Cuộc chiến tranh quân sự nóng bỏng đã qua đi sau mấy chục năm dai dẳng và đau khổ. Nhưng cuộc sống đâu có dẽ dàng sáng tươi lên như nhiều người mơ ước như lúc họ đang bị khói súng dày đặc và khét lẹt bao phủ đến ngẹt thở. Ra khỏi cuộc chiến tranh người ta hiểu thêm một điều rằng thị trường cũng là chiến trường, một chiến trường cũng khốc liệt, cũng đầy mất mát và hy sinh. Trên trận tuyến kinh tế, thương vong là sự phá sản, là thua lỗ, là khánh kiệt , là hàng vạn người thất nghiệp. Và kết cục cũng rất bi thảm, kẻ thua cuộc sẽ phụ thuộc vào nước có nền kinh tế mạnh hơn, người dân của nước bại trận sẽ nai lưng đi làm thuê để kiếm sống. Chúng ta giành chính quyền về tay công nông bằng gậy tầm vông và giáo mác, chúng ta bắn máy bay Mỹ bằng súng trường, dến giờ, chúng ta phải xây dựng một nước công nghiệp , sánh vai với các cường quốc trên thế giới. Nếu giành chính quyền và đánh nhào đế quốc Mỹ là một trong những điều kỳ diệu của nhân dân ta thì trở thành một nước công nghiệp từ một hoàn cảnh như chúng ta đang lâm vào cũng là điều vô cùng kỳ diệu. Tuy nhiên, mọi điều kỳ diệu đều có thể trở thành hiện thực nếu con người có ước mơ, nếu con người biết vach ra lối đi cho riêng mình để biến ước mơ, biến ý tưởng thành hành động. Trên con đường đi lên để trở thành một nước công nghiệp, chúng ta xác định cần phải phát triển một nền kinh tế toàn diện và phát triển đồng đều giữa các ngành, các vùng. Muốn vậy, chúng ta cần phải phát triển nông thôn, giảm tối đa mức chênh lệch giữa nông thôn và thành thị, hoàn thành quá trình công nghiệp hoá- hiện đại hoá nông thôn trên cơ sở Nguồn nhân lực dồi dào, có trình độ cao, nhạy bén với khoa khoa học kỹ thuật mới. Con đường phía trước còn lắm chông gai và thử thách nhưng chúng ta có quyền hy vọng vào một tương lai tươi đẹp hơn mà ở đó mọi ước mơ của con người đều có thể biến thành hiện thực.
64 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1122 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng phát triểnnguồn nhân lực ở nông thôn phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá- Hiện đại hoá ở nước ta, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
sức khoẻ, kìm hãm quá trình phát triển Nguồn nhân lực ở nông thôn .
4/ Chất lượng Nguồn nhân lực nông thôn .
Việt Nam có một Nguồn nhân lực đông, dồi dào, cơ cấu trẻ và có khả năng tiếp thu kiến thức Khoa học kỹ thuật nhanh, cơ động cao và có truyền thống cần cù chịu khó. Nhưng chất lượng Nguồn nhân lực nước ta còn nhiều bất cập đặc biệt là chất lượng Nguồn nhân lực nông thôn . Thực tế, có khoảng cách lớn về chất lượng lao động giữa khu vực thành thị và nông thôn . Theo kết quả điều tra lao động việc làm đăng trên tạp chí “Lao động xã hội” số 12 năm 2001 , đã chỉ ra rằng năm 2000 trên phạm vi toàn quốc, tỷ lệ lao động biết chữ là 96% tương đương với một số nước phát triển trong khu vực Singapo, Malaysia. Đối với khu vực nông thôn , tỷ lệ lao động biết chữ là 95% , chỉ thấp hơn tỷ lệ chung của cả nước 1%. Lao động nông thôn chưa từng đến trường là11% cao gấp hai tại các đô thị, lao động nông thôn chưa tốt nghiệp cấp một xấp xỉ 28,5% gấp 1,6 lần tại các đô thị. Tỷ lệ lao động nông thôn tốt nghiệp phổ thông cơ sở và trung học phổ thông khoảng 45,8% thấp hơn khu vực thành thị 19,7% . Tỷ lệ lao động nông thôn có trình độ từ cấp ba đến đại học chỉ xấp xỉ 10% , trong khi thành thị là 33,2% . Mặt khác, trình độ học vấn của lực lượng lao động nữ khu vực nông thôn thấp hơn hẳn so với nam trong khu vực và nữ khu vực thành thị. Năm 1998, số nữ chưa biết chữ là 895.737 người, trong đó nữ nông thôn 833.932 người, chiếm 93,1%; tốt nghiệp cấp I là 5463206 người, trong đó nữ nông thôn 4593781, chiếm 84%; đã tốt nghiệp cấp III là 2644747 người, trong đó nữ nông thôn 1360768 người, chiếm 51,4%. ở cấp học càng cao thì tỷ lệ nữ càng thấp hơn so với nam; chưa biết chữ chiếm 62,55%, đã tốt nghiệp cấp I chiếm 49,86%, đã tốt nghiệp cấp hai chiếm 48,44%, đã tốt nghiệp cấp III chiếm 4,18%. Xét trên 7 vùng lãnh thổ trong toàn quốc, trình độ học vấn của nữ khu vực nông thôn so với thành thị cũng diễn ra tương tự như tình hình chung cuả nước. Nguyên nhân chủ yếu là do tư tưởng trọng nam khinh nữ vẫn còn phổ biến, đặc biệt ở khu vực nông thôn. Do đó nữ ít có điều kiện đến trường và càng học lên cao số học sinh nữ càng giảm sút rõ rệt, đặc biệt trong các trường PTTH
Tuy trình độ học vấn của lao động nông thôn không phải quá thấp nhưng đại bộ phận lại không được đào tạo chuyên môn kỹ thuật, thừa lao động giản đơn nhưng lại thiếu lao động kỹ thuật . Năm 1996 tỷ lệ lao động nông thôn qua đào tạo mới đạt 7,8%, năm 2000 tỷ lệ này tăng lên 9,3%, so với tỷ lệ chung toàn quốc thì tỷ lệ này còn thấp hơn khoảng 10% . Nếu tính riêng số lao động qua đào tạo chuyên môn kỹ thuật thì chiếm khoảng 15% tổng số lao động kỹ thuật cuả cả nước( Theo tạp chí Lao động và xã hội (số 12/ năm 2001)). Tình trạng trên là do nhiều nguyên nhân gây ra. Thứ nhất, do hầu hết các trường đào tạo, dạy nghề, trung học chuyên nghiệp, cao đẳng, đại học đều bố trí ở khu vực đô thị. Nguồn nhân lực nông thôn ít có điều kiện tiếp cận với các cấp các cơ sở đào tạo này. Thứ hai, là hầu hết mạng lưới cơ sở vật chất của các cơ sở bồi dưỡng và đào tạo nghề còn thiếu cơ sở vật chất tài chính, yếu về động lực học tập. Nhưng nhiều nơi rất chồng chéo, manh mún, có khi xảy ra hiện tượng “tranh chấp” làm giảm hiệu lực của nhau, có cơ sở chỉ là “ Công ty ma “ lừa tiền của người lao động đến học, kéo dài chương trình giảng dạy theo quy định nhằm tăng thêm thời gian giảng dạy để tăng chi phí đào tạo. Thứ ba, trình độ sản xuất nông nghiệp còn lạc hậu, chưa thay đổi lắm về cơ cấu cây trồng vật nuôi nên bản thân người lao động đều cảm thấy không cần thiết nâng cao trình độ chuyên môn kỹ thuật thêm. Thứ tư, là sự thiếu hiêp đồng giữa đào tạo và sử dụng… Cuối cùng một nguyên nhân nữa là phần lớn Nguồn nhân lực đã được đào tạo không chịu quay trở về nông thôn. Thêm vào đó còn có sự khác biệt đáng kể trong phân bố lao động qua đào tạo giữa các vùng. Phần lớn lao động qua đào tạo tập trung ở các vùng đồng bằng Sông Hồng, Đông Nam Bộ. Hai vùng Tây Bắc và Tây Nguyên có tỷ lệ lao động qua đào tạo thấp nhất. Cơ cấu chuyên ngành được đào tạo cũng có sự mất cân đối nghiêm trọng . Theo kết quả khảo sát của Ngân hàng Thế Giới , cứ 100 lao động nông thôn có 57 người qua đào tạo , trong đó chỉ có 4,4 người được đào tạo về chuyên ngành nông- lâm-ngư nghiệp. Hiện nay, tình trạng này hầu như chưa được cải thiện , số cơ sở đào tạo và số học sinh theo học các chuyên ngành thuộc lĩnh vực nông- lâm- ngư nghiệp còn rất khiêm tốn so với các chuyên ngành khác. Lao động nông nghiệp vẫn chủ yếu là canh tác, sản xuất theo kinh nghiệm cổ truyền, năng suất thấp. Cơ cấu trình độ đội ngũ khoa học kỹ thuật và công nghệ trong các lĩnh vực kinh tế, văn hoá, xã hội của cả nước và các vùng , đặc biệt ở khu vực nông thôn còn bất hợp lý. Nhiều nơi và ở nhiều lĩnh vực sản xuất vật chất, tỷ lệ lao động có trình độ đại học, trung học chuyên nghiệp và công nhân kỹ thuật gàn như ngang nhau. Một vài trường hợp tỷ lệ người có trình độ đại học còn cao hơn lực lượng công nhân kỹ thuật. Về cấu trúc đào tạo của lao động có kỹ thuật theo cơ cấu trình độ cao đẳng, đại học- trung học chuyên nghiệp- công nhân kỹ thuật nông thôn năm 1995 là 1- 1,06 –0,36; năm 1997 quan hệ này là 1- 3,5 –2,84; đến năm 1999 là 1- 2,2- 2,9. Như vậy, đã có sự chuyển dịch theo hướng tiến bộ về cấu trúc đào tạo của lao động kỹ thuật nhưng còn xa mới đạt được một cấu trúc hợp lý phù hợp với yêu cầu phát triển (1- 4- 12) khi chuyển sang giai đoạn đầu của quá trình công nghiệp hoá- hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn .
Gần đây, nhờ đẩy mạnh công tác khuyến nông và phổ biến kỹ thuật rộng rãi trên các phương tiện truyền thông, trình độ canh tác nông dân bước đầu được cải thiện nhưng do phần lớn lao động nông thôn thiếu kiến thức cơ bản để tiếp thu và áp dụng tiến bộ Khoa học kỹ thuật trong nông nghiệp nên hiệu quả sản xuất nhìn chung còn thấp. Vì vậy đào tạo lao động kỹ thuật cho nông nghiệp nông thôn để thúc đẩy nhanh qúa trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn là một vấn đề cấp bách và có tính chiến lược . Đặc biêt ở các vùng sâu, vùng xa , các tỉnh miền núi, những nơi còn gặp nhiều khó khăn về kinh tế thì sự chênh lệch về trình độ lao động giữa các vùng rất cao nên việc đưa khoa học kỹ thuật , đưa vốn vào hình thành các nghề mới còn nhiều khó khăn. Đó là lý do giải thích vì sao lao động nông thôn còn nặng về thuần nông , lao động chưa đóng vai trò tích cực trong trong việc chuyển đổi cơ cấu . Cơ cấu kinh tế còn bất hợp lý nên năng suất lao động ở nông thôn còn thấp , dẫn đến thu nhập thấp . Đầu tư giáo dục ,đào tạo thấp nên người nông dân chưa tiếp thu được khoa học kỹ thuật , sản phẩm nông nghiệp thiếu tính hàng hoá , chủ yếu vẫn tự túc. Lao động thủ công là chính, nên khả năng cạnh tranh trên thị trường kể cả về giá cả và chất lượng không cao, thực trạng lao động như vậy còn hạn chế triển khai sử dụng vốn các tổ chức nước ngoài cũng như cũng như vốn của Nhà nước ở nông thôn . Một số dự án chương trình phát triển nông nghiệp ,nông thôn có nguồn vốn khá lớn nhưng giải ngân không được . Có nhiều lý do nhưng trong đó có lý do là trình độ của nhiều người nông dân còn thấp , không đề xuất được các dự án , không lập được dự án khả thi và khi có dự án thì rất lúng túng trong việc triển khai thực hiện. Lao động kỹ thuật thấp nên việc đưa khoa học kỹ thuật vào còn gặp nhiều khó khăn. Mối quan hệ giữa trình độ lao động kỹ thuật và chuyển dịch cơ cấu kinh tế khá chặt chẽ . Chuyển dịch cơ cấu dẫn đến tạo việc làm , thúc đẩy kinh tế tăng trưởng là điều kiện để nâng cao chất lượng đội ngũ lao động . Chất lượng lao động được cải thiên , năng suất lao động tăng , thu nhập tăng là cơ sở để thúc đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế . Rõ ràng, lao động là nguồn nội lực quan trọng nhất, chất lượng lao động là điều kiện tiền đề cho quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Nguồn nhân lực nông thôn tuy chiếm tỷ trọng lớn hơn rất nhiều so với số lao động đô thị nhưng độ nghề và trình độ tri thức , lao động nông thôn đều có khoảng cách khá xa so với đô thị . Không chỉ hạn chế về trình độ sự chuyển dịch cơ cấu lao động theo xu hướng tăng tỷ trọng công nghiệp , tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ, giảm dần tỷ trọng lao động thuần nông còn chậm chạp. Hơn 10 năm chỉ giảm được 5% lao động thuần nông, từ chỗ 73% xuống còn 68%, đa số lao động chuyển sang công nghiệp và dịch vụ lên 32%. Tỷ lệ chênh lệch cũng đồng nghĩa trình dộ sản xuất nói chung của khu vực nông thôn còn thấp, chưa đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá- hiện đại hoá .Rõ ràng những hạn chế trên của đội ngũ lao động nông thôn đã và đang là vấn đề lớn với khu vực kinh tế nông thôn nông nghiệp trong việc đạt các mục tiêu phát triển kinh tế xã hội. Nó thể hiện ở năng suất lao động thấp do chưa tiếp thu được các tiến bộ khoa học kỹ thuật , sản phẩm thiếu tính hàng hoá. Do việc sản xuất tự cấp tự túc , thủ công, nên khả năng cạnh trạnh trên thị trường cả về chất lượng và giá cả đều không cao. Do đó, tình trạng thiếu việc làm tại khu vực nông thôn trở nên rất trầm trọng, khiến người lao động phải đổ ra thành phố kiếm sống bằng mọi cách. Bên cạnh đó, cũng do trình độ hạn chế mà khả năng sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn hỗ trợ từ phía Nhà nước cũng như các tổ chức nước ngoài ở nông thôn không cao, không đáp ứng các mục tiêu đã đề ra. Nước ta đang phấn đấu đến năm 2020 trở thành nước công nghiệp và để đạt được điều đó trong 5 năm nữa phải giảm được 40% tỷ trọng lao động nông nghiệp nghiã là tốc độ phát triển phải tăng lên gấp nhiều lần so với hiện tại . Với mục tiêu này, việc nâng cao chất lượng đội ngũ lao động trở thành vấn đề mang tính cấp bách và có tính chiến lược. Xuất phát từ yếu điểm lớn nhất của lực lượng lao động nông thôn là trình độ thấp kém, giải pháp cần được quan tâm hàng đầu là cần có các chính sách đào tạo Nguồn nhân lực tại khu vực này, trong đó đặc biệt nhấn mạnh việc đào tạo Nguồn nhân lực tại chỗ. Đây được xem là công việc có tính quyết định bởi tri thức, sự hiểu biết là chìa khoá giúp tăng năng suất lao động, tạo ra nhiều công ăn việc làm mới, giúp nâng cao và ổn định cuộc sống. Thực tế, mấy năm vừa qua bên cạnh việc thiếu đầu tư hợp lý cho mạng lưới giáo dục cơ sở, chính việc thiếu những chính sách hỗ trợ, khuyến khích lao động có trình độ ở nông thôn, nhất là các tỉnh vùng sâu, vùng xa đã khiến số lao động qua đào tạo này đã ít còn rò rĩ đến các thành phố do sự chênh lệch quá lớn về trình độ kinh tế xã hội giữa nông thôn và thành thị. Nhiều sinh viên khi tốt nghiệp sẵn sàng trở về quê hương phục vụ nhưng vì điều kiện ở đây về thông tin, học tập để phát triển thêm năng lực và trình độ nên lại nản lòng. Tất nhiên, để nâng cao mức đãi ngộ cho số cán bộ về miền núi, vùng sâu, vùng xa, đòi hỏi phải có nguồn kinh phí không nhỏ về lâu, về dài, nó sẽ đem nguồn lợi to lớn hơn gấp bội vì chính sức lao động mới tạo nên giá trị. Tuy nhiên, song song với biện pháp này còn phải chú trọng đến đầu tư cơ sở hạ tầng cho địa phương, thực hiện những chính sách hỗ trợ, khuyến khích kinh tế địa phương phát triển , tạo điều kiện cho lực lượng lao động nâng cao trình độ năng lực. Vừa qua, Tổng cục dạy nghề đã được thành lập lại, nhưng xem ra còn lúng túng trong nhận thức và khuôn mẫu đào tạo, khuyến khích các chủ thể đào tạo, cũng không đạt được mục đích bồi dưỡng và nâng cao chất lượng lao động nông thôn. Đến nay, kể cả Tổng cục dạy nghề cũng chưa hoàn thành nội dung cụ thể đào tạo lao động nông thôn. Hiện nay, ở nông thôn có chung mục tiêu xoá đói giảm nghèo, nhưng nguồn vốn lại xé ra cho nhiều tổ chức đoàn thể, nên chưa tạo cho nông dân có nguồn vốn đáng kể.
Bên cạnh trình độ Nguồn nhân lực yếu kém, thể lực của lao động nông thôn vẫn còn là một hạn chế rất lớn đối với Nguồn nhân lực ở nông thôn. Theo báo cáo về điều tra mức sống dân cư của Viện kinh tế học năm 1998-1999, so sánh với chỉ số cơ thể ( BMI) với mức tiêu chuẩn là chiều cao trung bình của lao động nam 160cm, lao động nữ 150 cm, trọng lượng trung bình của nam là 50 kg, của nữ là 42 kg thì có tới 62,51% lao động nam và 36,93 % lao động nữ ở nông thôn dưới mức bình thường. Chiều cao trung bình của lao động nông thôn là 158 cm, trọng lượng trung bình là 48 kg. Mặt khác, theo kết quả điều tra chiều cao, cân nặng của học sinh 15 tuổi cũng cho thấy thể lực của lớp tuổi này kém xa so với các nước trong khu vực. So với học sinh 15 tuổi ở Nhật Bản, học sinh 15 tuổi của Việt Nam thấp hơn đến 17 cm và cân nhẹ hơn đến 18,9 kg.
Biểu 8 : Chiều cao và cân nặng của học sinh 15 tuổi ở Việt Nam và một số nước trong khu vực.
Nước
Chiều cao (cm)
Cân nặng (kg)
Việt Nam
147
34,4
Thái Lan
149
40,5
Philippin
153
45,5
ấn độ
155
49,5
Nhật Bản
164
53,3
Nguồn: Báo cáo chuyên đề lao động –việc làm trong kế hoạch 5 năm 1996-2000 của Vụ lao động văn xã và Viện chiến lược phát triển của UBKHNN.
Nguyên nhân chủ yếu của tình trạng này vẫn là lý do kinh tế. Hầu hết các hộ gia đình ở nông thôn đều có mức sống nghèo, thu nhập (250 USD/ người/ năm) chủ yếu dựa vào sản phẩm nông nghiệp. Đa số dân cư nông thôn mới chỉ đủ lúa gạo để chống đói chứ chưa có điều kiện để cải thiện bữa ăn hàng ngày. Ngoài ra, lao động của họ vẫn thuần tuý là lao động chân tay nặng nhọc nhưng điều kiện nhà ở vệ sinh và nguồn nước sạch cho sinh hoạt chưa đảm bảo vì thế tỷ lệ mắc bệnh tương đối cao.Trong khi đó sự nghiệp y tế, giáo dục ở nhiều vùng nông thôn không theo kịp tốc độ tăng dân số , hệ thống y tế xuống cấp nhanh chóng, chất lượng phục vụ y tế ngày càng giảm sút. Tỷ lệ suy dinh dưỡng ở vùng châu thổ cao gấp hai lần so với Hà Nội, ở miền núi phía Bắc và hải đảo tỷ lệ này còn cao hơn nhiều. Theo kết quả khảo sát mức sống dân cư Việt Nam 1992-1993 của Cục thống kê và UBKHNN cho thấy: Cân nặng trung bình của người lao động Việt Nam chỉ có 49,8 kg. Cung cấp calo bình quân đầu người chỉ có 2220 calo , tuy đạt tỷ lệ cung cấp calo bình quân đầu người so với nhu cầu tối thiểu là 102%, cao hơn một số nước nhưng vẫn là một trong hai nước thấp nhất trong khối ASEAN. Một loạt các chỉ tiêu khác liên quan đến y tế , chăm sóc sức khoẻ ở Việt Nam còn ở mức thấp. Điều này lý giải phần nào sự hạn chế về mặt thể lực của Nguồn nhân lực Việt Nam nói chung.
Tình trạng trên cho thấy sự yếu kém về thể lực của Nguồn nhân lực nước ta nói chung và đặc biệt ở khu vực nông thôn. Nếu kéo dài tình trạng này sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến tư duy, khả năng học hành, đào tạo, làm mất cơ hội có công ăn việc làm của Nguồn nhân lực trong khi nền kinh tế thị trường ngày càng phát triển , mặt khác, chất lượng Nguồn nhân lực của ta có nguy cơ tụt hậu so với các nước trong khu vực. Như vậy, tuy chiếm tỷ trọng lớn hơn rất nhiều so với số lao động đô thị nhưng độ nghề và trình độ tri thức lao động nông thôn đều có khoảng cách khá xa so với đô thị. Đặc biệt với các tỉnh miền núi, vùng sâu, vùng xa hoặc những nơi còn gặp nhiều khó khăn thì sự thiếu hụt số lao động qua đào tạo còn trầm trọng hơn gấp nhiều lần. Rõ ràng, hạn chế trên của đội ngũ lao động nông thôn đã và đang là trở ngại lớn với khu vực kinh tế nông thôn , nông nghiệp trong việc đạt các mục tiêu phát triển kinh tế xã hôi . Do chất lượng lao động nông thôn thấp dẫn đến thu nhập của lao động nông thôn thấp và bấp bênh. Theo tạp chí”Thời báo kinh tế “ ( tháng 6/ năm 2001), thu nhập bình quân đầu ngưòi tại khu vực nông thôn mới đạt 2,4 triệu đồng/ năm, thấp hơn 3,6 lần so với thành thị và có tới 90% trong số 2 triệu hộ nghèo trên cả nước thuộc khu vực nông thôn
Nhìn chung, chất lượng đội ngũ lao động và tăng trưởng kinh tế có mối quan hệ qua lại, tác động lẫn nhau, nó giống như hai mặt của một vấn đề. Kinh tế tăng trưởng là điều kiện nâng cao chất lượng đội ngũ lao động và ngựoc lại khi chất lượng lao động được cải thiện thì năng suất lao động tăng lên, thu nhập tăng, là cơ sở quan trọng để kinh tế phát triển .
Con người luôn là vốn quý nhất của mỗi quốc gia. Và khi con người được trang bị một vốn kiến thức đầy đủ sẽ mang lại lợi ích lớn lao cho xã hội. Trong tiến trình công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước, chúng ta cần một Nguồn nhân lực chất lượng cao. Để quá trính phát triển Nguồn nhân lực đem lại hiệu quả sử dụng cao, công tác phát triển Nguồn nhân lực phải phù hợp với đặc điểm, tiềm năng, định hướng phát triển của từng vùng lãnh thổ, đây vừa là vấn đề cấp thiết, vừa là vấn đề lâu dài, và cũng không có một giải pháp nào là tối ưu và hoàn hảo. Các ngành, các cấp, và các đoàn thể cần có sự phối hợp chặt chẽ để xây dựng một hệ thống chiến lược đào tạo phù hợp với mỗi vùng.
Phần III:
Một số giải pháp phát triển Nguồn nhân lực nông thôn
phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá- hiện đại hoá
đất nước.
I/ Định hướng phát triển kinh tế- xã hội của nước ta trong những năm tới (2001-2005) .
Con đường công nghiệp hoá- hiện đại hoá của nước ta cần và có thể rút ngắn thời gian, vừa có những bước tuần tự, vừa có bước nhảy vọt, phát huy những lợi thế của đất nước, tận dụng mọi khả năng để đạt trình độ công nghệ tiên tiến, đặc biệt là công nghệ thông tin và công nghệ sinh học, tranh thủ ứng dụng ngày càng nhiều hơn, ở mức cao hơn và phổ biến hơn những thành tựu mới về khoa học và công nghệ, từng bước phát triển kinh tế tri thức. Phát huy nguồn lực trí tuệ và sức mạnh tinh thần của người Việt Nam , coi phát triển giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ là nền tảng và động lực của sự nghiệp công nghiệp hoá- hiện đại hoá . Trong chiến lược công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước, nhu cầu về số lượng và chất lượng lao động cho các ngành kinh tế quốc dân sẽ rất lớn. Để xác định nhu cầu nâng cao chất lượng lao động nông thôn cần phải dựa trên chiến lược phát triển kinh tế- xã hội của đất nước, của các ngành và chiến lược phát triển Nguồn nhân lực.
Mục tiêu tổng quát của kế hoạch 5 năm 2001-2005 của nước ta là tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững, ổn định và cải thiện đời sống nhân dân . Chuyển dịch mạnh cơ cấu kinh tế , cơ cấu lao động theo hướng công nghiệp hoá- hiện đại hoá . Nâng cao rõ rệt hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế . Mở rộng kinh tế đối ngoại. Tạo chuyển biến mạnh về giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, phát huy nhân tố con người. Tạo nhiều việc làm, cơ bản xoá đói, giảm số hộ nghèo, đẩy lùi các tệ nạn xã hội. Tiếp tục tăng cường kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội, hình thành một bước quan trọng thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Giữ vững ổn định chính trị và trật tự an toàn xã hội, bảo vệ vững chắc đọc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và an ninh quốc gia.
Theo văn kiện Đại Hội Đại Biểu toàn quốc lần thứ IX, định hướng phát triển kinh tế xã hội của nước ta trong thời kỳ 2001-2005 là đưa GDP năm 2005 gấp hai lần so với năm 1995. Nhịp độ tăng trưởng GDP bình quân hàng năm thời kỳ 5 năm 2001-2005 là 7,5%, trong đó nông, lâm, ngư nghiệp tăng 4,3%, công nghiệp và xây dựng tăng 10,8%, dịch vụ tăng 6,2%. Giá trị sản xuất nông, lâm , ngư nghiệp tăng 4,8%/năm. Giá trị sản xuất ngành công nghiệp tăng 13%/năm. Giá trị dịch vụ tăng 7,5%/năm. Tổng kim ngạch xuất khẩu tăng 16%.
Biểu 9 : Dự tính nhu cầu chất lượng Nguồn nhân lực nông thôn đến năm 2005.
Chỉ tiêu
Năm 2000
Năm 2005
Tốc độ tăng giảm bình quân hàng năm(%)
Dân số( triệu người)
Cả nước
Nông thôn
Lao động-việc làm
Lao động trong tuổi có nhu cầu làm việc( triệu người)
Thời gian sử dụng lao động (%)
Tổng số lao động làm việc( triệu người). Trong đó:
Nông nghiệp( triệu người)
% so với tổng số
Công nghiệp( triệu người)
% so với tổng số
Dịch vụ( triệu người)
% so với tổng số
Chất lượng nguồn lao động
Tỷ lệ biết chữ của dân số từ 15 tuổi trở lên(%)
Tổng số lao động đã qua đào tạo(%)
77,5
77,5
53,8
38,64
73,86
20,5
16,48
76,66
1,9
8,86
3,12
14,48
95
9,3
82,15
82,15
55,7
46,14
80
28
15,68
56
5,88
21
6,44
23
98
30
1,2
1,2
0,7
3,9
1,23
7,3
-4,13
2,43
1,7
0,6
4,14
Nguồn: Văn Kiện Đại Hội Đại Biểu toàn quốc lần thứ IX
Kế hoạch tổng GDP được tạo ra trong 5 năm tới vào khoảng 2.650-2.660 nghìn tỷ đồng ( tính theo giá năm 2000), tương đương 190 tỷ USD. Tổng quỹ dự báo tăng khoảng 5,5%/năm, tỷ lệ tích luỹ nội địa sẽ có khả năng nâng lên 28-30% GDP, trong đó tích luỹ từ khu vực ngân sách khoảng 6% GDP, tích luỹ khu vực dân cư, doanh nghiệp khoảng 22-24% GDP .
Giảm tỷ lệ sinh bình quân hàng năm 0,05 %, tốc độ tăng dân số vào năm 2005 khoảng 1,2%, từ 77,5 triệu người( năm 2000) tăng lên khoảng 82,15 triệu người ( năm 2005). Trong đó, dân số nông thôn từ 53,8 triệu người (năm 2000) tăng lên 55,7 triệu người ( năm 2005), với tốc độ tăng dân số nông thôn vào khoảng 0,7%.
Trong 5 năm tới, dự tính thu hút và tạo việc làm thêm cho khoảng trên 7,5 triệu lao động trong các ngành kinh tế , xã hội, bình quân mỗi năm khoảng trên 1,5 triệu người, trong đó ở khu vực nông thôn , với việc chuyển đổi mạnh cơ cấu sản xuất , mùa vụ, cây trồng, vật nuôi, phát triển đa dạng ngành nghề trong các lĩnh vực công nghiệp , thủ công mỹ nghệ, dịch vụ… dự kiến có thể thu hút và tạo thêm việc làm cho khoảng trên 9 triệu lao động ( tính theo ngày công quy đổi), đưa số lao động có việc làm ở nông thôn vào năm 2005 khoảng 28 triệu người, tăng trung bình mỗi năm 7,3%. Trong đó, tổng số lao động trong ngành nông nghiệp là 15,68 triệu người, chiếm 56% tổng số lao động làm việc, giảm 4,13% so với năm 2000. Tổng số lao động trong ngành công nghiệp 5,88 triệu người, chiếm 21% so với tổng số lao động, tăng lên 2,43% so với năm 2000. Tổng số lao động trong ngành dịch vụ là 6,44 triệu người, chiếm 23% so với tổng số lao động , tăng lên 1,7% so với năm 2000. Như vậy, từ 2000-2005, chúng ta phấn đấu mỗi năm thu hút thêm 1,3-1,4 triệu người có chỗ làm việc, đạt cơ cấu lao động nông nghiệp 56%, công nghiệp và xây dựng 21%, dịch vụ 23%, giảm tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị xuống 5-6% và nâng tỷ lệ sử dụng thời gian lao động ở nông thôn lên 80%, tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt 30%, trong đó đào tạo nghề là 22%, tăng lên so với năm 2000 là 20,7%, tức tăng trung bình mỗi năm 4,14%
II/ Một số giải pháp phát triển Nguồn nhân lực nông thôn phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá- hiện đại hoá ở nước ta.
Con đường công nghiệp hoá- hiện đại hoá ở nước ta còn phải trãi qua nhiều thách thức, chông gai và vô cùng khó khăn. Toàn đảng, toàn dân ta quyết tâm đoàn kết, cùng vượt lên khó khăn để hoàn thành sự nghiệp công nghiệp hoá- hiện đại hoá , để đến năm 2020 biến nước ta thành nước công nghiệp phát triển .
Kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội 5 năm 2001-2005 là bước rất quan trọng trong việc thực hiện chiến lược 10 năm 2001-2010, trong đó kế hoạch phát triển Nguồn nhân lực , tạo công ăn việc làm cho người lao động nói chung và lao động nông thôn nói riêng góp một phần quan trọng không nhỏ để hoàn thiện kế hoạch phát triển kinh tế –xã hội của đất nước. Đất nước đang bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá- hiện đại hoá, trong đó nhiệm vụ hàng đầu là công nghiệp hoá- hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn . Hàng loạt yêu cầu về lao động và việc làm phục vụ quá trình đó đang đặt ra và cần giải quyết, trong đó giải phóng lao động nông nghiệp, chuyển đổi cơ cấu ngành nghề ở nông thôn , tạo việc làm , đào tạo bồi dưỡng nâng cao kiến thức và tay nghề của lao động, nâng cao dân trí ở nông thôn , giảm nhịp độ tăng tự nhiên của dân số và lao động , phân bố lại lao động và dân cư giữa các vùng để giảm bớt sức ép về lao động ở vùng đồng bằng ven biển là những vấn đề đáng quan tâm hiện nay. Để giải quyết vấn đề này cần có một hệ thống các giải pháp cả về cơ chế chính sách, vốn đầu tư và tổ chức chỉ đạo .
1/ Hoàn thiện chính sách phát triển Nguồn nhân lực, giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ.
Tăng cường đầu tư vào phát triển con người thông qua phát triển mạnh giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ. Đảm bảo Nguồn nhân lực về số lượng và chất lượng, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của công nghiệp hoá- hiện đại hoá . Vì vậy cần phải nâng dần tỷ trọng chi ngân sách cho giáo dục và đào tạo. Sử dụng ngân sách đó một cách phù hợp là biện pháp hàng đầu. Tăng ngân sách cho hệ thống các trường chính quy đào tạo nhân lực cho nông nghiệp và phát triển nông thôn, đặc biệt ưu tiên cho các ngành “mũi nhọn” và phân bố tài chính thoả đáng cho đào tạo nhân lực trong các chương trình, dự án phát triển nông nghiệp và nông thôn. Cần có biện pháp tăng nguồn thu ngoài ngân sách để phục vụ cho đào tạo thông qua các hoạt động sản xuất, tiếp thu khoa học, ứng dụng triển khai các tiến bộ khoa học, công nghệ. Khuyến khích và hỗ trợ các các cơ sở đào tạo thành lập cơ sở sản xuất, dịch vụ khoa học đúng theo ngành nghề đào tạo vừa phục vụ việc thực hành, thực tâp, vừa làm tăng nguồn thu để phục vụ công tác đào tạo. Đồng thời, lại đáp ứng nhu cầu của thị trường, bằng cách hỗ trợ đầu ra của sản phẩm, miễn giảm thuế… Có chính sách mở rộng quan hệ quốc tế, thu hút đầu tư và viện trợ nước ngoài theo các dự án phát triển nông thôn. Khuyến khích việc liên doanh, liên kết đào tạo với các cơ sở đào tạo nước ngoài thông qua chuyển giao công nghệ, gửi người đi học tập và đào tạo ….Xây dựng quỹ khuyến học ngành nông nghiệp và phát triển nông thôn để huy động mọi tiềm năng trong và ngoài nước đóng góp cho đào tạo khu vực này.Thu hút nhiều vốn đầu tư cho giáo dục và đào tạo. Như nguồn ngân sách Nhà nước cấp , học phí và lệ phí, nghiên cứu khoa học, lao động sản xuất dịch vụ của các cơ sở đào tạo , tài trợ của các tổ chức quốc tế: UNICEP, UNESCO, ngân hàng thế giới(WB), tổ chức viện trợ phát triển chính thức, tổ chức chính phủ và phi chính phủ, đóng góp của các cơ sở sản xuất kinh doanh, các nhà hảo tâm. Hỗ trợ cho vay vốn học nghề kết hợp với các loại vốn vay khác, như tạo việc làm, xây dựng trang trại, xoá đói giảm nghèo.. Nhà nước cấp kinh phí cho đào tạo nghề ngắn hạn và hỗ trợ cho các cơ sở đào tạo nghề ở nông thôn. Nhà nước cần tăng cường và ưu tiên đầu tư cho công tác dạy nghề. Ngoài đầu tư từ ngân sách, Nhà nước có chính sách, biện pháp huy động vốn từ các nguồn khác. Các cấp ngành có thẩm quyền cần nhanh chóng tạo hành lang pháp lý để các trường trung học chuyên nghiệp và các trường dạy nghề được phép trở lại kinh doanh, dịch vụ đúng ngành đào tạo. Cần có hệ thống các chính sách khuyến khích, thu hút đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật viên và công nhân lành nghề tham gia giảng dạy ở các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng của ngành hoặc về phục vụ nông thôn, nhất là ở những vùng nông, lâm, ngư nghiệp trọng điểm, các vùng sâu, vùng xa. Có chính sách và đầu tư cho việc bồi dưỡng đội ngũ giáo viên ở các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng của các ngành. Tạo điều kiện thuận lợi và thu hút, huy động cán bộ vào công tác khuyến nông, lâm, ngư, kể cả cá chuyên gia đã nghỉ chế độ còn sức khoẻ và nhiệt tình. Đặt giáo dục hoạt động trong môi trường sư phạm lành mạnh, nhanh chóng tiếp cận trình độ khu vực và quốc tế . Đổi mới chính sách đào tạo, sử dụng, và đãi ngộ trí thức, trọng dụng và tôn vinh nhân tài. Chú trọng sử dụng và phát huy tiềm năng tri thức của người Việt Nam ở nước ngoài. Khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi cho việc mở rộng giao lưu và hợp tác quốc tế về khoa học và công nghệ. Đổi mới cơ chế, chính sách tài chính đối với giáo dục và đào tạo, thu hút các nguồn lực trong nước và ngoài nước, khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư, phát triển giáo dục ở tất cả các bậc học. Ngân sách Nhà nước tập trung hơn cho các bậc giáo dục phổ cập ở vùng nông thôn , miền núi. Đẩy mạnh công tác giáo dục hướng nghiệp ở các trường phổ thông. Khuyến khích hình thành và mở rộng các quỹ khuyến học ở các ngành, các địa phương, các hiệp hội, tiếp tục mở rộng hình thức tín dụng cho sinh viên các trường đại học, cao đẳng. Mặt khác, Nhà nước cần có chiến lược lâu dài về lao động nông thôn , gắn với chiến lược con người của thời kỳ công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước. Mục tiêu của chiến lược đó phải là giải phóng mạnh mẽ lao động giản đơn nông nghiệp tạo thêm việc làm phi nông nghiệp ngay tại địa bàn nông thôn , hạn chế di chuyển lao động ồ ạt từ nông thôn ra thành phố. Coi dạy nghề cho nông dân là một bộ phận của chiến lược con người. Trên cơ sở chiến lược lâu dài cần cụ thể hoá theo từng thời kỳ gắn với quy hoạch và kế hoạch đầu tư vốn, khoa học công nghệ, đào tạo lại cán bộ khoa học, quản lý và công nhân lành nghề, phục vụ nông nghiệp nông thôn , phân bố và sử dụng nguồn lao động nông thôn trên các vùng sinh thái phù hợp với yêu cầu chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá- hiện đại hoá Vấn đề dạy nghề cho nông dân cần được xem xét và giải quyết đồng bộ cùng với các giải pháp về kỹ thuật, vốn, thị trường. Đã đến lúc vấn đề dạy nghề ở nông thôn cần gắn liền với chương trình đào tạo nghề nghiệp nói chung và cần có sự đầu tư của Nhà nước và xã hội. Nhà nước cần ưu tiên các dự án quốc gia và quốc tế cho vấn đề giải quyết việc làm, dạy nghề ở nông thôn và nâng cao dân trí của nông dân. Để thực hiện được giải pháp này cần có đủ các thông tin về số lượng, phân loại lao động nông thôn theo nghề nghiệp, trình độ văn hoá, độ tuổi và dân tộc của từng vùng. Vì vậy đã đến lúc cần tiến hành cuộc tổng điều tra lao động , việc làm và trình độ dân trí, nghề nghiệp của nông dân ở khu vực nông thôn trong thời gian từ nay đến năm 2005.
2/ Hoàn thiện, nâng cấp cơ sở hạ tầng ở nông thôn
Để thực hiện được giải pháp này yêu cầu cần phải thông qua bổ sung hoàn thiện hệ thống chính sách và pháp luật trong phạm trù nông nghiệp và nông thôn. Quan trọng nhất là tính nhất quán và lâu dài, nhằm khuyến khích đào tạo nghề và học nghề, khuyến khích tự bỏ vốn để đầu tư kinh doanh, khuyến khích thu hút và sử dụng lao động nông thôn. Song song với nó cần thực hiện đồng bộ các Luật kinh doanh, Luật đất đai, Luật lao động …
Trừ đồng bằng Sông Hồng đã và đang quan tâm xây dựng và phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng. Ngoài ra ở nông thôn còn rất nhiều vùng thiếu thốn, nhất là vùng sâu, vùng xa, miền núi, hải đảo. Không làm tốt công việc này sẽ khó cải thiện điều kiện sống của nông dân, chắc chắn khó nâng cao hiệu quả sản xuất, năng suất lao động và phát triển Nguồn nhân lực .
Nhà nước cần có cơ chế và chính sách thu hút mạnh mẽ các nguồn vốn đầu tư trong và ngoài nước vào các chương trình và dự án, tạo thêm việc làm, thu hút lao động nông thôn . Ưu tiên các dự án phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn, công nghiệp nông thôn, chuyển giao công nghệ, đào tạo cán bộ công nhân lành nghề, cơ giới hoá và hiện đại hoá nông nghiệp, phát triển kinh tế- xã hội miền núi, vùng sâu, vùng cao, vùng đồng bằng các dân tộc ít người. Đầu tư vào nông thôn và nông nghiệp hoặc trên địa bàn nông thôn chắc chắn hiệu quả kinh tế sẽ thấp hơn ở thành phố, vì vậy Nhà nước cần có chính sách miễn giảm giá thuế đất, các loại thuế, phí và đơn giản hoá các thủ tục trong các khâu thẩm định, xét duyệt và triển khai các dự án đầu tư đó nhằm khuyến khích bằng lợi ích vật chất các chủ đầu tư. Các chương trình và dự án bằng nguồn vốn ngân sách và vốn viện trợ không hoàn lại của nước ngoài và các tổ chức quốc tế như : xoá đói giảm nghèo, tạo việc làm, chuyển đổi cơ cấu kinh tế , phát triển giáo dục, y tế, bảo vệ tài nguyên môi trường, kế hoạch hoá gia đình, nước sạch, cần tập trung cao độ hơn cho cho khu vực nông thôn để tạo việc làm, nâng cao dân trí và sức khoẻ cho lao động nông thôn, rút ngắn khoảng cách quá lớn giữa nông thôn và thành thị . Tổng kết và từng bước nhân rộng cá mô hình công nghiệp và dịch vụ gắn với trung tâm đô thị mới trên địa bàn nông thôn. Đó là các cụm kinh tế , kỹ thuật và thương mại của các tiểu vùng, từng huyện, nằm trong quy hoạch chung của mỗi tỉnh, được hình thành trên cơ sở kết hợp sản xuất nông sản hàng hoá với công nghiệp chế biến nông sản, với các hoạt động dich vụ phục vụ sản xuất và đời sống.
3/Đẩy nhanh chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu ngành nghề nông thôn theo hướng giảm tỷ trọng nông nghiệp, tăng dần tỷ trọng công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ.
Trước hết, cần đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp theo hướng đa canh, đa dạng hoá vật nuôi cây trồng. Hình thành nền nông nghiệp hàng hoá lớn trên cơ sở điện khí hoá, cơ giới hoá nông nghiệp, nông thôn. Đưa nhanh tiến bộ khoa học công nghệ vào sản xuất nông nghiệp góp phần tăng năng suất lao động, nâng cao chất lượng và sức cạnh tranh của sản phẩm. Cần quy hoạch các vùng chuyên canh, thực hiện chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi cho phù hợp với lợi thế của từng địa phương, từng vùng. Phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ nông thôn với phương châm đưa công nghiệp gắn với các vùng nguyên liệu, với thị trường nông thôn , tạo sự liên kết gắn bó giữa công nghiệp với nông nghiệp và thu hút lao động dư thừa trong nông thôn. Trước mắt cần tập trung phát triển ngành công nghiệp chế biến sử dụng nguyên liệu tại chỗ như mía đường, cà phê, chè, rau quả, chế biến gỗ và lâm sản; các ngành công nghiệp sử dụng nhiều lao động như sản xuất vật liệu xây dựng, thủ công mỹ nghệ, cơ điện nông thôn, dệt may,…. Khôi phục các làng nghề truyền thống, phát triển các làng nghề mới, phát triển các ngành dịch vụ .
4/ Nâng cao chất lượng lao động nông thôn.
Bên cạnh các giải pháp và chiến lược phát triển kinh tế- xã hội nhằm nâng cao đời sống và điều kiện sống của người lao động nói chung và nguồn lao động nông thôn nói riêng, góp phần nâng cao thể lực của lao động nông thôn. Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm đến vấn đề đào tạo Nguồn nhân lực nông thôn . Qua phân tích ở trên có thể thấy rằng lao động nông thôn chưa qua đào tạo còn chiếm tỷ trọng lớn, đòi hỏi cần phải có những bước đi cụ thể có tính chiến lược để dần dần nâng tỷ trọng lực lượng lao động đã qua đào tạo cho khu vực nông thôn . Kết hợp đào tạo nghề nghiệp với nâng cao trình độ học vấn của Nguồn nhân lực. Để thực hiện yêu cầu này cần thiết phải phân ra 3 nhóm lao động nông thôn có nhu cầu đào tạo.
Loại hình lao động thứ nhất cần đào tạo nghề đơn giản, sử dụng ngay để phục vụ cho việc làm trước mắt của họ thông qua các hình thức đào tạo và huấn luyện ngắn hạn, cấp tốc hoặc tuyên truyền giới thiệu kiến thức và tổ chức việc làm cho bản thân. Đây là hình thức đào tạo đại trà, trên diện rộng không cần cấp bằng, chứng chỉ, ở những xã có điều kiện cần thành lập trung tâm giáo dục công đồng: Trung tâm này chịu sự quản lý trực tiếp của UBND xã với sự hỗ trợ về chuyên môn từ từ trung tâm giáo dục thường xuyên huyện, sẽ thực hiện nhiệm vụ phổ cập giáo dục, xoá mù chữ, hướng dẫn phổ biến kiến thức cho nông dân, đặc biệt là phụ nữ về các nghề đơn giản cũng như cách tổ chức kinh tế hộ gia đình. Các trung tâm này cũng là nơi để tổ chức các lớp tập huấn lồng ghép việc truyền thụ kiến thức trong sản xuất nông, lâm ngư nghiệp với bảo vệ môi trường và sức khoẻ cộng đồng cho nông dân. Củng cố và phát triển các trung tâm dạy nghề , trung tâm giáo dục thường xuyên, trung tâm khuyến nông, khuyến ngư của huyện. Tăng cường sự phối hợp giữa các trung tâm này với cá cơ sở đào tạo tư nhân, các cơ sở đào tạo của các đoàn thể khác… để đảm bảo đáp ứng được nhu cầu của các ngành nghề trên địa bàn lãnh thổ và sự di truyền lao động từ nông nghiệp sang công nghiệp, dịch vụ và các ngành nghề khác, kể cả việc di truyền lao động từ nông thôn ra thành thị. Đầu tư nâng cấp và xây dựng mới để mỗi huyện có ít nhất một trung tâm dạy nghề với các chức năng, nhiệm vụ mới và được mở rộng theo hướng kết hợp dạy nghề với chuyển giao công nghệ, phù hợp với sản xuất của từng địa phương. Đặc biệt chú trọng đầu tư cho các huyện miền núi, vùng sâu, vùng xa, thiết lập các cơ sở dạy nghề lưu động với những ngành nghề phù hợp với yêu cầu của địa phương và sát thực với các nhu cầu thực tế. Phát triển các cơ sở dạy nghề, truyền nghề đối với các nghề thủ công, mỹ nghệ truyền thống ở các làng nghề. Nhà nước phải có chính sách cho vay tín dụng với lãi suất ưu đãi hoặc miễn lãi suất cho các cơ sở dạy nghề này. Hiện nay, trong nông thôn số hộ có vô tuyến truyền hình ngày một tăng . Cho nên các chương trình dạy nghề trên vô tuyến truyền hình là một hình thức đào tạo và chuyển giao công nghệ cho nông dân rất hiệu quả. Tăng cường công tác giáo dục kỹ thuật, công tác tổng hợp- hướng nghiệp- dạy nghề cho học sinh phổ thông trung học, coi đây là một phần trong chương trình giáo dục phổ thông. Hiện nay cả nước có 351 trung tâm kỹ thuật tổng hợp- hướng nghiệp- dạy nghề hoạt động theo quy chế Bộ giáo dục và đào tạo, đảm nhận việc hướng nghiệp, dạy nghề cho học sinh phổ thông trung học, trong đó có 210 trung tâm ở các huyện dạy nghề cho học sinh nông thôn. Nội dung dạy nghề phổ thông cho học sinh nông thôn bao gồm các lĩnh vực trồng trọt, chăn nuôi, VAC, dịch vụ nông nghiệp, thủ công…
Loại hình lao động thứ hai bao gồm các cán bộ kỹ thuật trực tiếp chỉ đạo triển khai ứng dụng kỹ thuật công nghệ vào thực tiễn đời sống nông thôn. Đây là những cán bộ có trình độ cao đẳng, trung học chuyên nghiệp và công nhân kỹ thuật có bằng. Sản xuất ở nông thôn chủ yếu là sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp. Mặt khác, các ngành này chịu ảnh hưởng lớn của điều kiện địa lý, khí hậu, cây con của từng vùng. Vì vậy, ở mỗi tỉnh nên xây dưngh thí điểm một trường cộng đồng hoặc một trường đa cấp cao đẳng- trung học- dạy nghề nông nghiệp hoặc một trường cao đẳng- trung học kinh tế kỹ thuật đa lĩnh vực trong đó có các khoa ngành nông nghiệp và phát triển nông thôn. Theo hướng này, trước mắt ưu tiên đầu tư xây dựng cho các vùng đồng bằng sông Cửu Long, Tây Nguyên và miền núi phía Bắc để tạo điều kiện cho các vùng này theo kịp các vùng khác về lực lượng lao động có chuyên môn, kỹ thuật, khắc phục tình trạng mất cân đối về bố trí cơ sở đào tạo cho nông thôn, mà chủ yếu là nông nghiệp theo vùng lãnh thổ. Sử dụng vốn vay của các tổ chức tài chính quốc tế cũng như viện trợ ODA để tăng cường đầu tư nâng cấp và mở rộng các trường dạy nghề của các tỉnh để làm sao cho các trường này có đủ năng lực đào tạo thanh niên nông thôn thành các công nhân lành nghề không chỉ cho công nghiệp hoá mà còn trực tiếp phục vụ cho phát triển nông thôn và xuất khẩu lao động sang các nước khác.
Loại lao động thứ ba bao gồm các cán bộ quản lý và chuyên môn chỉ đạo ngành ở các cấp, các chuyên gia kỹ thuật- công nghệ. Đây là những cán bộ có trình độ đại học và trên đại học. Với loại lao động này cần xúc tiến xây dựng quy hoạch đội ngũ cán bộ lãnh đạo và quản lý chủ chốt của ngành từ trung ương tới các địa phương tỉnh, huyện. Đồng thời lập quy hoạch đội ngũ cán bộ khoa học và đội ngũ lao động cần được đào tạo theo các ngành nghề ở các trình độ khác nhau đáp ứng nhu cầu công nghiệp hoá- hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn. Trên cơ sở đó xây dựng và thực hiện quy hoạch, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng và đào tạo lại nhân lực chuyên môn, nghiệp vụ cho toàn ngành. Chú trọng gắn việc đào tạo bồi dưỡng với các chương trình và dự án phát triển kinh tế- xã hội nông thôn, đặc biệt là các chương trình, dự án lớn như chương trình phát triển đông bằng sông Cửu Long, đồng bằng sông Hồng, miền núi phía bắc và Tây Nguyên.. Thực hiện đào tạo và đào tạo lại, xây dựng mạng lưới các cơ sở đào tạo rộng khắp, phân bố hợp lý ở các vùng, các địa phương.
Song song với các giải pháp về tổ chức đào tạo cần đổi mới mục tiêu, nội dung, phương pháp đào tạo, bồi dưỡng. Mục tiêu đào tạo và bồi dưỡng phải được đổ mới nhằm vào việc xây dựng được một đội ngũ cán bộ khoa học công nghệ, khoa học kinh tế, cán bộ quản lý các lĩnh vực, công nhân kỹ thuật có tay nghề và trình độ kỹ thuật nghiệp vụ cao, phân bố hợp lý từ trung ương đến địa phương, các vùng lãnh thổ, đáp ứng nhu cầu khai thác và sử dụng, bảo vệ và phát triển nguồn tài nguyên đất, nước, rừng, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá- hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn. Chú trọng xây dựng đội ngũ các chuyên gia đầu ngành về khoa học công nghệ, kinh tế, các nhà quản lý giỏi và công nhân lành nghề có khả năng tiếp cận với khoa học, công nghệ mới của thế giới, có thể lựa chọn, tiếp thu, làm chủ công nghệ nhập cho phù hợp với điều kiện Việt Nam, sáng tạo công nghệ mới, cải tiến và hiện đại hoá các công nghệ truyền thống. Chú trọng việc bồi dưỡng và phổ biến các kiến thức mới trong sản xuất nông nghiệp với đội ngũ cán bộ khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư cho các địa phương. Bên cạnh đó cần đổi mới nội dung đào tạo hiện có cho phù hợp với thực tế. Có thể dựa trên sự đánh giá xu hướng phát triển của nền kinh tế- xã hội. Cũng có thể dựa trên việc lấy ý kiến đóng góp của các sinh viên và cựu sinh viên. Nhanh chóng áp dụng những thành tựu khoa học mới, công nghệ mới, đặc biệt là công nghệ sinh học, điện tử, tự động hoá, kiên quýết loại bỏ những nội dung không thiết thực, bổ sung kịp thời những nội dung cần thiết. Xây dựng nôi dung chương trình đào tạo có phần cứng tối thiểu bắt buộc và các phần mềm linh hoạt với tỷ lệ phù hợp ở từng ngành nghề đào tạo. Nội dung chương trình đào tạo không được cứng nhắc, phải phù hợp với từng vùng, từng địa phương, thậm chí với từng làng xã. Học phải gắn với hành . Hành phải cụ thể ngay trên đất của người dân. Các lớp học nếu tổ chức ngay tại làng, xã, địa phương càng tốt vì điều kiện của người dân khó có thể đi xa để học. Vận dụng kết hợp nhuần nhuyễn phương pháp dạy học “ truyền thống” với các phương tiện dạy học “hiện đại” một cách thực sự có tính nêu vấn đề và phát huy tối đa tính tích cực của người học. Tiếp thu, chuyển giao các công nghệ đào tạo, công nghệ học tập mới có cải biến cho phù hợp với các ngành nghề trong nông nghiệp và với điều kiện ở nông thôn. Đổi mới cách kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của người học. Đánh giá kết quả học tập một cách đột xuất không có sự chuẩn bị. Người đánh giá kết quả học tập không phải là người trực tiếp giảng dạy ... Mở rộng và đa dạng hoá các loại hình đào tạo ngắn hạn cho lao động nông thôn , như các lớp tập huấn ngắn ngày, đào tạo tại chỗ các khoá ngắn ngày về công nghệ, kỹ năng cụ thể kết hợp với chuyển giao công nghệ. Đồng thời tiến hành đào tạo nghề thông qua truyền hình, băng hình, sách hướng dẫn..
5/ Tăng cường nguồn lực cho phát triển kinh tế và tạo việc làm cho lao động nông thôn .
Trong những năm qua, nguồn lực đầu tư cho nông nghiệp và nông thôn chưa tương xứng với đóng góp của lĩnh vực này cho nền kinh tế quốc dân và khả năng tạo việc làm. Nông nghiệp sử dụng hơn 3/4 lực lượng lao động, tạo ra hơn 1/4 tổng sản phẩm nhưng lại chỉ nhận được hơn 10% trong tổng đầu tư của Nhà nước, vì vậy cần có sự thay đổi trong cơ cấu đầu tư của Nhà nước, thay đổi môi trường và điều kiện để thu hút nguồn vốn trong và ngoài nước, đầu tư phát triển ngành nghề trên địa bàn nông thôn.
Đẩy mạnh các hoạt động hỗ trợ trực tiếp giải quyết việc làm bao gồm tổ chức cho vay vốn, giải quyết việc làm, nâng cao lực lượng và hiện đại hoá các trung tâm dịch vụ việc làm, xây dựng hệ thống thông tin thị trường lao động…. Cho vay vốn từ Quỹ quốc gia để giải quyết việc làm là hoạt động trọng tâm. Mục tiêu của nó là cung cấp các món vay ưu đãi với lãi suất thấp cho người thất nghiệp, thiếu việc, các cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ có thu hút người thất nghiệp, người chưa có việc làm do trung tâm dịch vụ việc làm giới thiệu nhằm tạo việc làm mới và giải quyết việc làm thêm cho người lao động
Ngoài ra cần có chính sách phục hồi và phát triển các làng nghề truyền thống ở nông thôn. Sản phảm ngành nghề nông thôn chịu sự cạnh tranh gay gắt của sản phẩm đô thị và hàng nhập ngoại. Cần kiểm soát hàng lậu, hạn chế hàng trong nước đã sản xuất và thay thế được, tạo điều kiện để các cơ sở, các doanh nghiệp nông thôn tham gia xuất khẩu không phải qua trung gian, hỗ trợ trong đổi mới công nghệ, đào tạo chủ doanh nghiệp và lao động nông thôn.Cần có chính sách hỗ trợ, khuyến khích các hộ chuyên, các cơ sở nhỏ, lẻ, phát triển thành các hợp tác xã, các công ty để tăng sức cạnh tranh và sản xuất có hiệu quả. Hỗ trợ đào tạo chủ doanh nghiệp, chủ cơ sở sản xuất ngành nghề, là giải pháp cần thiết để nâng cao hiệu quả sản xuất. Có chính sách ưu đãi cho vay vốn, tạo việc làm, đổi mới trang thiết bị, công nghệ, điều chỉnh mức vốn vay, thời hạn vay, phù hợp với chu kỳ sản xuất. Cần phát triển các tổ chức tín dụng nông thôn. Bổ sung và điều chỉnh các chính sách phát triển ngành nghề nông thôn, có những ưu đãi nhất định để ngành nghề nông thôn có thể phát triển tối đa.
Như vậy, để nâng cao chất lượng cho đội ngũ lao động nông thôn, góp phần phát triển toàn diện Nguồn nhân lực , không thể thực hiện một giải pháp cụ thể mà phải tiến hành đồng bộ nhiều giải pháp. Điều này có ý nghĩa quan trọng bởi xét trên bình diện nội lực- lao động là nguồn nội lực quan trọng nhất, còn xem xét trên phương diện kích cầu thì đây là tiền đề quan trọng hàng đầu, giúp nền kinh tế thoát khỏi suy thoái, tăng trưởng ổn định. Công nghiệp hoá- hiện đại hoá nông thôn nông nghiệp đang là nhiệm vụ hàng đầu của Đảng và Nhà nước ta. Qua kinh nghiệm thực tiễn của nhiều qúốc gia, điểm xuất phát từ một nền nông nghiệp nghèo nàn, lạc hậu, như Thái Lan, Đài Loan… nhưng nhờ nâng cao trình độ, chất lượng của nguồn lao động kết hợp hài hoà với các biện pháp hỗ trợ về vốn kỹ thuật mà nền nông nghiệp của các quốc gia này đã có những bước tiến dài. Ngoài ra, xu hướng hội nhập mở cửa, mở rộng giao lưu, học hỏi các nước trên thế giới về kinh nghiệm, thực tiễn trong mọi lĩnh vực kinh tế cũng là một biện pháp hay để Việt Nam có thể củng cố, phát triển Nguồn nhân lực, phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước.
Kết luận
Cuộc chiến tranh quân sự nóng bỏng đã qua đi sau mấy chục năm dai dẳng và đau khổ. Nhưng cuộc sống đâu có dẽ dàng sáng tươi lên như nhiều người mơ ước như lúc họ đang bị khói súng dày đặc và khét lẹt bao phủ đến ngẹt thở. Ra khỏi cuộc chiến tranh người ta hiểu thêm một điều rằng thị trường cũng là chiến trường, một chiến trường cũng khốc liệt, cũng đầy mất mát và hy sinh. Trên trận tuyến kinh tế, thương vong là sự phá sản, là thua lỗ, là khánh kiệt , là hàng vạn người thất nghiệp. Và kết cục cũng rất bi thảm, kẻ thua cuộc sẽ phụ thuộc vào nước có nền kinh tế mạnh hơn, người dân của nước bại trận sẽ nai lưng đi làm thuê để kiếm sống. Chúng ta giành chính quyền về tay công nông bằng gậy tầm vông và giáo mác, chúng ta bắn máy bay Mỹ bằng súng trường, dến giờ, chúng ta phải xây dựng một nước công nghiệp , sánh vai với các cường quốc trên thế giới. Nếu giành chính quyền và đánh nhào đế quốc Mỹ là một trong những điều kỳ diệu của nhân dân ta thì trở thành một nước công nghiệp từ một hoàn cảnh như chúng ta đang lâm vào cũng là điều vô cùng kỳ diệu. Tuy nhiên, mọi điều kỳ diệu đều có thể trở thành hiện thực nếu con người có ước mơ, nếu con người biết vach ra lối đi cho riêng mình để biến ước mơ, biến ý tưởng thành hành động. Trên con đường đi lên để trở thành một nước công nghiệp, chúng ta xác định cần phải phát triển một nền kinh tế toàn diện và phát triển đồng đều giữa các ngành, các vùng. Muốn vậy, chúng ta cần phải phát triển nông thôn, giảm tối đa mức chênh lệch giữa nông thôn và thành thị, hoàn thành quá trình công nghiệp hoá- hiện đại hoá nông thôn trên cơ sở Nguồn nhân lực dồi dào, có trình độ cao, nhạy bén với khoa khoa học kỹ thuật mới. Con đường phía trước còn lắm chông gai và thử thách nhưng chúng ta có quyền hy vọng vào một tương lai tươi đẹp hơn mà ở đó mọi ước mơ của con người đều có thể biến thành hiện thực.
Tài liệu tham khảo
Giáo trình Kinh tế lao động – trường đại học Kinh tế quốc dân.
Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX – Nhà xuất bản Chính trị quốc gia.
Báo cáo về lao động, việc làm và thu nhập năm 1999, năm 2000 của Viện Kinh tế học.
Tạp chí Lao động xã hội, các số: 11/1996; 5 & 6/1999; 10/2000 và số 12/2001.
Tạp chí Kinh tế-Xã hội nông thôn ngày nay, tháng 9/1993.
Tạp chí Con số và sự kiện, các số 5&6/2000; 1&2/2002.
Tạp chí Thị trường lao động tháng 10 năm 2001.
Niên giảm thống kê, năm 2000.
Tạp chí Nông thôn mới, số 48 tháng 7/2000.
Thống kê lao động xã hội của Viện Kinh tế học, 1995.
Tạp chí Thông tin lý luận số 257 tháng 7/1999.
Tạp chí Cộng sản, số 10 tháng 12/2000;
Tạp chí nghiên cứu lý luận, số 7/1999.
Tạp chí Thông tin kinh tế số 10/2000.
Tạp chí Vietnam Economic News, số 28,29/2001.
Tạp chí quản lý Nhà nước
Tạp Viet Nam Investment Review
Sách Nhà nước thị trường và viện trợ, Nhà xuất bản khoa học và xã hội
Chính sách phát triển nông nghiệp ở Việt Nam – Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn
Giáo trình Quản trị nhân lực, đại học Kinh tế quốc dân
Tạp chí Kinh tế và phát triển, số 4 tháng 8 năm 2001
Mục lục
Lời nói đầu 1
Phần I:
Cơ sở lý luận của phát triển nguồn nhân lực . 3
I. Khái niệm và phân loại Nguồn nhân lực . 3
1.Khái niệm nguồn nhân lực. 3
2.Phân loại Nguồn nhân lực 4
3. Vai trò của Nguồn nhân lực nông thôn trong quá trình
công nghiệp hoá- hiện đại hoá của nước ta. 9
II.Nội dung của phát triển Nguồn nhân lực nông thôn. 12
1.Số lượng Nguồn nhân lực 13
2.chất lượng Nguồn nhân lực. 13
III.các nhân tố tác động đến phát triển Nguồn nhân lực
theo hướng công nghiệp hoá hiện đại hoá 18
1. Đường lối công nghiệp hoá- hiện đại hoá của Đảng 18
2.Thực trạng tình hình kinh tế xã hội 19
3. Quy hoạch phát triển kinh tế xã hội của địa phương, vùng 19
4. Quan hệ cung cầu về lao động 19
Phần II: Đánh giá thực trạng phát triểnnguồn nhân lực ở nông thôn phục vụ sự nghiệpcông nghiệp hoá- hiện đại hoá ở nước ta 20
I/ Những đặc điểm của nông thôn Việt Nam ảnh hưởng đến
quá trình phát triển Nguồn nhân lực 20
II/ Thực trạng Nguồn nhân lực nông thôn nước ta khi bước
vào thời kỳ công nghiệp hoá- hiện đại hoá . 22
1/ Nguồn nhân lực nông thôn chiếm tỉ trọng lớn và tăng nhanh 22
2/ Nguồn nhân lực nông thôn phân bố không đều giữa các ngành
và các vùng 26
3/ Nguồn nhân lực nông thôn còn thiếu việc làm và thu nhập thấp 30
4/ Chất lượng Nguồn nhân lực nông thôn . 37
Phần III:Một số giải pháp phát triển Nguồn nhân lực nông thôn phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước. 45
I/ Định hướng phát triển kinh tế- xã hội của nước ta
trong những năm tới (2001-2005) . 45
II/ Một số giải pháp phát triển Nguồn nhân lực nông thôn phục
vụ sự nghiệp công nghiệp hoá- hiện đại hoá ở nước ta. 48
1/ Hoàn thiện chính sách phát triển Nguồn nhân lực, giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ. 49
2/ Hoàn thiện, nâng cấp cơ sở hạ tầng ở nông thôn 50
3/Đẩy nhanh chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu ngành nghề nông thôn theo hướng giảm tỷ trọng nông nghiệp, tăng dần tỷ trọng công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ. 51
4/ Nâng cao chất lượng lao động nông thôn. 53
5/ Tăng cường nguồn lực cho phát triển kinh tế và tạo việc làm cho lao động nông thôn . 57
Kết luận 61
Tài liệu tham khảo 62
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- N0099.doc