Đề tài Thực trạng phát triển và ứng dụng thương mại điện tử ở Việt Nam

Để đẩy mạnh xuất khẩu, nhiều giải pháp đã được đề ra, trong đó có một giải pháp mang tính thời sự cần được quan tâm thực hiện nhanh nếu chúng ta không muốn để lỡ cơ hội trong điều kiện hội nhập vào nền kinh tế toàn cầu. Đó là giải pháp phát triển TMĐT để thúc đẩy xuất khẩu, góp phần trực tiếp vào tăng trưởng kinh tế. Trong tiến trình hội nhập kimh tế quốc tế, thì khả năng đẩy mạnh xuất khẩu, phát triển kinh tế của một quốc gia phụ thuộc rất nhiều vào việc tiếp cận và nắm bắt kịp thời đầy đủ những thông tin vèe mọi diễn biến trên thị trường thế giới. Phát triển TMĐT là giải pháp quan trọng giúp các DN tăng khả năng tiếp cận với nguồn thông tin phong phú trên mạng toàn cầu, trong khoảng thời gian ngắn nhất và liên tục 24/24 giờ và 7 ngày/tuần. TMĐT còn làm tăng độ linh hoạt và giảm bớt những chi phí không cần thiết trong các hoạt động kinh tế, tạo cơ hội tìm kiếm đối tác, là phương tiện hữu hịêu để xúc tiến thương mại và giúp các DN ra quyết định nhanh chóng, là môi trường tốy để cung và cầu kết nối với nhau trong khoảng thời gian nhanh nhất với chi phí rẻ nhất. Ngoài ra TMĐT còn giúp cho mối quan hệ giữa các đối tác ngày càng được liên kết chặt chẽ, cho phép họ cùng tham gia kiểm soát và điều hành nhanh chóng việc thực hiện các hợp đồng kinh tế. Nhờ những ưu điểm nổi bặt như vậy, nên trong vài năm gần đây, doanh số do hoạt động kinh doanh bằng TMĐT đã tăng với tốc độ bình quân 200%(theo báo phát triển kinh tế năm 2004). Nhận thức được những lợi ích và thời cơ mà TMĐT mang lại, Việt Nam đang nỗ lực triển khai thực hiện chương trình phát triển TMĐT trên phạm vi toàn quốc. Sự nỗ lực này không chỉ phù hợp với xu hướng phát triển khách quan của thời đại, mà còn do ý muốn chủ quan của chính phủ Việt Nam nhằm giúp các DN trong nước nâng cao năng lực cạnh tranh trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế thông qua việc giúp họ trở nên hữu hình trên mạng thông tin toàn cầu. Do vậy muốn thành công trong phát triển TMĐT, bên cạnh sự quyết tâm và nỗ lực từ phía nhà nước, cần phải có sự tham gia hưởng ứng nhiệt tình của các DN. Đối với các DN việc kinh doanh qua mạng sẽ trở thành một bộ phận quan trọng trong chiến lược kinh doanh tổng thể.

doc16 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1796 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Thực trạng phát triển và ứng dụng thương mại điện tử ở Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Mục lục Phát Triển Thương Mại Điện Tử ở Việt Nam (TMĐT) Những bước phát triển ban đầu. ứng dụng TMĐT là điều cần thiết để các nước đang phát triển nâng cao khả năng cạnh tranh trên trường quốc tế và tránh không bị tụt hậu. TMĐT còn rất mới mẻ đối với nước ta. 1. Số lượng doanh nghiệp tham gia : Hiện chỉ có 3% trong số khoảng 100.000 doanh nghiệp đã triển khai TMĐT, 7% mới bắt đầu tiếp cận, 90% còn lại vẫn đứng ngoài cuộc, có rất ít hiểu biết, hoặc chưa quan tâm đến TMĐT. 33,1% số doanh nghiệp tham gia là doanh nghiệp vừa và nhỏ, 55% chưa thành công, 58% gặp khó khăn về thiết bị, 37% thiếu nguồn nhân lực. 2. Cơ sở hạ tầng và điều kiện tiếp cận : Công nghệ tin học của Việt Nam có xuất phát điểm thấp, song có tốc độ phát triển nhanh chóng (trong khu vực chỉ xếp thứ 2 sau Trung Quốc). Mạng viễn thông quốc tế phát triển mạnh, hiện đại, với 5 tổng đài và 8 trạm mặt đất, có khả năng cung cấp và liên lạc trực tiếp với 30 nước và gián tiếp với 200 nước. Hệ thống cáp quang qua biển đạt tốc độ 565 Mb đã được đưa vào khai thác. Mạng điện thoại đã cơ bản được số hoá. Dịch vụ điện thoại tiêu chuẩn GSM phát triển nhanh, phủ sóng đến hầu hết các tỉnh, thành phố trong nước. Mạng CDMA mới đưa vào hoạt động năm 2003 nhưng đã phủ sóng được hơn 10 tỉnh thành. Đến tháng 12/2002, tổng số thuê bao đạt 5,567 triệu thuê bao, mật độ đạt 6,9 máy/100 dân, đặc biệt số điện thoại di động đã tăng lên đến 1,9 triệu thuê bao. Hiện đã có 2 nhà cung cấp dịch vụ truy cập mạng (IAP), 5 nhà cung cấp dịch vụ internet (ISP), trên 40 mạng cung cấp dịch vụ internet dùng riêng, 16 nhà cung cấp thông tin nội dung lên mạng (ICP). Giá cước đã giảm liên tục với mục tiêu ngang bằng hoặc thấp hơn so với khu vực. 3. Mạng tâm điểm thương mại toàn cầu - GPTNET (Global Trade point Network) do UNCTAD khởi xướng và thành lập là hạt nhân của tâm điểm chương trình thương mại với các mục tiêu sau: Nâng cao hiệu quả, đơn giản hoá và tiêu chuẩn hoá việc buôn bán giữa các nước; Giúp các doanh nghiệp tiếp cận với thông tin thương mại, đồng thời thông qua các giao dịch điện tử và kết nối truyền thông tạo điều kiện mở rộng quan hệ đối tác quốc tế; Giúp các doanh nghiệp nhận thức được các cơ hội và lợi ích của TMĐT. Hiện nay GTPNET đã có 87 tâm điểm thương mại của các nước tham gia với hơn 43000 công ty trên thế giới. Do đối tượng của GTPNET là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, không có điều kiện tiếp cận thị trường quốc tế nên chương trình này rất phù hợp với các doanh nghiệp Việt Nam. 4. Sàn thương mại điện tử Việt Nam Sàn thương mại điện tử đầu tiên thực hiện dầy đủ quy trình TMĐT của VN được khai trương vào cuối tháng 9 năm 2003 tại Bách hoá số 5 Nam Bộ, Hà Nội. Vào ngày khai trương có một nghìn mặt hàng, dịch vụ thông dụng của các siêu thị, nhà cung cấp, DN sẵn sàng phục vụ, ngoài ra còn có 200 khách hàng là cá nhân có tài khoản tại Việtcombank, đã đăng ký với ban quản lý sàn để tham gia mua hàng qua mạng. Khách hàng sẽ thông qua mạng internet truy cập vào trang web TMĐT tại địa chỉ : http:// ecommerce.com.vn để tìm kiếm, chọn hàng và đặt hàng. Các đơn hàng sẽ được kiểm tra tính xác thực và chuyển về cho người bán hàng. Người bán hàng sẽ xác nhận đơn hàng cùng phương thức thanh toán, thời gian và địa điểm giao hàng. Người mua có thể thanh toán bằng chuyển khoản qua ngân hàng hoặc bằng tiền mặt. Trong trường hợp thanh toán bằng tiền mặt, khách hàng có thể thanh toán tại nhà hay thông qua người đại diện do mình lựa chọn. Trường hợp thanh toán qua ngân hàng, hệ thống sẽ kết nối với hệ thống thanh toán của ngân hàng để chuyển các thông tin cho ngân hàng tiến hành các nghiệp vụ thanh toán. Trừ hoạt động giao hàng, còn lại tất cả đều được hệ thống tiến hành tự động một cách an toàn, tin cậy và an ninh. Sàn TMĐT Hà Nội khai trương lần này có bốn cái nhất. Thứ nhất là sàn đầu tiên thực hiện được toàn bộ quy trình TMĐT bao gồm đầy đủ các khâu từ tìm kiếm, lựa chọn, đặt hàng và thanh toán . Thứ hai, các kỹ thuật bảo mật, an toàn thông tin, dữ liệu, xác thực, chữ ký điện tử, thanh toán điện tử, các kỹ thuật này đã được nghiên cứu trong khuôn khổ chương trình khoa học và công nghệ trọng điểm cấp quốc gia do Bộ Thương Mại cùng các bộ, ngành khác tiến hành (đến tháng 12/2003 mới kết thúc), các sản phẩm của nghiên cứu đã được đưa vào ứng dụng. Thứ ba là sản phẩm tập thể của nhiều cơ quan nhất, có tới 8 bộ, ngành và nhiều địa phương, hiệp hội tham gia (như Bộ Thương mại, Bộ Khoa học và Công nghệ, Bộ Bưu chính Viễn thông, Ban Cơ yếu Chính phủ, Bộ Tài chính, Ngân hàng, Bộ Văn hoá - Thônh tin, Trung tâm Khoa học tự nhiên, Hội đồng Liên minh các HTX, Hội Tin học và Viễn thông Hà Nội, UBND TP. Hà Nội, UBND tỉnh Hà Tây, các siêu thị, khách sạn và nhiều DN trong và ngoài Bộ Thương mại). Thứ tư là lần đầu tiên kỹ thuật và công nghệ về TMĐT made in Việt Nam được đưa vào ứng dụng trong thực tế. Sàn TMĐT Hà Nội được khai trương với xuất phát điểm là loại hình DN người tiêu dùng. Các hình thức TMĐT khác sẽ được phát triển trong quá trình hoạt động sau này. Sau khi Sàn TMĐT Hà Nội đi vào hoạt động, Bộ Thương mại sẽ phối hợp với UBND các thành phố: Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, Hải Phòng để mở tiếp ba sàn TMĐT nữa. Trong tương lai sàn TMĐT sẽ là địa chỉ, tại đó DN, Chính phủ, người tiêu dùng có thể tiến hành một hay tất cả các khâu trong giao dịch thương mại, từ tìm kiếm cơ hội kinh doanh, khai thác thong tin về thị trường, mặt hàng, tìm hiểu cách thức thâm nhập thị trường, giao dịch với khách hàng qua mạng, tìm kiếm các nhà vận tải, giao nhận, tiến hành các dịch vụ trực tuyến như khai báo hải quan, kê khai và nộp thuếu, thanh toán trực tuyến và nhiều dịch vụ khác...Sàn TMĐT sẽ được két nối với các sàn TMĐT quốc tế và sẽ là cầu nối giữa DN Việt Nam với DN nước ngoài. Sàn TMĐT còn là nơi hỗ trợ cho các DN về kỹ năng, nghiệp vụ TMĐT bằng nhiều hình thức khác nhau, kể cả hình thức dành một phần diện tích, máy móc thiết bị cho các DN tiến hành TMĐT tại sàn. TMĐT đang mang lại nhiều cơ hội cho DN Việt Nam, song rất tiếc là nhiều DN còn chưa sẵn sàng. Nguyên nhân chính là các DN còn chưa hiểu biết được Internet sẽ mang lại cho họ những gì và phải làm gì để nhận được các cơ hội đó. Trong hơn 8 nhgìn DN Việt Nam mà Trung tâm thông tin thương mại lưu trữ cập nhật tại cơ sở dữ liệu của Nhịp cầu á- Âu Asemconnêt mới có 417 DN có website riêng. Việt Nam có hơn 80 nghìn DN nhưng cho đến nay mới có chưa đầy hai nghìn rưỡi DN có tên miền riêng trên mạng Internet. Không có website và không có tên miền riêng là thiếu các phương tiện tối cần thiết để tham gia vào thị trường quốc tế trong thời đại kinh tế số. Cũng như Internet, TMĐT không của riêng ai, nó mang lại lợi ích cho tất cả mọi người. Sự khác nhau chỉ là ai đến sớm và ai nhận được bao nhiêu lợi ích từ nó. 5. Hoạt động liên quan đến thương mại điện tử Tuy cơ sở hạ tầng cho thương mại điện tử còn chưa đầy đủ, nhưng xu thế phát triển chung của thế giới và do các hoạt động hội nhập, một phần nữa do tính tích cực sáng tạo, Việt Nam cũng đã tham gia vào TMĐT ở mức độ nhất định. Nếu xét TMĐT theo nghĩa rộng là tiến hành trao đổi thương mại thông qua phương tiện điện tử, thì việc sử dụng điện thoại, fax, thư điện tử và sử dụng TMĐT như một công cụ làm việc ở tầm dùng hạn chế (độc lập hoặc trong mạng cục bộ) đều đã được thực thi từ lâu. Nhưng nếu xét theo nghĩa chặt hơn (TMĐT chủ yếu là tiến hành trao đổi dữ liệu điện tử giữa các doanh nghiệp và mua bán dung liệu/ hàng hoá/ dịch vụ qua mạng Internet và các phân mạng của nó) thì sự tham gia của Việt Nam mới chỉ là bước đầu, và gồm: - Từ cuối năm 1997 đến nay, khái niệm TMĐT được đề cập tới trên các phương tiện thông tin đại chúng, dù còn sơ lược. - Đã tham gia các thảo luận và cam kết quốc tế và TMĐT: - Trong ASEAN: sau khi ra nhập tổ chức này, Việt Nam đã tham gia Hội nhập ASEAN về TMĐT tháng 10/1997 tại Malayxia, sau đó tham gia hoạt động trong tiểu ban điều phối về TMĐT (CCEĐ) của ASEAN, tiểu ban này tại cuộc họp lần thứ hai tháng 9/1998 đã thông qua bản "Các nguyên tắc chỉ đạo về TMĐT ASEAN". Trong APEC: Khi ra nhập APEC (ngày 14/11/1998), Việt Nam đã thoả thuận tham gia vào "chương trình hành động về TMĐT APEC". - Đã thành lập một số tổ chức chuyên trách về TMĐT: Tháng 6 năm 1998, Ban chỉ đạo quốc gia về CNTT thành lập tổ công tác TMĐT nằm trong ban này; tổ công tác đã tổ chức một đoàn đi úc khảo sát về TMĐT; và phối hợp với Hội Tin học, phòng Thương mại và công nghiệp tổ chức một cuộc hội thảo về TMĐT. Tháng 12 năm 1998, Bộ Thương mại thành lập Ban TMĐT trực thuộc Bộ trưởng để xúc tiến các công việc có liên quan trong phạm vi Bộ Thương mại. - Một số cuộc hội thảo về TMĐT đã được tổ chức: tháng 3 năm 1999, Bộ Thương mại đã tổ chức cuộc hội thảo quốc tế thứ nhất về TMĐT; tháng 6 năm 1999, Tổng cục Bưu điện phối hợp với Bộ Thương mại tổ chức cuộc hội thảo thứ hai về nội dung này. - Bộ Thương mại đã mở một số lớp tập huấn để nâng cao nhận thức chung về TMĐT cho các cơ quan doanh nghiệp đóng trên hầu hết các tỉnh và thành phố trong nước; và đang phối hợp với các Bộ, Ngành hữu quan tiếp tục mở các lớp tập huấn như vậy cho các doanh nghiệp. - Một số đơn như ở thành phố Hồ Chí Minh đã sử dụng phương tiện Internet để quảng cáo hàng ra nước ngoài, nhờ đó đã tìm được khách mua. - Một số công ty bắt đầu triển khai hoạt động bán hàng qua mạng. Công ty FPT đưa tin đang chuẩn bị mở một siêu thị trên Internet/Web với 15000 mặt hàng (quần áo, mỹ phẩm, đĩa CD, dụng cụ gia đình...) làm việc theo kiểu đặt hàng qua Internet (chi phí kiểu điện thoại 65 đồng/ phút), thanh toán bằng tiền giao hàng. Một số cửa hàng ảo (cybermall) đã xuất hiện trên mạng. Tất cả các hoạt động TMĐT nói trên nhìn chung chỉ mới trên hướng biểu thị hưởng ứng TMĐT (mà chủ yếu là môi trường CNTT, môi trường pháp lý, môi trường thanh toán tài chính, và môi trường xã hội) thì hầu như còn chưa có, hoặc chưa được tiến hành một cách có hệ thống. Nhìn chung ở tầm dân chúng rộng rãi, ngay nhận thức và hiểu biết của đông đảo con người đối với TMĐT vẫn còn chưa rõ ràng hoặc còn chưa đầy đủ, cá biệt có người nhìn nhận vấn đề hoàn toàn sai lệch. - Nhằm định hướng tiếp cận TMĐT một cách có hệ thống, và trên quan điểm chiến lược, Chính phủ đã giao cho Bộ Thương mại chủ trì, phối hợp với các Bộ, Ngành có liên quan hoàn thành một tài liệu mang tính quốc gia. Sau một thời gian dài làm việc với các bộ hữu quan, Bộ Thương mại đã hoàn thiện nhiệm vụ Chính phủ giao cho; bao gồm các tài liệu kiêm tờ trình sau đây: - Đầu tháng 4 năm 1999, Bộ Thương mại đã trình lên Chính phủ bản "Đề án thành lập Hội đồng quốc gia về TMĐT" (đề án đã được các Bộ, Ngành chủ chốt có liên quan xây dựng góp ý). - Cuối tháng 4 năm 1999, Bộ Thương mại cùng Tổng cục Bưuđiện đồng trình lên Chính phủ bản "Phương án từng bước tham gia vào áp dụng TMĐT". Hai bản đề án và phương án trên đây đang được Chính phủ xem xét. - Giữa năm 1999, Chính phủ giao cho Bộ Thương mại chủ trì dự án quốc gia "Kỹ thuật TMĐT". Dự án này được phân thành nhiều dự án, bao quát các mặt hạ tầng cơ sở của TMĐT, đồng thời với các hoạt động nâng cao nhận thức, đào tạo kĩ năng và thử nghiệm. Dự án đang được triển khai với sự tham gia của nhiều bộ, ngành, và các tổ chức có liên quan, sẽ kết thúc vào giữa năm 2000. Khó khăn và hạn chế. Cho đến thời điểm này, TMĐT ở nước ta mới chỉ dừng lại ở một số công đoạn như trao đổi thông tin về hàng hoá, dịch vụ mua bán lẻ...mà chưa có đủ các điều kiện cũng như chưa thực hiện đầy đủ các quy trình trong TMĐT như pháp luật, công nghệ, trong đó có công nghệ bảo mật, an ninh an toàn, tiêu chuẩn hoá công nghiệp và TM, thanh toán điện tử, bảo vệ người tiêu dùng, trong đó có các trung tâm xác nhận phẩm chất hàng hoá trên mạng,...Tất cả vẫn đang trong quá trình nghiên cứu đề xuất xây dựng. Muốn cho TMĐT phát triển phải có sự quan tâm đầu tư lớn của nhà nước và các cấp, các ngành cùng sự hợp tác của các DN. Thực tế những gì diễn ra lại hco thấy một bức tranh khá ảm dạm về TMĐT ở Việt Nam. Theo thống kê ở báo thương mại, hiện nay ở Vịêt Nam mới có khoảng trên 3 nghìn DN có website, xấp xỉ 4% DN cả nước. Theo báo cáo của Cục xúc tiến thương mại- Bộ thương mại thì số DN hiểu biết và tiếp cận với TMĐT còn rất ít. Trong số các DN vừa và nhỏ được khảo sát thì mới chỉ có 7% DN đã triển khai sử dụng TMĐT, 3% DN đang quan tâm và có tới 90% DN chưa có kháI niệm về TMĐT, 33% DN có kết nối Internet nhưng lại không dùng nó để hỗ trợ sản xuất kinh doanh, chỉ có khoảng 2% DN có trang website riêng. Cũng như nhiều nước trên thế giới, con đường tiếp cận TMĐT nước ta cũng phải trải qua 3 giai đoạn đan xen lẫn nhau la: Chuẩn bị, chấp nhận và ứng dụng. Giai đoạn chuẩn bị gồm các hoạt động tuyên truyền, nâng cao nhận thức, xác định mức độ sẵn sàng đối với TMĐT để biết những yếu tố cần thay đổi hoặc cải thiện nhằm thích ứng trên mọi bình diện. Nước ta đang tiến hành những bước đầu tiên của giai đoạn thứ nhất, nhưng cũng đã xuất hiện bóng dáng của giai đoạn sau. Một mặt, nhận thứ về TMĐT đang từng bước được phổ biến trên toàn quốc; Mặt khác, chấp nhận và ứng dụng TMĐT đang được một số cơ quan và DN triển khai. Đây là những tín hiệu mừng, tuy nhiên từ khi hoà mạng Internet đến nay, trình độ ứng dụng và phát triển TMĐT ở Việt Nam còn thấp là do những nguyên nhân sau: Một là cơ sở hạ tầng về công nghệ thông tin và viễn thông còn yếu kém : Số lượng máy điện thoại và thuê bao Internet tính trên đầu người còn thấp, chất lượng và tốc dộ đường truyền thấp, chi phí còn cao. Tổng số thuê bao Internet tại Việt Nam (không kể số thuê bao trả trước) mới chỉ có khoảng 250 nghìn. Dự kiến đến năm 2005, số thuê bao sẽ là 1 triệu. Hai là công nghiệp phần mềm Việt Nam tăng trưởng chậm : 13%/năm (bằng 1/2 tốc độ giai đoạn 1996-2000). Mất cân đối nghiêm trọng giỡa phần cứng (chiếm tỷ trọng gấp bốn lần) với tỷ trọng phần mềm và dịch vụ. Số chuyên viên tham gia ngành công nghiệp phần mềm hiện chỉ khoảng 8 nghìn người (theo báo thương mại năm 2004). Ba là nguồn nhân lực còn mỏng về số lượng, thiếu kinh nghiệm và hiểu biết về TMĐT. Cả nước mới chỉ có khoảng 32 nghìn chuyên gia tin học. Đa số cán bộ và dân chúng chưa có thói quen làm việc trên máy tính điện tử, quản lý và kinh doanh trên mạng máy tính và các thiết bị thông tin khác. Bốn là cơ sở pháp luật còn thiếu và chưa đồng bộ. Chúng ta vẫn còn đang chuẩn bị tiến hành xây dựng hệ thống các văn bản pháp luật điều chỉnh các hoạt động TMĐT. Năm là hệ thống thanh toán điện tử chưa được hình thành đầy đủ và phổ cập rộnh rãi. Các ngân hàng trong nước mới đang trong quá trình phấn đấu để chuyển đổi sang mô hình nhân hàng hiện đại. Thêm vào đó, thẻ tín dụng và thanh toán không dùng tiền mặt chưa trở thành thói quen của các DN và dân chúng. Sáu là hiện chí có 3% tổng số DN trong cả nước có website riêng, 7% bắt đầu nghiên cứu việc sử dụng Internet, 90% vẫn đang đứng ngoài cuộc. Trong những giao dịch thử qua TMĐT, chỉ có 31,1% số DN vừa và nhỏ tham gia, 54,9%chưa thành công, 58% gặp khó khăn về thiết bị, 37% thiếu nguồn nhân lực. Bảy là các nhân tố khác như trình độ ngoại ngữ hạn chế, lề lối làm việc sinh hoạt, giao dịch, mua bán,… vẫn còn theo thói quen cũ. Giao dịch trên giấy tờ hợp đồng phải có văn bản gốc. Mua hàng phải trông thấy, sờ vào hàng hoá, nếm thử, đi thử, trả tiền mặt, đếm tiền mặt…Nghĩa là khác biệt một cách căn bản so với TMĐT. Những thói quen không thể nhanh chóng thay đổi là nguyên nhân cơ bản hạn chế ứng dụng và phát triển TMĐT. Định hướng và việc đầu tư cho phát triển TMĐT ở Việt Nam 1. Những thuận lợi và cơ hội ứng dụng E – commerce đem lại. Hiện nay, đây là phương thức giao dịch nhanh nhất, có hiệu quả nhất, tận dụng được tối đa nguồn lực. TMĐT là sự kết hợp những thành tựu KHKT vào hoạt động kinh doanh. Giao dịch được tiến hành trên mạng, nên không bị ảnh hưởng bởi khoảng cách địa lý hay quy mô nhà cung cấp lớn hay nhỏ. Phạm vi hoạt động của doanh nghiệp được mở ra trên phạm vi toàn cầu và sự lựa chọn của khách hangf cũng đa dạng và thuận tiện hơn. TMĐT mang lại sự hiện diện toàn cầu cho nhà cung cấp và sự lựa chọn toàn cầu cho khách hàng. TMĐT đưa nhà cung cấp tiếp cận gần hơn với, khách hàng, điều đó đồng nghĩa với tăng chất lượng sử dụng cho người tiêu dùng. 2. Cơ hội và triển vọng đối với các nước đang phát triển trong đó có Việt Nam. + TMĐT hiện nay đang chuyển hướng phát triển theo chiều dọc sang chiều ngang. Thay vì một quốc gia phải làm từ A đến Z để phát triển TMĐT thì giờ đây họ chỉ cần tham gia những lĩnh vực mình có thế mạnh. Hiện nay các nước phát triển cũng có thiện chí giúp đỡ các nước nghèo cùng phát triển vì không thể thiếu những nước này trong cuộc chơi toàn cầu. + Cơ hội mở ra cho các nước chậm phát triển có thể đuổi kịp và cạnh tranh ngang bằng với các nước phát triển trong nền TMĐT. Tuy nhiên sự năng động của các doanh nghiệp là tối cần thiết, chứ không thể ngồi chờ sự tác động từ bên ngoài hay sự ưu đãi của chính sách vĩ mô. Việt Nam là nước đi sau, cơ sở hạ tầng kỹ thuật còn nghèo nàn, mức sống của người dân chưa cao, cước phí truy cập Internet còn đắt so một số nước trong khu vực, tốc độ đường truyền còn chậm, số người sử dụng Internet còn ít… song không phải vì thế mà Việt Nam không thể phát triển TMĐT. Nếu cứ chờ đợi đến khi các yêu cầu trên hoàn thiện rồi mới bắt đầu triển khai thực hiện thì chúng ta sẽ đánh mất thời gian và cơ hội. Do vậy việc thực hiện triển khai TMĐT cần được thực hiện từng bứơc, đi từ dễ đên khó, vừa thực hiện vừa xây dựng và hoàn chỉnh thêm. Trong những năm qua, Chính phủ cũng đã có những bước đi nhất định về phát triển công nghệ thông tin-viễn thông, xây dựng các văn bản pháp luật về thương mại, từng bước hỗ trợ phát triển TMĐY. Như vậy, trước mắt đã xuất hiện những thời cơ và triển vọng thúc đẩy sự phát triển TMĐT ở Việt Nam đó là : Việt Nam đang trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, đã là thành viên của khối ASEAN, tham gia vào khu vực mậu dịch tự do AFTA và bắt đầu từ tháng 1.2003, Việt Nam sẽ giảm giá nhập khẩu hàg trăm mặt hàng theo cam kết của Hiệp định CEPT/AFTA dể thúc đẩy tự do mậu dịch giữa các nước trong khu vực ASEAN. Việt Nam cũng là thành viên của tổ chức diễn đàn kinh tế châu á- Thái Bình Dương và đang chuẩn bị gia nhập Tổ chức thương mại thế giới. Hiện Việt Nam đã có quan hệ thương mại với 170 quốc gia và lãnh thổ, trong đó có nhiều thị trường lớn đã là bạn hàng thân thiết trong nhiều năm . Nền kinh tế của Việt Nam đạt được mức tăng trưởng trong thời gian dàI, tạo tích luỹ và điều kiện tăng xuất khẩu. Việt Nam đang tích cực chuyển đổi cơ cấu kinh tế, xây dựng và hoàn thiện môi trường pháp lý cho các hoạt động sản xuất kinh doanh, trong đó phát triển mở rộng thương mại chiếm vị trí quan trọng. 3. Chính sách và những cam kết của Chính phủ Việt Nam trong lĩnh vực khuyến khích ứng dụng TMĐT. a. Những cam kết đối với quốc tế. Từ đầu những năm 90, Đảng và Nhà nước đã quan tâm xây dựng các cơ chế, chính sách và văn bản pháp quy về phát triển công nghệ thông tin làm cơ sở nền tảng để phát triển TMĐT sau này. Báo cáo chính trị của BCH TƯ Đảng khoá VIII tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, đã nêu rõ quan điểm "phát triển mạnh và nâng cao chất lượng các ngành dịch vụ thương mại, kể cả TMĐT…" Với tư cách là thành viên chính thức của ASEAN, Việt Nam đã cùng các thành viên trong khối ký hiệp định e-ASEAN tại Singapore vào tháng 11/2000. Trong đó, nhấn mạnh tạo điều kiện phát triển cơ sở hạ tầng thông tin ASEAN, làm cơ sở cho phát triển TMĐT trong khối. b. Quan điểm về ứng dụng TMĐT Thừa nhận vai trò từ đột phá có ý nghĩa cách mạng của TMĐT. TMĐT là 1 yếu tố của nền kinh tế số hoá hay nền kinh tế tri thức, do đó vừa tạo ra cơ hội vừa đặt ra thách thức trong việc ứng dụng. Cần có quan điểm tích cực, tận dụng cơ hội song cũng phải có quan điểm thực tế khi vận dụng. Cùng với vấn đề hoàn thiện cơ sở pháp lý, nâng cao chất lượng cơ sở hạ tầng và đào tạo nguồn nhân lực, Nhà nước cùng đặc biệt coi trọng vấn đề an toàn bảo mật mà TMĐT đòi hỏi. Tích cực và chủ động tham gia các liên kết, hợp tác khu vực và quốc tế về TMĐT để thúc đẩy nhanh chóng quá trình hội nhập. c. Phương hướng triển khai Tích cực, chủ động song tiến hành từng bước và vừa làm vừa rút kinh nghiệm. Làm thí điểm, trên cơ sở đó nhân rộng ra. Triển khai song song, đan xen các khâu chuẩn bị, ứng dụng, từng bước hoàn thiện cơ sở hạ tầng, đồng thời tiến hành các khâu thử nghiệm ứng dụng, đẩy mạnh hoạt động tuyên truyền nâng cao nhận thức, kỹ năng cho doanh nghiệp, người dân, tăng cường đào tạo, phát triển nguồn nhân lực. Tích cực tham gia hợp tác quốc tế để tranh thủ sự trợ giúp về kỹ thuật, đào tạo và kinh phí. Nhà nước đề ra mục tiêu sớm hoàn thiện hành lang pháp lý, xây dựng cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin, doanh nghiệp chủ động xây dựng chiến lược hội nhập TMĐT. 4. Tương lai của TMĐT. Trong tương lai, việc sử dụng TMĐT sẽ làm thay đổi các hình thái hoạt động kinh tế và sẽ là phương thức kinh doanh chủ yếu vì nó đáp ứng được những yêu cầu mà các nền kinh tế hội nhập trên quy mô toàn cầu đòi hỏi. Và nếu nói một cách lạc quan như ông Andy Grove, Chủ tịch tập đoàn Intel thì “Trong vòng vài năm nữa, tất cả các công ty sẽ là công ty trên Internet hoặc sẽ không còn là công ty nữa”. Để đẩy mạnh xuất khẩu, nhiều giải pháp đã được đề ra, trong đó có một giải pháp mang tính thời sự cần được quan tâm thực hiện nhanh nếu chúng ta không muốn để lỡ cơ hội trong điều kiện hội nhập vào nền kinh tế toàn cầu. Đó là giải pháp phát triển TMĐT để thúc đẩy xuất khẩu, góp phần trực tiếp vào tăng trưởng kinh tế. Trong tiến trình hội nhập kimh tế quốc tế, thì khả năng đẩy mạnh xuất khẩu, phát triển kinh tế của một quốc gia phụ thuộc rất nhiều vào việc tiếp cận và nắm bắt kịp thời đầy đủ những thông tin vèe mọi diễn biến trên thị trường thế giới. Phát triển TMĐT là giải pháp quan trọng giúp các DN tăng khả năng tiếp cận với nguồn thông tin phong phú trên mạng toàn cầu, trong khoảng thời gian ngắn nhất và liên tục 24/24 giờ và 7 ngày/tuần. TMĐT còn làm tăng độ linh hoạt và giảm bớt những chi phí không cần thiết trong các hoạt động kinh tế, tạo cơ hội tìm kiếm đối tác, là phương tiện hữu hịêu để xúc tiến thương mại và giúp các DN ra quyết định nhanh chóng, là môi trường tốy để cung và cầu kết nối với nhau trong khoảng thời gian nhanh nhất với chi phí rẻ nhất. Ngoài ra TMĐT còn giúp cho mối quan hệ giữa các đối tác ngày càng được liên kết chặt chẽ, cho phép họ cùng tham gia kiểm soát và điều hành nhanh chóng việc thực hiện các hợp đồng kinh tế. Nhờ những ưu điểm nổi bặt như vậy, nên trong vài năm gần đây, doanh số do hoạt động kinh doanh bằng TMĐT đã tăng với tốc độ bình quân 200%(theo báo phát triển kinh tế năm 2004). Nhận thức được những lợi ích và thời cơ mà TMĐT mang lại, Việt Nam đang nỗ lực triển khai thực hiện chương trình phát triển TMĐT trên phạm vi toàn quốc. Sự nỗ lực này không chỉ phù hợp với xu hướng phát triển khách quan của thời đại, mà còn do ý muốn chủ quan của chính phủ Việt Nam nhằm giúp các DN trong nước nâng cao năng lực cạnh tranh trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế thông qua việc giúp họ trở nên hữu hình trên mạng thông tin toàn cầu. Do vậy muốn thành công trong phát triển TMĐT, bên cạnh sự quyết tâm và nỗ lực từ phía nhà nước, cần phải có sự tham gia hưởng ứng nhiệt tình của các DN. Đối với các DN việc kinh doanh qua mạng sẽ trở thành một bộ phận quan trọng trong chiến lược kinh doanh tổng thể. Tài liệu tham khảo Báo Thương mại năm 2004 Báo Kinh tế phát triển năm 2004 Thời báo kinh tế Việt Nam Sách Thương mại điện tử - NXB Lao động Trang Web www.thuongmaidientu.com www.thongkeinternet.vn www.mot.gov.vn Các thành viên của nhóm Bùi Thu Giang Lê Thị Diệu Hằng Đỗ Thị Việt Hoà Nguyễn Thị Thanh Nga B Phan Thị Hằng Nga Âu Đức Mạnh Lê Văn Chi Đặng Thế Công Trần Minh Hưởng Chu Thuỳ Dương Ngô Thanh Bình Nguyễn Văn Sơn Nguyễn Văn Toàn Nguyễn Tiến Hưng Phạm Mạnh Cường Phạm Thị Mai

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc30004.doc
Tài liệu liên quan