Với nền kinh tế nước ta hiện nay việc vận dụng quy luật giá trị cần phải vận dụng tổng hợp các chính sách kinh tế mà quan trọng là chính sách về giá cả bởi giá cả là hình thức biểu hiện của giá trị. Nhà nước cần đổi mới cơ chế chính sách giá cả, tăng cường khả năng bình ổn thị trường khi có biến động lớn xảy ra, đồng thời nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ kinh tế, nhất là các cán bộ quản lí thị trường để họ có đầy đủ khả năng giải quyết những vấn đề có thể xảy ra trong nền kinh tế thị trường còn non trẻ như ở nước ta hiện nay.
Với những điều kiện sẵn có trong tay cùng với sự soi sáng của chủ nghĩa Mác-Lenin, những bài học đã rút ra trong quá khứ, chúng có thể khẳng định có đầy đủ khả năng và kiến thức để vận dụng quy luật gía trị vào trong nền kinh tế đất nước. Với hy vọng đó trong tương lai không xa Việt nam sẽ trở thành một quốc gia có nền kinh tế thị trường phát triển trong khu vực và trên thế giới.
26 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1642 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng sự vận dụng quy luật giá trị ở nước ta và các giải pháp nhằm vận dụng tốt hơn quy luật giá trị trong thời gian tới, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời nói đầu
Trong hơn hai mươi năm thực hiện sự nghiệp đổi mới kinh tế dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam, nền kinh tế nước ta chuyển dần từ nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp trước đây sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều cơ hội và thách thức mới trong việc xây dựng và phát triển kinh tế đất nước. Quá trình xây dựng một nền kinh tế thị trường không thể tránh khỏi sự tác động của các quy luật kinh tế thị trường. Các quy luật kinh tế của thị trường quyết định sự vận động của thị trường do đó quyết định sự vận động của nền kinh tế thị trường. Vì thế khi tham gia thị trường các chủ thể kinh tế cũng không thể tránh được sự tác động của các quy luật. Một nền kinh tế phát triển bắt nguồn từ sự phát triển của các cá nhân trong xã hội hay chính là các chủ thể kinh tế. Do đó để phát triển một nền kinh tế thị trường vững manh nhà nước vận dụng các quy luật kinh tế vào trong thực tiễn của nền kinh tế nhằm giải quyết hài hoà các lợi ích của cá nhân và các thành phần khác trong xã hội, từ đó tạo tiền đề cho nền kinh tế phát triển từng bước theo định hướng.
Quy luật giá trị với tư cách là quy luật kinh tế cơ bản của sản xuất hàng hoá, tạo nên những tác động to lớn tới người sản xuất và người tiêu dùng. Quy luật giá trị tác động đến cả quá trình sản xuất, lưu thông hàng hoá, định mức hàng hoá trên thị trường … các cá nhân hay các thành phần kinh tế khi tham gia vào thị trường đều dựa trên cơ sơ của giá trị mà tính đến hiệu quả của sản xuất kinh doanh nhằm mang lại lợi nhuận cao nhất. Ngày nay quy luật giá trị tác động tới nền kinh tế thông qua sự vận động của giá cả hàng hoá dưới ảnh hưởng của cung cầu cạnh tranh, tiền tệ… Trong nền kinh tế thị trường thì giá cả là tín hiệu của cơ chế thị trường. Do đó để phát triển nền kinh tế thị trường không thể không tính đến tác động của quy luật giá trị. Việc nhận thức và vận dụng quy luật giá trị là hết sức cần thiết. Nhất là trong giai đoạn hiện nay tình hình thế giới có nhiều biến động lớn gây ra nhiều tác động về giá, ảnh hưởng xấu đến giá cả trong nước, đặc biệt là cơn sốt giá năm 2004 với các mặt hàng thiết yếu trong đời sống hàng ngày như :thực phẩm , vật liệu xây dựng, thuốc men….Các biến động đó càng đòi hỏi chúng ta cần nhận biết rõ hơn và vận dụng quy luật giá trị tốt hơn vào trong nền kinh tế đang có nhiều thay đổi hiện nay. Trước tính cấp thiết đó đề tài này được viết nhằm giải quyết một số vấn đề cơ bản về quy luật giá tri trong nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay. Quá trình viết chắc chắn không tránh khỏi một số thiếu sót, do đó người viết mong muốn nhận được nhiều ý kiến đóng góp của các bạn và các thầy cô.
Cuối cùng em xin chân thành cảm ơn thầy giáo bộ môn đã nhiệt tình giúp đỡ em trong quá trình thực hiện đề tài.
Hà nội 2005
Chương 1: Một số vấn đề cơ bản về
quy luật giá trị trong nền kinh tế thị trường
1. Nội dung cơ bản và vai trò của quy luật giá trị
* Cơ sở khách quan và nội dung của quy luật giá trị
Quy luật giá trị là quy luật căn bản của sản xuất và trao đổi hàng hoá. ở đâu có sản xuất và trao đổi hàng hoá thì ở đó có sự tồn tại và phát huy tác dụng của quy luật giá trị. Sự tồn tại của quy luật giá trị trong xã hội xã hội chủ nghĩa cũng như xã hội tư bản chủ nghĩa là tất yếu khách quan vì vẫn còn sản xuất hàng hoá. Như vậy cơ sở để tồn tại và phát huy tác dụng của quy luật giá trị là tồn tại nền sản xuất hàng hoá.
Nội dung của quy luật giá trị là sản xuất và trao đổi hàng hoá phải dựa trên cơ sở hao phí lao động xã hội cần thiết. Trong nền kinh tế hàng hoá, vấn đề quan trọng đặt ra là hàng hoá sản xuất ra có bán được hay không? Để có thể bán được thì hao phí lao động để sản xuất ra hàng hoá phải phù hợp với hao phí lao động xã hội cần thiết, tức là phải phù hợp với mức hao phí lao động mà xã hội chấp nhận được. Như vậy với sự đòi hỏi của quy luật giá trị, chỉ có những quá trình sản xuất nào có mức hao phí lao động cho sản phẩm nhỏ hơn hoặc bằng mức hao phí lao động trung bình của xã hội mới có thể tồn tại và phát triển. Mặt khác quy luật giá trị còn đỏi hỏi việc trao đổi hàng hoá cũng phải dựa trên hao phí lao động xã hội cần thiết. Có nghĩa là việc trao đổi hàng hóa phải dựa trên nguyên tắc ngang giá. Điều này quyết định sự tồn tại hay không tồn tại, phát triển hay không phát triển của một đơn vị sản xuất, kinh doanh trong nền kinh tế.
2. Biểu hiện hoạt động của quy luật giá trị.
Quy luật giá trị biểu hiện hoạt động thông qua sự hoạt động của giá cả hàng hoá. Giá trị là cơ sở của việc hình thành giá cả nên giá cả trước hết phụ thuộc vào giá trị. Hàng hoá được sản xuất ra mà có nhiều giá trị thì giá cả cao và ngược lại hàng hoá nào có giá trị thấp thì giá cả thấp. Trên thị trường, ngoài giá trị giá cả còn phụ thuộc vào các nhân tố cạnh tranh, cung cầu, sức mua của đồng tiền. Sự tác động của các nhân tố này làm cho giá cả hàng hóa trên thị trường tách rời với giá trị và lên xuống xoay quanh trục giá trị của nó. Sự vận động của giá cả thị trường của hàng hoá xoay quanh trục giá trị của nó chính là cơ chế hoạt động của quy luật giá trị. Thông qua sự vận động của giá cả thị trường mà quy luật giá trị phát huy tác dụng.
3. Đặc điểm hoạt động của quy luật giá trị trong nền kinh tế hàng hoá.
Trong bất cứ quốc gia nào, theo thể chế chính trị nào mà ở đó nền sản xuất hàng hoá vẫn còn thì quy luật giá trị còn tồn tại và phát huy tác dụng.
Trong nền kinh tế tư bản chủ nghĩa, quy luật giá trị tác động vào sản xuất và lưu thông hàng hoá thông qua cơ chế hoạt động của hệ thống các quy luật kinh tế tư bản chủ nghĩa. ở thời kỳ tự do cạnh tranh, quy luật giá trị được thực hiện thông qua cạnh tranh hình thành giá trị thị trường và giá cả một cách tự phát. Đến thời kì độc quyền, các tổ chức độc quyền nắm được vị trí độc quyền nên áp đặt giá cả độc quyền. Giá cả độc quyền vẫn không thoát li và không phủ định cơ sở của nó là giá trị. Quy luật giá trị biểu hiện thành quy luật giá cả độc quyền .
Quy luật giá trị trong nền kinh tế tư bản chủ nghĩa quyết định các tỉ lệ trong nền kinh tế và còn mang tính tự phát vì việc sản xuất hàng hoá vẫn dựa chủ yếu vào chế độ công hữu về tư liệu sản xuất.
Trong xã hội xã hội chủ nghĩa, quy luật giá trị không đóng vai trò điều tiết sản xuất như trong nền sản xuất hàng hoá xây dựng trên chế độ tư hữu. Nó cũng không phải là cái duy nhất quyết định sự lưu thông hàng hoá và giá cả hàng hoá. Quy luật giá trị ở đây không làm phân hoá người sản xuất, không đẻ ra chủ nghĩa tư bản. Nó hoạt động chủ yếu dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất. Tác động của nó không phải là thông qua sự lên xuống tự phát của giá cả xung quanh giá trị, không phải là sự hình thành một cách tự phát hao phí lao động xã hội cần thiết dưới sức mạnh của quy luật cạnh tranh giữa những người sản xuất hàng hoá độc lập với nhau.
Trong chủ nghĩa xã hội quy luật giá trị không tác động như một lực lượng tự phát thống trị con người như trong chế độ tư bản. Nhà nước xã hội chủ nghĩa có đủ khả năng nhận thức tính toán vận dụng triệt để trong quản lí kinh tế, kích thích nền sản xuất xã hội chủ nghĩa phát triển dưới sự chi phối của các quy luật kinh tế cơ bản.
4. Vai trò của quy luật giá trị trong nền kinh tế hàng hoá.
4.1. Vai trò điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hoá.
Điều tiết sản xuất tức là điều hoà, phân phối các yếu tố sản xuất giữa các ngành, các lĩnh vực của nền kinh tế. Tác dụng của quy luật giá trị thông qua sự biến động của giá cả hàng hoá trên thị trường, dưới tác động của quy luật cung cầu. Người sản xuất hàng hoá sản xuất ra cái gì ? sản xuất bằng công nghệ nào và cho ai là do họ quyết định. Mục đích của họ là thu được nhiều lợi nhuận. Dựa vào sự biến động của giá cả thị trường dưới tác động trực tiếp của cung cầu, người ta biết được hàng hoá nào đang thiếu, bán chạy có giá cao và nhiều lãi, hàng hoá nào ế thừa , giá thấp…Người sản xuất hàng hoá sẽ mở rộng sản xuất những mặt hàng đang thiếu, bán chạy nhiều lãi và ngược lại thu hẹp sản xuất, thậm chí đóng cửa doanh nghiệp sản xuất những mặt hàng ế thừa, không tiêu thụ được. Người ta sẽ chuyển sang sản xuất những hàng có nhu cầu nhiều hơn, bỏ mặt hàng không có hoặc rất ít nhu cầu hoặc nhu cầu trên thị trường đã được thoả mãn.. kết quả là các yếu tố sản xuất như tư liệu sản xuất, sức lao động, tiền vốn được chuyển dịch từ ngành này sang ngành khác làm cho quy mô ngành này mở rộng, ngành kia thu hẹp. Đó chính là vai trò điều tiết sản xuất của quy luật giá trị.
Quy luật giá trị cũng đóng vai trò điều tiết lưu thông hàng hóa. Hàng hoá bao giờ cũng vận động từ nơi có giá cả thấp đến nơi giá cả cao, từ nơi cung lớn hơn cầu đến nơi cung nhỏ hơn cầu, tạo nên sự cân đối giữa sản xuất và tiêu dùng trong nền kinh tế. Như vậy thông qua sự vận động của giá cả trên thị trường mà quy luật giá trị đóng vai trò phân phối hay điều tiết lượng hàng trên thị trường.
4.2. Vai trò thúc đẩy cải tiến kĩ thuật, tăng năng suất lao động.
Trong kinh tế hàng hoá, mỗi người sản xuất là một chủ thể kinh tế độc lập, tự quyết định hoạt động sản xuất, kinh doanh của mình. Nhưng do điều kiện khác nhau mà các hàng hoá được sản xuất trong các điều kiện khác nhau vì thế giá trị cá biệt của chúng khác nhau. Khi trao đổi trên thị trường, các hàng hoá đều phải được trao đổi theo giá trị xã hội vì thế người sản xuất nào có hao phí lao động cá biệt nhỏ hơn hao phí lao động xã hội cần thiết sẽ ở thế có lợi thu được lãi cao, người sản xuất nào có hao phí lao động cá biệt lớn hơn hao phí lao động xã hội của hàng hoá thì rơi vào thế bất lợi, lỗ vốn. Do đó để giành được ưu thế trong cạnh tranh và tránh được nguy cơ lỗ vốn họ phải hạ thấp hao phí lao động cá biệt của mình sao cho nhỏ hơn hoặc bằng hao phí lao động xã hội cần thiết. Để đạt được yêu cầu đó người sản xuất tìm mọi cách cải tiến kĩ thuật, nâng cao trình độ tay nghề, sử dụng các thành tựu khoa học mới nhất vào sản xuất, cải tiến tổ chức quản lí, tăng năng suất lao động. Ngoài ra để thu được nhiều lợi nhuận, người sản xuất hàng hoá còn phải thường xuyên cải tiến chất lượng, mẫu mã hàng hoá cho phù hợp với nhu cầu, thị hiếu người tiêu dùng, cải tiến các biện pháp lưu thông, bán hàng để tiết kiệm chi phí lưu thông và tiêu thụ sản phẩm nhanh hơn.
4.3. Vai trò thực hiện phân hoá người sản xuất.
Dưới tác động của quy luật giá trị cùng những đòi hỏi nghiêm ngặt với mỗi người sản xuất trong xã hội thì chỉ có những người khả năng nhạy bén với thị trường, những người làm tốt mới có mức hao phí lao động cá biệt thấp hơn mức hao phí lao động xã hội cần thiết. Do đó mà họ có thể thu lãi và mở rộng sản xuất, họ trở thành người giàu có trong xã hội. Ngược lại những người kém hơn hay có ít điều kiện trong sản xuất như ít vốn, công nghệ lạc hậu thì mức hao phí lao động cá biệt lớn hơn mức hao phí lao động xã hội cần thiết, do đó lâm vào tình trạng thua lỗ, thậm chí phá sản.
Quy luật giá trị ở đâu cũng đóng vai trò đào thải cái kém, cái lạc hậu kích thích các nhân tố tích cực phát triển. Mặt khác tạo ra bất bình đẳng trong xã hội.
Chương 2: Thực trạng sự vận dụng quy luật giá trị ở nước ta và các giải pháp nhằm vận dụng tốt hơn quy luật giá trị trong thời gian tới
1. Kinh tế nước ta và một số vấn đề về vận dụng quy luật giá trị trước đổi mới.
Sau ngày giải phóng miền Nam 30/4/1975 đất nước ta hoàn toàn độc lập thống nhất. Cả nước bắt tay vào xây dựng kinh tế đất nước sau chiến tranh dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam. Chúng ta dần dần thiết lập quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa trên cả hai miền Nam Bắc. Trong quá trình đó chúng ta đã vận dụng mô hình kinh tế tập trung của Liên Xô (cũ). Với cơ chế kế hoạch hoá tập trung quan liêu, bao cấp mà đặc trưng là nhà nước trực tiếp điều khiển nền kinh tế bằng hệ thống các chỉ tiêu pháp lệnh : chỉ tiêu về sản lượng, về thu nhập, về nộp ngân sách, và tiêu thụ, về vốn và lãi suất, tín dụng ngân hàng…
Trong thời gian này chúng ta đã phạm phải một số sai lầm trong nền kinh tế : dù thực tế vẫn thừa nhận sản xuất hàng hoá, thừa nhận quan hệ hàng hoá thị trường nhưng thực chất đó chỉ là kinh tế hàng hoá một thành phần- thành phần xã hội chủ nghĩa dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất dưới hai hình thức toàn dân và tập thể. Với tên gọi “ kinh tế hàng hoá xã hội chủ nghĩa “ về thực chất là kinh tế chỉ huy đã làm cho các phạm trù của kinh tế hàng hoá vốn sống động và nhạy cảm như giá trị, giá cả, lợi nhuận … bị hình thức hoá đến cao độ, không phản ánh các quy luật của thị trường, không còn nội dung kinh tế hàng hoá nữa. Quy luật giá trị khi đó đã không được nhận thức đúng đắn về nội dung và bản chất.
Trên thị trường chúng ta duy trì hệ thống giá cả chỉ đạo của nhà nước trên cơ sở lấy giá thóc sản xuất trong nước làm căn cứ xác định giá chuẩn và tỉ lệ trao đổi hiện vật. Hầu hết hàng hoá và dịch vụ lưu thông trong xã hội đều theo giá chỉ đạo của nhà nước. Ví dụ giá gạo theo quy định là 0,4 đồng/kg, bán theo định lượng Vai trò quản lí của nhà nước về giá trong nền kinh tế thị trường ở nước ta. Trang 27
. Trên thị trường có hai hệ thống giá cả : giá của nhà nước áp dụng trên thị trường có tổ chức và thị trường tự do biến động theo cung cầu. giá chỉ đạo không liên quan đến quan hệ cung cầu và rất ít biến đổi. Giá chỉ đạo không quan hệ với giá thị trường và giá trên thế giới. Tỉ giá ở khu vực I áp dụng từ năm 1958-1980 vẫn là 5,644 đ/rup (tỉ giá kết toán nội bộ) Vai trò quản lí của nhà nước về giá trong nền kinh tế thị trường ở nước ta. Trang 27
. Đây chính là cơ sở quan trọng để ổn định toàn bộ giá chỉ đạo nội địa mà thực chất là sự bao cấp qua giá tư liệu sản xuất.
Trong thời kì này các cơ sở kinh tế quốc doanh hoạt động theo cơ chế cấp phát và giao nộp, lãi nhà nước nhờ, lỗ nhà nước chịu, không có cạnh tranh, phá sản. Những xí nghiệp làm ăn kém được nhà nước bù lỗ để duy trì sự tồn tại, ngược lại những xí nghiệp sản xuất kinh doanh có hiệu quả thì phải trích nộp ở mức cao số lợi nhuận thu được cho nhà nước để điều tiết sự chênh lệch thu nhập giữa các xí nghiệp trong cùng một ngành và giữa các ngành khác nhau. Phương pháp quản lí trên đã vi phạm quy luật giá trị và là một trong những nguyên nhân gây ra sự trì trệ bảo thủ, kìm hãm sự phát triển của nền kinh tế quốc dân. Thực tế chúng ta phải chấp nhận rằng : khi thừa nhận nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần thì trong quan hệ kinh tế giữa các xí nghiệp phải có quan hệ cạnh tranh và hợp tác. Vì thế, những xí nghiệp làm ăn tốt thì có thu nhập cao còn các xí nghiệp làm ăn kém phải chịu thu nhập thấp hoặc chịu phá sản.
Những phương pháp quản lí trên trong cơ chế quản lí tập trung đã gây ra những tác hại nghiêm trọng : thị trường tiếp tục bị phân hoá, hàng hoá ngày càng khan hiếm, chủ nghĩa bản vị, cục bộ phát triển mạnh cùng cơ chế cấp phát vật tư, tiền vốn theo chỉ tiêu kế hoạch đã kích thích các địa phương hình thành hàng loạt tổ chức kinh tế quốc doanh, hoạt động bất chấp hiệu quả kinh tế nhằm bòn rút, giành giật vốn liếng từ trung ương để kinh doanh, mua đi bán lại, ăn chênh lệch giá, tăng thêm nguồn thu cho ngân sách địa phương. Để bảo vệ lợi ích cục bộ các chính quyền địa phương đã sử dụng các biện pháp “ ngăn sông cấm chợ” chia cắt thị trường theo địa giới hành chính làm cho lưu thông hàng hoá, tiền tệ bị ách tắc nghiêm trọng. Nhiều chỉ tiêu về kinh tế đạt tỉ lệ thấp, tăng trưởng bình quân của công nghiệp chỉ đạt 0,6%/năm đầu tư cho nông nghiệp tăng 14%/năm, nông nghiệp -0,9%/ năm, lâm nghiệp -11%/năm, tổng sản phẩm xã hội chỉ tăng bình quân 1.4%. Tổng mức hàng hoá bán lẻ giảm 3,5%/năm, xuất khẩu không đáng kể. Trên thị trường xuất hiện tình trạng mức chênh lệch ngày càng lớn mặt bằng giá do nhà nước quy định và giá thị trường tự do, trong đó giá tự do cao gấp 7-8 lần do giá nhà nước quy định. Vai trò quản lí của nhà nước về giá trong nền kinh tế thị trường ở nước ta. Trang 31.
Tất cả những yếu tố trên dẫn đến tình trạng tất yếu là kinh tế lâm vào khủng khoảng, suy thoái, đời sống của nông dân, công nhân viên chức, các lực lượng vũ trang giảm sút nghiêm trọng. Chính trong tình hình ấy xuất hiện yêu cầu cấp bách là đổi mới đường lối kinh tế nhằm đưa đất nước ta ra khỏi tình trạng trì trệ, suy thoái.
2. Tổng quan nền kinh tế nước ta sau đổi mới.
Đứng trước yêu cầu của đổi mới tại đại hội lần VII Đảng ta đã khẳng định “phát triển nền sản xuất hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa”-“ nền kinh tế vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lí của nhà nước bằng kế hoạch chính sách và các công cụ khác”. Đây là một chủ trương đúng đắn có cơ sở lí luận và thực tiễn.
Thực hiện chủ trương này trong nhiều năm qua chúng ta kiên quyết xoá bỏ cơ chế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp , phát triển kinh tế thị trường có sự quản lí của nhà nước.
Hiện nay nền kinh tế thị trường của nước ta còn ở trình độ kém phát triển, kinh tế còn ít nhiều mang tính tự cung tự cấp. Cơ sở vật chất kĩ thuật còn kém, trong nhiều ngành đã được trang bị máy móc kĩ thuật hiện đại , tuy vậy vẫn còn nhiều ngành máy móc cũ kĩ, công nghệ lạc hậu. Việt Nam đang ở trình độ lạc hậu 2/7 của thế giới, thiết bị máy móc lạc hậu đến 2-3 thế hệ, vì thế năng suất lac động của nước ta chỉ bằng 30% mức trung bình của thế giới. Nền kinh tế nước ta vẫn chưa thoát khỏi nền kinh tế nông nghiệp sản xuất nhỏ. Nông nghiệp sử dụng khoảng 70% lực lượng lao động nhưng chỉ sản xuất khoảng 26% GDP Giáo trình kinh tế chính trị Mac-Lenin \. Trang 382
. Trong nền kinh tế có nhiều thành phần tham gia, thị trường dân tộc thống nhất đang trong quá trình hình thành nhưng chưa đồng bộ. Sự hình thành thị trường trong nước gắn liền với mở rộng kinh tế đối ngoại, hội nhập vào thị trường khu vực và thế giới trong hoàn cảnh trình độ phát triển kinh tế – kĩ thuật của nước ta còn kém phát triển so với các nước khác. Trong quản lí kinh tế còn bộc lộ nhiều yếu kém : “ hệ thống luật pháp cơ chế chính sách chưa đồng bộ nhất quán và chưa nghiêm” Đảng cộng sản Việt Nam: văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII. Trang 66
Mặc dù còn nhiều hạn chế nhưng thực tế những năm đổi mới đã chứng minh việc chuyển sang cơ chế thị trường nhiều thành phần là đúng đắn. Nhờ phát triển kinh tế hàng hoá chúng ta đã bước đầu khai thác và được tiềm năng trong và ngoài nước, thu hút được vốn và kĩ thuật, công nghệ của nước ngoài, giải phóng lực lượng sản xuất góp phần quyết định vào việc đảm bảo tăng trưởng kinh tế vơi nhịp độ tương đối cao trong thời gian qua.
- Chúng ta đã đạt được một số thành tựu quan trọng : lạm phát từ ba con số/năm trong những năm 1986-1980 giảm xuống hai con số/năm trong các năm 1991-1995 và xuống một con số từ 1996 đến nay. Giá cả tương đối ổn định trong các năm qua, lạm phát ở mức kiểm soát và kích thích đầu tư, phân bổ và sử dụng hợp lí tài nguyên của đất nước.
- Môi trường đầu tư của Việt Nam được đánh giá là an toàn trong khu vực và trên thế giới. Việt Nam đang là điểm đến an toàn của các nhà đầu tư nước ngoài và các khách du lịch.
3. Thực trạng vân dụng quy luật giá trị ở nước ta trong thời gian vừa qua và vai trò của quy luật giá trị trong nền kinh tế thị trường.
Nền sản xuất của nước ta hiện nay đang ở trong quá trình phát triển từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa. Quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa đã được xây dựng trên cả nước, sản xuất chuyển dần từ tính tự cung tự cấp lên sản xuất hàng hoá xã hôi chủ nghĩa. Cở sở khách quan của sự hoạt động của quy luật giá trị vẫn còn tồn tại. Quy luật giá trị còn hoạt động và tác dụng trên phạm vi rộng và trong thời gian dài.
Vai trò và phạm vi hoạt động của nó biến đổi từng thời kì cùng với sự chuyển biến của quan hệ sản xuất, của lực lượng sản xuất, sự phát triển và phân công lao động xã hội. Vì thế chúng ta cần nhận thức đúng quy luật giá tri, tự giác vân dụng quy luật giá trị và các phạm trù kinh tế gắn liền với quy luật giá trị như : tiền tệ, giá cả, tín dụng… để kích thích sản xuất và lưu thông hàng hoá phát triển, thúc đẩy nền kinh tế tiến nhanh trên con đường chủ nghĩa xã hội.
Nhận thức rõ được tầm quan trọng của quy luật giá trị nên tại đại hội lần IV của Đảng đã chỉ rõ : “ Phải coi trọng giá trị và quy luật giá trị đang tồn tại một cách khách quan trong xã hội xã hội chủ nghĩa. Phải vận dụng quy luật giá trị cùng nhiều đòn bẩy kinh tế khác để tăng cường quản lí kinh tế tài chính khuyến khích lao động và thúc đẩy tăng năng suất lao động, giảm hao phí lao động, vật tư , máy móc trong từng đơn vị sản phẩm, bảo đảm làm ra được giá trị sử dụng nhiều nhất với mức chi phí ít nhất. “ Báo cáo chính trị của ban chấp hành trung ương Đảng tại đại hội đại biểu toàn quốc lầnIV. Tr 61
Việc vận dụng quy luật giá trị vào sản xuất cần có các phòng tránh những hiện tượng tiêu cực có thể xảy ra nếu không nhận thức được quy luật giá trị, không chủ động vận dụng nó một cách có kế hoạch mà để nó tự phát tác động. Tình trạng đó có thể xảy ra là do quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa đã được xác lập, vai trò điều tiết của quy luật giá trị với nền kinh tế không còn nhưng quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa chưa được hoàn thiện, ngoài ra còn có các nguyên nhân khác làm quy luật giá trị có thể tác động tự phát. Do đó để hạn chế những hiện tượng tiêu cực do tác động của quy luật giá trị gây ra cần củng cố quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa xã hội, hoàn thiện quản lí kinh tế, quản lí thị trường…
Trong nền kinh tế thị trường nước ta hiện nay, các quy luật kinh tế của thị trường phát sinh và phát triển gắn với sự phát sinh và phát triển của kinh tế hàng hoá, kinh tế thị trường. Quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa không làm thay đổi bản chất của các quy luật kinh tế đó. Sự phát triển của sức sản xuất rất khác nhau của các nền kinh tế ở các quốc gia chỉ làm cho hoạt động của quy luật mang nhiều màu sắc mà thôi. Các quy luật kinh tế của thị trường có mối quan hệ mật thiết với nhau, trong đó quy luật giá trị có vai trò quan trọng nhất. Nó tác động đến giá cả, đến các yếu tố thị trường theo các chiều hướng khác nhau, thông qua sự vận động của giá cả mà quy luật giá trị phát huy tác dụng. Giá cả là tín hiệu của cơ chế thị trường. Trên thị trường người mua luôn muốn ép giá thị trường với mức thấp nhất nhằm tối đa hoá lợi ích của mình. Ngược lại người bán do muốn tối đa lợi ích nên ép cho giá cả tăng, quy luật giá trị ở đây tác động tới người bán theo hướng thúc đẩy họ nâng giá thị trường lên cao.
Dựa trên đặc điểm tác động của quy luật giá trị tới giá cả, đồng thời thực hiện yêu cầu của công cuộc đổi mới, trong thời gian qua chúng ta đã thực hiện một số chính sách về giá nhằm vận dụng quy luật giá trị vào trong nền kinh tế. Đó chính là sự quản lí của nhà nước về giá, sự quản lí đó thể hiện sự nhận thức và vận dụng quy luật trong kinh tế thị trường của nhà nước ta.
Có thể nói hình thức vận dụng quy luật giá trị tập trung nhất là khâu hình thành giá. Giá cả là sự biểu hiện bằng tiền của giá trị, là sự biểu hiện của quy luật giá trị. Khi xác định giá cả phải lấy giá trị làm cơ sở, phản ánh những hao phí về vật tư và lao động để sản xuất hàng hóa. Giá cả phải bù đắp chi phí sản xuất hợp lí, tức là đủ bù đắp giá thành sản xuất, đồng thời phải đảm bảo một mức lãi thích hợp để tái sản xuất mở rộng, đó là nguyên tắc phổ biến áp dụng cho mọi quan hệ trao đổi, quan hệ giữa các xí nghiệp quốc doanh với nhau, cũng như nhà nước với nông dân. Về đại thể, giá cả phải góp phần giải quyết một số vấn đề lớn: thúc đẩy sản xuất phát triển theo yêu cầu của kế hoạch nhà nước trong từng thời kì, tăng cường xây dựng cơ sở vật chất kĩ thuật của đất nước, góp phần giải quyết tốt mối quan hệ giữa tích luỹ với tiêu dùng, phân phối thu nhập quốc dân vv….
Để đáp ứng các yêu cầu đó, trong thời gian qua chúng ta đã thực hiện một số chính sách về giá. Nước ta đã hai lần thực hiện cải cách lớn về giá nhằm thay đổi những phương thức cơ bản trong việc định giá. Cuộc cải cách lần thứ nhất vào giai đoạn 1981-1982, nội dung chính của cải cách lần này là : tập trung khôi phục sức sản xuất, ổn định nền tài chính quốc gia, cải tiến lưu thông hàng hoá, cải cách hệ thống giá bán lẻ và giá thu mua theo nguyên tắc giá cả phù hợp với chi phí sản xuất và lưu thông, cải cách hệ thống giá bán buôn và hoàn thiện hệ thống phân phối lưu thông…. Nội dung chỉ đạo cuộc cải cách lần này dựa trên cơ sở đổi mới tư duy về giá song hạn chế là cải cách vẫn chỉ là giá do nhà nước quy định.
Trước những hạn chế của lần cải cách lần thứ nhất, chúng ta tiến hành cuộc cải cách giá lần thứ hai vào năm 1985 với tính chất toàn diện và sâu sắc hơn mà nội dung chính là thực hiện cơ chế một giá, nhà nước quy định lấy giá thóc làm chuẩn để tính các loại giá khác và toàn bộ mặt bằng giá. Cuộc cải cách lần này đã thể hiện một tư duy kinh tế mới của Đảng và nhà nước ta trong việc vận dụng quy luật giá trị. Tuy nhiên nó cũng còn một số tồn tại nhất định mà do vậy đã là nguyên nhân trực tiếp gây kích động lạm phát phi mã như trong các năm 1986-1988.
Những thay đổi trên thực sự có ý nghĩa bắt đầu từ năm 1987 ( tháng 11-1987 có quyết định 217/HĐBT ) với tư tưởng tiến hành từng bước nhỏ, xoá bao cấp qua giá gắn liền với bao cấp qua vốn và đổi mới cơ chế quản lí xí nghiệp. Trước hết là xoá bỏ cơ chế nhà nước định giá nông sản, giá bán tư liệu sản xuất nông nghiệp, chuyển sang cơ chế thoả thuận, có quy định khung giá …hệ thống bán lẻ cũng được tiến hành cải tiến với việc thả nổi bộ phận lớn giá bán hàng công nghiệp tiêu dùng, thả nổi gần như toàn bộ hệ thống giá bán lẻ kể cả giá lương thực… hệ thống giá bán buôn được cải cách thận trọng hơn cùng quá trình thương mại hoá vật tư diễn ra chậm chạp. Kết quả là phần lớn giá vật tư đã được thương mại hoá. Trong giai đoạn hiện nay nhà nước đã chính thức rời bỏ quyền can thiệp trực tiếp định giá các hàng hoá trong nền kinh tế mà thay vào đó chỉ định giá các mặt hàng mang tính chiến lược và độc quyền như : điện, nước, xi măng, sắt thép…thị trường chính là nơi có quyền định giá tốt nhất cho các hàng hoá. Kết quả của những thay đổi đó là quá trình chuyển đổi từ cơ chế hai giá sang một giá, từ cơ chế giá nhà nước sang giá thị trường. Điểm quan trọng của nó là : nếu như giá nhà nước đặt ra ít có quan hệ với giá trị, không quan hệ gì với cung cầu, bỏ qua việc tính chi phí sản xuất, vi phạm quy luật giá trị thì cơ chế một giá dựa theo thị trường đã đáp ứng đòi hỏi những yêu cầu của quy luật giá trị. Việc định giá theo giá thị trường ngoài tính đến giá trị của hàng hoá còn tính đến các yếu tố như cung cầu, cạnh tranh, tiền tệ…
Nhà nước ngoài ra còn thực hiện việc bình ổn giá cả thị trường. Đây là công việc hết sức mật thiết với nhiệm vụ kiềm chế và đẩy lùi lạm phát, chống hiện tượng các chủ thể sản xuất tự động tăng giá, vượt quá xa giá trị hàng hoá, gây rối thị trường. Nhà nước thành lập ban vật giá chính phủ ngày 26/10/1992. những nhiệm vụ quyền hạn của ban vật giá chính phủ là : nghiên cứu, soạn thảo cơ chế chính sách và các văn bản quy định việc quản lí nhà nước về giá, các giải pháp bình ổn giá, trình chính phủ quyết định để phục vụ chiến lược phát triển kinh tế xã hội, tiến hành các công việc liên quan đến giá như : quản lí giá, điều tra chi phí sản xuất, phân tích và dự báo chỉ số giá, nghiên cứu khoa học và thông tin về giá, thanh tra, kiểm tra, các đơn vị và các cá nhân về việc chấp hành các quy định về quản lí giá.
Nhà nước còn thực hiện việc đăng kí giá, niêm yết giá đối với các hàng hoá trên thị trường. Các doanh nghiệp được nhà nước trao cho quyền tự quyết định mức giá cụ thể với những mặt hàng không thuộc diện nhà nước định giá. Nguyên tắc chung là lấy quy luật giá trị làm cơ sở cho định giá. Mức giá phải dựa trên cơ sở chính là giá trị của hàng hoá, sau đó là tính đến các nhân tố có ảnh hưởng khác như : cạnh tranh, cung cầu, tiền tệ…. Nếu các doanh nghiệp không thoả thuận được giá cụ thể mà có sự độc quyền thì cơ quan quản lí của nhà nước sẽ đứng ra hiệp thương giá đồng thời có cơ chế khuyến khích đăng kí giá, niêm yết giá để mua bán trên thị trường để quá trình mua bán trên thị trường được diễn ra thuận lợi. Để hạn chế sự biến động giá nhà nước sử dụng chính sách đòn bảy kinh tế, lôi cuốn tất cả các đơn vị sản xuất hoạt động theo định hướng của nhà nước.
Để chủ động thực hiện tốt công tác bình ổn giá, thủ tướng chính phủ có Quyết định số151-TTg ngày 12/4/1993 về việc hình thành, sử dụng và quản lí quỹ bình ổn giá. Quỹ bình ổn được hình thành và sử dụng nhằm giữ giá các mặt hàng chủ yếu cho sản xuất và thị trường ổn định, góp phần kiềm chế lạm phát, tạo môi trường kinh tế an toàn cho các chủ thể sản xuất-kinh doanh và ngoài nước yên tâm bỏ vốn vào đầu tư sản xuất, phát triển kinh tế nhằm ổn định kinh tế xã hội.
Ngoài vận dụng vận dụng quy luật giá trị trong khâu giá cả, chúng ta đã vận dụng nó trong cả lĩnh vực sản xuất. Nền kinh tế nước ta không chịu sự điều tiết của quy luật giá trị mà chịu sự chi phối của các quy luật của kinh tế cơ bản của sản xuất chủ nghĩa xã hội. Tuy nhiên quy luật giá trị không phải không có ảnh hưởng đến sản xuất. Hiện nay nền kinh tế nước ta là nền kinh tế nhiều thành phần. Trong các thành phần kinh tế khác nhau, ảnh hưởng của quy luật giá trị khác nhau. Nhà nước chủ động vận dụng quy luật giá trị vào lĩnh vực sản xuất, kích thích các cơ sở sản xuất cải tiến kĩ thuật, công tác quản lí để tăng năng suất lao động, hạ giá thành sản phẩm. Nhà nước tăng cường hoạt động kinh tế đối ngoại nhằm mở rộng giao lưu hợp tác kinh tế với các nước khác, từ đó học hỏi và tiếp thu kinh nghiệm, khoa học kĩ thuật để áp dụng vào sản xuất trong nước…
Ngoài ra quy luật giá trị được dùng làm cơ sở cho việc thực hiện chế độ hạch toán kinh tế trong sản xuất, kinh doanh. Các cấp quản lí cùng các ngành sản xuất, các đơn vị sản xuất ở cơ sở khi đặt kế hoạch hay thực hiện kế hoạch kinh tế đều phải tính đến giá thành, quan hệ cung cầu, để định lượng kết cấu, quy cách sản phẩm. Một vấn đề có ý nghĩa quan trọng là việc dùng hình thức giá trị trong hạch toán kinh tế là để tính toán lao động xã hội, nhằm tiết kiệm lao động sống và lao động quá khứ đến mức cao nhất. Trong khu vực kinh tế quốc doanh, tác động của quy luật giá trị hạn chế ở chỗ nó được vận dụng chủ yếu vào tính toán, nhằm đạt yêu cầu cao nhất của quản lí kinh tế là tiết kiệm lao động và giảm tiêu hao vật chất, tức là đạt hiệu quả kinh tế cao nhất trong kinh doanh. Trong khu vực kinh tế tập thể, quy luật giá trị còn có tác dụng điều tiết sản xuất một chừng mực nhất định. Trong thành phần kinh tế quy luật giá trị còn có tác dụng điều tiết sản xuất nhiều hơn.
Ngày nay, một trong số các công cụ quản lí vĩ mô của nhà nước về kinh tế là kế hoạch. Kế hoạch vĩ mô quy định mục tiêu cơ bản của phát triển kinh tế-xã hội trong một thời kì nhất định, quy định hàng loạt chỉ tiêu quan trọng về tốc độ, tỉ lệ hiệu quả, bước đi cơ bản của sự điều tiết vĩ mô của nhà nước theo quỹ đạo và mục tiêu đã định. Trong nền kinh tế thị trường hiện nay không thể tách rời sự điều hành kinh tế vĩ mô của nhà nước. Doanh nghiệp là người sản xuất kinh doanh tự chủ, tự chịu lỗ lãi, lấy theo đuổi lợi nhuận tối đa làm mục đích, hành vi kinh doanh do tình hình vận hành thị trường quyết định. Nhà nước vận dụng quy luật giá trị làm công cụ để đặt kế hoạch, tổ chức thực hiện kế hoạch và kiểm tra, theo dõi việc chấp hành kế hoạch. Bản thân hệ thống kế hoạch là một bản tổng hạch toán lớn. Quá trình thực hiện và giám sát việc thực hiện kế hoạch càng phải tiến hành hạch toán. Và giá trị, tiền tệ là một thước đo, một phương tiện hạch toán không thể thiếu trong giai đoạn lịch sử hiện nay. Hạch toán kinh tế gắn liền với kế hoạch, đồng thời gắn liền với việc vận dụng các đòn bảy kinh tế. Nhiều đòn bảy kinh tế là biểu hiện sự vận dụng của các quy luật kinh tế nhưng trực tiếp nhất vẫn là quy luật giá trị. Việc vận dụng quy luật giá trị trong kế hoạch hoá thể hiện ở chỗ : việc đặt mỗi kế hoạch phải tính đến các hiệu quả kinh tế đem lại so với các hao phí lao động, vật tư, tiền vốn bỏ ra. Khi thực hiện kế hoạch phải trên cơ sở lấy kế hoạch nhà nước làm công cụ chủ yếu mà vận dụng đúng đắn các phạm trù giá trị, dùng chúng làm những đòn bảy kích thích việc thực hiện kế hoạch một cách tốt nhất. Thông qua các chỉ tiêu giá trị phản ánh vào tình hình tài chính nhà nước kiểm tra theo dõi phát hiện những thiếu sót để bổ xung uốn nắn trong việc chấp hành kế hoạch….Như vậy, trong tất cả các khâu của công tác kế hoạch các phạm trù đều giữ vai trò đòn bảy quan trọng. Trong hệ thống các đòn bảy kinh tế thì lợi nhuận được coi là khâu trung tâm. Giá cả là một đòn bảy sắc bén và rất nhạy mà chúng ta cần chú ý tác động.
Có thể nói trong nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay, quy luật giá trị vẫn còn cơ sở tồn tại của nó và tác động đến các quá trình kinh tế một cách liên tục. Chúng ta cần nhận thức, chủ động vận nó thì nó có tác dụng lớn trong việc kích thích sản xuất phát; ngược lại nếu không biết đến nó thì nó vẫn tác động sau lưng người sản xuất hàng hoá và sẽ chi phối hoạt động của con người bất chấp ý muốn của họ. Vấn đề nhận thức và vận dụng quy luật giá trị trong nền kinh tế thị trường có nhiều điều khó khăn và phức tạp. Nhưng nhà nước của chúng ta có đầy đủ khả năng vận dụng một cách tự giác quy luật giá trị nhằm thực hiện mục tiêu phát triển nền sản xuất trong nước, phát triển kinh tế đạt mục tiêu đưa nước ta lên con đường chủ nghĩa xã hội.
4. Một số giải pháp nhằm vận dụng tốt hơn quy luật giá trị ở nước ta trong thời gian tới.
Trong nền kinh tế thị trường mới ở dạng phôi thai ở nước ta hiện nay, muốn phát triển nền kinh tế thị trường vững mạnh, ổn định, đảm bảo hài hoà các lợi ích về kinh tế cũng như xã hội thì điều quan trọng là chúng ta cầm nhận thức và vận dụng thật tốt các quy luật kinh tế của thị trường vào trong thực tiễn. Các quy luật kinh tế của thị trường quyết định sự vận động của thị trường, do đó quyết định sự vận động của nền kinh tế thị trường. Các quy luật kinh tế tạo ra động lực kinh tế, đó chính là lợi ích vật chất mà những người tham gia thị trường có thể đạt tới. Động lực này có vai trò quyết định trong việc thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Do đặc điểm đó nên việc vận dụng các quy luật kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay có ý nghĩa to lớn. Trong đó quy luật giá trị đóng vai trò quan trọng, tác động đến các quá trình kinh tế trên thị trường. Việc vận dụng quy luật giá trị trong giai đoạn hiện nay trước hết là nhằm mục tiêu phát triển kinh tế hàng hoá, phát triển nền sản xuất xã hội, khắc phục những tàn dư của lối quản lí kinh tế theo kiểu tập trung trước đây. Quy luật giá trị nếu biết vận dụng thì nó có tác dụng lớn trong việc kích thích sản xuất phát triển; ngược lại nếu không biết đến thì nó vẫn tác động sau lưng người sản xuất hàng hoá và chi phối hoạt động của con người bất chấp ý muốn của họ.
Chính vì lí do đó mà chúng ta, muốn vận dụng quy luật giá trị thì trước hết phải hiểu đúng nội dung, bản chất quy luật, kế đến là hình thức biểu hiện, tính chất tác động và các điều kiện khách quan mà quy luật giá trị hoạt động. Trong thời kì bao cấp trước đây chúng ta đã không nhận thức rõ về quy luật giá trị nên việc vận dụng nó trong quản lí kinh tế đã dẫn đến nhiều sai lầm gây hậu quả nghiêm trọng, biểu hiện của sai lầm đó là sự bao cấp của nhà nước qua giá cả hàng hoá, sự định giá không tính đến giá trị hàng hóa, cung cầu thị trường, bỏ qua sự cạnh tranh trong nền kinh tế giữa các đơn vị sản xuất kinh doanh. Đó chính là một trong các nguyên nhân gây ra sự trì trệ, khủng hoảng của kinh tế nước ta trong thời bao kì bao cấp. Vì vậy mà việc vận dụng quy luật giá trị thì việc đòi hỏi đầu tiên là sự hiểu biết sâu sắc về quy luật giá trị.
Hiện nay trên thế giới cũng như trong nước ta đang có những khuynh hướng không đúng đối với sự hoạt động của quy luật giá trị dưới chủ nghĩa xã hội. Có khuynh hướng phủ nhận sự tồn tại khách quan của quy luật giá trị và tác động của nó : trong việc quản lí kinh tế xã hội không vận dụng quy luật giá trị, coi nó là phạm trù chỉ có hại cho chủ nghĩa xã hội. Biểu hiện của khuynh hướng này là coi thường hạch toán kinh tế và các đòn bảy kinh tế, đặt kế hoạch sản xuất, lưu thông và định giá cả không tính đến quy luật giá trị. Hoặc một khuynh hướng ngược lại là quá nhấn mạnh quy luật giá trị coi quy luật giá trị là tuyệt đối, là hiện tượng tồn tại độc lập với những điều kiện lịch sử cụ thể, đặt quy luật giá trị lên trên hết….Vì vậy cần nâng cao ý thức của các chủ thể kinh tế khi tham gia vào thị trường, cần tôn trọng quy luật giá trị và tác động của nó trong kinh tế thị trường, đấu tranh chống các quan điểm sai trái, các nhận định không đúng về quy luật giá trị. Nhà nước cần tăng cường công tác giáo dục nhận thức, về tư duy kinh tế cho mọi chủ thể kinh tế để khi tham gia thị trường đều phải có ý thức tôn trọng các quy luật kinh tế của thị trường, trong đó có quy luật giá trị. Các chủ sản xuất và kinh doanh khi định giá cả hàng hoá phải tính dựa trên quy luật giá trị, tức là phải tính đến giá trị hàng hoá không tự tiện đặt giá quá cao, hay tách quá xa giá trị của hàng hoá gây bất ổn trên thị trường.
Quy luật giá trị phát huy tác dụng thông qua sự vận động của giá cả trên thị trường vì vậy mà một trong các biện pháp để vận dụng quy luật giá trị tốt hơn trong thời gian tới là cần thực hiện tăng cường sự quản lí của nhà nước tới giá cả thị trường. Sự quản lí đó thể hiện sự nhận thức và vận dụng quy luật giá trị của nhà nước vào trong nền kinh tế .Trong đó cần thực hiện các vấn đề sau :
Không chỉ thừa nhận vai trò của quy luật giá trị và quy luật cung cầu đối với sự hình thành và vận động của giá cả thị trường mà còn phải chú trọng tới vai trò không kém phần quan trọng của quy luật cạnh tranh. Nếu quy luật cung cầu quyết định sự xuất hiện giá thị trường thì quy luật giá trị và quy luật cạnh tranh lại quyết định không những mức giá mà cả xu thế vận động của giá cả. Quy luật giá trị và quy luật canh tranh tạo ra hai lực ngược chiều đối với sự hình thành và vận động của giá cả hàng hoá.Do đó để quản lí giá và phát huy tác dụng của quy luật giá trị nhà nước cần tạo môi trường thuận lợi để các doanh nghiệp tự do cạnh tranh với nhau. Nhà nước cần sớm ban hành hệ thống đạo luật kinh tế và kinh doanh, tạo hành lang hoạt động cho các doanh nghiệp. Mặt khác cần nhanh chóng thực hiện cổ phần hoá doanh nghiệp để thúc đẩy cạnh tranh trong các khu vực kinh tế này.
Nhà nước cần thực hiện chức năng bình ổn giá thị trường, tạo môi trường thuận cho quá trình mua bán trao đổi hàng hoá. ổn định giá là tiền đề của sự phát triển kinh tế. Nếu không tạo được sự ổn định giá một cách vững chắc trên mặt bằng xã thì tất cả các giải pháp ổn định thị trường khác đề mất hết ý nghĩa kinh tế – xã hội và chúng không còn cơ sở xã hội nữa, do đó công cuộc cải cách kinh tế sẽ không được sự đồng tình, ủng hộ của quần chúng nhân dân. Một trong số các quyết định khách quan và đúng đắn nhất của nhà nước khi chuyển sang nền kinh tế thị trường là trao cho các doanh nghiệp quyền tự quyết định giá cả của hàng hoá mà các doanh nghiệp sản xuất ra. Do có quyền tự định giá mà các doanh nghiệp vì động cơ lợi nhuận mà có thể đặt giá quá cao so với giá trị hàng hoá, hoặc các đơn vị kinh tế có động cơ đầu cơ tích trữ, gây ra tình trạng khan hiếm giả tạo trên thị trường đẩy giá hàng hoá lên cao, độc quyền…gây xáo trộn về giá trên thị trường,. Chính vì thế mà nhà nước cần thực hiện tốt công tác bình ổn giá. Sự ổn định giá thị trường phải được hiểu và xác định trong thế phát triển năng động, tăng trưởng liên tục của nền kinh tế. Sự ổn định này thưỡng được xem xét trên cơ sở tổng mức giá, tức là chỉ số chung của toàn bộ hàng hoá hay một danh mục hàng hoá tiêu biểu cho tổng doanh số bán lẻ trên thị trường.
Biện pháp tiếp theo mà nhà nước cần thực hiện trong quản lí về giá là :tiếp tục hoàn thiện cơ chế, chính sách quản lí giá cả thị trường. Nhà nước cần ban hành những chính sách quản lí về giá, tạo hành lang pháp lí để các cơ quan quản lí thị trường thực hiện tốt chức năng của mình, đồng thời ban hành các thông tư chỉ thị hướng dẫn thực hiện việc phân công, phân cấp quản lí giá, thực hiện đăng kí, hiệp thương giá, quy định giá chuẩn, giá giới hạn. Tổ chức xây dựng chính sách quản lí giá với các ngành sản xuất có vai trò quan trọng trong đời sống hàng ngày như :phân bón, thuốc trừ sâu,xi măng…Nhà nước tạo môi trường kinh doanh ổn định cho các chủ thể kinh tế tham gia thị trường có được cơ hội ngang nhau về kinh tế, tạo điều kiện cho việc trao đổi hàng hoá ngang giá, tránh tình trạng mua bán ép giá
Nhà nước cần tiến hành tăng cường công tác thông tin giá cả, thị trường. Ban vật giá chính phủ cần chủ động tích cực thiết lập mạng lưới thông tin giá cả, thị trường thống nhất trong cả nước. Các thông tin này phải thực sự phát huy tác dụng trên các mặt : giúp các cơ quan lãnh đạo nghiên cứu các giải pháp điều hành vĩ mô nền kinh tế, giúp cho công tác điều hoà cung cầu, bình ổn thị trường, giá cả trong phạm vi cả nước, các doanh nghiệp có căn cứ xem xét tính toán hiệu quả kinh doanh…
Cuối cùng các cơ quan nhà nước cần tăng cường công tác thanh tra giá. Trong quá trình thực hiện cơ chế chính sách giá cần phải thanh tra giá nhằm kịp thời phát hiện và đề xuất các giải pháp giải quyết những vướng mắc, sai trái trong cơ chế quản lí giá cho phù hợp. Công tác thanh tra giá cần thực hiện trên một số mặt chủ yếu :
- Kiểm tra mức giá, giới hạn đã được cấp có thẩm quyền quy định
Kiểm tra việc đăng kí giá theo danh mục và địa bàn được quy định cu thể.
Kiểm tra việc thực hiện mức giá đã quyết định của cơ quan chủ trì hiệp thương giá
- Vv…
Trong lĩnh vực sản xuất cần chú trọng đến việc tăng năng năng suất lao động, tiết kiệm hao phí lao động. Các doanh nghiệp Việt Nam, người trực tiếp điều hành sản xuất kinh doanh phải triển khai đồng loạt các biện pháp để tiết kiệm chi phí, huy động tối đa năng lực sản xuất để sản xuất ra nhiều hàng hoá nhất với chi phí thấp. Đó chính là đáp ứng yêu cầu của quy luật giá trị sao cho chi phí lao động cá biệt phù hợp với hao phí lao động xã hội cần thiết. Ví dụ hiện nay các doanh nghiệp Việt Nam sản xuất phụ thuộc nhiều vào nguồn nguyên liệu nhập khẩu do đó cần chú ý tiết kiệm tối đa khi sử dụng nguyên liệu cả ở giác độ nhà nước, doanh nghiệp, và cá nhân mỗi người tiêu dùng. Bài học mà chúng ta cần rút ra là của Thái Lan, để giảm hao phí năng lượng, chính phủ nước này đã đưa ra một số biện pháp sau :
- Đóng cửa các trạm xăng dầu từ nửa đêm đến 5 giờ sáng ngày hôm sau
- Cắt nguồn điện cho các bảng quảng cáo từ 22 giờ hàng ngày
- Tắt bảng đèn chiếu sáng trên một sô tuyến đường
- Tăng thuế với những xe hơi trên 2500cc
- Giảm 10% mức tiêu thụ xăng dầu với các cơ quan nhà nước
Trong nước ta vừa qua thủ tướng chính phủ Phan văn Khải cũng đã đưa ra chỉ tiêu tiết kiệm 10% xăng dầu trong cơ quan nhà nước Phát triển kinh tế tháng 9/2004 . trang 31
. Các cơ sở sản xuất trong nước trong thời gian tới ngoài việc tiết kiệm, giảm chi phí sản xuất cần tăng cường áp dụng khoa học công nghệ vào sản xuất nhằm tăng năng suất lao động, giảm hao phí lao động sống trong sản phẩm.
Giải pháp cuối cùng cần thực hiện là tăng cường năng lực của các cán bộ quản lí về kinh tế, đặc biệt là công tác quản lí thị trường, tăng khả năng nhạy bén, nắm sát tình hình và khả năng giải quyết các vấn đề phát sinh trên thị trường như khi có biến động về giá, biến động về cung cầu…
Với một số giải pháp đề ra trên, hi vọng trong thời gian tới chúng ta có thể vận dụng tốt hơn quy luật giá trị vào sản xuất và phát triển một nền kinh tế thị trường vững mạnh nhằm mục tiêu phát triển kinh tế xã hội, đưa đất nước tiến nhanh trên con đường công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
5. Tình hình giá cả thị trường ở nước ta trong thời gian vừa qua.
Gần 20 năm qua thực hiện đường lối đổi mới và tuân thủ mô hình kinh tế tổng quát do Đảng cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo cơ chế quản lí giá và hệ thống giá cả của hàng hoá và dịch vụ của chúng ta đã được đổi mới. Nhà nước rời bỏ quyền can thiệp trực tiếp vào định gía hàng hoá trên thị trường trả và lại cho thị trường quyền định giá của đa số các hàng hoá chủ yếu. Nhà nước chỉ định giá của một số ít hàng hoá và dịch vụ mang tính độc quyền. Nhà nước quản lí điều hành sự vận động của giá cả thị trường chủ yếu bằng phương pháp gián tiếp thông qua việc xây dựng môi trường pháp lí, sử dụng các chính sách vĩ mô để tác động đến sự vận động và hình thành giá cả.
Tình hình giá cả ở Việt nam tương đối ổn định, lạm phát ở mức kiểm soát và có tác dụng tích cực vào thu hút đầu tư, phân bổ nguồn lực của đất nước. Tuy nhiên ở nước ta do môi trường pháp lí của việc bình ổn giá còn nhiều thiếu sót nên đôi khi có sự biến đổi khá lớn về giá, ví dụ như: giá phân đạm urê nhập khẩu giảm quá thấp trong năm 1992 đã gây lỗ nặng nề và làm phá sản nhiều doanh nghiệp kinh doanh phân bón. Sự tăng giá quá cao của xi măng trong năm 1995 của giá thuốc phong chữa bệnh cho người năm 2003.
Đặc biệt là vào năm 2004 vừa qua sự biến động lớn về giá đã gây ảnh hưởng lớn đến cuộc sống của nhân dân cả nước.
Năm 2004, theo số liệu thống kê chỉ số giá tiêu dùng 7 tháng đầu năm tăng 7,7% so với tháng 12 năm 2003. Đây là mức tăng hơn hẳn so mức tăng cung kì trong 8 năm qua ( 1996 :2,6%; 1997:1,3%; 1998 :5,6%; 1999 :1,2%; 2000 :0,69%; 2001 : 0,9%; 2002 :2,8%; 2003:1,8%)
Trong đó 3 nhóm hàng có chỉ số tăng cao là :
Lương thực-thực phẩm tăng :13,7%( lương thực 11,2%; thực phẩm 15,4%)
Dược phẩm –y tế tăng 7,7%
Nhà ở, vật liệu xây dựng 6,4%.
Nguyên nhân gây ra tình trạng tăng giá trên là do giá trên thế giới nhiều loại vật tư mà nước ta phải nhập tăng cao, trong nước dịch cúm gia cầm làm chết 43 triệu con, làm mất khoảng 20-30% thị phần thực phẩm, ở miền bắc miền trung bị hạn hán nhiều nơi nên làm giảm sản lượng rau quả gây mất cân đôi cung cầu Thị trường giá cả Số tháng 8/2004. trang4
. (8)
Như vậy tình hình giá cả thị trường nước ta trong một vài năm trở lại đây tuy có sự ổn định tương đối nhưng đôi khi vẫn có những biến động lớn về giá gây ra những ảnh hưởng không tốt đến nền kinh tế quốc dân. Nhà nước cần có những biện pháp cụ thể để giải quyết những bất ổn về giá cả trong từng thời kỳ cụ thể, với từng vấn đề cụ thể để ổn định thị trường, giải quyết tốt những quan hệ kinh tế trên thị trường, từ đó tạo điều kiện để vận dụng tổng hợp các quy luật kinh tế, nhất là quy luật giá trị trong nền kinh tế thị trường hiện nay vì quy luật phát huy tác dụng thông qua sự vận động của giá cả hàng hoá, giải quyết tốt vấn đề giá cả chính là chúng ta đã vận dụng được tốt quy luật gía trị.
Kết luận
Đất nước ta đã trải qua hơn hai mươi năm trên chặng đường đổi mới dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt nam, chúng ta chỉ mới bắt đầu phát triển một nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, định hướng xã hội chủ nghĩa và vận động theo cơ chế thị trường. Do vậy mà nền kinh tế nước ta còn chịu nhiều tác động của các quy luật kinh tế, việc chúng ta nhận thức và vận dụng các quy luật kinh tế của thị trường là tất yếu khách quan nhằm duy trì sự tồn tại và phát triển của thị trường và nền sản xuất trong nước. Trong các quy luật kinh tế của thị trường thì quy luật giá trị đóng vai trò quan trọng.
Với nền kinh tế hàng hoá ở nước ta hiện nay quy luật giá trị vẫn còn cơ sở tồn tại và phát huy tác dụng của nó. Quy luật giá trị với tư cách là quy luật cơ bản của sản xuất hàng hoá đã tạo ra cho người mua và người bán những động lực cực kì quan trọng. Trên thị trường người mua bao giờ cũng muốn ép giá xuống thấp còn người bán thì luôn muốn tối đa hoá lợi nhuận mà đẩy giá bán lên cao. Chính tác động này của quy luật giá trị đã tạo nên sự lên xuống của giá cả hàng hoá xoay quanh giá trị của nó. Thông qua sự thoả thuận của người mua, người bán mà tạo nên sự cân bằng về giá cả trên thị trường. Quy luật gía trị đóng vai trò điều tiết hàng hoá trên thị trường làm cho hàng hoá thông suốt và luân chuyển từ nơi có giá thấp đến nơi có giá cao. Ngoài ra quy luật giá trị cũng thực vai trò kích thích sản xuất và phân hoá giàu nghèo trong xã hội. Quá trình theo đuổi giá trị dẫn đến các chủ thể sản xuất cải tiến kĩ thuật, tăng năng suất lao động để giảm chi phí sản xuất, đồng thời phân hoá giàu nghèo giữa những người sản xuất với nhau, những người kém cỏi hay không may mắn thì bị loại ra khỏi cuộc chơi kinh tế và giữ laij những cá nhân có khả năng nhất trong kinh doanh.
Với nền kinh tế nước ta hiện nay việc vận dụng quy luật giá trị cần phải vận dụng tổng hợp các chính sách kinh tế mà quan trọng là chính sách về giá cả bởi giá cả là hình thức biểu hiện của giá trị. Nhà nước cần đổi mới cơ chế chính sách giá cả, tăng cường khả năng bình ổn thị trường khi có biến động lớn xảy ra, đồng thời nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ kinh tế, nhất là các cán bộ quản lí thị trường để họ có đầy đủ khả năng giải quyết những vấn đề có thể xảy ra trong nền kinh tế thị trường còn non trẻ như ở nước ta hiện nay.
Với những điều kiện sẵn có trong tay cùng với sự soi sáng của chủ nghĩa Mác-Lenin, những bài học đã rút ra trong quá khứ, chúng có thể khẳng định có đầy đủ khả năng và kiến thức để vận dụng quy luật gía trị vào trong nền kinh tế đất nước. Với hy vọng đó trong tương lai không xa Việt nam sẽ trở thành một quốc gia có nền kinh tế thị trường phát triển trong khu vực và trên thế giới.
Danh mục tài liệu tham khảo
1. Mã Hồng: Hỏi đáp về kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa. Nhà xuất bản chính trị quốc gia.
2. GS_TS Lương xuân Quỳ: Cơ chế thị trường và vai trò của nhà nước trong nền kinh tế thị trường Việt Nam. Nhà xuất bản Thống kê
3. PGS_PTS Trần hậu Thự : Vai trò quản lí của nhà nước về giá trong nền kinh tế thị trường ở nước ta. Nhà xuất bản chính trị quốc gia.
4. Giáo trình kinh tế chính trị Mác- Lê nin. Nhà xuất bản chính trị quốc gia -2003
5. Trường ĐHKTQ, khoa KTCT : Kinh tế chính trị Mac-Lênin Tập II. Nhà xuất bản giáo dục.
6. Tạp chí Thị trường giá cả Số tháng 8/2004.
7. Tạp chí Thị trường giá cả Số tháng 6/2004
8. Tạp chí Phát triển kinh tế Tháng Chín 2004
9 . Tạp chí Kinh tế và Phát triển Số tháng 12/2004
Mục lục
Trang
Quy luật giá trị và vai trò của nó
trong nền kinh tế thị trường ở nước ta
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 35690.doc