề giải phóng mặt bằng, mở rộng KCN, KCX giao cho chủ đầu tư hay địa phương cần được làm rõ. Ngoài ra Nhà nước cũng cần hoàn thiện các chính sách liên quan đến người nước ngoài, quy chế đấu thầu, quy chế KCN, KCX. Kết luận Như vậy qua việc nghiên cứu tình hình phát triển của KCN, KCX ở Việt Nam, chúng ta thấy vai trò của KCN, KCX với sự phát triển kinh tế xã hội là hết sức to lớn. Điều này không chỉ đúng với Việt Nam mà còn đúng với tất cả các nước. Chính vì vậy hình thức KCN, KCX đã trở thành phổ biến trên thế giới đặc biệt là trong các quốc gia đang phát triển. Việc phát triển các KCN, KCX đối với những nước đang phát triển như Việt Nam sẽ giúp giải quyết khó khăn về vốn, việc làm, công nghệ học tập được kinh nghiệm quản lý tiên tiến và nâng cao tay nghề cho công nhân, thay đổi cơ cấu xuất khẩu phục vụ mục tiêu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Còn đối với những nước phát triển sẽ chuyển giao được công nghệ lạc hậu, sử dụng được vốn nhàn rỗi, kéo dài vòng đời sản phẩm, mở rộng thị trường. Việc phát triển KCN, KCX ở Việt Nam tuy đã đóng vai trò hết sức to lớn, cải tiến đáng kể nền công nghiệp lạc hậu. Nhưng chúng ta cũng cần nhìn nhận những thiếu sót hạn chế trong việc phát triển KCN, KCX vừa qua để phát huy tối đa lợi ích của KCN, KCX. Một lần nữa em xin cảm ơn các thầy cô giáo trong bộ môn Kinh tế và Kinh doanh Quốc tế trường đại học Kinh tế Quốc dân và đặc biệt là Thạc sỹ Nguyễn Anh Minh đã giúp đỡ em hoàn thành đề án này. Tài liệu tham khảo 1. Giáo trình Kinh tế học quốc tế - ĐH KTQD 2. Giáo trình Kinh doanh quốc tế - ĐH KTQD 3. Giáo trình Lập dự án - ĐH KTQD 4. Giáo trình Quản trị dự án đầu tư quốc tế và các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài - ĐH KTQD 5. Các tham luận và báo cáo tại buổi tổng kết về KCN, KCX của Việt Nam tháng 10 - 1990 tại Bình Dương. 6. Các bảng tổng kết của ban quản lý KCN, KCX 7. Tạp chí Cộng sản số 12,14,17 năm 2000 8. Báo Thông tin KCN - Việt Nam 9. Liên doanh và đầu tư nước ngoài tại Việt Nam - Hà Thị Ngọc Oanh. mục lục

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docV0325.doc
Tài liệu liên quan