Đề tài Thực trạng sản xuất và biện pháp đẩy mạnh xuất khẩu gạo ra thị trường thế giới

Theo dự báo của USDA, lượng gạo nhập khẩu toàn cầu năm 2003 sẽ đạt mức 26,8 triệu tấn, giảm 5% so với 28,1 triệu tấn năm 2002 do nhu cầu nhập khẩu từ nhiều nước nhập khẩu chính do sản lượng nội địa tăng và chính phủ các nước khuyến khích sản xuất trong nước bắng nhiều biện pháp như trợ cấp, trợ giá, giảm giá vật tư nông nghiệp và hỗ trợ kỹ thuật Theo USDA, niên vụ 2002/2003, sản lượng gạo nhập khẩu toàn cầu ước tính khoảng 26,334 triệu tấn. Nhu cầu nhập khẩu gạo chủ yếu là ở các nước Châu Phi, Trung Đông và Châu Á, trong đó nhập khẩu gạo ở các nước Châu Phi và Trung Đông chiếm đến 42% tổng lượng gạo nhập khẩu toàn cầu. Trong khi đó, Châu Á sản xuất đến trên 90% lượng gạo trên thế giới nhưng chỉ nhập khẩu khoảng 34% tổng lượng gạo nhập khẩu toàn cầu. Trong năm 2003, sản lượng gạo nhập khẩu Iran, Banglades, EU, Arapsaudi, Trung Quốc, Nga sẽ tăng, các nước Indonesia, Irắc, Senegal và Brazil giảm. Theo thống kê của USDA, nước nhập khẩu gạo lớn nhất thế giới là Indonesia với mức nhập khẩu là 3,5 triệu tấn niên vụ 2002/2003, thứ hai là Nigeria nhập khẩu 1,5 triệu tấn tiếp đến là Philipin là 1,2 triệu tấn, Ir

doc30 trang | Chia sẻ: Dung Lona | Lượt xem: 1247 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng sản xuất và biện pháp đẩy mạnh xuất khẩu gạo ra thị trường thế giới, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hững nước nhập khẩu lớn nhất, còn các nước như Thổ Nhĩ Kỳ, Jordani nhập khẩu ít hơn chủ yếu là loại gạo Japonica. Dự báo nhập khẩu gạo của khu vực Cận Sahara và Nam Phi là 6,2 triệu tấn trong năm 2003 giảm 3% so với năm 2002 và giảm 4% so với mức kỷ lục năm 2001 là 6,4 triệu tấn. Nhập khẩu của Châu Mỹ La Tinh và Caribe là 2,75 triệu tấn năm 2003, giảm chút ít so với năm 2002. Tình hình nhập khẩu của khu vực này phụ thuộc rất nhiều vào hiện tượng thời tiết, đó là El Nino, năm 1998 lượng gạo nhập khẩu của khu vực đạt mức kỷ lục là 3,65 triệu tấn. Bảng 2: Nhập khẩu gạo thế giới theo nước (quy gạo xay) Đơn vị: nghìn tấn 1999 2000 2001 2002 2003 Bangladesh 1.220 638 402 311 500 Brazil 781 700 673 548 1.000 Canada 248 250 262 237 250 Trung Quốc 178 278 267 305 300 Côlômbia 38 60 163 31 75 Cốtđivoa 600 450 654 700 650 Cuba 431 415 481 538 600 Ghana 125 186 368 350 250 Guinea 300 275 325 300 300 Haiti 235 245 250 305 300 Honduras 75 80 96 103 80 Inđônêsia 3.729 1.500 1.500 3.500 3.500 Iran 1313 1.100 765 964 1.000 Irắc 779 1.247 959 1.178 1.100 Nhật 633 656 680 616 650 Triều Tiên 159 400 537 654 300 Hàn Quốc 137 151 99 148 150 Malysia 617 596 633 480 500 Mêhicô 342 415 388 530 550 Nigêria 950 1.250 1.906 1.822 1.500 Nicaragua 88 60 117 106 75 Pêru 116 86 62 33 40 Philippin 1.000 900 1.175 1.180 1.200 Nga 580 400 247 406 350 Arap xê út 750 992 1.053 938 950 Sênêgal 621 589 874 858 750 Singapore 421 354 444 358 375 Nam Phi 514 523 572 800 650 Syria 200 150 172 204 150 Thổ Nhĩ Kỳ 321 309 231 342 250 Uzbêkistan 40 30 142 65 100 Các tiểu vương quốc ả rập thống nhất 75 75 75 80 80 Yêmen 217 210 202 210 250 EU 784 852 923 875 875 Đông Âu 361 343 381 364 379 Mỹ 358 308 413 419 390 Tổng thế giới 24.941 22.846 24.442 27.922 26.334 Nguồn: FAS, USDA, tháng 5 năm 2003 2.2. Tình hình xuất khẩu gạo trên thế giới: Sản lượng thóc năm 2002 giảm sẽ làm giảm cung xuất khẩu của ấn Độ và úc trong năm 2003. Do đó, sức ép cạnh tranh giảm đi từ ấn Độ sẽ khuyến khích xuất khẩu của Thái Lan và Việt Nam tăng lên. Xuất khẩu cũng có triển vọng tăng lên từ Ai Cập, Pakixtan và Mỹ, trong khi xuất khẩu của Trung Quốc duy trì ở mức 2,25 triệu tấn năm 2003. Bảng 3: xuất khẩu gạo của thế giới (quy gạo xay) Đơn vị: Nghìn tấn 1999 2000 2001 2002 2003 ác hen ti na 674 32 363 233 200 úc 667 617 618 360 300 Myanmar 57 159 670 1.002 600 Trung Quốc 2.708 2.951 1.847 1.963 2.250 Ai Cập 320 500 705 473 500 Guyana 252 167 175 150 175 ấn Độ 2.752 1.449 1.936 6.650 4.000 Pakistan 1.838 2.026 2.417 1.603 1.400 Thái Lan 6.679 6.549 7.521 7.245 7.500 Uruguay 681 642 806 526 650 Việt Nam 4.555 3.370 3.528 3.245 4000 EU 348 308 264 350 475 Các nước khác 766 929 1.051 831 734 Mỹ 2.644 2.847 2.541 3.291 3.550 Tổng thế giới 24.941 22.846 24.442 27.922 26.334 Nguồn: FAS, USDA, tháng 5 năm 2003 Theo USDA, xuất khẩu gạo toàn đạt 24,9 triệu tấn năm 1999, 22,8 triệu tấn năm 2000, 24,4 triệu tấn năm 2001, 27,9 triệu tấn năm 2002 và ước đạt 26,3 triệu tấn năm 2003. 2.3 Diến biến giá gạo trên thị trường thế giới: Trên thị trường thế giới, giá gạo đã liên tục sụt giảm từ năm 1998 và luôn duy trì ở mức thấp trong những năm gần đây. Theo số liệu của FAO, diễn biến giá xuất khẩu của một số loại gạo chính trong giai đoạn 1998 – tháng 3/2003, như sau: Theo số liệu về chỉ số giá của FAO, giá xuất khẩu của hầu hết các loại gạo đều giảm trên 25% so với mức giá trung bình của các năm 1998 – 2000, trong đó gạo Japonica có chỉ số giá giảm lớn nhất, từ 34% trong giai đoạn 2000 – 3/2003. Mặc dù đã có dấu hiệu cho thấy giá gạo trên thị trường bắt đầu phục hồi, nhưng triển vọng giá gạo trong thời gian tới vẫn phụ thuộc vào nhiều yếu tố khó xác định như diễn biến chính trị ở Trung Đông, nhu cầu và chính sách nhập khẩu của các nước Châu Phi Mặt khác, nhu cầu nhập khẩu trong năm 2003 có xu hướng giảm đi từ nhiều nước nhập khẩu chính như Indonesia, Philippin, Iran sẽ là những yếu tố làm cản trở giá gạo tăng trở lại trong thời gian tới. 3. Dự báo triển vọng thị trường gạo tới năm 2010: 3.1 Triển vọng tiêu thụ: Theo dự báo của USDA, tổng mức tiêu thụ gạo của thế giới đến năm 2010 là 439.324 ngàn tấn. Tốc độ tăng trưởng tiêu thụ gạo bình quân từ nay đến năm 2010 là 0,9%/năm, trong đó số lượng gạo dùng làm thực phẩm là 399.023 ngàn tấn, sử dụng làm thực phẩm với mức độ tăng bình quân là 1%/năm. Dự báo tiêu thụ gạo theo nhóm nước: Tổng mức tiêu thụ của các nước đang phát triển sẽ tăng khoảng 1%/năm và tại các nước phát triển chỉ tăng 0,5%/năm. Dự báo tiêu thụ gạo theo mục đích sử dụng: Tiêu dùng gạo như thực phẩm tại các nước đang phát triển sẽ tăng bình quân 1,1%/năm còn tại các nước phát triển là 0,3%/năm. Nếu xét về cơ cấu tiêu thụ theo đầu người thì Myanmar có mức tiêu thụ theo đầu người cao nhất đạt 183,8kg/người/năm vào năm 2010, tiếp đến là Campuchia với 166kg/người/năm, thứ 3 là Indonesia là 158kg/người/năm. 3.2 Triển vọng buôn bán gạo trên thị trường thế giới: Theo dự báo mới nhất của Bộ Nông Nghiệp Mỹ (USDA), buôn bán gạo toàn cầu dự báo sẽ tăng bình quân 2,4%/năm trong giai đoạn 2003 – 2012. Tới năm 2012, buôn bán gạo dự báo sẽ đạt trên 33 triệu tấn, tăng 25% so với mức kỷ lục đạt trong năm 1998. *Nhập khẩu: Gạo hạt dài (Indica) sẽ chiếm tỷ trọng lớn trong tổng lượng giao dịch gạo toàn cầu. Các nước nhập khẩu gạo chủ yếu là các nước Châu á, Trung Đông, Cận Sahara Châu Phi và Mỹ La Tinh, trong đó phải kể đến Indonesia, iran, irắc, Philippin và Arập-xê-út sẽ vẫn là những nước nhập khẩu gạo hạt dài chủ yếu. *Xuất khẩu: Thái Lan và Việt Nam, hai nước đứng đầu về xuất khẩu gạo hạt dài, dự báo sẽ chiếm khoảng 44% trong tổng lượng gạo xuất khẩu toàn câù. Năng suất tăng trong khi mức tiêu thụ bình quân đầu người trên thị trường nội địa có xu hướng giảm đi sẽ tạo điều kiện tăng nguồn cung xuất khẩu của hai nước này. ấn Độ vẫn duy trì là nước xuất khẩu gạo lớn từ giữa thập niên 90 mặc dù gạo xuất khẩu của ấn Độ chủ yếu là gạo hạt dài chất lượng thấp, gao cao cấp basmati chỉ chiếm một tỷ trọng nhỏ trong tổng lượng xuất khẩu gạo của nước này. Xuất khẩu gạo của Trung Quốc – nước đứng thứ 5 thế giới về xuất khẩu gạo – chỉ tăng nhẹ trong những năm tới do Trung Quốc chuyển từ sản xuất gạo cấp thấp sang các loại gạo có chất lượng cao nhưng năng suất thấp để đáp ứng nhu cầu tăng lên về loại gạo này từ thị trường nội địa cũng như thị trường xuất khẩu. Mặc dù nguồn thu từ xuất khẩu gạo chiếm vị trí quan trọng trong nguồn thu ngoại tệ của Pakixtan, nhưng những khó khăn về nguồn nước tưới cũng như cơ sở hạ tầng ngăn cản Paxkitan tăng sản xuất và xuất khẩu gạo, làm lượng xuất khẩu của nước này, sau khi tăng nhẹ, lại giảm xuống mức 2,4 triệu tấn, tương đương với mức xuất khẩu năm 2000.. III.Sự cần thiết phảI xuất khẩu gạo của Việt Nam: Lợi thế so sánh của Việt Nam trong sản xuất và xuất khẩu gạo: Điều kiện đất đai: Đất đai là tư liệu sản xuất quan trọng hàng đầu của canh tác lúa gạo. Độ phì nhiêu của đất chi phối sâu sắc khả năng thâm canh và giá thành sản phẩm.. Tổng diện tích tự nhiên cả nước có trên 33,1 triệu ha, trong đó đất giành để trồng lúa khoảng 4,3 triệu ha, chiếm trên 13% diện tích đất cả nước, bình quân đất theo đầu người của nước ta tuy thấp nhưng quỹ đất có khả năng trồng lúa lại chiếm tỷ lệ cao trong đất có khả năng nông nghiệp. Theo khảo sát của Viện Quy hoạch và Thiết kế nông nghiệp thuộc Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, đất có khả năng nông nghiệp nước ta có trên 10 triệu ha, trong đó đất có khả năng trồng lúa là 8,5 triệu ha. Như vậy tài nguyên đất đai của nước ta có lợi thế đồng thời cho cả hướng thâm canh và quảng canh nhằm tăng nhanh sản lượng lúa. Khí hậu: Tài nguyên khí hậu đóng vai trò quan trọng trong hệ sinh thái, cung cấp nguồn năng lượng và các yếu tố khác như độ ẩm và gió mưa. Khí hậu của nước ta có điều kiện lý tưởng đối với cây lúa do có sự kết hợp chặt chẽ giữa các yếu tố trên. Nghiên cứu các yếu tố về đIều kiện sinh tháI cho thấy rõ thêm, không phải vô cớ mà cây lúa là cây bản địa của Việt Nam với lịch sử nhiều ngàn năm cua nghề trồng lúa. Đặc biệt ở 2 vựa lúa chính, có chế độ thâm canh và luân canh tối ưu để khai thác triệt để những lợi thế đó. 1.3. Nước tưới tiêu: TàI nguyên nước rất dồi dào cũng là một lợi thế nổi bật của nghề trồng lúa ở Việt Nam. Số ngày mưa lý tưởng 120-140 ngày/năm ở hai đồng bằng lớn không chỉ cung cấp cho lúa nguồn nươc trời quý giá mà còn đồng thời bồi bổ cho lúa nguồn phân đạm thiên nhiên dễ hấp thụ nhất mà nước và đạm nhân tạo không thể so sánh. Cùng với nước mưa trời, dòng chảy mặt còn sản sinh trên lãnh thổ nước ta khoảng 300 tỉ m³ nước. Ngoài ra, hệ thống thuỷ lợ nước ta, với 10% ngân sách Nhà nước đầu tư hàng năm đã đạt được thành qủa bước đầu đáng mừng. Có thể nói, nước, nguồn tài sản thiên nhiên vốn quý giá, cộng thêm sự chú trọng phát thuỷ lợi hơn nữa của Nhà nước trong thời gian qua, là yếu tố rất cơ bản thúc đẩy sản xuất và xuất khẩu gạo tăng mạnh trong những năm gần đây. . Nhân lực: Yếu tố nhân lực không chỉ có ưu thế lớn về số lượng nhân lực mà còn có ưu thế lớn về chất lượng, về sự tinh thông, am hiểu nghề trồng lúa. Lịch sử sản xuất lúa của Việt Nam đã trải qua hơn 6000 năm kể từ thưở cộng đồng nguyên thuỷ ngươì Việt cho đến khi ra đời nhà nước Văn Lang và cho tới nay, đã được các thế hệ đúc rút và để lại nhiều tri thức, kinh nghiệm quí báu. Kho tàng kinh nghiệm đó thực sự là một lợi thế đặc biệt, nó cho phép khai thác triệt để những lợi thế thông thường của các tàI sản thiên nhiên như tàI sản đất, tài sản nước, tàI sản khí hậu. 1.5. Địa lý và cảng khẩu: Hầu hết khối lượng gạo trong buôn bán quốc tế bấy lâu thường được vận chuyển bằng đường biển. So với các phương thức vận tải quốc tế bằng đường sắt, đường hàng không, vận tải biển quốc tế thường đảm bảo tiện lợi, thông dụng vì có mức cước phí rẻ hơn. Do vậy, riêng phương thức này đã chiếm khoảng trên 80% buôn bán quốc tế. Việt Nam có vị trí giao thông đường biển rất thuận lợi. Hệ thống cảng biển Việt Nam nói chung đều nằm gần sát đường hàng hải quốc tế và có thể hành trình theo tất cả các tuyến đI Đông Bắc á, Đông Nam á, Thái Bình Dương, Trung Cận Đông, Châu Âu, Châu Mỹ Từ cảng Sài Gòn đến đường hàng hảI quốc tế thường chỉ hết 3 giờ hành trình với 40 hải lý. Từ cảng Sài Gòn, nếu xuất khẩu gạo đi Singapore thường hết 2 ngày hành trình, Nhật: 6 ngày,Indonesia: 3 ngày, Hàn Quốc: 5 ngày, Hồng Kông : 1 ngày, Pháp: 25 ngày, Hà Lan: 34 ngày, Anh: 35 ngày, Mỹ (Los Angelss): 25 ngày. Tóm lại, Việt Nam có nhiều lợi thế cơ bản trong sản xuất và xuất khẩu gạo. 2. Sự cần thiết phải xuất khẩu gạo đối với Việt Nam: Bên cạnh những lợi thế trên như là một tiềm năng trong sản xuất và phát triển sản xuất lúa gạo để xuất khẩu, thì sự cần thiết phải xuất khẩu gạo đối với Việt Nam có thể qui tụ vào những lẽ cơ bản sau đây: 2.1 Tích luỹ vốn cho sự nghiệp đổi mới đất nước: Mục tiêu chủ yếu sự nghiệp đổi mới của Đảng và Nhà nước ta hiện nay là công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Do vậy, đẩy mạnh xuất khẩu nói chung là đòi hỏi cấp bách nhằm tăng ngoại tệ, giải quyết vốn cho công nghiệp hóa. Trước tình hình đó, lúa gạo đã đột phá vươn lên để giữ vị trí mặt hàng xuất khẩu lớn thứ 2 của nước ta, sau dầu thô. Trong suốt 13 (1991 – 10/2003) năm qua, riêng kim ngạch xuất khẩu gạo đã đạt trên 8 tỷ USD Con số đó đã nói rõ sự cần thiết của việc xuất khẩu gạo đối với công cuộc đổi mới kinh tế của đất nước. 2.2 Cải thiện đời sống: Đối với mỗi quốc gia, việc phát triển nguồn nhân lực là nội dung lớn thuộc chiến lược phát triển con người để thực hiện thắng lợi các chiến lược kinh tế – xã hội của đất nước. Dân số nước ta với 80% dân số tập trung ở nông thôn, phần lớn sinh sống bằng sản xuất lúa gạo và trồng cây lương thực. Trong khi đó, đời sống ở nông thôn và thành thị có sự chênh lệch đáng kể. Đời sống của người nông dân còn thấp, xét cả về mức thu nhập bình quân đầu người, điều kiện vật chất và cơ sở hạ tầng v..v Với tình trạng đó thì việc phát triển sản xuất lúa gạo và xuất khẩu gạo để nâng cao thu nhập cho nông dân góp phần xây dựng nông thôn ngày một giàu mạnh là điều thật sự cần thiết. 2.3 Phát huy lợi thế trong nước: Sản xuất và xuất khẩu gạo của Việt Nam có những lợi thế cơ bản như lợi thế về đất đai, khí hậu, nước tưới tiêu, nguồn nhân lực, vị trí địa lý và cảng khẩu. Một chiến lược đúng đắn nhất phải là chiến lược khai thác triệt để nhất các lợi thế. Chính những lợi thế đó đã làm cho sản lượng lúa tăng đều đặn trong những năm qua. Qua những điều cơ bản đã nêu ở trên, chúng ta thấy rõ sự cần thiết phải xuất khẩu gạo cũng như tính đúng đắn của định hướng xuất khẩu gạo là tất lẽ dĩ ngẫu. Chương II Thực trạng sản xuất và xuất khẩu gạo của việt nam trong thời gian qua. I. Tình hình sản xuất trong nước: 1. Tình hình và triển vọng sản xuất: Trong giai đoạn 1992 – 1997, diện tích trồng lúa tăng bình quân 1,85%, năng suất tăng bình quân 3,10%/năm và sản lượng tăng bình quân 4,97%/năm. Trong giai đoạn tiếp theo (1997 – 2002), mặc dù diện tích trồng lúa chỉ tăng 1,05%/năm, nhưng do năng suất tăng cao hơn so với giai đoạn trước, đạt 3,25%/năm, nên sản lượng lúa cả năm vẫn đạt tốc độ tăng 4,3%/năm. Bảng 4 cho thấy các số liệu cụ thể về diện tích, năng suất và sản lượng lúa qua các năm. Như vậy, trong giai đoạn 1992 – 1997, khoảng trên 60% mức tăng trưởng sản lượng lúa là do tăng năng suất và trong giai đoạn 1997 – 2002 là khoảng 75%. Bảng 4: Tình hình sản xuất lúa ở Việt Nam Năm Diện tích lúa cả năm Năng suất Sản lượng 1000 ha % tăng Tạ/ha % tăng 1000 tấn % tăng 1991 6.302,8 31,1 19.621,9 1992 6.475,3 102,7 33,3 107,1 21.590,4 110,0 1993 6.559,4 101,3 34,8 104,4 22.836,5 105,8 1994 6.598,6 100,6 35,7 102,4 23.528,2 103,0 1995 6.765,6 102,5 36,9 103,4 24.963,7 106,1 1996 7.003,8 103,5 37,7 102,1 26.396,6 105,7 1997 7.099,7 101,4 38,8 102,8 27.523,9 104,3 1998 7.362,7 103,7 39,6 102,1 29.145,5 105,9 1999 7.648,1 103,9 41,0 103,6 31.393,8 107,7 2000 7.665,4 100,2 42,4 103,3 32.529,4 103,6 2001 7.484,2 97,6 42,7 100,6 31.970,0 98,3 2002 7.485,0 100,0 45,5 106,6 34.000,0 106,4 Nguồn: Tổng cục Thống kê Năm 2002, sản lượng lúa của Việt Nam đã đạt 34 triệu tấn, tăng 15,2 triệu tấn (80% so với năm 1989, đạt tốc độ tăng 6,43%/năm). Trong khi đo, tốc độ tăng dân số của Việt Nam cùng thời kỳ chỉ là 1,9%/năm, nên sản lượn lương thực bình quân đầu người tăng từ 324,4kg/người năm 1990 lên 372kg/người năm 1995 và 435kg/người năm 2002, nhưng mức sản lượng bình quân cao nhất đạt được vào năm 2000 là 455kg/người. 2. Thị trường lúa, gạo Việt Nam: Sản xuất và cung ứng lúa, gạo: Tham gia vào sản xuất lúa ở Việt Nam có tới 70% số hộ cả nước, hay 84% số hộ ở khu vực nông thôn. Tuy nhiên, do đặc điểm của sản xuất phân bố rộng, qui mô nhỏ và yêu cầu đảm bảo tiêu dùng lương thực trong các hộ gia đình, nên tỷ lệ số hộ có bán lúa chỉ chiếm khoảng 60%. Nếu xét theo vùng sản xuất, thì ĐBSCL có tỷ lệ số hộ bán lúa chiếm khoảng 76% (cao nhất trong cả nước). 2.2 Tiêu dùng và mua lúa, gạo: Chỉ có khoảng 98% số hộ gia đình ở khu vực thành thị và3/4 số hộ gia đình ở khu vực nông thôn phải mua gạo trên thị trường. Trong khu vực nông thôn, thì ĐBSCL có tỷ lệ số hộ mua gạo cao nhất, chiếm khoảng 89%. Nếu xét theo nhóm thu nhập, thì trong nhóm hộ giàu, tỷ lệ số hộ mua gạo trên thị trường cao hơn so với nhóm thu nhập thấp. Bình quân lượng gạo mua trong một năm của một hộ gia đình là trên 300kg, bình quân cao nhất là ở vùng ĐBSCL (350kg/hộ/năm) và thấp nhất là ở vùng ĐBSH (100kg/hộ/năm). II. Tình hình xuất khẩu gạo của Việt Nam: 1. Tình hình xuất khẩu: Từ năm 1989 đến nay, 14 năm liên tục, Việt Nam được xem là một thế lực chủ yếu trên thị trường gạo thế giới với số lượng và chất lượng ngày càng tăng. Trong giai đoạn (1992 – 1997), xuất khẩu gạo của Việt Nam tăng bình quân 12,94%/năm về lượng và 15,80%/năm về trị giá. Mặc dù trong giai đoạn gần đây (1997 – 2002), xuất khẩu gạo của Việt Nam đã có dấu hiệu tăng chậm lại. Điều này có nguyên nhân từ sự suy giảm giá chung trên thị trường thế giới. Tuy nhiên, năm 1999 Việt Nam đã xuất khẩu 4,5 triệu tấn gạo, với giá trị xuất khẩu đạt 1,025 tỷ USD, so với năm 1989, lượng tăng gấp 3,2 lần và giá xuất khẩu bình quân tăng 1,11 lần và giá trị tăng gấp 3,53 lần. Năm 2000, xuất khẩu 3,5 triệu tấn, do khó khăn về thị trường và giá cả giảm, năm 2001 xuất 3,7 triệu tấn và năm 2002 xuất 3,2 triệu tấn. Bảng 5: Tình hình xuất khẩu gạo của Việt Nam 1991 – 2003 Năm Sản lượng gạo Kim nghạch xuất khẩu Gía bình quân 1 tấn (1000 kg) (Triệu tấn) (USD) 1991 1033 234 227 1992 1946 418 215 1993 1722 362 210 1994 1983 424 214 1995 1988 530 267 1996 3003 855 285 1997 3575 870 243 1998 3730 1024 275 1999 4508 1025 227 2000 3476 672 192 2001 3729 619 165 2002 3240 726 224 Dự báo 2003 3200 750 234 Nguồn : Niên giám Thống kê Việt Nam Tính chung 14 năm, nước ta đã cung cấp cho thị trường gạo thế giới trên 37 triệu tấn, bình quân 2,64 triệu tấn/năm và tổng giá trị xuất khẩu gạo đạt trên 8 tỷ USD, bình quân 572 triệu USD/năm. Năm 2003, mặc dù thị trường Irắc có biến động, nhưng các thị trường mới đã mở ra như Iran, Libăng, Xi-ri, Châu Phi, xuất khẩu gạo của Việt Nam vẫn ở mức cao. Kế hoạch xuất khẩu 3,2 triệu tấn gạo năm 2003 đã hoàn toàn có thể đạt hoặc vượt. Bên cạnh sự tăng trưởng về khối lượng gạo xuất khẩu, chất lượng gạo xuất khẩu của Việt Nam cũng ngày càng được nâng cao cả về chất lượng gạo và chất lượng chế biến (phân theo tỷ lệ tấm). Trong những năm đầu xuất khẩu gạo, tỷ lệ gạo chất lượng trung bình, với tỷ lệ tấm cao trên 25% chiếm đến 80 – 90%, nên sức cạnh tranh kém, giá cả thấp. Nguyên nhân chủ yếu là đầu tư vào lĩnh vực xay sát, đánh bóng chưa được quan tâm đúng mức. Bảng 6: Tỷ lệ một số loại gạo xuất khẩu chính của Việt Nam Loại Thị phần% 25% tấm 37,90 5% tấm 26,56 15% tấm 15,50 10% tấm 13,11 Tấm 5,30 Nếp và gạo thơm 1,46 Các loại khác 1,17 Nguồn: Niên giám Thống kê Việt Nam Giá gạo xuất khẩu của Việt Nam cũng được tăng dần cùng với xu hướng tăng của chất lượng gạo và quan hệ cung – cầu của thị trường lúa gạo thế giới. Giá gạo xuất khẩu bình quân 4 năm 1995 – 1998 là 269 USD/tấn, tăng 61 USD/tấn so với giá bình quân 6 năm trước đó (1989 – 1994). Khoảng cách giữa giá gạo Việt Nam với giá gạo Thái Lan đã giảm dần: từ 40 – 55 USD/tấn những năm 1989 – 1994 xuống 20 – 25 USD/tấn những năm 1995 – 2000. Nhìn chung, giá gạo xuất khẩu của Việt Nam hiện nay vẫn còn thấp so với mặt bằng chung của thế giới. 2. Cơ cấu thị trường xuất khẩu gạo của Việt Nam: Thị trường xuất khẩu gạo của Việt Nam: ngày càng được mở rộng. Năm 1991, gạo Việt Nam mới xuất khẩu sang trên 20 nước, bước sang năm 1993 – 1994 tăng lên trên 50 nước, và hiện nay đã xuất khẩu đến trên 80 nước và có mặt ở cả 5 châu lục. Trong đó, thị trường nhập khẩu chính của gạo Việt Nam là các nước Châu á với 29 nước, Châu Âu 29 nước, Châu Mỹ 17 nước, Châu Phi 16 nước va Châu Đại Dương 3 nước. Trong đó, Châu á và Châu Phi là 2 thị trường nhập khẩu gạo lớn nhất của Việt Nam. Giai đoạn 1991 – 2000 hai thị trường ày chiếm tỷ lệ tương ứng là 58,8% va 18,8%. Các thị trường nhập khẩu với lượng lớn và ổn định la Philippine, Inđônêsia, Malaysia, Irắc. Các nước Singapore, Thuỵ Sỹ, Hà Lan và Mỹ nhập khẩu gạo của ta chủ yếu là để tái xuất. 3. Một số nước nhập khẩu gạo lớn của Việt Nam: Inđônêsia: Trong 5 năm trở lại đây, Inđônêsia đã nhập khẩu gạo của Thái Lan, Việt Nam, Mỹ, Myanma và Đài Loan. Chính phủ Indonesia chủ yếu nhập khẩu gạo 25% tấm. Năm 1999 nhập 1804 ngàn tấn (40%) và 2001 chỉ còn 350 ngàn tấn (14%), năm 2002 là 744,0 ngàn tấn. Philippine: Hàng năm, gạo Việt Nam chiếm 40 – 60% tổng lượng gạo nhập khẩu của nước này.Năm 2000, Việt Nam xuất khẩu sang Philippine 370 ngàn tấn (trên thực tế là 530 ngàn tấn vì một số công ty nước ngoài nhập khẩu gạo của Việt Nam rồi xuất sang đây). Malaysia: Nhập khẩu gạo của Thái Lan, Việt Nam, Trung Quốc, Myanma, Mỹ, ấn Độ, với giá trị 36,52 triệu USD. Singapore: Năm 1999, đã nhập khẩu 112 ngàn tấn gạo của Việt Nam, năm 2000 là 221 ngàn tấn, 260 ngàn tấn trong năm 2001 và 97,36 ngàn tấn năm 2002. Irắc: Hàng năm, Irắc nhập khẩu gạo chủ yếu từ Việt Nam loại gạo 5% tấm – khoảng 500 ngàn tấn, đây là thị trường nhập khẩu gạo của Việt Nam tương đối ổn định và có giá trị cao song cũng gặp nhiều khó khăn nhất là tình hình chính trị không ổn định (năm 2002, Irắc nhập của Việt Nam 876,37 ngàn tấn gạo, với trị giá 276,17 triệu USD). 4. Dự báo xuất khẩu gạo Việt Nam trong thời gian tới: Việt Nam có rất nhiều cơ hội tăng sản lượng và chất lượng gạo xuất khẩu. Nếu Việt Nam tận dụng được cơ hội nhu cầu thị trường tăng lên (trong khi các nước có tiềm năng cạnh tranh trong sản xuất và xuất khẩu gạo, Myanma, Pakistan và Camphuchia còn đang chậm hơn trong nâng cao hiệu quả đầu tư sản xuất và tìm cách mở rộng thị trường), đồng thời, tăng cường có hiệu qủa áp dụng các kỹ thuật mới trong sản xuất đi đôi với cải thiện cơ chế chính sách và phương thức xúc tiến thương mại, bắt kịp Thái Lan, Trung Quốc và ấn độ trong cạnh tranh xuất khẩu vào các thị trường mới mở, Việt Nam sẽ có thể mở rộng xuất khẩu trên cả hai thị trường gạo phẩm cấp cao và chất lượng gạo trung bình. Với xu thế phat triển của đất nước, tương quan với tình hình thị trường và các nước cạnh tranh xuất khẩu có thể nhận định chung: Việt Nam vẫn là một trong các nước có nhiều khả năng và nằm trong 4 nước xuất khẩu gạo lớn nhất trên thế giới trong vòng 10 năm tới. Dự báo, trong bối cảnh cạnh tranh bám đuổi mạnh mẽ giữa các nước, tăng thêm thị phần xuất khẩu trong thời gian tới là một thách thức không nhỏ đối với Việt Nam. Một số nhà kinh tế cho rằng, tiếp tục giữ được thị phần như hiện nay ở các khu vực thị trường nhập khẩu gạo của Việt Nam là khả năng xảy ra cao nhất, theo đó, xuất khẩu gạo Việt Nam sẽ đạt 4,61 triệu tấn/năm trong thời kỳ 2001 – 2005 và 5,42 triệu tấn/năm trong thời kỳ 2006 – 2010 Thị trường quan trọng của gạo Việt Nam vẫn là Châu Phi, hàng năm có thể xuất vào 1,9 – 2,7 triệu tấn gạo, Châu á là 1,3 – 1,5 triệu tấn, tiếp theo là khu vực Mỹ La Tinh và Caribee có thể xuất vào mỗi năm 0,5 – 0,9 triệu tấn. Bảng 7: Dự báo thị trường xuất khẩu gạo Việt Nam giai đoạn 2001 - 2010 Đơn vị: Nghìn tấn Thị trường 2001 – 2005 2006 – 2010 Châu á 1.570 1.490 Châu Phi 2.190 2.730 Mỹ La Tinh & Caribê 620 880 Khu vực còn lại 230 320 Tổng 4.610 5.420 Nguồn: Nghiên cứu kinh tế số 284 III. Những yếu tố tác động đến khả năng cạnh tranh của gạo xuất khẩu Việt Nam: 1.Chất lượng gạo xuất khẩu: Chất lượng gạo xuất khẩu của Việt Nam đã được cảI thiện tương đối ấn tượng trong hơn một thập kỷ qua. Tốc độ tăng xuất khẩu gạo 5% tấm đã tăng nhanh hơn so với tốc độ tăng trưởng xuất khẩu chung và hiện đã chiếm 26,56% tổng lượng gạo xuất khẩu. Đây là kết qủa của quá trình đầu tư cảI tiến công nghệ trong khâu chế biến và những vấn đề có liên quan. Tuy nhiên, nhìn chung chất lượng gạo xuất khẩu vẫn còn ở mức thấp nên ảnh hưởng lớn đến giá bán và thị trường trong xuất khẩu. 2.Yếu tố mùa vụ trong xuất khẩu gạo của Việt Nam: Do tính mùa vụ của sản xuất lúa, nên xuất khẩu gạo cũng mang đậm tính mùa vụ. Thời điểm từ tháng 4 đến tháng 9 là khoảng thời gian xuất khẩu gạo chủ yếu của Việt Nam (cùng với thời đIểm thu hoạch Đông Xuân và Hè Thu). Đồng thời, khoảng thời gian tháng 1, tháng 2 là thời điểm xuất khẩu gạo thấp nhất của Việt Nam. 3. Giá cả (giá trong nước và giá xuât khẩu): Chi phí sản xuất lúa ở Việt Nam có lợi thế hơn nhiều so với Thái Lan: chi phí lao động bằng 1/3, tỷ lệ diện tích được tưới gấp 2 lần, hệ số quay vòng đất gấp 1,33 lần, năng suất gấp 1,5 lần, các chỉ tiêu liên quan về giá vật tư đầu vào bằng 50% - 80% chi phí của Thái Lan. Do vậy chi phí sản xuất lúa gạo của Việt Nam bình quân từ 90 – 110 USD/tấn, đặc biệt vụ Đông Xuân 2002 giá thành sản xuất lúa ở Đồng bằng sông Cửu Long chỉ có 920 – 1000 đồng/kg, trong khi chi phí của Thái Lan là 120 – 150 USD/tấn (tỷ giá 35bat/USD). Tuy nhiên, chênh lệch giữa giá gạo trong nước và giá giao tại cảng lại khá lớn do chi phí dịch vụ xuất khẩu gạo của Việt Nam cao. Điều đó xuất phát từ sự yếu kém của hệ thống cơ sở hạ tầng, vận tải, bốc dỡ. Chi phí bốc dỡ xếp hàng và chi phí tại cảng Sài Gòn cao chiếm 1,6% giá xuất khẩu, ở Thái Lan chi phí này bằng 1/2 Việt Nam, tốc độ bốc dỡ chậm so với Thái Lan 6 lần, làm tốn thêm 6000/ngày. Mặt khác, theo kết qủa điều tra Viện Công nghệ sau thu hoạch và tổng cục thống kê 1995 cho thấy tổn thất sau thu hoạch ở nước ta cao: ở khâu thu hoạch là 1,3 – 1,7%, vận chuyển là 1,2 –1,5%, đập tuốt là 1,4 – 1,8%, phơi sấy là 1,9 – 2,1%, bảo quản 3,0 – 3,4%, xay xát chế biến là 4,1 –4,5%. Mặt khác, tổng tổn thất lên đến 12 – 15%, đồng nghĩa với giá thành bị đẩy lên tương đương. Bên cạnh những yếu kém của hệ thống cơ sở hạ tầng làm tăng chi phí dịch vụ xuất khẩu, mối quan hệ giữa giá trong nước và giá giao tại cangr này còn là một tham số phản ánh tính hiệu qủa thấp của hệ thống marketing lúa gạo. 4. Bao gói, quy cách, mẫu mã sản phẩm xuất khẩu: Một số yêu cầu cơ bản về gạo xuất khẩu: chiều dài hạt gạo đạt 7mm, tỷ lệ chiều dài/chiều rộng lớn hơn, hạt gạo phải trong, điểm bạc bụng cho phép từ 0 – 1mm và một số tiêu chuẩn khác như: tỷ lệ tấm, tỷ lệ hạt hẩm, hạt đỏ, tỷ lệ bạc bụng, tỷ lệ thóc, độ bóng v..v Tuy nhiên, gạo Việt Nam hầu như chưa đáp ứng các yêu cầu trên. Ngoài các yếu tố được nêu trên, thì bao bì xuất khẩu Việt Nam cũng chưa đảm bảo yêu cầu: chất lượng bao bì không đều, mật độ sợi thấp, độ bền sợi thấp, đường khâu hai bên lỏng lẻo, đóng miệng chưa chắc chắn nên khi vận chuyển rất dễ bị vỡ và khó bảo quản. Tất cả các nguyên nhân trên khiến cho gạo Việt Nam không đáp ứng được các yêu cầu về mẫu mã của thị trường, làm giảm khả năng cạnh tranh của lúa gạo Việt Nam so với Thái Lan và Mỹ. 5. Tiếp cận tín dụng xuất khẩu: Những hạn chế trong việc tiếp cận tín dụng của các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam hiện nay được xem như một trở ngại quan trọng nhất trong việc tăng trưởng xuất khẩu của các nhà xuất khẩu chủ yếu. Các cơ quan cung cấp tín dụng chủ yếu cho các doanh nghiệp xuất khẩu gạo của Việt Nam là Ngân hàng Nông nghiệp Việt Nam, Ngân hàng Thương mại Việt Nam và Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam. Các cơ quan này chỉ cấp tín dụng cho các doanh nghiệp sau khi đã có hợp đồng xuất khẩu. Vì vậy, nếu không được cấp tín dụng kịp thời, nhà xuất khẩu sẽ không thể mua được gạo xuất khẩu theo hợp đồng và có thể còn bị phạp do không thực hiện đúng hợp đồng. Các doanh nghiệp nhà nước ở ĐNB và ĐBSCL đều cho rằng tiếp cận tín dụng hiện nay còn nhiều hạn chế, thông thường Ngân hàng chỉ đáp ứng được 1/3 nhu cầu vay của doanh nghiệp. 6. Kiểm tra chất lượng trước khi xuất khẩu: Cơ quan kiểm tra chất lượng hàng xuất khẩu (đối với các sản phẩm nông nghiệp và phi nông nghiệp) quan trọng nhất ở Việt Nam hiện nay là VINACONTROL. Đối với mặt hàng gạo xuất khẩu, VINACONTROL kiểm tra tới 95% tổng lượng gạo xuất khẩu của Việt Nam. Quy trình kiểm tra của VINACONTROL gồm 3 bước: (1) kiểm tra chất lượng gạo trong kho của nhà xuất khẩu; (2) kiểm tra chất lượng gạo tại nơi xếp hàng chờ xuất khẩu; (3) kiểm tra chất lượng gạo trước khi giao hàng, chi phí kiểm tra chất lượng gạo là 0,3USD/tấn. 7. Vận chuyển tàu biển: Vận chuyển gạo xuất khẩu là dịch vụ đắt đỏ ở Việt Nam do thiết bị cảng lạc hậu, năng lực bốc xếp thấp, lệ phí cảng cao và năng lực vận tải thấp Do năng lực vận tải biển thấp, phần lớn các doanh nghiệp xuất khẩu sử dụng phương thức xuất khẩu FOB (sử dụng tàu vận tải nước ngoài), chỉ có những lô hàng xuất khẩu theo ký kết của Chính phủ mới sử dụng tàu của các công ty tàu biển trong nước. Trong số các cảng biển của Việt Nam thì lượng gạo xuất khẩu thông qua cảng Sài Gòn chiếm tới 70%. Điều này không chỉ xuất phát từ vị trí gần gũi của cảng với nguồn hàng xuất khẩu chính, mà còn từ mức cước phí vận tải biển từ cảng Sài Gòn thường thấp hơn cảng Hải Phòng và cảng Đà Nẵng. Tuy nhiên, mức phí cảng của cảng Sài Gòn lại cao hơn. 8. Hoạt động tiếp cận thị trường: Phần lớn quan hệ giao dịch buôn bán gạo thường được người mua nước ngoài hoặc là trực tiếp, hoặc là thông qua cơ quan Chính phủ. Các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam chưa chủ động tìm kiếm thị trường: chưa có được các hơp đồng lớn ổn định. Các hợp đồng chủ yếu là các hợp đồng Chính phủ chiếm 1/2 lượng gạo xuất khẩu. Hoạt động của Hiệp hội Xuất nhập khẩu lương thực Việt Nam trong việc cung cấp thông tin về giá cả, thị trường chưa có hiệu qủa. Mặt khác, do gạo là nguồn an ninh lương thực quốc gia nên Nhà nước quản lý hoạt động xuất khẩu bằng việc cấp QUOTA nên các doanh nghiệp cũng không chủ động trong việc ký hợp đồng. Các hoạt động hỗ trợ xúc tiến xuất khẩu gạo cũng chưa được quan tâm đầy đủ, chưa tận dụng được các phương tiện thông tin, văn phòng đại diện, cơ quan tham tán, người Việt Nam ở nước ngoài để tổ chức tuyên truyền, quảng bá gạo Việt Nam đến người tiêu dùng. Đối với thị trường có nhu cầu lớn về gạo có phẩm cấp thấp như Châu Phi, chúng ta lại chưa xuất khẩu trực tiếp do ta chưa có chính sách tín dụng hỗ trợ ban trong thanh toán. ở các thị trường có sức mua lớn đòi hỏi chất lượng cao , gạo của ta cũng chưa tiếp cận được. Nhìn chung hoạt động tiếp cận thị trường của doanh nghiệp được giao xuất khẩu của chúng ta chưa xứng đáng với tiềm năng và vị trí nước xuất khẩu gạo thứ 2 thế giới làm giảm khả năng cạnh tranh của gạo Việt Nam. IV. Phân tích và đánh giá những điểm mạnh, điểm yếu cũng như cơ hội và thách thức đối với sản xuất và xuất khẩu gạo của Việt Nam: 1. Điểm mạnh: Việt Nam đã trở thành một thế lực chủ yếu trênt thị trường gạo thế giới. Sản xuất và xuất khẩu gạo là một trong những hướng ưu tiên phát triển của Chính Phủ không chỉ xuất phát từ chính sách an ninh lương thực quốc gia mà còn là mặt hàng xuất khẩu có lợi thế của Việt Nam hiện nay. Điều kiện thiên nhiên thuận lợi cho sự phát triển của cây lúa, chi phí nguồn lực nội địa thấp. Chính sách cơ cấu lại giống lúa đang được quan tâm hơn và bước đầu đã đem lại hiệu qủa, nâng cao năng suất lúa. Việt Nam hoàn toàn có tiềm năng về phát triển gạo chất lượng cao. Tăng trưởng xuất khẩu gạo chưa vượt quá ngưỡng an toàn lương thực quốc gia do mức tăng trưởng sản lượng cao. Bên cạnh các doanh nghiệp Nhà nước, nhiều doanh nghiệp tư nhân đã tham gia vào thị trường sản xuất, chế biến, xuất khẩu gạo và đã có ít nhiều kinh nghiệm xuất khẩu gạo. 2. Điểm yếu: Thị trường xuất khẩu gạo Việt Nam chủ yếu là thị trường có mức thu nhập trung bình và thấp, chủ yếu tiêu thụ gạo có chất lượng trung bình và thấp. Diện tích sản xuất rộng lớn, nhưng qui mô sản xuất của các hộ nông dân thấp, chủ yếu sử dụng các lao động không chuyên nghiệp, mức đầu tư vào các thiết bị sản xuất trong phạm vi hộ thấp. Việc cơ cấu lại giống lúa cho chất lượng cao mới chỉ ở giai đoạn khởi động và diễn ra khá chậm chạp. Tổn thất ở khâu thu hoạch lúa lớn làm giảm hiệu quả sản xuất. Khâu chế biến gạo xuất khẩu còn nhiều khó khăn cả về mức công suất, trình độ công nghệ và mức độ lẫn loại của nguồn lúa nguyên liệu. Cơ sở hạ tầng nông thôn kém phát triển, chi phi vận chuyển cao làm gia tăng giá thành phẩm. Môi trường, điều kiện tiếp cânj thông tin thị trường và công nghệ còn yếu. Những qui định hạn chế tiếp cận tín dụng đối với các doanh nghiệp xuất khẩu. Mùa vụ thu hoạch và xuất khẩu của Việt Nam trái với mùa vụ chung trên thị trường thế giới. Chính sách hỗ trợ xuất khẩu gạo chưa công bằng đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Khả năng giao dịch, đàm phán của các doanh nghiệp Việt Nam với khách hàng nước ngoài thấp. Hệ thống kho dự trữ, bảo quản và chuẩn bị giao hàng phân tán, qui mô nhỏ. Cơ hội: Theo dự báo về nhu cầu nhập khẩu gạo trên thị trường thế giới, khả năng tăng trưởng gạo xuất khẩu trong tương lai còn rất lớn tại các khu vực thị trường thế giới. Xu hướng tự do hóa thương mại và yêu cầu mở cửa thị trường cho các sản phẩm nông nghiệp sẽ tác động mạnh đến chính sách tự cung về lương thực và làm tăng nhập khẩu lương thực của các nước đang nhập khẩu dòng về lương thực, như: các nước thuộc Châu á (thị trường xuất khẩu chính của Việt Nam). Chính sách cắt giảm viện trợ lương thực của các nước phát triển cho các nước kém phát triển cũng làm tăng lượng nhập khẩu lương thực theo điều kiện thương mại thông thường của các nước này, nhất là với các nước Châu Phi. Những yêu cầu về cắt giảm trợ cấp xuất khẩu các sản phẩm nông nghiệp và giảm hỗ trợ trong nước sẽ làm tăng giá gạo chất lượng cao trên thị trường thế giới, nhất là giá gạo của Mỹ, Nhật Bản. Điều này sẽ tạo điều kiện cho Việt Nam tham gia vào thị trường gạo chất lượng cao. 4. Thách thức: Cạnh tranh trên thị trường xuất khẩu gạo sẽ mạnh hơn do sự tham gia của các nước xuất khẩu tiềm năng như: Trung Quốc, Pakistan, Myanmar, Campuchia Trong ngắn hạn, việc giảm giá của đồng USD hiện nay sẽ tác động mạnh đến các nước xuất khẩu nói chung và đối với xuất khẩu gạo nói riêng. Năng lực hoạt động marketing xuất khẩu lúa gạo của Việt Nam thấp và rất khó được cải thiện trong ngắn hạn. Mặc dù Việt Nam được xem là một thế lực trên thị trường lúa gạo thế giới, như thường là gắn liền với loại gạo chất lượng trung bình, thấp và độ ổn định về chất lượng kém. Việc hạ thấp chi phí xuất khẩu liên quan đến việc sử dụng cơ sở hạ tầng không thể giải quyết trong ngắn hạn. Những khó khăn trong việc phổ biến giống lúa chất lượng cao do hạn chế về nghiên cứu chuyển giao, các quy định liên quan đến quyền sử dụng đất đai, qui mô sản xuất của các hộ nông dân nhỏ, lẻ, năng lực tài chính thấp. Chương III Một số giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu trong thời gian tới I. Phương hướng phát triển sản xuất và xuất khẩu lúa gạo của Việt Nam. Sản xuất lương thực nói chung và sản xuất lúa gạo nói riêng luôn là ngành quan trọng bậc nhất của nông nghiệp Việt Nam nhằm thực hiện 3 mục tiêu: * Đảm bảo vững chắc an ninh lương thực quốc gia, tăng thêm khối lượng lương thực dự trữ, thoả mãn nhu cầu lương thực trong bất kỳ tình huống nào. * Đảm bảo nguồn nguyên liệu cho cung cấp công nghiệp. * Tăng năng suất cây trồng và tăng năng suất lao động, hạ giá thành sản phẩm để nâng cao năng lực cạnh tranh của mặt hàng gạo xuất khẩu Việt Nam. Xuất phát từ mục tiêu trên, các định hướng cơ bản được đề xuất là: - Tăng cường thâm canh tăng năng xuất, kết hợp khai hoang tăng vụ ở những nơi có điều kiện. Trong đó thâm canh tăng năng suất là hướng chủ yếu lâu dài, kết hợp với nâng cao chất lượng lúa hàng hoá. Tuy nhiên, một số diện tích trồng lúa kém hiệu quả ở ĐBSCL có thể sẽ chuyển sang canh tác các loại hoa màu khác hay nuôi trồng thủy sản sao cho có hiệu quả kĩ thuật cao hơn. - Đa dạng hóa trong sản xuất, đa dạng hóa về chủng loại gạo (gạo thông thường, gạo đặc sản, gạo cao cấp), đa dạng hóa về phẩm cấp các giống lúa (cùng một giống lúa nhưng có thể có giống siêu thuần chủng, thuần chủng cấp 1, cấp 2), đa dạng hóa nguồn lúa gạo cho xuất khẩu. Tuy nhiên, việc đa dạng phải căn cứ vào nhu cầu của thị trường quốc tế để sản xuất ra những sản phẩm thích hợp. - Tích cực ứng dụng các thành tựu khoa học kỹ thuật vào sản xuất để vừa tăng năng suất vừa tăng chất lượng gạo. Nhưng chúng ta phải chú ý kèm với áp dụng khoa học kĩ thuật là bảo vệ môi trường sinh thái. 1, Mục tiêu và phương hướng phát triển xuất khẩu lúa gạo. Các mục tiêu chủ yếu là: - Tăng lượng gạo xuất khẩu trên cơ sở vẫn phải đảm bảo lương thực quốc gia và có lãi cho người sản xuất và người xuất khẩu. - Mở rộng thị trường xuất khẩu, đồng thời phải xây dựng được một hệ thống phân phối trên thị trường quốc tế. Cùng với việc thúc đẩy mở rộng thị trường là chú trọng chất lượng sản phẩm, nâng cao khả năng cạnh tranh của gạo Việt Nam. - Nâng cao kim ngạch xuất khẩu trên cơ sở nâng cao giá gạo xuất khẩu trên thị trường quốc tế. 2. Xuất phát từ mục tiêu trên chúng ta cần có định hướng sản xuất như sau: - Đa dạng hóa chủng loại gạo với nhiều loại khác nhau để có thể đáp ứng các nhu cầu của thị trường thế giới. Chúng ta đa dạng hóa chủng loại sản phẩm nhưng phải mang tính tích cực, càng ngày càng có nhiều chủng loại tốt, cấp cao, đặc sản phù hợp với nhu cầu thị hiếu của các thị trường gạo trên thế giới. - Đa phương hóa thị trường tiêu thụ gạo, xác định và có sự ưu tiên đối với thị trường xuất khẩu gạo mang tính chiến lược, lâu dài bằng ổn định số lượng và nâng cao chất lượng hàng hoá. Khi có cơ hội phải chiếm lĩnh và biến những thị trường tiềm năng thành những thị trường quen thuộc và truyền thống của mình. - Khuyến khích và tạo điều kiện cho nhiều hình thức tổ chức tham gia xuất khẩu để có thể đáp ứng được mọi nhu cầu ở mọi nơi, mọi lúc, mọi quy mô của khách hàng. Như vậy đòi hỏi cơ quan quản lý nhà nước phải có cơ chế linh hoạt mềm dẻo thích ứng với kịp thời những biến động của thị trường. - Tham gia tích cực vào các tổ chức quốc tế, các hiệp định thương mại đa phương và song phương để tạo cơ hội thâm nhập và khai thác các thị trường có nhu cầu nhập khẩu gạo. - Kinh doanh gạo cũng như mọi hàng hoá khác đều phải phù hợp với quy luật kĩ thuật thị trường. Từ đó xây dựng mọi cơ sở nền tảng cho xuất khẩu gạo phù hợp với nhu cầu thị trường và tập quán thương mại. II. Đề xuất các giải pháp và chính sách phát triển sản xuất và xuất khẩu lúa gạo của Việt Nam. 1.Đối với phát triển sản xuất: Để nâng cao hiệu quả sản xuất và xuất khẩu gạo trong những năm tới đòi hỏi phải có những thay đổi cơ bản trong đầu tư phát triển, chuyển từ đầu tư tăng diện tích và sản lượng gạo sang đầu tư cho phát triển gạo chất lượng cao có nhiều tiềm năng xuất khẩu hơn cũng như khả năng cạnh tranh cao hơn trên thị trường thế giới bằng các giải pháp cơ bản sau: - Quy hoạch từng vùng trồng các giống lúa khác nhau để tránh sự lai tạp giữa các loại giống lúa khi cùng trồng xen lẫn trong cùng một vùng, cũng có thể quy hoạch từng vùng lúa để phục vụ cho xuất khẩu sang từng thị trường khác nhau. Giảm diện tích gạo có chất lượng thấp, mở rộng diện tích gạo có chất lượng cao, đáp ứng được nhu cầu ngày càng cao của người tiêu dùng. - Khẩn trương hoàn thiện quy hoạch vùng lúa xuất khẩu của cả nước và kế hoạch cụ thể ưu tiên đầu tư vốn và khoa học kỹ thuật để phát triển sản xuất lúa trong từng thời kỳ phù hợp với quy hoạch và kế hoạch xuất khẩu gạo của cả nước. - Đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng. Thực hiện đồng bộ các giải pháp khoa học kỹ thuật. Đẩy mạnh công tác nghiên cứu sản xuất, cung ứng và ứng dụng các giống lúa mới Tăng cường phối hợp giữa nghiên cứu và khuyến nông các giống lúa chất lượng cao và nâng cao hiệu quả phối hợp hành động với mục tiêu nâng cao năng suất và mở rộng nguồn cung giống lúa, từ đó có thể thu hút nông dân. - Củng cố vấn đề quyền sử dụng đất sao cho đất có thể được tập trung dồn thửa nhằm có được quy mô sản xuất lớn hơn song vẫn không ảnh hưởng đến quyền sở hữu. Điều này góp phần giảm chi phí phân loại và giúp cho việc kiểm soát chất lượng gạo. - Nới lỏng các quy định về mục đích sử dụng đất, cho nông dân được tự do chọn lựa đối tượng canh tác để tối đa hóa nguồn thu nhập theo tín hiệu thị trường. 2. Đối với khâu chế biến, vận chuyển: Một yếu tố quan trọng gây hạn chế chất lượng gạo là công nghệ sau thu hoạch. Chất lượng phơi nắng thóc kém khiến tỷ lệ hạt gẫy vỡ trong xay xát cao. ở Thái Lan, hong khô thóc được tách thành một giai đoạn riêng trong công nghệ sau thu hoạch, do đó, tỉ lệ hạt gẫy vỡ cao nhất chỉ là 25%. Công nghệ sau thu hoạch của Việt Nam kém hiệu quả do quá tập trung vào công đoạn xay xát mà chưa quan tâm đến các công đoạn khác, và một phần do việc đầu tư nâng cấp công nghệ không đem lại lợi tức cao. Đây là khâu rất yếu hiện nay, vì vậy, trong những năm tới cần tập trung giải quyết thao các hướng: - Hoàn thiện công nghệ sau thu hoạch: cần quan tâm đầu tư nâng cấp công nghệ thu hoạch, bảo quản sau thu hoạch (dùng máy sấy thay cho phơi thóc bằng ánh sáng mặt trời). Tăng cường đầu tư cho công nghiệp xay xát, chế biến gạo. Hệ thống cơ sở vật chất phục vụ cho việc cung cấp cây giống, khuyến nông, mua, bảo quản, tồn trữ, vận chuyển, bốc xếp Tất cả phải thực hiện quản lý theo tiêu chuẩn ISO. - Đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn và bến cảng phục vụ xuất khẩu gạo, trong đó mở rộng cảng Cần Thơ trở thành cảng chủ yếu để xuất khẩu gạo. - Tăng cường dự trữ nhẵm giảm thiểu các biến động bất lợi của thị trường thế giới, và các thiệt hại do thiên tai gây ra, xây dựng hệ thống kho dự trữ và tổ chức lại hệ thống mua gom, dự trữ gạo xuất khẩu. - Tăng cường quản lý chất lượng gạo xuất khẩu, nâng cao chất lượng gạo xuất khẩu từ khâu trồng, thu hoạch, bảo quản đến khâu xay xát, chế biến và đóng gói theo tiêu chuẩn thống nhất phù hợp với yêu cầu của thị trường thế giới, xây dựng quy chế bắt buộc về áp dụng tiêu chuẩn chất lượng gạo xuất khẩu. - Tư nhân hóa và cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước trông lĩnh vực xay xát gạo nói riêng và trong toàn kênh thu mua nói chung, nhờ đó nâng cao sức cạnh tranh của hệ thống thu mua chế biến của Việt Nam so với các nước xuất khẩu gạo khác. - Thu hút vốn FDI vào lĩnh vực chế biến gạo, cũng như chế biến một số lương thực, thực phẩm khác. Điều này một mặt mở rộng mối quan hệ giữa người sản xuất và doanh nghiệp chế biến, mặt khác góp phần cải thiện công nghệ xay xát và nâng cao chất lượng gạo xuất khẩu. 3. Về tổ chức thu mua lúa hàng hoá: Do hệ thống kênh thu mua của Việt Nam quá cồng kềnh nên lợi tức thu mua qua công đoạn thấp. Lợi nhuận đặc biệt cao thường chỉ thu được ở các công đoạn do doanh nghiệp quốc doanh tiến hành. Nhà nước cần xây dựng hệ thống tổ chức thu mua lúa hàng hoá phục vụ xuất khẩu gần với chính quyền địa phương trong vùng quy hoạch. Tiến tới hình thành mạng lưới theo mô hình HTX hoặc tổ hợp tác thu mua lúa thống nhất giữa các địa phương theo phương thức và giá sàn quy định của nhà nước. Giải quyết thỏa đáng quan hệ giữa nhà nước, nông dân và các doanh nghiệp xuất khẩu gạo trong phân phối lợi nhuận. Phương thức mua lúa tạm trữ xuất khẩu đối với vùng ĐBSCL cần được nghiên cứu bổ sung để giảm bớt bù lỗ của nhà nước và đến được tay người sản xuất. Tổ chức lại hệ thống mua gom gạo xuất khẩu trên cơ sở đảm bảo quyền lợi cho người xuất khẩu cũng như người dân, hình thành quỹ bình ổn giá gạo nhằm hỗ trợ hoạt động sản xuất, kinh doanh gạo trong những thời điểm bất lợi của thị trường thế giới. Hoàn thiện hệ thống chính sách của nhà nước về đầu tư, tín dụng, tiền tệ, xuất khẩu, thuế, đất đai, bảo hiểm và trợ giá, đào tạo nhân lực và phát huy vai trò của hiệp hội sản xuất và kinh doanh lương thực trong phạm vi cả nước. 4. Về phát triển thị trường: Trong bối cảnh cạnh tranh gay gắt giữa các nước về xuất khẩu gạo như hiện nay và các năm tới, Việt Nam nhất thiết phải có hệ thống các giải pháp hữu hiệu về thị trường ngoài nước. Để tăng sức cạnh tranh của hạt gạo Việt Nam trên thị trường thế giới cần phải có nhiều giải pháp đồng bộ, không chỉ là tăng năng suất và chất lượng sản xuất trong nước để giảm chi phí, mà còn phải mở rộng và ổn định thị trường theo hướng đa dạng hóa, đa phương hóa, đảm bảo chữ tín với khách hàng, tăng cường tiếp thị, đầu tư nghiên cứu và dự báo thị trường Các giải pháp cụ thể như: - Hoàn thiện hệ thống thông tin về tình hình mặt hàng gạo trên thế giới. Tăng cường hỗ trợ trong việc cung cấp các thông tin về biến động thị trường gạo thế giới, phát triển mạng lưới cung cấp thông tin về thị trường thế giới cho các doanh nghiệp, tạo điều kiện cho doanh nghiệp tiếp cận thị trường xuất khẩu thông qua hệ thống tham tán thương mại. - Đăng ký nhãn mác cho gạo xuất khẩu nhằm bảo vệ thương hiệu của gạo Việt Nam trên thị trường quốc tế. - Tích cực tham gia các cuộc đàm phán tiến tới việc mở cửa thị trường gạo ở các nước khác trong Châu á và tiến tới tự do hóa thị trường gạo trên phạm vi toàn cầu. - Tiếp tục duy trì và phát triển quan hệ thương mại với các nước thuộc thị trường truyền thống, đặc biệt là thị trường SNG và Đông Âu, vì đây là một thị trường có dung lượng trao đổi lớn và yêu cầu về chất lượng sản phẩm không khắt khe như thị trường các nước phát triển. Theo nhận định của Bộ Thương Mại trong những năm tới thị trường này vẫn có nhu cầu lớn. Việc chủ động khai thác thị trường SNG và Đông Âu, một mặt vừa là sự chủ động của các doanh nghiệp, mặt khác cơ quan quản lý vĩ mô phải có trách nhiệm thực hiện các hoạt động khâu nối đàm phán. - Khai thác thị trường Trung Quốc: đây là nước có dân số đông nhất thế giới với khoảng 1,3 tỷ dân, Trung Quốc là thị trường có mức tiêu thụ lớn, trong những năm gần đây Trung Quốc nhập khẩu khá nhiều gạo của Việt Nam nhưng chủ yếu là nhập khẩu tiểu ngạch. Đối với thị trường này đòi hỏi nhà nước phải có sự chỉ đạo đồng nhất trong hoạt động xuất khẩu. Thực hiện đàm phán, ký kết các hiệp định thương mại ở các cấp độ khác nhau (Cấp Tỉnh, Trung ương, Cấp Tỉnh, Huyện) bảo đảm quan hệ ngoại thương lâu dài và ổn định nhằm tránh những rủi ro và tổn thất. - Thị trường các nước ASEAN, trong giai đoạn chuyển đổi thị trường xuất khẩu các sản phẩm nông nghiệp nói chung và sản phẩm lúa gạo của Việt Nam nói riêng, thị trường ASEAN đóng vai trò quan trọng và chiếm một tỷ lệ lớn. Tuy nhiên, từ 1996 đến nay đã có những thay đổi, xu hướng giảm tỷ lệ xuất khẩu về đặc trưng cơ bản của các nước ASEAN là có cơ cấu sản phẩm nông nghiệp giống nhau nên các nước này nhập khẩu gạo của Việt Nam chủ yếu là hình thức tạm nhập tái xuất, đặc biệt là Singapo nên không phù hợp với yêu cầu nâng cao giá trị xuất khẩu lúa gạo của Việt Nam trên thị trường thế giới. Mặt khác do tác động của Hiệp định ưu đãi thuế quan (CEPT/AFTA) ít có tác động đến khối lượng xuất khẩu các sản phẩm nông sản nói chung và sản phẩm lúa gạo của Việt Nam nói riêng trong tương lai. Tuy nhiên, thị trường ASEAN vẫn là thị trường xuất khẩu quan trọng đối với gạo xuất khẩu của Việt Nam. 5. Về quản lý và điều hành hoạt động xuất khẩu gạo giai đoạn 2001 – 2005: Để đáp ứng yêu cầu và tình hình thực tế trong giai đoạn tới, ngày 4/4/2001 chính phủ đã có quyết định số 46/2001/QĐ - TTg về xuất khẩu hàng hoá thời kỳ 2001 – 2005. Theo tinh thần của nghị quyết này sẽ bãi bỏ cơ chế hạn ngạch xuất khẩu gạo cũng như việc quy định doanh nghiệp đầu tư xuất khẩu. Đây là một bước đột phá mới trong cơ chế chính sách, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động của các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế được xuất khẩu gạo chỉ cần có đăng ký kinh doanh ngành hàng lương thực hoặc nông sản. Đối với những hợp đồng xuất khẩu gạo sang một số thị trường có sự thỏa thuận giữa Chính phủ Việt Nam với Chính phủ các nước (hợp đồng Chính phủ) Bộ NN&PTNN kết hợp với Bộ Thương Mại sau khi trao đổi với Hiệp Hội Lương Thực Việt Nam sẽ chỉ đạo các doanh nghiệp làm đại diện giao ký kết hợp đồng. Sau đó sẽ phân chia số lượng ký kết được trên cơ sở lượng lúa hàng hoá của các địa phương để Uỷ Ban Nhân Dân các tỉnh trực tiếp giao cho các doanh nghiệp trực tiếp thực hiện, có tính đến quyền lợi của các doanh nghiệp ký kết hợp đồng. Cũng theo quyết định này Thủ Tướng Chính Phủ sẽ xét, quyết định các biện pháp cần thiết có thể nhằm can thiệp một số các có hiệu quả vào thị trường lúa gạo nhằm đảm bảo lợi ích của nông dân ổn định sản xuất nông nghiệp và thị trường trong nước. Giảm bớt khó khăn với hoạt động sản xuất và lưu thông lúa gạo. Kế hoạch trả nợ và viện trợ của Chính Phủ hàng năm sẽ được thực hiện theo cơ chế đấu thầu hoặc theo quyết định của Thủ Tướng Chính Phủ. Việc khuyến khích tự do xuất khẩu trong cơ chế thị trường rất có thể phát sinh cạnh tranh vô tổ chức giữa một số doanh nghiệp tham gia xuất khẩu. Do vậy, việc quản lý theo quyết định 46 cần phải cân nhắc tính toán kỹ lưỡng nhằm bảo đảm phát huy cao nhất khả năng chủ động của các doanh nghiệp trong xuất khẩu đáp ứng yêu cầu của tiến trình hội nhập kĩ thuật quốc tế. Đồng thời, trong công tác điều hành xuất khẩu gạo, Chính Phủ cần quan tâm đến các vấn đề như: - Khắc phục biểu hiện ỷ lại vào nhà nước hoặc phó thác cho các doanh nghiệp. Chính Phủ cần tăng cường đàm phán thương mại song phương, đa phương để tạo hành lang pháp lý cho các doanh nghiệp, công tác thị trường xuất khẩu và nhập khẩu cần được gắn kết chặt chẽ với nhau. - Tăng cường công tác thông tin về giá cả hàng hoá và các dịch vụ về thị trường. Phổ biến kịp thời các cơ chế chính sách của nhà nước, dự báo về chiều hướng cung cầu hàng hoá và dịch vụ, các thông tin chiến lược, chiến thuật và các biện pháp của nhà nước. Trên cơ sở đó sẽ nâng cao hiệu ứng và tính linh hoạt trong sản xuất và kinh doanh của các doanh nghiệp trong nước. Để có thể giải pháp ứng phó quốc tế điều tiết nguồn cung trong các điều kiện cụ thể Nhằm tác động vào thị trường và giá có lợi cho ta. Kết luận Trong những năm vừa qua, khối lượng gạo xuất khẩu của Việt Nam đã liên tục tăng lên. Tuy nhiên, khối lượng xuất khẩu thực tế vẫn chưa đạt đến giới hạn có thể xuất khẩu. (Giới hạn có thể xuất khẩu được xác định dựa trên cân đối giữa mức đảm bảo tiêu dùng lương thực trong nước (theo qui định về số calo cần thiết cho mỗi người/ngày) và sản lượng trong nước). Như vậy, khả năng huy động sản lượng gạo cho xuất khẩu của Việt Nam vẫn còn, ngay cả trong trường hợp sản lượng sản xuất tăng thấp hơn giai đoạn trước. Hơn nữa chất lượng gạo xuất khẩu hiện nay cũng đang được Việt Nam quan tâm nhiều hơn cả từ lựa chọn giống mới và đầu tư thiết bị chế biến. Bên cạnh đó, việc khẳng định và phát huy ngày càng cao hơn nữa vị thế là nước xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới dựa trên những thế mạnh và tiềm năng sẵn có cùng các chủ trương, chính sách kịp thời là một hướng đi đặc biệt cần thiết. Chính vì vậy, đề tài xuất khẩu gạo vẫn luôn là nhiệm vụ hàng đầu cho việc mở rộng thêm thị phần và sản xuất những loại gạo chất lượng cao, đáp ứng đa dạng các nhu cầu của thế giới, góp phần không nhỏ cho công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Cuối cùng, em xim chân thành cảm ơn sự giúp đỡ tận tình của thầy giáo PSG.TS Trần Văn Chu và các thầy cô giáo trong khoa, cùng với sự giúp đỡ tạo điều kiện của tập thể cán bộ Viện nghiên cứu thương mại đặc biệt là Trưởng phòng Quan hệ hợp tác quốc tế thầy Vũ Tiến Dương đã giúp đỡ em hoàn thành bài luận văn này.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc4025.doc
Tài liệu liên quan