GV giữ vai trò là người hướng dẫn, tổ chức thực hiện. HS đóng vai trò chủ đạo trong quá trình dạy học; tức là phải phát huy cao độ tính tích cực của các em trong luyện tập thực hành.Ở trường THCS (lớp 8 và 9), HS cần tập trung rèn luyện sâu từng kĩ năng nghe, nói, đọc, viết. Muốn thực hiện được, cá nhân HS phải tích cực và tự giác tham gia thực hành, không sợ mắc lỗi, và cần lưu ý rằng độ lưu loát ngôn ngữ (fluency) trong giai đoạn này là rất quan trọng. Điều kiện tối thiểu để HS thực hành kĩ năng ngôn ngữ là mỗi lớp học không quá đông (khoảng 35 HS/lớp); có đầy đủ thiết bị nghe nhìn như máy cát-sét, băng/đĩa CD, tranh tình huống. Việc kiểm tra đánh giá kết quả học tập nên nhấn mạnh vào 4 kĩ năng, và một phần nhỏ kiến thức ngôn ngữ. Kiểm tra kĩ năng ngôn ngữ luôn luôn được ưu tiên trong bất kì hình thức nào.
42 trang |
Chia sẻ: Dung Lona | Lượt xem: 1055 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng sử dụng phương pháo giảng dạy Tiếng Anh ở THPT nguyên nhân và biện pháp khắc phục, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
học đều có phương pháp dạy học tương ứng. Khi lựa chọn và vận dụng các phương pháp dạy học cần căn cứ vào đặc điểm, tính chất của các môn học, và nội dung các bài. Trong một bài học có thể phối hợp nhiều phương pháp khác nhau nhằm đạt kết quả tốt nhất.
Phương pháp dạy học có tính hiệu quả: mục đích cuối cùng dạy học là phải mang lại chất lượng và hiệu quả tối ưu trong những điều kiện nhất định. Cho nên giáo viên và học sinh phải vận dụng các phương pháp dạy và học mang lại hiệu quả cao nhất.
Phương pháp dạy học có tính hệ thống: các phương pháp dạy học không tồn tại biệt lập mà luôn hợp thành một hệ thống hoàn chỉnh có mối quan hệ mật thiết, bổ sung, hỗ trợ cho nhau.
Phân loại các phương pháp dạy học
Phương pháp dạy học được tiếp cận nhiều quan điểm phức hợp. Xin giới thiệu một vài quan điểm phân loại phương pháp dạy học như sau:
Dựa trên quan điểm hoạt động (đại diện I.K.Babanxki) chia phương pháp dạy học thành 3 nhóm:
Nhóm phương pháp tổ chức và thực hiện hoạt động nhận thức - học tập
Nhóm phương pháp kích thích và hình thành động cơ hoạt động nhận thức – học tập.
Nhóm phương pháp kiểm tra đánh giá hoạt động nhận thức học tập
Trong từng nhóm phương pháp tổ chức thực hiện hoạt động nhận thức - học tập bao gồm nhiều nhóm phương pháp dạy học bộ phận như:
Nhóm phương pháp dạy học dùng lời
Nhóm phương pháp dạy học trực quan
Nhóm phương pháp dạy học thực hành
Dựa trên mức độ, tính chất hoạt động nhận thức của học sinh (đại diện M.N.Scatkin, I.Ia.Lecne ):
Phương pháp dạy học minh họa - giải thích
Phương pháp dạy học tái hiện
Phương pháp trình bày có tính chất vấn đề
Phương pháp tìm tòi bộ phận
Phương pháp nghiên cứu
Dựa vào các mục đích dạy học cơ bản được thực hiện trong quá trình dạy học (đại diện M.A Đanhilôp, B.P.Exipôp )
Nhóm phương pháp hình thành tri thức (thuyết trình, đàm thoại, trực quan )
Nhóm phương pháp hình thành kỹ năng (luyện tập, làm thí nghiệm )
Nhóm phương pháp kiểm tra, đánh giá tri thức, kĩ năng, kĩ xảo học sinh.
Dựa trên các bước phát triển của một bài dạy
Nhóm phương pháp mở đầu (khởi động) bài dạy
Nhóm phương pháp triển khai bài dạy
Nhóm phương pháp kết thúc bài dạy
Các nhà giáo dục học Việt Nam căn cứ vào mục đích dạy học cơ bản và phương tiện dạy học chủ yếu được sử dụng trong quá trình dạy học đã chia phương pháp dạy học thành 4 nhóm, đó là:
Nhóm phương pháp dạy học dùng lời
Nhóm phương pháp dạy học trực quan
Nhóm phương pháp dạy học thực tiễn
Nhóm phương pháp dạy học kiểm tra, đánh giá kết quả học tập
Hệ thống các phương pháp dạy học truyền thống
Nhóm phương pháp dạy học dùng lời
Phương pháp dạy học thuyết trình :
Định nghĩa: là cách thức chuyển giao và tiếp nhận một khối lượng kiến thức lớn có hệ thống bằng ngôn ngữ nói của giáo viên trong những khoảng thời gian nhất định. Mục đích cơ bản là hình thành tri thức mới ở HS hoặc củng cố, hệ thống hóa tri thức, kỹ năng, kĩ xảo.
Phân loại phương pháp thuyết trình:
Dựa vào tính chất của nội dung thuyết trình
- Giảng thuật: chứa đựng yếu tố miêu tả, trần thuật. PP này không chỉ được sử dụng trong việc dạy học các môn khoa học xã hội – nhân văn mà cả những môn khoa học tự nhiên khi mô tả thí nghiệm, hiện tượng GV có thể sử dụng phương tiện trực quan, phương tiện kĩ thuật (máy chiếu) để minh họa cho việc trình bày của mình, hoặc nêu câu hỏi nhằm thu hút sự chú ý của HS.
- Giảng giải: sử dụng những luận cứ, số liệu để giải thích và chứng minh một hiện tượng, sự kiện, định luật, định lý PP này chứa đựng yếu tố suy đoán, suy lý nên có nhiều khả năng phát triển tư duy logic của HS. Giảng giải thường được kết hợp với giảng thuật.
- Diễn giảng: nhằm trình bày một vấn đề có tính phức tạp, trừu tượng và khái quát trong một thời gian tương đối dài, PP này ít được dùng ở trường THPT.
Dựa trên mức độ, tính chất hoạt động nhận thức
- Thuyết trình thông báo – tái hiện: có tính chất thông báotrong lời giảng của thầy và tính tái hiện sau khi lĩnh hội ở trò. PP này chỉ cho phép HS đạt đến trình độ tái hiện của sự lĩnh hội thôi nên sự hoạt động của trò là tương đối thụ động.
- Thuyết trình nêu vấn đề: có cấu trúc thuyết trình, song phát triển theo một hướng tích cực hơn – trình bày mang tính “nêu vấn đề”. GV trình bày hệ thống tri thức theo một trình tự logic hợp lý dưới dạng nêu vấn đề gợi mở, “tính nêu vấn đề” thể hiện ở chỗ “vấn đề” được nêu ra không nhất thiết phải mang tính thường xuyên, liên tục và không phải là một giai đoạn, một bước hay một chu kì như dạy học nêu vấn đề. Việc “nêu vấn đề” ở đây mang tính định hướng cho tư duy của HS và định hướng cho sự trình bày của GV. Việc “nêu vấn đề” không làm thay đổi bản chất của phương pháp mà lại có khả năng kích thích được tư duy của HS.
Ưu điểm, nhược điểm:
Ưu điểm:
+ Cho phép trình bày nội dung lý thuyết khó, phức tạp, chứa đựng nhiều thông tin mà HS không tự tìm hiểu được.
+ Cho phép trình bày mô hình mẫu của tư duy logic, của cách trình bày và lí giải vấn đề một cách khoa học
+ Hình thành tư tưởng tình cảm tốt đẹp, niềm tin và hoài bão qua ngôn ngữ và nhân cách của giáo viên.
+ Tạo điều kiện phát triển năng lực chú ý, tư duy bằng khái niệm ở HS.
+ Tính kinh tế cao.
Nhược điểm:
+ Dễ làm người học thụ động, mệt mỏi.
+ Ít phát triển tư duy độc lập, sáng tạo và kĩ năng.
+ Thông tin ngược không được đảm bảo tốt.
Phương pháp đàm thoại:
Định nghĩa: là cách thức GV đặt ra một hệ thống câu hỏi, tổ chức cho HS trả lời, có thể trao đổi qua lại, tranh luận với nhau và với giáo viên, qua đó HS lĩnh hội được nội dung bài học
Phân loại phương pháp đàm thoại
- Dựa vào các khâu của quá trình dạy học: đàm thoại mở đầu, đàm thoại phát triển, đàm thoại củng cố và đàm thoại kiểm tra.
- Dựa theo mức độ của quá trình nhận thức: đàm thoại tái hiện, đàm thoại giải thích – minh họa và đàm thoại sáng tạo.
Ưu điểm, hạn chế:
- Kích thích tính tích cực hoạt động nhận thức của HS.
- Bồi dưỡng năng lực diễn đạt bằng lời những vấn đề khoa học của học sinh.
- Giúp GV thu tín hiệu ngược từ HS nhanh, kịp thời điều chỉnh hoạt động dạy và học, HS cũng thu được tín hiệu ngược để kịp thời điều chỉnh hoạt động học tập – nhận thức của mình.
- Nếu không vận dụng khéo léo dễ gây mất thời gian, biến đàm thoại thành đối thoại giữa GV với một số HS.
Phương pháp làm việc với SGK và tài liệu tham khảo
Trong quá trình làm việc tự lực với SGK và các tài liệu, sách báo khác, HS không chỉ nắm vững đào sâu và mở rộng tri thức mà còn hình thành kĩ năng, kĩ xảo để học tập suốt đời – học qua sách. Làm việc với SGK và tài liệu sách báo khác có thể diễn ra trên lớp và ngoài lớp.
Nhóm phương pháp dạy học trực quan
Định nghĩa: là PP sử dụng những phương tiện trực quan, phương tiện kĩ thuật dạy học để hình thành, củng cố, hệ thống hóa và kiểm tra tri thức, kĩ năng, kĩ xảo ở HS.
Phân loại phương pháp trực quan: phương pháp quan sát và phương pháp trình bày trực quan.
Ưu điểm và hạn chế:
- Giúp HS có thông tin đầy đủ và sâu sắc về đối tượng nghiên cứu trên cơ sở huy động nhiều giác quan tham gia vào quá trình tri giác đối tượng nhận thức, từ đó phát triển tư duy trừu tượng, hình thành khái niệm về đối tượng
- Làm thỏa mãn và phát triển hứng thú người học.
- Làm cho tài liệu học tập vừa sức hơn đối với HS.
- Tăng cường lao động của người học và bằng cách đó nâng cao nhịp điệu nghiên cứu tài liệu học tập.
- Nếu lạm dụng HS sẽ phân tán sự chú ý, thiếu tập trung vào các dấu hiệu bản chất hạn chế phát triển tư duy trừu tượng.
Nhóm các phương pháp thực hành
PP GV tổ chức cho HS trực tiếp hoạt động thực hành, thực tiễn để tìm tòi tri thức mới hay vận dụng tri thức vào thực tiễn nhằm củng cố, rèn luyện kĩ năng, kỹ xảo nhóm PP này bao gồm PP luyện tập, ôn và PP làm việc trong phòng thí nghiệm.
Nhóm này gồm có:
+ Luyện tập.
+ Độc lập làm thí nghiệm.
+ Ôn tập.
Ưu điểm
Nhóm phương pháp này rèn cho học sinh được kỹ năng, kỹ xảo và qua đó củng cố, mở rộng những tri thức đã học nhằm rèn luyện những kỹ năng, kỹ xảo, hình thành cho người học một số phẩm chất như tính độc lập, tinh thần trách nhiệm, tính sang tạo, tính tập thể.
Nhược điểm
- Nếu khâu chuẩn bị không chu đáo sẽ gây ra tình trạng học sinh rèn luyện kỹ năng, kỹ xảo một cách máy móc, giáo điều.
Một số phương pháp dạy học hiện đại
Dạy học giải quyết vấn đề:
Là một cách tiếp cận trong lĩnh vực phương pháp. Nó là một tập hợp nhiều phương pháp dạy học mà trung tâm là phương pháp bài toán (bài toán nhận thức).
Ưu điểm và nhược điểm của dạy học giải quyết vấn đề:
Giúp HS nắm tri thức và phát triển hoạt động trí tuệ một cách sâu sắc và vững chắc, đặc biệt là phát triển năng lực tư duy độc lập sáng tạo.
Nâng cao hứng thú học tập, rèn luyện kĩ năng tìm kiếm, phát hiện vấn đề, năng lực vận dụng tri thức, kĩ năng, kĩ xảo, bước đầu làm quen với phương pháp học tập và nghiên cứu khoa học.
Bồi dưỡng phẩm chất, tác phong người làm khoa học.
Tốn nhiều thời gian để nghiên cứu tài liệu học tập.
Khó thực hiện đối với tất cả nội dung dạy học
Khó thực hiện đối với HS yếu
Đòi hỏi GV có sự chuẩn bị bài công phu và kinh nghiệm tổ chức.
Dạy học theo nhóm nhỏ
Dạy học theo nhóm nhỏ là kiểu PP dạy học, trong đó HS được chia thành nhóm và dưới sự chỉ đạo của GV, trao đổi những ý nghĩ, nguồn kiến thức, giúp đỡ, hợp tác với nhau trong việc lĩnh hội tri thức, hình thành kỹ năng, kỹ xảo.
Ưu điểm và nhược điểm
Các thành viên cùng có cơ hội tham gia chia sẻ ý kiến.
Có thể thay đổi cấu trúc của các nhóm, tạo cơ hội cho các thành viên có dịp trao đổi nhiều người với nhau.
Tạo cơ hội để hội họp các ý kiến và quan điểm khác nhau, giúp quá trình giải quyết vấn đề.
Xây dựng ý thức làm việc theo nhóm.
Một hoặc hai thành viên của nhóm có thể trội hơn thì các thành viên khác có thể bị co lại.
PP này tốn nhiều thời gian để có sự tham gia của tất cả thành viên.
Không phù hợp với lớp đông sinh viên.
Dạy học theo dự án
Dạy học theo dự án gọi tắt là dạy hoc dự án (DHDA) được hiểu như một phương pháp dạy học hướng HS đến việc tiếp thu tri thức và kĩ năng thông qua quá trình giải quyết một bài tập tình huống, được gọi là một dự án (project) mô phỏng môi trường các em đang sống và sinh hoạt.
Ưu điểm và nhược điểm
HS là người chịu trách nhiệm chính của việc học và tự xây dựng kiến thức của mình
Thiết lập mối liên hệ với cuộc sống ở ngoài môi trường lớp học.
Hướng đến các vấn đề của thế giới thật.
Phát triển kĩ năng sống
Tạo điều kiện cho nhiều phong cách học khác nhau được triển khai
Nhiệm vụ học đến được với tất cả HS
Công nghệ thông tin được tích hợp vào quá trình học tập
Tuy nhiên, dạy học theo dự án cần có các điều kiện như phương tiện và điều kiện dạy và học, tốn thời gian và đôi khi việc giải quyết dự án không gắn với nội dung môn học trong chương trình dạy.
Tóm lại:
Mỗi phương pháp đều có ưu điểm, nhược điểm riêng, không có phương pháp nào là vạn năng vì vậy trong quá trình dạy học, người giáo viên phải vận dụng, phối hợp nhiều phương pháp khác nhau.
Phương pháp dạy học tiếng Anh
Một số phương pháp dạy học tiếng Anh
Phương pháp Ngữ pháp – Dịch
Phương pháp Ngữ pháp – Dịch (Grammar – Translation Method) hay còn gọi là phương pháp Truyền thống được áp dụng mạnh mẽ ở Việt Nam vào những năm 1970 cho đến tận những năm 1990.
Về bản chất, theo PP này, chương trình tập trung chủ yếu vào phát triển kĩ năng đọc hiểu, học thuộc lòng từ vựng, dịch văn bản, viết luận (composition) và phân tích ngôn ngữ (học để nắm chắc quy tắc ngôn ngữ).
Quy trình thực hiện: Các bài khóa (texts) được biên soạn và chia ra thành từng đoạn ngắn. Việc giảng giải quy tắc ngôn ngữ là cơ bản. HS được học về ngữ pháp rất kĩ trên cơ sở các hiện tượng ngữ pháp cơ bản được rút ra từ các bài khóa. Để kiểm tra sự thông hiểu về nội dung bài khóa (nội dung văn hóa, đất nước học nói chung) và các quy tắc ngôn ngữ, HS bắt buộc phải dịch các bài khóa sang tiếng mẹ đẻ. HS không được phép mắc lỗi ngôn ngữ, nếu có phải sửa ngay.
Ưu điểm:
HS được rèn luyện rất kĩ về ngữ pháp và tiếp thu lượng từ vựng khá lớn.
HS nắm được tương đối nhiều các cấu trúc câu cơ bản, thuộc lòng các đoạn văn hay hoặc bài khóa mẫu.
HS có thể đọc hiểu nhanh các văn bản.
Hạn chế:
Không giúp HS “giao tiếp” được. Hoạt động chủ yếu trong lớp là người thầy- thầy giảng giải, nói nhiều; HS thụ động ngồi nghe và ghi chép, không có ý kiến phản hồi hoặc không tham gia giao tiếp (nói) với thầy và bạn bè.
Hoạt động dạy học chỉ diễn ra một chiều - HS hoàn toàn bị động, không có cơ hội thực hành giao tiếp trong lớp; khả năng sáng tạo và đặc biệt kĩ năng nói của HS bị hạn chế.
Một số lưu ý:
Ở chừng mực nào đó, GV vẫn có thể áp dụng Phương pháp Truyền thống, ví dụ: khi muốn kiểm tra sự hiểu chính xác về một văn bản (đoạn văn, câu thơtrong bài đọc hiểu) hoặc một cấu trúc câu phức tạp khác với cấu trúc câu trong tiếng Việt, GV có thể yêu cầu HS dịch sang tiếng Việt.
Việc kiểm tra sự thông hiểu qua hoạt động dịch không nên tiến hành thường xuyên vì sẽ tạo thói quen cho HS phải tư duy qua tiếng mẹ đẻ (tiếng Việt) trước khi phát ngôn. Như vậy sẽ cản trở sự lưu loát (fluency) của HS trong giao tiếp.
Việc đánh giá kết quả học tập của HS thông qua các hoạt động trả lời các câu hỏi về nội dung các bài khóa; dịch các bài khóa, các đoạn văn trích (dịch sang tiếng Việt, và dịch ngược sang tiếng Anh); thực hành các bài tập ngôn ngữ máy móc (thường là luyện tập các mẫu câu).
GV giữ vai trò chủ đạo trong quá trình dạy học, có nhiệm vụ chuẩn bị bài khóa, câu hỏi và các bài tập ngữ pháp, giảng giải qui tắc ngôn ngữ. HS được yêu cầu tập đọc bài khóa, học thuộc lòng từ vựng, các đoạn văn mẫu và giải thích một cách tường minh hiện tượng ngữ pháp.
Phương pháp tự nhiên (hay trực tiếp)
Vào cuối thế kỉ 19, đầu thế kỉ 20 chủ nghĩa tư bản phương Tây đã phát triển tới trình độ cao, chủ nghĩa đế quốc đã lan tràn khắp thế giới do đó nhu cầu giao lưu mọi mặt giữa các nước, khu vực ngày càng tăng và càng thâm nhập vào nhiều tầng lớp nhân dân, nhất là trong giới kinh doanh thương mại. Tình hình đó đòi hỏi ngày càng nhiều người nhanh chóng nắm được những ngoại ngữ thông dụng nhất để làm phương tiện phục vụ đời sống hàng ngày, chứ không chỉ dừng lại những giáo lí, những thông tin sách vở như trong nhiều thế kỉ trước. Phương pháp dạy-học ngoại ngữ cổ truyền của phương Đông và phương Tây đều không thỏa mãn được những đòi hỏi bức thiết của thời kì mới. Qua thực tiễn giao tiếp hàng ngày giữa những cư dân nhiều dân tộc trong các cộng đồng xã hội ở chính quốc, cũng như các nước phụ thuộc, người ta nhận thấy việc học tập tiếng nước ngoài (trước hết là tiếng Anh và tiếng Pháp) qua con đường tiếp xúc tự nhiên, trực tiếp có hiệu quả thiết thực hơn trước. Từ đó các nhà giáo dục ngoại ngữ đề xuất một phương pháp dạy-học mới đó là Phương pháp Tự Nhiên hay Trực Tiếp.
Về bản chất: mô phỏng con đường hình thành ngôn ngữ ở trẻ con, kể cả tiếng mẹ đẻ lẫn tiếng nước ngoài. Mục đích của phương pháp này đối lập lại các phương pháp truyền thống, lấy tiếng nói sinh động trong đời sống sinh hoạt hàng ngày làm đối tượng chiếm lĩnh chủ yếu (nên người ta thường gọi là học sinh ngữ) chứ không phải các văn bản viết như trước nữa. Để đảm bảo thực hiện triệt để mục đích, yêu cầu nêu trên, người ta đề ra một số luận điểm có tính nguyên tắc như:
Bắt chước trực tiếp tiếng nói tự nhiên của người nước ngoài.
Loại trừ tiếng mẹ đề ra khỏi quá trình dạy học, tuyệt đối cấm phiên dịch trong giờ học.
Tạo tình huống học tập bằng các đồ dùng và thao tác trực quan để giải thích ý nghĩa của từ ngữ và nội dung câu nối.
Tăng cường luyện tập thực hành (bắt chước máy móc), tránh giải thích lí thuyết ngôn ngữ dài dòng.
Quy trình thực hiện:
Liên tưởng ngữ nghĩa tiếng Anh một cách trực tiếp thông qua vật minh họa, hình ảnh, hoặc sự diễn đạt bằng điệu bộ. HS được nói nhiều bằng tiếng Anh.Ngữ pháp được giảng dạy theo phương pháp qui nạp. Sử dụng từ vựng trong những câu chưa hoàn chỉnh. Ngôn ngữ là “nói”, không phải “viết”. Vì vậy, HS học tiếng Anh thông dụng hằng ngày. Từ vựng được nhấn mạnh nhiều hơn ngữ pháp.
Kỹ năng cơ bản là kỹ năng nói. Kỹ năng đọc và viết dựa trên kỹ năng nói, phát âm được chú trọng ngay từ ban đầu. HS tự sửa lỗi của mình bất kì khi nào có thể.
Ưu điểm:
Phù hợp để áp dụng trong các trường tư thục có khả năng tài chính để mời các giáo viên người bản xứ.
Cung cấp những phương thức học tiếng Anh hứng thú thông qua các hoạt động.
Phương pháp này có hiệu quả trong sự phát triển tốt kĩ năng nghe và nói đối với những người mới học, đặc biệt là HS tiểu học vì trẻ em có khả năng bắt chước tốt.
Hạn chế:
Yêu cầu chi phí cao để trả cho lớp học với số lượng HS nhỏ, quan tâm được từng cá nhân HS và nghiên cứu chuyên sâu, không phù hợp với các trường công có số lượng HS lớn trong một lớp học, ngân quỹ hạn chế và sự đào tạo giáo viên.
Phụ thuộc nhiều vào giáo viên. GV phải thành thạo tiếng Anh vào khéo léo sử dụng tiếng Anh để diễn giải ý nghĩa mà không sử dụng tiếng Việt.
Luyện tập thực hành mang tính máy móc không có tính hệ thống.
HS không đủ tài năng không thể tạo được sự liên tưởng trực tiếp giữa các tình huống và cụm từ nước ngoài.
Phương pháp này thực sự đã làm đổi mới cách dạy, học ngoại ngữ và mang lại hiệu quả cụ thể, thiết thực so với phương pháp ngữ pháp - phiên dịch và từ ngữ - phiên dịch, do đó nó nhanh chóng được phổ biến rộng rãi tại nhiều nước ở châu âu, châu Mỹ, châu Phi và châu Á. Tuy nhiên dần dần phương pháp trực tiếp cũng bộc lộ những nhược điểm rất lớn cả trên cơ sở lí thuyết (ngôn ngữ học, tâm lí học, xã hội học), lẫn kết quả thực tiễn, mà về sau các nhà giáo học pháp một mặt vẫn thừa kế những điểm mạnh, mặt khác từng bước khắc phụ những điểm yếu cơ bản để đưa ngoại ngữ vào giảng dạy tại các trung tâm ngoại ngữ có chất lượng cao hơn. Từ đó xuất hiện những trường phái giáo học pháp ngoại ngữ tự nhiên (trực tiếp) như phương pháp nghe - nói, phương pháp nghe - nhìn v.v...
Phương pháp Nghe – Nói
Về bản chất: Phương pháp Nghe - Nói (Audiolingual Method or Audio-Oral Method) nhấn mạnh vào việc dạy kĩ năng nói và kĩ năng nghe trước kĩ năng đọc và kĩ năng viết. Như vậy, khác với phương pháp Ngữ pháp – Dịch, phương pháp này đáp ứng đúng mục tiêu cần đạt của người học là hình thành và phát triển cả bốn kĩ năng, nhưng ưu tiên phát triển nói, nghe trước đọc và viết.Việc cung cấp kiến thức ngôn ngữ (ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp) được thực hiện xen lồng trong quá trình dạy học. Phương pháp Nghe-Nói ngăn cấm việc dùng tiếng mẹ đẻ trong lớp; khuyến khích tối đa dùng tiếng Anh trong quá trình dạy học.
Quy trình thực hiện:
Luôn luôn nhấn mạnh phát triển hai kĩ năng nói và nghe là chủ yếu.Việc dạy học thông qua thực hành cấu trúc câu (structures) và qua các bài tập ứng dụng, người học tự phát hiện và tìm hiểu những điểm giống nhau (so với tiếng mẹ đẻ) về cấu trúc câu, cách phát ngôn và đưa ra các qui tắc ngôn ngữ. Yêu cầu người học bắt trước mẫu do người dạy cung cấp, ví dụ: các bài/mẩu đối thoại mẫu (dialogues) có chứa cấu trúc câu hoặc hiện tượng ngôn ngữ cần truyền đạt. HS luyện tập mẫu đó thực chất là hình thành một thói quen ngôn ngữ theo các hình thức như: hỏi và trả lời về bài đối thoại mẫu, thực hành thêm một số bài tập cấu trúc (thay thế, bổ sung, chuyển đổi).
Phương pháp này đòi hỏi GV chú ý sửa lỗi cho HS (lỗi phát âm, lỗi cấu trúc). Các bài đối thoại mẫu cần phải chuẩn mực, các bài nghe cần được luyện tập kết hợp với thực hành nói. Sau khi đã lĩnh hội tài liệu bằng khẩu ngữ, HS tiếp tục luyện tập để hình thành và phát triển kĩ năng đọc và kĩ năng viết.
Ưu điểm:
Phương pháp này có hiệu quả đối với những người mới học, đặc biệt là HS tiểu học hoặc HS ở đầu cấp THCS. HS cảm thấy phấn khởi và tự tin khi được nghe và tập bắt chước theo giáo viên, ví dụ: HS làm theo lệnh của GV hoặc hát các bài hát tiếng Anh đơn giản.
Hạn chế:
Đối với HS có trình độ cao việc học theo phương pháp này sẽ nhàm chán nếu không có sự điều chỉnh phương thức dạy học cần thiết.
HS áp dụng những gì đã được lĩnh hội trong lớp học vào thực tiễn giao tiếp ngôn ngữ là khó. Các em không thể vận dụng các hình thức ngôn ngữ (các mẫu lời nói) được luyện tập trên lớp một cách tự nhiên vì tuy HS có khả năng nghe hiểu, nhớ và bắt chước (nói theo) ngay tại chỗ trong lớp học, song các em cũng rất chóng quên và cảm thấy bị “tắc” khi gặp tình huống tương tự trong giao tiếp thực; tức là không diễn đạt được những gì định nói mặc dù sau một thời gian dài học tập.
Tuy nhiên, HS có thể nghe và nói thuần thục nếu các em được rèn luyện trong môi trường ngoại ngữ (language environment) mà điều kiện này bị hạn chế ở các trường học THPT.
Một số lưu ý:
Lớp học không nên quá đông (không quá 35 HS/lớp). Giờ học nên được tiến hành ở các phòng học tiếng có thiết bị nghe chuẩn; hoặc GV cần chuẩn bị băng cát-sét/ đĩa CD ghi âm các bài đối thoại mẫu có chất lượng cao để đảm bảo cho HS có thể nghe hiểu và thực hành nói đạt hiệu quả. Đối với HS tiểu học hoặc HS đầu cấp THCS, GV nên chuẩn bị nhiều tranh ảnh để tạo tình huống giao tiếp; chú ý tổ chức các hoạt động ngôn ngữ khác nhau như: trò chơi, câu đố để gây không khí thoải mái trong học tập cho các em.
Phương pháp Giao tiếp
Phương pháp Giao tiếp (Communicative Approach) hay còn gọi là Đường hướng Giao tiếp được xem như phương pháp dạy học ngoại ngữ phổ biến nhất và hiệu quả nhất hiện nay. Hầu hết các giáo trình, SGK phổ thông tiếng Anh ở các nước trên thế giới và ở Việt Nam đều được biên soạn dựa theo quan điểm giáo học pháp của Phương pháp Giao tiếp. Phương pháp này do các nhà ngôn ngữ ứng dụng người Anh phát triển hoàn toàn khác biệt với phương pháp dựa trên nền tảng ngữ pháp của Phương pháp Truyền thống.
Về bản chất: Phương pháp Giao tiếp nhấn mạnh vào mục tiêu của việc học ngôn ngữ - đó là năng lực giao tiếp (communicative competence). Người ta coi năng lực ngôn ngữ là khả năng bẩm sinh của mọi con người bình thường. Để giao tiếp được, phương pháp này đòi hỏi phải tính đến phương diện xã hội, văn hóa của ngôn ngữ, các điều kiện xã hội của quá trình sản sinh ngôn ngữ, và tính đến ngôn ngữ được dùng trong cuộc sống hàng ngày. Ngoài ra, phương pháp Giao tiếp còn chú ý tới phương diện nghĩa của ngôn ngữ, hay nói một cách khác cần lưu ý tới ý định giao tiếp (intention of communication). Khái niệm này về sau các nhà ngôn ngữ gọi là chức năng ngôn ngữ (language function). Như vậy, theo Phương pháp Giao tiếp ngôn ngữ không chỉ là phương tiện diễn đạt tư duy mà còn là phương tiện giao tiếp. Mục đích cuối cùng của người học ngoại ngữ không chỉ tiếp thu và nắm chắc kiến thức ngôn ngữ (ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp) mà cần phải đạt được năng lực (khả năng) giao tiếp; tức là phát triển được tất cả 4 kĩ năng ngôn ngữ (nghe, nói, đọc, viết) và sử dụng được ngôn ngữ để giao tiếp.
Quy trình thực hiện:
Xuất phát từ bản chất của Phương pháp Giao tiếp, tài liệu giảng dạy theo đường hướng này cần được thiết kế để đáp ứng nhu cầu giúp người học có thể thực hiện được các chức năng ngôn ngữ khác nhau, chẳng hạn như xin phép, đề nghị, yêu cầu ai đó làm việc gì; mô tả sự vật; bày tỏ sự quan tâm, thích thú hoặc không thích v.v. Để giao tiếp hiệu quả, người học cần phải sử dụng các hình thức ngôn ngữ thích hợp với tình huống giao tiếp (situations), trong đó yêu cầu người tham gia giao tiếp phải thể hiện được ý định giao tiếp (intention) thông qua việc thực hiện các nhiệm vụ khác nhau (tasks).
Tiến trình giảng dạy diễn ra theo 5 bước:
Giới thiệu ngữ liệu (presentation).
Thực hành bài tập (Exercises).
Hoạt động giao tiếp (Communicative activities).
Đánh giá (Evaluation).
Ưu điểm:
Phương pháp Giao tiếp có ưu điểm hơn hẳn các phương pháp khác là nó bao trùm mọi phương diện của quá trình dạy học ngoại ngữ: đó là các yếu tố ngôn ngữ, văn hóa, xã hội, các yếu tố ngoài ngôn ngữ nhằm rèn luyện kĩ năng giao tiếp hoàn chỉnh. Đặc biệt Phương pháp Giao tiếp coi hình thành và phát triển bốn kĩ năng giao tiếp như nghe, nói, đọc và viết là mục đích cuối cùng của quá trình dạy học. Các kiến thức ngôn ngữ như ngữ âm, từ vựng và ngữ pháp là phương tiện, điều kiện hình thành và phát triển các kĩ năng giao tiếp.Vì vậy, phương pháp Giao tiếp thực sự giúp cho HS có khả năng sử dụng được tiếng Anh để giao tiếp.
Hạn chế:
Phương pháp Giao tiếp nhấn mạnh vào việc hình thành và phát triển 4 kĩ năng ngôn ngữ: nghe, nói, đọc, viết trong quá trình dạy học, trong đó kiến thức ngôn ngữ (ngữ âm, từ vựng và ngữ pháp) không được quan tâm một cách thích đáng. Kết quả là một số HS cảm thấy khó có thể “giao tiếp” vì HS làm sao có thể nghe, nói, đọc, viết được một khi các em không nắm chắc hệ thống qui tắc ngôn ngữ. Mặt khác, theo quan điểm của phương pháp này, quan hệ giữa ý định giao tiếp (bao gồm các hành động lời nói hay là các chức năng ngôn ngữ học được) và hiện thực là quá phức tạp, không rõ ràng. Nói một cách khác, người ta khó có thể lựa chọn các phát ngôn theo chức năng phù hợp với nhu cầu giao tiếp thực tế đa dạng và rất phức tạp.
Một số lưu ý:
GV giữ vai trò là người hướng dẫn, tổ chức thực hiện. HS đóng vai trò chủ đạo trong quá trình dạy học; tức là phải phát huy cao độ tính tích cực của các em trong luyện tập thực hành.Ở trường THCS (lớp 8 và 9), HS cần tập trung rèn luyện sâu từng kĩ năng nghe, nói, đọc, viết. Muốn thực hiện được, cá nhân HS phải tích cực và tự giác tham gia thực hành, không sợ mắc lỗi, và cần lưu ý rằng độ lưu loát ngôn ngữ (fluency) trong giai đoạn này là rất quan trọng. Điều kiện tối thiểu để HS thực hành kĩ năng ngôn ngữ là mỗi lớp học không quá đông (khoảng 35 HS/lớp); có đầy đủ thiết bị nghe nhìn như máy cát-sét, băng/đĩa CD, tranh tình huống. Việc kiểm tra đánh giá kết quả học tập nên nhấn mạnh vào 4 kĩ năng, và một phần nhỏ kiến thức ngôn ngữ. Kiểm tra kĩ năng ngôn ngữ luôn luôn được ưu tiên trong bất kì hình thức nào.
Khi vận dụng Phương pháp Giao tiếp, GV cần lưu ý:
Giảm thiểu tối đa thời gian nói trên lớp của GV, tăng thời gian sử dụng ngôn ngữ cho HS.
Dạy học theo phương pháp gợi mở: GV chỉ gợi mở và dẫn dắt để HS tự tìm ra lời giải đáp hoặc con đường đi của mình.
Động viên tất cả kiến thức sẵn có về văn hoá, xã hội cũng như ngôn ngữ của HS trong luyện tập ngôn ngữ.
Có thái độ tích cực đối với lỗi ngôn ngữ của HS. Chấp nhận lỗi như một phần tất yếu trong quá trình học ngoại ngữ, giúp HS học tập được từ chính lỗi của bản thân và bạn bè.
Không chỉ chú ý đến sản phẩm cuối cùng của bài luyện tập (product) mà còn chú trọng đến cả quá trình (process) luyện tập và phương pháp học tập của HS.
Phương pháp Giao tiếp đòi hỏi người học phải sử dụng các hình thức ngôn ngữ thích hợp với tình huống giao tiếp (situations), trong đó yêu cầu người tham gia giao tiếp phải thể hiện được ý định giao tiếp (intention) thông qua việc thực hiện các nhiệm vụ khác nhau (tasks). Điều quan trọng là HS được luyện tập và có thể vận dụng vào các tình huống giao tiếp tương tự.
MỘT SỐ Ý TƯỞNG VỀ ĐỔI MỚI PPDH
Bản chất của việc đổi mới PPDH tiếng Anh:
Hiện nay các nứơc phát triển như Canada, Anh, Mỹ, Úc đã và đang áp dụng phương pháp thực hành giao tiếp (CLT : communivative Language Teaching), lấy người học làm trung tâm (Learner - centered learning) là phương pháp chủ đạo để giảng dạy Tiếng Anh cho người nước ngoài. Với tình hình thực trạng về PPDH tiếng Anh, nghiên cứu để tìm ra phương pháp giảng dạy tiếng Anh hiệu quả là tất yếu, vì vậy việc luôn luôn nâng cao trình độ chuyên môn và đổi mới phương pháp giảng dạy là việc làm cần thiết và thường xuyên.
Có nhiều cách hiểu khác nhau về PPDH, trong mỗi cách hiểu nhấn mạnh một vài khía cạnh nào đó, phản ánh sự phát triển nhận thức về bản chất của PPDH ở một thời kỳ xác định. Trong bối cảnh hiện nay, toàn ngành giáo dục đang nỗ lực đổi mới PPDH theo hướng "Phát huy tính tích cực tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh". Bất kể trường nào cũng có thể học cách đổi mới PPDH nếu hiểu rõ về bản chất của quá trình đổi mới PPDH tiếng Anh sau đây:
Đổi mới PPDH tiếng Anh nhằm thực hiện yêu cầu của mục tiêu chương trình.
Đổi mới PPDH tiếng Anh: tăng sự hoạt động chủ động, tích cực của học sinh.
Đổi mới PPDH tiếng Anh không nhất thiết phải có phương tiện dạy học hiện đại.
Đổi mới PPDH tiếng Anh: đa dạng về phương pháp song không phải là thay cái cũ bằng cái mới.
Đổi mới PPDH tiếng Anh phải được tổ chức chặt chẽ tuy nhiên không cầu toàn
Muốn đổi mới PPGD giáo viên dạy ngoại ngữ cần nắm vững định nghĩa : học ngoại ngữ là gì. “Học ngoại ngữ là quá trình nhận biết các kiến thức và rèn luyện các kỹ năng, trong đó kiến thức thì phải học, kỹ năng thì phải rèn.”
Vậy nhiệm vụ của giáo viên ngoại ngữ không chỉ biết cách truyền đạt kiến thức cho người học mà còn phải biết cách rèn các kỹ năng ( nghe , nói, đọc, viết ) cho người học.
VAI TRÒ MỚI CỦA NGƯỜI GIÁO VIÊN TRONG LỚP HỌC NGOẠI NGỮ THEO QUAN ĐIỂM GIAO TIẾP
Để đáp ứng mục đích học ngoại ngữ ngày nay của người học: học ngoại ngữ là để giao tiếp, người giáo viên cần phải chấp nhận một vai trò mới : là người tạo điều kiện thuận lợi (facilitator) cho quá trình học của người học.Theo Harmer (2004), vai trò này thể hiện ở ba vai trò: là người nhắc (promoter), là nguồn tham khảo (resource) và là người bảo học (tutor). Trong bài viết này, tác giả muốn nhấn mạnh đến vai trò làm facilitator của giáo viên ở trong lớp học ngoại ngữ; giáo viên thực hiện vai trò đó như thế nào ở ba giai đoạn dạy kỹ năng thực hành tiếng: nghe-nói-đọc- viết. Khác với quan điểm dạy truyền thống là áp đặt cho học sinh , học sinh phải học theo những mẫu câu mà giáo viên cho là cần thiết và học bắt chước là cách học được cho là an toàn nhất, quan điểm dạy giao tiếp với vai trò mới- “facilitator” của người giáo viên cho phép người học được sáng tạo, tự do bày tỏ ý của mình bằng thứ tiếng mà họ đang học. Những gì học trò nói ra được viết ra được là thật, là mang một nội dung thông báo nhất định.
Nói tóm lại, chỉ có thực hiện thật tốt vai trò là người tạo điều kiện thuận lợi (facilitator), giáo viên mới thực sự giúp học sinh phát huy được khả năng sẵn có hoặc đã có rồi thì phát triển tốt hơn nữa trong quá trình học của các em sao cho các em có thể đạt được mục đích cuối cùng của mình là giao tiếp thành công bằng thứ tiếng mình đã và đang học.
Đổi mới PPDH là cuộc cách mạng mới trong giảng dạy tiếng Anh, khái niệm về PPDH theo phương pháp giao tiếp thực hành, lấy người học làm trung tâm chưa được sử dụng phổ biến ở nuớc ta. Bài tiểu luận này đã giới thiệu sơ lược về khái niệm của PPDH dạy học mới và nêu ra một số đặc điểm về vai trò người giáo viên trong triển khai sự đổi mới PPDH nói chung và PPDH tiếng Anh nói riêng. Những vấn đề trình bày nêu trên, một mặt làm cơ sở lý luận cho phần tiếp theo trong tiểu luận, mặt khác sẽ giúp ích giáo viên trường THPT thêm kiến thức khi triển khai “sự thay đổi” phục vụ việc thực hiện đổi mới chương trình và sách giáo khoa THPT trong giai đoạn hiện nay.
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG SỬ DỤNG PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC TIẾNG ANH BẬC THPT
Tổ chức khảo sát việc sử dụng phương pháp dạy học tiếng Anh ở trường Trung học phổ thông
Sau khi trình bày sơ lược về khái niệm tổng quát về phương pháp dạy học và phương pháp dạy học tiếng Anh và đổi mới phương pháp dạy học tiếng Anh và vai trò mới của giáo viên; tiểu luận xin trình bày việc tổ chức khảo sát việc sử dụng các PPDH tiếng Anh:
Thực hiện điều tra, khảo sát tại: trường THPT Thống Nhất A tại khu phố 4 – Thị trấn Trảng Bom – Huyện Trảng Bom - Tỉnh Đồng Nai.
Số phiếu khảo sát học sinh, phát ra: 120 phiếu; thu về: 112 phiếu
Phiếu khảo sát được phát ra và thu về ngày 18/05/2009 trong giờ ra chơi tại trường THPT Thống Nhất A gồm lớp 10ª10, 11ª2, 12ª2, 12ª7 và 12ª8.
Ngoài phiếu hỏi, người khảo sát đã trực tiếp tiến hành phỏng vấn thầy Trần Xuân Tiếu là Hiệu phó đồng thời là giáo viên tiếng Anh, cô Đỗ Thị Hồng Nhung và cô Hồ Thị Thu Trang là giáo viên tiếng Anh của trường THPT Thống Nhất A.
Thực trạng việc sử dụng phương pháp dạy học tiếng Anh ở các trường Trung học phổ thông được khảo sát
Đội ngũ giáo viên tiếng Anh của trường được khảo sát
Về trình độ đào tạo: theo kết quả phỏng vấn trực tiếp thầy hiệu phó Trần Xuân tiếu đồng thời là giáo viên bộ môn Anh văn của trường thì 100% giáo viên tiếng Anh của trường ở trình độ cử nhân. So với mặt bằng của cả nước thì tỷ lệ đạt chuẩn về trình độ được đào tạo của giáo viên tiếng Anh ở trường này cao hơn tỷ lệ chung. Về trình độ đào tạo của giáo viên ngoại ngữ trong cả nước như sau: 75,4% giáo viên ngoại ngữ của trường trung học cơ sở có bằng tốt nghiệp cao đẳng ngoại ngữ trở lên và 97,3% giáo viên ngoại ngữ của trường THPT có bằng tốt nghiệp đại học.
Về độ tuổi: theo kết quả thống kê của thầy Trần Xuân Tiếu trường không có giáo viên có độ tuổi dưới 30, tỉ lệ giáo viên có độ tuổi từ 30 đến 40 là 50%, từ 40 đến 50 là 40% và 10% trên 50 tuổi.
Về thâm niên giảng dạy: cũng theo kết quả thống kê của thầy Trần Xuân Tiếu thì tổ Anh văn của trường có 10% giáo viên có thâm niên dưới 10 năm, tỷ lệ giáo viên có thâm niên từ 10 – 20 năm là 50%, trên 20 năm là 40%.
Về phương pháp giảng dạy và kiểm tra đánh giá kết quả học tập học sinh của giáo viên giảng dạy tiếng Anh
TT
Nội dung
Hoàn toàn đồng ý
(%)
Đồng ý
(%)
Lưỡng lự
(%)
Không đồng ý
(%)
Hoàn toàn không đồng ý
(%)
1
Giáo viên ra - vào tiết học đúng giờ
41
47
6
4
2
2
Nội dung bài giảng đảm bảo so với cấu trúc sách giáo khoa
18
60
13
4
5
3
Giáo viên sử dụng phối hợp nhiều phương pháp dạy học khác nhau trong quá trình giảng dạy học phần (như thuyết trình; đàm thoại, gợi mở, tranh luận; đặt vấn đề và giải quyết vấn đề; ...)
36
35
18
8
3
4
Giáo viên áp dụng nhiều hình thức tổ chức dạy học khác nhau (như lên lớp lý thuyết; làm bài tập, thực hành; tổ chức học tập theo nhóm; ...)
29
50
8
8
5
5
Việc giải đáp những thắc mắc của sinh viên trong giờ học thỏa đáng
33
40
18
9
0
6
Giáo viên có ứng dụng công nghệ thông tin trong giảng dạy và sử dụng thành thạo các phương tiện, thiết bị hỗ trợ giảng dạy
13
20
30
21
16
7
Phong thái diễn giảng của giáo viên lôi cuốn HS
34
32
19
8
7
8
Kiến thức cơ bản của bài học được giáo viên trình bày chính xác
39
40
9
3
9
9
Giáo viên thường xuyên kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của HS
20
48
21
8
3
10
Giáo viên sử dụng nhiều hình thức khác nhau để kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của HS
16
49
26
6
3
11
Việc đánh giá kết quả học tập của HS của giáo viên là khách quan, khoa học
30
40
22
5
3
12
Giáo viên cập nhật và mở rộng kiến thức liên quan đến bài học
34
42
16
8
0
13
Giáo viên trình bày bài giảng dễ theo dõi, dễ hiểu
30
43
16
8
3
14
Cơ hội để học sinh đặt câu hỏi, phát biểu, tranh luận trong giờ học nhiều
19
45
24
12
0
15
Phương pháp giảng dạy của giáo viên lôi cuốn
23
38
32
7
0
16
Giáo viên chuẩn bị tốt bài giảng khi đến lớp
34
47
12
4
3
17
Giáo viên dùng nhiều tiếng Anh trong giờ dạy học
3
15
22
39
21
18
Giáo viên nói ngọng và kĩ năng nói tiếng Anh không cao
8
7
9
40
36
Nhìn chung các giáo viên tiếng Anh thực hiện tốt công tác dạy học của mình trong việc ra – vào tiết học đúng giờ, chuẩn bị tốt bài giảng, kiến thức cơ bản của bài học được giáo viên trình bày chính xác Tuy nhiên, bảng trên cho thấy việc giáo viên có ứng dụng công nghệ thông tin trong giảng dạy và sử dụng thành thạo các phương tiện, thiết bị hỗ trợ giảng dạy còn chưa cao. Hơn nữa, giáo viên còn chưa dùng nhiều tiếng Anh trong giờ dạy học.
Về mức độ sử dụng các phương pháp dạy học
TT
Phương pháp dạy học
Rất thường xuyên
(%)
Thường xuyên
(%)
Thỉnh thoảng
(%)
Không sử dụng
(%)
1
Thuyết giảng
13
49
33
5
2
Đàm thoại (GV đặt câu hỏi, HS trả lời, có thể trao đổi, tranh luận qua lại với nhau và với giáo viên)
18
37
38
7
3
Giảng dạy có minh hoạ
11
19
38
32
4
Luyện tập và thực hành (theo cặp, theo nhóm)
35
40
22
3
5
Dạy học giải quyết vấn đề (GV đưa ra vấn đề hàm chứa những mâu thuẫn giữa cái đã cho và cái cần tìm, HS tìm tòi vấn đề)
7
20
43
30
6
Dạy học theo nhóm nhỏ
8
25
37
30
Về mức độ sử dụng các PPDH tiếng Anh phù hợp với nội dung từng bài giảng trong quá trình dạy học, kết quả thăm dò ý kiến của học sinh được khảo sát được tổng hợp ở bảng trên (bảng 3) và cho thấy: giáo viên dạy tiếng Anh đã sử dụng từ mức độ thường xuyên các PPDH: Thuyết giảng, Đàm thoại, Luyện tập và thực hành (theo cặp, theo nhóm). Thông qua các phương pháp này (nếu kể cả thuyết giảng được kết hợp với các phương pháp khác và sử dụng tiếng mẹ đẻ một cách hợp lí và có hiệu quả trong quá trình dạy học), giáo viên đã tổ chức và hướng dẫn học sinh tham gia tích cực vào quá trình học tập thông qua các hoạt động cá nhân, theo cặp và nhóm. Tuy nhiên các PPDH với tần suất cao chủ yếu là các PPDH truyền thống và mức độ sử dụng các phương pháp Giảng dạy có minh hoạ, Dạy học giải quyết vấn đề là các phương pháp hiện đại và phương pháp Dạy học theo nhóm nhỏ phù hợp để phát triển kĩ năng nói của HS lại chưa được sử dụng cao.
Về mức độ hứng thú của em đối với các phương pháp dạy học
Thông qua kết quả khảo sát về mức độ hứng thú của các em với các PPDH thì phương pháp Giảng dạy có minh họa được HS đặc biệt hứng thú, tương tự với các phương pháp Đàm thoại, Luyện tập và thực hành (theo cặp, theo nhóm) và Dạy học theo nhóm nhỏ. Phương pháp Thuyết giảng truyền thống và quen thuộc cũng nhận được sự hứng thú của HS, tuy nhiên không cao như phương pháp Dạy học giải quyết vấn đề.
TT
Phương pháp dạy học
Rất hứng thú
(%)
Hứng thú
(%)
Bình thường
(%)
Không hứng thú(%)
1
Thuyết giảng
6
26
53
15
2
Đàm thoại (GV đặt câu hỏi, HS trả lời, có thể trao đổi, tranh luận qua lại với nhau và với giáo viên)
24
46
22
8
3
Giảng dạy có minh hoạ
35
40
19
6
4
Luyện tập và thực hành (theo cặp, theo nhóm)
23
47
26
4
5
Dạy học giải quyết vấn đề (GV đưa ra vấn đề hàm chứa những mâu thuẫn giữa cái đã cho và cái cần tìm, HS tìm tòi vấn đề)
17
40
33
10
6
Dạy học theo nhóm nhỏ
28
35
27
10
Về các kỹ năng tiếng Anh của bản thân HS
Theo sơ đồ cho thấy, HS đặc biệt yếu kỹ năng Nghe, tỷ lệ HS có kỹ năng Nói ở mức độ trung bình cũng khá cao. Nhưng nhìn chung, trình độ học tập môn Anh văn của các em còn chưa cao. Số lượng HS có kỹ năng đạt kém còn cao hơn số lượng HS có kỹ năng đạt tốt khá nhiều, số HS có kỹ năng ở mức độ trung bình cao hơn cả các cột khác.
Thành tựu:
Đã có những học sinh tích cực, chủ động trong học tập; tỷ lệ học sinh chăm học và hứng thú với môn học có tăng lên.
Các giáo viên luôn thực hiện đúng tác phong và chấp hành đúng các nguyên tắc dạy học tạo tình cảm tốt từ HS.
Đội ngũ giáo viên có khả năng và trình độ chuyên môn đã có nhiều đóng góp cho sự phát triển của nhà trường. Các giáo viên có thâm niên cao nên kinh nghiệm trong việc sử dụng PPDH tiếng Anh truyền thống cao.
Tồn tại (những vấn đề gay cấn):
Về kết quả học tập tiếng Anh của học sinh, theo đánh giá chung của các giáo viên cho thấy có một bộ phận không nhỏ sẽ không đạt được yêu cầu chung được quy định trong chuẩn kiến thức, kỹ năng của chương trình môn tiếng Anh. Như vậy, tính mục đích của PPDH không đạt được là vấn đề cần phải xem xét lại độ hợp lý, mức độ và sự kết hợp các PPDH và sử dụng các phương tiện dạy học tiếng Anh hiện nay trong các trường THPT.
Học sinh là chủ thể của hoạt động học tập. PPDH chưa khuyến khích được học sinh tham gia học tập và hoạt động giao tiếp tích cực, chủ động, sáng tạo và với tinh thần hợp tác cao. Học sinh chưa tự luyện tập thực hành giao tiếp một cách có ý thức trong hoạt động học tập trên lớp và tự học, còn bị động nhiều nên phần đông có hứng thú với phương pháp Thuyết giảng – người dạy làm trung tâm.
Đội ngũ giáo viên giáo viên độ tuổi cao, chưa hoàn toàn đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao của sự nghiệp Giáo dục - Đào tạo của đất nước, bất cập về năng lực chuyên môn và nghiệp vụ sư phạm trước đòi hỏi của công cuộc đổi mới chương trình và sách giáo khoa môn tiếng Anh THPT.
Nhiều giáo viên còn ngại học thêm để nâng cao trình độ, ít chịu tự học, tự bồi dưỡng và ngại đổi mới PPDH tiếng Anh, chưa tích cực sử dụng thiết bị dạy học và làm đồ dùng dạy học; việc kiểm tra đánh giá học sinh còn thiên về hình thức; quá trình dạy học chưa đi sát và nghiên cứu về phong cách học tập của học sinh THPT để có các PPDH tiếng Anh phù hợp.
Phương pháp giảng dạy ở nhiều giáo viên, đặc biệt là những giáo viên có thâm niên, còn lạc hậu. Họ không có điều kiện và tiếp cận được với PPDH mới, không có khả năng sử dụng công nghệ hiện đại trong giảng dạy.
Học sinh còn thiếu động cơ học tập, thiếu môi trường thực hành giao tiếp, chất lượng học tập còn thấp, chưa đáp ứng được những đòi hỏi ngày càng tăng ở trong nước và trên thế giới.
Kiểm tra không ăn khớp với dạy, tạo ra những hậu quả thiếu tích cực.
Nhiều GV chưa có thói quen hoặc ngại sử dụng các thiết bị dạy học.
Nguyên nhân:
Khi được hỏi về nguyên nhân của những tồn tại trong thực trạng sử dụng PPDH tiếng Anh, thì cô Đỗ Thị Hồng Nhung cho biết: “Trước hết là do cơ sở vật chất, thiết bị dạy học còn thiếu và sử dụng thiếu hiệu quả. Hơn thế nữa, thời gian bồi dưỡng để dạy sách giáo khoa mới còn quá ngắn và nội dung bồi dưỡng chưa đủ thỏa mãn những điều giáo viên muốn biết”.
Cùng câu hỏi trên, cô Hồ Thị Thu Trang cho ý kiến như sau: “Một số giáo viên còn quá lạm dụng phương pháp cũ do quá quen, một số còn đặt nặng các khó khăn trong việc sử dụng phương pháp mới, chưa thật sự quan trọng việc nâng cao chất lượng dạy và học môn tiếng Anh”
Tổng hợp các ý kiến trên và nhiều nguồn, các nguyên nhân của những tồn tại trên là:
Sự thiếu thốn cơ sở vật chất và sự thiếu hiệu quả trong sử dụng.
Thời gian bồi dưỡng cho việc dạy SGK mới còn quá ngắn, nội dung bồi dưỡng do Bộ GD&ĐT thiết kế chưa đáp ứng được việc thỏa mãn yêu cầu giáo viên.
Sức ỳ theo thói quen về sử dụng PPDH tiếng Anh trong đội ngũ giáo viên.
Đội ngũ giáo viên độ tuổi cao, chưa bắt nhịp được các phương pháp giảng dạy mới và áp dụng công nghệ thông tin trong giảng dạy.
Đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý các trường THPT chưa nhận thức đầy đủ về vai trò đặc biệt quan trọng của PPDH tiếng Anh trong việc nâng cao chất lượng dạy và học tiếng Anh.
Phương pháp và nội dung tiến hành thi, kiểm tra nhìn chung còn nặng nề, chưa góp phần đáng kể vào việc hổ trợ PPGD theo hướng giao tiếp mới theo sách giáo khoa.
MỘT SỐ BIỆN PHÁP
Để hình thành và phát triển các kĩ năng nghe, nói, đọc, viết thông qua luyện tập các kiến thức ngôn ngữ như ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp, cần thực hiện một số biện pháp như sau:
Về hoạt động dạy của thầy và hoạt động học của trò
- Giáo viên tổ chức và hướng dẫn học sinh tham gia tích cực vào quá trình học tập thông qua các hoạt động cá nhân, theo cặp và nhóm. Giáo viên cần kết hợp hài hòa các phương pháp và kĩ thuật dạy học, sử dụng hiệu quả các thiết bị, đồ dùng dạy học và các tài liệu hỗ trợ nhằm tạo hứng thú học tập cho học sinh. Giáo viên cần sử dụng tiếng mẹ đẻ một cách hợp lí và có hiệu quả trong quá trình dạy học.
- Học sinh là chủ thể của hoạt động học tập. Học sinh tham gia học tập và hoạt động giao tiếp tích cực, chủ động, sáng tạo và với tinh thần hợp tác cao. Học sinh cần luyện tập thực hành giao tiếp một cách có ý thức trong hoạt động học tập trên lớp và tự học.
Tổ chức bồi dưỡng và tư vấn nhằm nâng cao năng lực sư phạm cho giáo viên
- Trợ giúp và tư vấn về lựa chọn PPDH tiếng Anh cho GV.
- Tổ chức bồi dưỡng nhằm nâng cao kỹ năng sử dụng PPDH cho GV.
- Tổ chức khoá bồi dưỡng về PPDH tiếng Anh, nâng cao bồi dưỡng cho GV về quan điểm và cách thức giảng dạy theo sách giáo khoa mới.
Khuyến khích giáo viên tự bồi dưỡng và tổ chức bồi dưỡng thường xuyên tại trường.
- Đánh giá và khuyến khích giáo viên đổi mới phương pháp dạy học
- Đưa việc đổi mới PPDH tiếng Anh thành tiêu chí đánh giá khi tuyển mới và phân loại giáo viên tiếng Anh.
- Khuyến khích người dạy, người học đổi mới phương pháp dạy và học tiếng Anh.
Tạo môi trường và đầu tư trang thiết bị phục vụ công cuộc đổi mới PPDH
- Xây dựng môi trường giáo dục trong trường nhằm thúc đẩy việc đổi mới PPDH tiếng Anh, sửa đổi phương thức và nội dung thi, kiểm tra.
- Tăng cường đầu tư và sử dụng thiết bị trong quá trình đổi mới PPDH tiếng Anh.
- Quản lý khai thác và sử dụng các thiết bị dạy học hiện có.
- Công nghệ thông tin góp phần đổi mới PPDH.
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
Kết luận
Tiếng Anh vẫn luôn được xem là ngôn ngữ Quốc tế, là phương tiện để giao tiếp Quốc tế. Tiếng Anh là công cụ hỗ trợ đắc lực cho chúng ta hội nhập, hợp tác để phát triển, đặc biệt khi Việt Nam trở thành thành viên 150 của WTO thì vai trò của tiếng Anh càng trở nên cần thiết hơn.
Hiện nay giáo dục THPT đang thực hiện đổi mới chương trình và sách giáo khoa. Để thực hiện được nhiệm vụ đó, vấn đề đặt ra cho các nhà trường là phải có sự chuyển biến căn bản trong việc thực hiện mục tiêu, nội dung, PPDH và kiểm tra đánh giá kết quả học tập của học sinh để nâng cao chất lượng giáo dục THPT và đáp ứng những đòi hỏi ngày càng cao của xã hội. Các khía cạnh về PPDH đang ngày càng được quan tâm nhiều hơn, không chỉ ở Việt Nam mà còn ở hầu hết các nước.
Mục tiêu căn bản dạy học ngoại ngữ có sự chuyển đổi từ việc tập trung vào trang bị từ vựng, cấu trúc ngữ pháp sang khả năng giao tiếp. Cùng lúc với việc đổi mới mục tiêu, nội dung chương trình giáo dục thì cuộc cách mạng thực sự về PPDH đang diễn ra và đưa lại những kết quả khả quan trong việc nâng cao chất lượng giáo dục. Vì vậy việc nâng cao hiệu quả sử dụng PPDH tiếng Anh là yêu cầu hết sức quan trọng và cần thiết.
Việc tìm hiểu thực trạng sử dụng phương pháp liên quan đến nhiều yếu tố: mục đích, nội dung dạy học, phương tiện dạy học, thầy giáo, học sinh, cơ sở vật chất, tài chính trong đó việc tìm hiểu nguyên nhân và đề xuất biện pháp khắc phục là hết sức quan trọng. Đề tài đã tiếp cận lý thuyết về các PPDH nói chung và tiếng Anh nói riêng, sự đổi mới trong PPDH tiếng Anh và vai trò của người giáo viên trong PPDH mới làm cơ sở lý luận của quá trình tìm hiểu thực trạng và nâng cao hiệu quả sử dụng PPDH tiếng Anh ở các trường THPT.
Trên cơ sở lý luận của vấn đề nghiên cứu, tiểu luận đã khảo sát, phân tích và rút ra những tồn tại chủ yếu của quá trình quản lý sử dụng PPDH tiếng Anh tại trường THPT và các nguyên nhân cơ bản của những tồn tại đó. Những vấn đề gay cấn chủ yếu trong việc sử dụng PPDH tiếng Anh bao gồm:
Về kết quả học tập tiếng Anh của học sinh còn thấp. Bởi vậy,cần phải xem xét lại độ hợp lý, mức độ và sự kết hợp các PPDH và sử dụng các phương tiện dạy học tiếng Anh hiện nay để đạt mục tiêu dạy tiếng Anh trong các trường trung học cơ sở và THPT.
Một số giáo viên tiếng Anh bất cập về năng lực chuyên môn và nghiệp vụ sư phạm trước đòi hỏi của công cuộc đổi mới chương trình và sách giáo khoa tiếng Anh THPT mới. Còn có khá nhiều giáo viên ngại đổi mới PPDH, chưa tích cực sử dụng thiết bị dạy học và làm đồ dùng dạy học;
Nhiều giáo viên chưa quen với PPDH ngoại ngữ theo đường hướng giao tiếp và chưa có khái niệm về đường hướng lấy người học làm trung tâm. Thậm chí một số giáo viên chưa hề có khái niệm thế nào là dạy ngôn ngữ giao tiếp.
Trình độ ngôn ngữ tiếng Anh và kĩ năng giao tiếp (thực hành) của một số giáo viên tiếng Anh còn thấp, ít có cơ hội để giao tiếp bằng tiếng Anh với người nước ngoài, không có động cơ để giao tiếp bằng tiếng Anh ở trường, và ít có điều kiện để cập nhật với những phát triển mới trong dạy và học ngoại ngữ.
Để khắc phục những tồn tại trên, luận văn đã xây dựng 4 nhóm biện pháp chính:
Về hoạt động dạy của thầy và hoạt động học của trò
Giáo viên tổ chức và hướng dẫn học sinh tham gia tích cực vào quá trình học tập thông qua các hoạt động cá nhân, theo cặp và nhóm. Giáo viên cần kết hợp hài hòa các phương pháp và kĩ thuật dạy học, sử dụng hiệu quả các thiết bị, đồ dùng dạy học và các tài liệu hỗ trợ nhằm tạo hứng thú học tập cho học sinh. Giáo viên cần sử dụng tiếng mẹ đẻ một cách hợp lí và có hiệu quả trong quá trình dạy học.
Học sinh là chủ thể của hoạt động học tập. Học sinh tham gia học tập và hoạt động giao tiếp tích cực, chủ động, sáng tạo và với tinh thần hợp tác cao. Học sinh cần luyện tập thực hành giao tiếp một cách có ý thức trong hoạt động học tập trên lớp và tự học.
Tổ chức bồi dưỡng và tư vấn nhằm nâng cao năng lực sư phạm cho giáo viên tiếng Anh;
Đánh giá và khuyến khích giáo viên đổi mới PPDH tiếng Anh;
Tạo môi trường và đầu tư trang thiết bị phục vụ đổi mới PPDH
Khuyến nghị
Với Bộ Giáo dục và Đào tạo
Chỉ đạo việc tổ chức bồi dưỡng giáo viên nòng cốt về thay sách giáo khoa môn tiếng Anh của chương trình THPT phân ban, ngoài bồi dưỡng về chuyên môn cần hướng tới việc đổi mới PPDH.
Hình thành một dự án trong chương trình mục tiêu của giáo dục nhằm nâng cao năng lực chuyên môn và sư phạm cho đội ngũ giáo viên tiếng Anh, trong đó có đội ngũ giáo viên tiếng Anh THPT.
Cải tiến quá trình, đánh giá, thi cử cho phù hợp với PPDH nhằm phát huy tích cực, chủ động, sáng tạo của người học.
Đầu tư đầy đủ cơ sở vật chất, phòng học, phòng chức năng, các thiết bị dạy học để giáo viên có đủ điều kiện trong việc đổi mới PPDH tiếng Anh.
Có kế hoạch, đào tạo bồi dưỡng giáo viên tiếng Anh rèn luyện các kỹ năng về sử dụng các phương pháp giảng dạy tích cực.
Có chế độ, chính sách đãi ngộ (lương, tuyên dương, khen thưởng) nhằm tạo động lực cho giáo viên đổi mới PPDH tiếng Anh.
Tạo điều kiện cho giáo viên tiếng Anh tham gia những khoá học ngắn ngày ở các nước nói tiếng Anh nhằm trao đổi kinh nghiệm, giao lưu và nâng cao trình độ.
Khuyến khích giáo viên tiếng Anh tự nâng cao trình độ chuyên môn và ứng dụng công nghệ thông tin trong giảng dạy.
Với trường THPT
Tăng cường bồi dưỡng, tập huấn, nâng cao trình độ chuyên môn và PPDH, sử dụng thiết bị, đồ dùng dạy học, khả năng sử dụng công nghệ thông tin trong giảng dạy cho giáo viên tiếng Anh.
Chỉ đạo đổi mới PPDH tiếng Anh theo hướng giao tiếp.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] bài đăng trên Diễn đàn của Dự án SREM (Support to the Renovation of Education Management) (Hỗ trợ đổi mới quản lý giáo dục)
[2] Brown, H.D. (1994). Teaching by Principles. Prentice Hall Regent
[3] Trần Thị Hương, Nguyễn Bích Hạnh, Hồ Văn Liên, Ngô Đình Qua – Giáo trình Giáo dục học đại cương – Trường ĐH Sư phạm Tp. Hồ Chí Minh
[4] MỘT SỐ VẤN ĐỀ CỦA GIÁO DỤC VIỆT NAM TRONG BỐI CẢNH TOÀN CẦU HÓA - GS.TSKH. Lê Ngọc Trà - Viện Nghiên cứu Giáo dục Trường Đại học Sư phạm Tp HCM
[5] Nhìn lại đổi mới phương pháp dạy học - báo Giáo dục và Thời đại
[6] www.globaledu.vn
[7] Phương pháp dạy học hiện đại: Một số phương pháp dạy học tích cực-PSG.TS Vũ Hồng Tiến -
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 7996.doc