Đề tài Thực trạng sức cạnh tranh hàng may mặc của công ty Hanoisimex trên thị trường EU

Trên thực tế, công tác thiết kế mấu mốt thời trang chưa được Công ty Hanosimex quan tâm thích đáng bởi hầu hết các hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty là bằng nguyên liệu được cung cấp và mẫu mã sẵn có. Công ty chưa có một bộ phận tạo mẫu riêng, công tác thiết kế mẫu mới chỉ dừng lại ở một số mặt hàng đơn giản, hoặc dựa trên những mẫu hàng gia công để tạo ra sản phẩm mới. Do đó, những sản phẩm của Công ty chủ yếu lấy mẫu mã từ những sản phẩm mà Công ty nhận gia công, chưa có thương hiệu riêng cho mình. Đây không phải là cách làm hay, sau này khi Việt Nam trực tiếp tham gia vào quá trình hội nhập kinh tế quốc tế luật bản quyền và bằng phát minh sáng chế của sản phẩm sẽ được thực thi chặt chẽ hơn, Công ty không thể dựa mãi vào mẫu mã nước ngoài. Với kinh nghiệm của một số nước đi trước như Trung Quốc, Hồng Kông, Inđonêxia, ưu tiên cho thiết kế mẫu mốt và marketing là một trong những chiến lược chính để phát triển ngành công nghiệp may mặc hội nhập và thế giới. Trung Quốc là nước cạnh tranh mạnh mẽ với hàng của Công ty, cũng có hàng chục viện mẫu thời trang và nhiều cơ sở liên doanh với nước ngoài về mẫu mốt. Ngoài ra, họ cũng có lực lượng hoạ sỹ nghiên cứu mẫu thời trang rất lớn. Vì vậy, nghiên cứu mẫu mốt thực sự là vũ khí cạnh tranh sắc bén để có thể cạnh tranh trên thị trường EU, Công ty cần thực hiện các vấn đề sau: - Trước mắt do Công ty chưa có đội ngũ thiết kế các sản phẩm xuất khẩu do vậy Công ty cần phải tạo lập mối quan hệ mật thiết với các viện mẫu thời trang để tạo thế chủ động trong việc đa dạng hoá sản phẩm xuất khẩu của Công ty trên thị trường EU. Bởi lẽ các cơ sở này nắm bắt thường xuyên hơn nhu cầu, thị hiếu trên thị trường, có đội ngũ nhân lực lành nghề trong lĩnh vực tạo mốt, có những thiết bị chuyên dụng. Khi có được mẫu mốt cần mạnh dạn tổ chức triển khai sản xuất thử và khi thành công thì nhanh chóng đưa ra để chiếm lĩnh thị trường EU.

doc114 trang | Chia sẻ: haianh_nguyen | Lượt xem: 1340 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng sức cạnh tranh hàng may mặc của công ty Hanoisimex trên thị trường EU, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
à tập hợp những thuộc tính của sản phẩm đáp ứng nhu cầu xác định phù hợp với tên gọi của sản phẩm. Để tăng sức cạnh tranh cho sản phẩm may mặc của công ty trên thị trường EU công ty cần đưa ra những sản phẩm có chất lượng cao hơn các sản phẩm cùng loại của các đối thủ cạnh tranh. Hiện nay để cạnh tranh được với các sản phẩm cùng loại của các đối thủ cạnh tranh lớn đặc biệt là các công ty Trung Quốc thì yếu tố chất lượng phải được công ty quan tâm hàng đầu khi mà công ty không đủ năng lực cạnh tranh giá với họ. Sở dĩ như vậy vì các công ty dệt may Trung Quốc đặc biệt có lợi thế về giá cả sản phẩm do họ tận dụng được nguồn nguyên liệu trong nước và giá nhân công rẻ. Để nâng chất lượng sản phẩm Công ty cần tìm hiểu kĩ những yêu cầu về chất lượng đối với sản phẩm may mặc xuất khẩu của Công ty trên thị trường EU để từ đó sản xuất ra được những sản phẩm có chất lượng hoàn hảo, phù hợp nhất với đặc điểm của thị trường này. Muốn vậy, Công ty cần chú trọng quan tâm đến công nghệ sản xuất và công tác quản lý chất lượng theo các biện pháp sau: ăTiến hành mua nguyên liệu đầu vào cho sản xuất sản phẩm một cách cẩn thận, nghiêm túc và có hiệu quả, bởi chất lượng sản phẩm đầu ra phụ thuộc rất nhiều vào tình trạng nguyên phụ liệu đầu vào. Cần phải hoàn thiện công tác bảo quản tốt nguyên phụ liệu tránh hư hỏng mất phẩm chất đặc biệt là nguyên liệu vải sợi bông là những hàng hoá hút hẩm mạnh, dể hư hỏng. ăTuân thủ nghiêm ngặt yêu cầu của khách hàng đến từ thị trường EU về nguyên liệu, công nghệ và quy trình sản xuất theo đúng mẫu và tài liệu kỹ thuật do bên đặt hàng cung cấp, như mã hàng, quy cách kỹ thuật, nhãn mác bao bì... ăThực hiện tốt công tác tiêu chuẩn hoá và kiểm tra chất lượng sản phẩm trong từng khâu của công đoạn sản xuất là biện pháp quan trọng nhất để quản lý và nâng cao chất lượng sản phẩm một cách có hiệu quả, là cơ sở để Công ty phấn đấu nâng cao trình độ sản xuất, dễ dàng tìm các sai sót và có biện pháp khặc phục kịp thời. ăTập trung đào tạo, bồi dưỡng trình độ chuyên môn cho đội ngũ cán bộ công nhân viên làm công tác kiểm tra chất lượng sản phẩm. Bên cạnh đó cần tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật cho hệ thống kiểm tra, giám định về chất lượng, hệ thống đo lường thử nghiệm, hệ thống thông tin tiêu chuẩn chất lượng và các trang thiết bị chuyên dùng. ăTrước khi xuất khẩu, Công ty cần chọn lựa những lô hàng có chất lượng đảm bảo tránh sự giảm uy tín khi thực hiện các hợp đồng xuất khẩu. Để thực hiện tốt các giải pháp trên và nâng cao chất lượng sản phẩm Công ty cần tiếp tục pháp huy có hiệu quả hệ thống bảo đảm chất lượng ISO9002 mà công ty đã áp dụng được hai năm nay. Hệ thống này có tác dụng bảo đảm chất lượng sản phẩm từ khâu sản xuất đến khi giao sản phẩm cho khách hàng theo một tiêu chuẩn quốc tế, đồng thời việc đạt được chứng chỉ này sẽ giúp Công ty có thể xâm nhập dễ dàng hơn vào thị trường EU. Đồng thời, Công ty cần nhanh chóng có kế hoạch xây dựng để áp dụng hai hệ thống tiêu chuẩn mới là ISO8000 và ISO14000, thiết lập hệ thống quản lý môi trường trong quá trình sản xuất sản phẩm xuất khẩu nhằm đảm bảo sản phẩm xuất khẩu của Công ty không gây ảnh hưởng môi trường trong quá trình sản xuất. Nếu nhanh chóng áp dụng hai hệ thống tiêu chuẩn này thì chất lượng sản phẩm của Công ty sẽ có thể đuổi kịp và có thể vượt qua chất lượng sản phẩm của các đối thủ cạnh tranh trên thị trường EU, nhất là khi khoảng cách về chất lượng sản phẩm của công ty với đối thủ mạnh nhất-Trung Quốc không lớn lắm. Hơn nữa, việc đạt được tiêu chuẩn chất lượng quốc tế sẽ tạo điều kiện cho hàng của Công ty vào thị trường may mặc EU đầy khó tính được dễ dàng hơn. Các công ty Thương mại đặt hàng của Công ty không phải lo nghĩ về các sản phẩm không đạt chất lượng mà có thể yên tâm để đặt những đơn hàng lớn. Về lâu dài, sản phẩm của Công ty sẽ có được uy tín trên thị trường may mặc EU, đây là điều mà hiện tại Công ty chưa có được trong việc nâng cao sức cạnh tranh của mình. 1.2. Đa dạng hoá sản phẩm đi đôi với tập trung khác biệt hoá sản phẩm mà Công ty có lợi thế. Cơ sở của giải pháp này, chính là dựa trên mục đích hoàn thiện chất lượng sản phẩm, bởi chất lượng sản phẩm nếu được hiểu theo nghĩa rộng sẽ gồm cả chất lượng mẫu mã, kiểu mốt...Đặc biệt, đặc tính tiêu thụ hàng may mặc là mang tính thời vụ và tính thời trang, đòi hỏi mẫu mã phong phú, đa dạng luôn thay đổi. Do đó, đa dạng hoá sản phẩm là một công cụ cạnh tranh trực tiếp với các đối thủ cạnh tranh trên thị trường. Với Công ty Hanosimex, việc đa dạng hoá các chủng loại sản phẩm vào EU lại càng cần thiết, khi mà Công ty còn rất yếu ở khâu này trong khi nhu cầu tiêu dùng hàng may mặc của thị trường này đòi hỏi tính mốt từ 85-90% một tỉ lệ cao hơn rất nhiều so với nhu cầu bảo vệ thân thể 10-15%. Vì vậy, đa dạng hoá sản phẩm may mặc vào thị trường EU là biện pháp cần thực hiện ngay bên cạnh việc nâng cao chất lượng sản phẩm nhằm tạo cho sản phẩm có một sức cạnh tranh cao hơn. Hiện nay cơ cấu sản phẩm xuất khẩu của công ty sang thị trường EU chủ yếu là các loại quần áo dệt kim mẫu mã còn đơn giản, chủng loại sản phẩm này còn ít phần lớn là áo phông và các loại quần áo thể thao. Bên cạnh đó Công ty cũng xuất khẩu các sản phẩm khăn bông sang khu vực thị trường này. Mà trong thực tế các loại sản phẩm kinh doanh xuất khẩu của công ty ra thị trường nước ngoài còn có các loại vải dệt thoi, quần áo dệt thoi, vải demin và quần áo demin, một số loại mũ. Do vậy để thúc đẩy hoạt động xuất khẩu và tăng sức cạnh tranh trên thị trường hàng dệt may EU, Công ty có thể hiện đa dạng hoá sản phẩm theo các hướng sau: ă Đưa thêm các mặt hàng vào thị trường may mặc EU. Các mặt hàng này có thể là những sản phẩm mà Công ty đã sản xuất được nhưng chưa đưa vào thị trường EU do khả năng tiêu thụ không tốt trên thị trường này. Thực hiện theo hướng này, Công ty cần phải nghiên cứu về thị trường EU xem các sản phẩm mà mình sản xuất như: váy nữ, áo váy nữ, quần sịp nam nữ, quần áo may từ chất liệu vải mới- vải Denim có nhu cầu hay không và nếu có thì nhu cầu về kiểu dáng thế nào, có cần phải thay đổi hay không để từ đó có hướng đưa ra những sản phẩm phù hợp. Đa dạng hoá theo hướng này có thể ban đầu đem lại kết quả không cao bởi nó nó đòi hỏi sự đầu tư lớn nhưng nó lại có khả năng nâng cao sức cạnh tranh do có khả năng nâng cao uy tín và hình ảnh của Công ty. Các khách hàng EU sẽ biết đến Công ty không chỉ với những sản phẩm có chất lượng tốt giá cả phải chăng, mà còn ở sự đa dạng của chủgn loại sản phẩm. ă Đa dạng hoá màu sắc, kiểu dáng, mẫu mốt các sản phẩm may mặc xuất khẩu vào EU. Thực hiện theo hướng này có ưu điểm hơn là Công ty không mất công đầu tư lớn để nghiên cứu và đưa ra sản phẩm mới vào thị trường EU mà chỉ cần thay đổi đôi chút về màu sắc, kiểu dáng của sản phẩm đã có được vị trí nhất định trên thị trường EU. Tuy nhiên, để có thể nhanh chóng đa đạng hoá sản phẩm đưa vào thị trường may mặc EU không phải là điều dễ dàng có thể thực hiện một sớm một chiều với Công ty. Bởi năng lực của Công ty về công nghệ, vốn, thiết kế thời trang còn rất kém. Giải pháp phù hợp nhất với điều kiện của Công ty hiện là đa dạng hoá sản phẩm đi đôi với tập trung khác biệt hoá sản phẩm mà Công ty đã có được lợi thế. Hiện tại, sản phẩm mà Công ty có lợi thế và một vị thế nhất định trên thị trường EU là sản phẩm may mặc từ vải dệt kim, nhất là các áo PoloShirt, T-Shirt. Công ty có thể đa dạng hoá các sản phẩm này bằng cách tạo ra thêm nhiều mẫu mã với mầu sắc đa dạng. Các mẫu mã này không nhất thiết phải hoàn toàn mới so với sản phẩm cũ mà chỉ cần có một chút thay đổi ở cổ áo, vai áo, thân trước áo cũng góp phần tạo ra sự đa dang của sản phẩm. Cũng vậy, các màu sắc của sản phẩm có thể tạo ra sự đa dạng bằng cách một sản phẩm nên kết hợp nhiều màu sắc chứ không nhất thiết là phải tạo ra nhiều sản phẩm có nhiều màu sắc khác nhau. Bằng cách này Công ty có thể tạo ra những sản phẩm khác biệt với sản phẩm của các nước Trung Quốc, Inđônêxia, ấn Độ, bởi màu sắc giữa các nước khác nhau có thể là giống nhau vì về cơ bản nó không có gì khác biệt, nhưng một kiểu kết hợp các màu sắc thì không sản phẩm cuả nước nào giống nước nào cả. Nhưng dù sản phẩm của Công ty có khác biệt đến đâu cũng phải dựa trên sự thích nghi với thị trường tiêu dùng EU. Sự thích nghi này phụ thuộc hai yếu tố đó là: mức độ chấp nhận của người tiêu dùng cuối cùng và mức độ sẵn sàng chấp nhận của các khách hàng trung gian (ở đây là các công ty thương mại may mặc). Như vậy công ty cần tạo ra sự khác biệt trong sản phẩm của mình nhằm mục tiêu thích ứng ở mức cao nhất nhu cầu thị trường, từ đó sẽ tăng khả năng cạnh tranh của sản phẩm của công ty trước các đối thủ. Để tạo ra sự khác biệt về sản phẩm của công ty so với các đối thủ và đáp ứng một cách tốt nhất nhu cầu của người tiêu dùng. Công ty cần tiến hành các biện pháp sau: ă Nghiên cứu nhu cầu thị trường EU về sản phẩm quần áo dệt kim. ă Nghiên cứu các sản phẩm cùng loại của đối thủ cạnh tranh, xác định rõ những ưu thế và yếu điểm của các sản phẩm này. ă Tìm hiểu về yêu cầu và sở thích của khách hàng tiêu dùng đối với loại sản phẩm này. ă Tạo ra những sản phẩm thích ứng nhất với nhu cầu thị trường EU. Như vậy, đa dạng hoá sản phẩm kết hợp với tập trung vào khác biệt hoá các sản phẩm mà công ty có lợi thế sẽ giúp Công ty tạo ra được những sản phẩm có thể đáp ứng nhu cầu đa dạng của thị trường EU. Sự khác biệt của sản phẩm sẽ làm cho khách hàng ưa chuộng và tiêu dùng sản phẩm của Công ty mà không tiêu dùng sản phẩm của đối thủ cạnh tranh khác bởi ở các đối thủ này không có kiểu dáng của Công ty. Biện pháp kết hợp đa dạng hoá sản phẩm đi đôi với tập trung này cũng sẽ giúp Công ty có khả năng thực hiện được trong điều kiện năng lực hạn hẹp của mình, Công ty sẽ không mất nhiều năng lực để thực hiện nó. Nếu biện pháp này thực hiện có hiệu quả sẽ có nhiều khách hàng từ thị trường may mặc EU đến đặt hàng của Công ty, đặc biệt là các công ty Thương mại lớn bởi ngày nay các công ty này có xu hướng mua hàng trực tiếp hơn là phải đặt hàng theo thiết kế của mình, do đó mà sức cạnh tranh sản phẩm của Công ty sẽ được nâng cao hơn với các đối thủ cạnh tranh trên thị trường may mặc EU. Về lâu dài, biện pháp này sẽ làm tăng uy tín của sản phẩm và hình ảnh của Công ty, tạo cho sản phẩm may mặc của Công ty có thể tự đứng trên thị trường EU và giúp cho việc xuất khẩu trực tiếp vào thị trường này có thể sớm được thực hiện trong tương lai gần. 1.3.Giảm chi phí sản phẩm: Cạnh tranh bằng giá là biện pháp không thể thiếu với bất kỳ một sản phẩm xuất khẩu nào. Bên cạnh việc đưa ra những sản phẩm có chất lượng tốt, mẫu mã đa dạng đáp ứng nhu cầu của thị trường thì việc đòi hỏi sản phẩm phải có mức giá phù hợp hay thấp hơn giá của đối thủ cạnh tranh là công cụ hữu hiệu để tăng sức cạnh tranh cho sản phẩm. Khả năng cạnh tranh về giá của Công ty Hanosimex còn là tồn tại lớn chưa khắc phục được, nhất là khi giá sản phẩm may mặc trên thị trường thế giới đang có xu hướng giảm mạnh. Hơn nữa, các đối thủ cạnh tranh của Công ty như Trung Quốc, ấn Độ, Inđônêxia, Hồng Kông, đang tận dụng lợi thế về nguồn nguyên liệu sẵn có, trình độ công nghệ tiên tiến, đội ngũ lao động có tay nghề cao để khai thác tính hiệu quả theo quy mô nhằm thực hiện chiến lược cạnh tranh về giá. Để hàng hoá của Công ty trên thị trường EU không bị giảm sức cạnh tranh với hàng hoá của Trung Quốc, Hồng Kông, Inđônêxia, Công ty cần phải có kế hoạch sản xuất nhằm đưa ra mức giá thấp hơn hẳn mức giá các đối thủ cạnh tranh. Bởi hiện nay hình thức của Công ty đưa hàng vào EU chủ yếu là qua các công ty Thương mại, đây là các đối tượng trung gian trước khi đưa hàng đến tay người tiêu dùng cuối cùng, nên mức giá Công ty đưa ra phải làm sao hấp dẫn các công ty Thương mại để họ thấy với mức giá đó họ vẫn có lãi mà người tiêu dùng trên thị trường may mặc EU vẫn chấp nhận được. Muốn vậy, Công ty cần phải thực hiện đồng bộ các biện pháp nhằm giảm chi phí sản phẩm từ khâu thu mua nguyên liệu đầu vào đến khâu phân phối sản phẩm đầu ra. Công ty có thể thực hiện như sau: - Tiết kiệm nguyên phụ liệu đầu vào: Hiện nay chủ yếu nguyên phụ liệu sản xuất sản phẩm xuất khẩu của công ty chủ yếu phải nhập khẩu từ nước ngoài, do vậy thường chi phí nguyên vật liệu của công ty thường khá cao. Công ty nên tận dụng thu mua các nguyên liệu như vải, khuy,cúc áo sãn có ở trong nước mà có chất lượng tương đương so với nguyên liệu nhập khẩu ở nước ngoài nhằm giảm bớt chi phí về nguyên liệu sản xuất. - Để giảm chi phí trên mỗi đơn vị sản phẩm công ty cũng cần mở rộng qui mô sản xuất, tăng tốc độ đầu tư các máy móc thiết bị hiện đại vào trong dây chuyền sản xuất. Bên cạnh đó công ty cần tăng cường các hoạt động đào tạo nâng cao tay nghề cho người lao động nhằm tăng năng suất lao động tận dụng lợi thế về đường cong kinh nghiệm trong giảm chi phí sản xuất. Ngoài ra công ty cũng phải đưa ra những giải pháp thích hợp nhằm hạn chế số lượng lao động dôi dư, sử dụng một cách hiệu quả nhất năng suất của người lao động. - Mặt khác công ty nên thiết lập một hệ thống kiểm tra kiểm soát qui trình sản xuất một cách khoa học nhất nhằm khắc phục nhanh nhất những sai sót trong qui trình sản xuất và giảm tỉ lệ phế phẩm. Nếu giảm được tối đa chi phí sản xuất, Công ty sẽ có thể đưa ra được mức giá bán thấp hơn các đối thủ cạnh tranh mà chất lượng sản phẩm vẫn được đảm bảo. Khi đó sẽ có nhiều công ty Thương mại tìm đến đặt hàng của Công ty kéo theo sản lượng tăng, lợi nhuận tăng và uy tín sản phẩm của Công ty cũng dần được củng cố. Giải pháp này nếu được thực hiện cùng với hai giải pháp ở trên sẽ giúp cho sản phẩm có khả năng cạnh tranh cao hơn hẳn với các sản phẩm của các đổi thủ khác, nhất là hiện nay Công ty đã có ít nhiều lợi thế về chất lượng cao. 1.4. Nâng cao năng lực thiết kế, nghiên cứu phát triển mẫu mốt, táo sức cạnh tranh cho hàng hoá của Công ty. Trước xu thế thời trang luôn biến đổi, chu kỳ sống của các sản phẩm may mặc ngày càng ngắn, phần thắng trong cuộc cạnh tranh ở lĩnh vực may mặc sẽ dành cho doanh nghiệp nào có thể chủ động trong khau thiết kế sản phẩm và nhanh chóng đưa ra các sản phẩm mới có kiểu dáng hợp thị hiếu tiêu dùng. Để có thể nâng cao sức cạnh tranh của mình trên thị trường may mặc EU, Công ty Hanosimex cũng không nằm ngoài quy luật này. Trên thực tế, công tác thiết kế mấu mốt thời trang chưa được Công ty Hanosimex quan tâm thích đáng bởi hầu hết các hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty là bằng nguyên liệu được cung cấp và mẫu mã sẵn có. Công ty chưa có một bộ phận tạo mẫu riêng, công tác thiết kế mẫu mới chỉ dừng lại ở một số mặt hàng đơn giản, hoặc dựa trên những mẫu hàng gia công để tạo ra sản phẩm mới. Do đó, những sản phẩm của Công ty chủ yếu lấy mẫu mã từ những sản phẩm mà Công ty nhận gia công, chưa có thương hiệu riêng cho mình. Đây không phải là cách làm hay, sau này khi Việt Nam trực tiếp tham gia vào quá trình hội nhập kinh tế quốc tế luật bản quyền và bằng phát minh sáng chế của sản phẩm sẽ được thực thi chặt chẽ hơn, Công ty không thể dựa mãi vào mẫu mã nước ngoài. Với kinh nghiệm của một số nước đi trước như Trung Quốc, Hồng Kông, Inđonêxia, ưu tiên cho thiết kế mẫu mốt và marketing là một trong những chiến lược chính để phát triển ngành công nghiệp may mặc hội nhập và thế giới. Trung Quốc là nước cạnh tranh mạnh mẽ với hàng của Công ty, cũng có hàng chục viện mẫu thời trang và nhiều cơ sở liên doanh với nước ngoài về mẫu mốt. Ngoài ra, họ cũng có lực lượng hoạ sỹ nghiên cứu mẫu thời trang rất lớn. Vì vậy, nghiên cứu mẫu mốt thực sự là vũ khí cạnh tranh sắc bén để có thể cạnh tranh trên thị trường EU, Công ty cần thực hiện các vấn đề sau: - Trước mắt do Công ty chưa có đội ngũ thiết kế các sản phẩm xuất khẩu do vậy Công ty cần phải tạo lập mối quan hệ mật thiết với các viện mẫu thời trang để tạo thế chủ động trong việc đa dạng hoá sản phẩm xuất khẩu của Công ty trên thị trường EU. Bởi lẽ các cơ sở này nắm bắt thường xuyên hơn nhu cầu, thị hiếu trên thị trường, có đội ngũ nhân lực lành nghề trong lĩnh vực tạo mốt, có những thiết bị chuyên dụng. Khi có được mẫu mốt cần mạnh dạn tổ chức triển khai sản xuất thử và khi thành công thì nhanh chóng đưa ra để chiếm lĩnh thị trường EU. - Công ty cũng có thể tham khảo các mẫu quần áo đang được thịnh hành trên thế giới và thị trường EU thông qua các tạp chí thời trang hay các cuộc trình diễn thời trang quốc tế để thiết kế cho sản phẩm của mình. Tuy nhiên về lâu dài, Công ty nên xây dựng cho mình một kế hoạch phát triển phòng thiết riêng. Công ty cần có kế hoạch tuyển dụng các cán bộ thiết kế trong lĩnh vực may mặc. Tiêu chuẩn tuyển dụng có thể là: ă Cán bộ thiết kế phải có kĩ năng và trình độ thiết kế cao. ă Phải có khả năng sáng tạo tốt. ă Những cán bộ này phải có những am hiểu nhất định về các giá trị văn hoá, phong tục tập quán cũng như sở thích và tâm lý của người tiêu dùng EU. - Để công tác nghiên cứu mẫu mốt có thể triển khai tốt, cũng nhu có thể xây dựng được bộ phận chuyên tạo mẫu đúng yêu cầu, Công ty cần phải dành chi phí thiết kế chi phí mẫu mốt mới một nguồn kinh phí thích đáng (khoảng2-5% doanh thu hợp lý). Trong tương lai nếu thực hiện được giáp pháp này, Công ty sẽ có thể chủ động trong khâu thiết kế mẫu, tạo ra những sản phẩm đa dạng đáp ứng tính nhu cầu mốt luôn thay đổi của thị trường EU. Chủ động trong khâu thiết kế còn giúp Công ty có thể kịp thời đưa ra các sản phẩm mới thay thể các sản phẩm đang ở giai đoạn cuối của chu kỳ sống mà không phải chờ vào các mẫu hàng của các công ty Thương mại. Ngoài ra công ty còn có thể tạo ra được những sản phẩm khác biệt để tạo ra một sự cách biệt trong kiểu dáng với các đối thủ cạnh tranh nhằm nâng cao sức cạnh tranh cho sản phẩm của mình trên thị trường may mặc EU. 1.5. Tăng cường công tác nghiên cứu thị trường may mặc EU. Các nỗ lực của Công ty về cải tiến chất lượng, mẫu mã, giảm giá cả sẽ trở thành vô nghĩa nếu không được xem xét xem có phù hợp với thị trường EU hay không. Sản phẩm mà Công ty đưa ra có chất lượng cải tiến vượt bậc với các sản phẩm trước đây nhưng có thể nó vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu chất lượng sản phẩm đang lên cao ở thị trường EU, cũng vậy các mẫu mốt của Công ty đang được ưa chuộng trong nước và trên thị trường thế giới nhưng chưa chắc đã phù hợp với nhu cầu thời trang của thị trường may mặc EU. Do vậy, để mở rộng thị phần nâng cao khả năng cạnh tranh của Công ty phải nắm bắt được nhu cầu, đặc điểm của thị trường EU. Ngoài ra, công tác nghiên cứu thị trường cũng gắn liền với việc nghiên cứu, phân tích đối thủ cạnh tranh một cách rõ ràng và có hệ thống để xác định được sức cạnh tranh của Công ty trên thị trường EU. Công ty cần phải xác định rõ các mục tiêu của đối thủ cạnh tranh, mục tiêu của đối thủ cạnh tranh, mục tiêu nào là chính, các chiến lược cạnh tranh mà đối thủ áp dụng sẽ ảnh hưởng như thế nào tới thị phần của Công ty. Song song với việc nghiên cứu đối thủ cạnh tranh, nghiên cứu thị trường còn phải phân tích khách hàng, tức là phân tích những yêu cầu, thị hiếu, thói quen của từng nhòm khách hàng. Qua việc nghiên cứu khách hàng, Công ty có thể nắm bắt được những đòi hỏi của họ và từ đó đưa ra các chủng loại sản phẩm phù hợp với từng nhóm khách hàng, góp phần nâng cao sức cạnh tranh của hang may mặc trên thị trường EU. Thông tin được sử dụng cho nghiên cứu thị trường EU được thu thập từ nguồn thông tin thứ cấp và sơ cấp. - Thông tin thứ cấp có thể được thu thập từ rất nhiều nguồn khác nhau. Tuy nhiên có hai nguồn mà Công ty có thể thu thập dễ dàng nhất và thông tin có độ chính xác cao là từ các tổ chức xúc tiến thương mại của EU và phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam hoặc thông qua các đại sứ quán của Việt Nam tại các nước thuộc EU. - Thông tin sơ cấp do tự Công ty tiến hành thu thập trên thị trường EU. Điều này là rất khó khăn vì chi phí cho các chuyến đi khảo sát thị trường EU rất cao, Công ty chưa có văn phòng đại diện tại EU nên việc tiến hành các phương thức thu thập thông tin như phỏng vấn, khảo sát …chưa thể thực hiện được. Vì vậy, trong thời gian tới việc thiết lập văn phòng đại diện của Công ty ở EU là rất cần thiết, nó không chỉ phục vụ cho hoạt động nghiên cứu thị trường mà còn phụ thuộc cho các hoạt động khác của công ty như hoạt động Marketing... Tầm quan trọng của công tác nghiên cứu thị trường là không thể phủ định, thế nhưng hiện nay Công ty lại chưa có bộ phận chuyên nghiên cứu về thị trường EU để có thể nắm bắt kịp thời các thông tin về thị trường may mặc này. Nên các mẫu sản phẩm của Công ty chủ yếu dựa vào mẫu theo đơn đặt hàng của các công ty Thương mại hay các giá cả của các sản phẩm của Công ty đưa là giá tham khảo của các giai đoạn trước, đôi khi mức giá này thường là không phù hợp với các chiến lược cạnh tranh về giá với các đối thủ cạnh tranh, dẫn đến làm yếu đi sức cạnh tranh sản phẩm của Công ty. Để khắc phục hạn chế này, Công ty cần nhanh chóng xây dựng một bộ phận chuyên nghiên cứu thị trường,bộ phận này nên được tổ chức thành một phòng chức năng, có thể là phong Marketing. Nhiệm vụ của phòng này sẽ là: - Thu thập các thông tin quan trọng về thị trường EU- thông tin về sản phẩm, thị hiếu tiêu dùng, sản phẩm của đối thủ cạnh tranh, các thông tin về chiến lược cạnh tranh của đối thủ, đặc biệt là thông tin về các kênh phân phối mà công ty có thể tiếp cận để đưa hàng vào thị trường EU. - Cập nhập các thông tin về thị trường may mặc EU thường xuyên để từ đó định kỳ phân tích và đánh giá sức cạnh tranh hàng may mặc của Công ty để từ đó đưa ra các giải pháp giúp Công ty khác phục các tồn tại trong cuộc cạnh tranh của mình. - Bộ phận này cũng là nơi nghiên cứu để xây dựng các chiến lược, kế hoạch, phương hướng, giải pháp cạnh tranh cho hàng của Công ty trên thị trường EU. Như vậy, nếu tổ chức tốt bộ phận này, Công ty sẽ không phải đối mặt với nỗi lo sản phẩm của mình không đáp ứng thị hiếu may mặc EU, hay sợ sản phẩm lạc hậu so với sản phẩm của các đối thủ cạnh tranh. Ngược lại, bộ phận này sẽ giúp Công ty phản ứng nhanh với các nhu cầu thậm chí còn có thể đi trước các đối thủ cạnh tranh một bước và dành lấy thị phần cao trên thị trường may mặc EU. 1.6. Nâng cao hiệu quả của hoạt động xúc tiến thương mại trên thị trường EU. Đây là phương pháp thường được áp dụng để nâng cao sức cạnh tranh của các đối thủ cạnh tranh hiện hữu trên thị trường. Vì vậy, nếu Công ty xây dựng được chính sách xúc tiến hợp lý cho việc tăng cường hoạt động xuất khẩu sản phẩm của mình trên thị trường EU thì Công ty sẽ tăng được khả năng cạnh tranh so với các đối thủ. Muốn vậy Công ty phải làm tốt các mặt sau: Quảng cáo: Để xây dựng được chương trình quảng cáo có hiệu quả nhất trên thị trường EU Công ty cần xây dựng một chiến lược về phương tiện truyền thông có hiệu quả cao và phù hợp với khả năng của Công ty. Công ty có thể kết hợp quảng cáo trên các phương tiện như: Quảng cáo qua Internet, qua các tạp chí chuyên ngành, các catalog và ấn phẩm của Công ty. Do đặc điểm của hàng may mặc là hàng tiêu dùng có tính thường xuyên nên Công ty cần chú trọng tới các phương tiện quảng cáo, có tính khuyếch đại lớn như quảng cáo qua mạng và quảng cáo trên các tạp chí chuyên ngành. Việc sử dụng hính thức quảng cáo nào còn phải bảo đảm có sự thồng nhất và hài hoà với phương thức xuất khẩu của Công ty. Ngoài ra việc thiết kế thông điệp quảng cáo của công ty cùng cần có sự phù hợp với môi trường Văn Hoá, tâm lý tiêu dùng hàng may mặc của người EU. Các công tác xúc tiến bán hàng: Công ty cần duy trì và phát huy tác dụng của hoạt động xúc tiến bán hàng thông qua các hội chợ thời trang tiêu dùng quốc tế đặc biệt là các hội chợ hàng tiêu dùng được tổ chức ở các nước EU bằng những mẫu mã luôn thay đổi, phong phú nhưng thích hợp với thị hiếu tiêu dùng từng thời kỳ. Hoạt động này thực sự có ý nghĩa đối với công ty trong việc nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm của mình trên thị trường EU, vì thị trường hàng may mặc đang có sức cạnh tranh gay gắt giữa các nhà sản xuất, các sản phẩm tương đối giống nhau về chất lượng giá cả, khối lượng hàng bán lại phụ thuộc vào mức độ quen biết giữa công ty với khách hàng. Các hình thức chủ yếu của xúc tiến bán hàng là thay đổi hình thức mẫu mã sản phẩm, khuyến khích mua hàng (giảm giá, tặng quà, bán trả góp...), trưng bày catalogue tại điểm bán hàng. Ngoài ra các của hàng bán lẻ của công ty phải được trang hoàng đẹp, đầy đủ về mẫu mã, việc thử hoặc đổi hàng phải được tạo điều kiện thuận lợi nhất. Khi đã có đủ tiềm lực về tài chính, ngoài việc tham gia trình diễn thời trang hay các cuộc giới thiệu sản phẩm tại các hội chợ, công ty có thể tự tổ chức địng kỳ các buổi trình diễn thời trang trong nước và tại các hội chợ trong và ngoài nước để tạo ra phong cách và ấn tượng riêng của công ty và sản phẩm. Về mặt phân phối: Việc tạo lập một hệ thống phân phối hợp lý sẽ giúp Công ty tăng cường khả năng xuất khẩu và thu thập được nhiều thông tin về nhu cầu loại sản phẩm mà Công ty đang kinh doanh trên thị trường EU. Hiện tại kênh phân phối sản phẩm của Công ty xuất khẩu trên thị trường EU chỉ có một thành viên là các Công ty thương mại vì vậy để thực hiện tốt việc phân phối sản phẩm của mình Công ty cần phải thu thập thông tin về các Công ty thương mại, từ đó chú trọng và thiết lập quan hệ làm ăn lâu dài với những Công ty thương mại có uy tín trong lĩnh vực phân phối sản phẩm may mặc. Đặc biệt Công ty cần quan tâm hơn tới việc tìm kiếm và thiết lập mối quan hệ kinh doanh với các Công ty thương mại thuộc thuộc các quốc gia EU. Đây có thể xem là giải pháp hợp lý nhất đối với việc nâng cao uy tín sản phẩm của Công ty và thực hiện chủ động hơn các hoạt động trên thị trường may mặc EU. Các Công ty thương mại này phải có uy tín trong lĩnh vực phân phối đối với người tiêu dùng EU, phương thức này cho phép sản phẩm của Công ty thâm nhập vào thị trường EU mà không bị các yếu tố môi trường cản trở đáng kể. Hơn nữa, hàng may mặc của Công ty vẫn chưa có một thương hiệu riêng mà phải sử dụng nhãn hiệu của các nhà phân phối, nên việc lựa chon các Công ty thương mại có uy tín trên EU sẽ có tác dụng tăng uy tín sản phẩm của Công ty. Tuy nhiên về lâu dài khi đã có đủ tiềm lực và kinh nghiệm, Công ty cũng nên tự thiết lập cho mình một kênh phân phối riêng trên thị trường EU để phân phối trực tiếp sản phẩm đến tay người tiêu dùng cuối cùng. Có như vậy Công ty mới có thể nắm bắt kịp thời được nhu cầu đang thay đổi trên thị trường EU và từ đó có thể đưa ra các sản phẩm phù hợp trước các đối thủ cạnh tranh của mình. Muốn vậy ngay từ bây giờ Công đã ty phải có kế hoạch thiết lập một kênh phân phối và từng bước thực hiện nó. 1.7. Nâng cao năng lực sản xuất để tạo ra những sản phẩm có sức cạnh tranh. Một trong những nguyên nhân sâu sa làm cho sản phẩm của Công ty chưa có sức cạnh tranh cao với các sản phẩm của các đối thủ cạnh tranh đó là năng lực sản xuất của Công ty còn rất yếu. Do vậy, để nâng cao sức cạnh tranh hàng may mặc trên thị trường EU, Công ty cần phải tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật và đổi mới công nghệ bằng các biện pháp sau: ă Khai thác tối đa công suất hiện có của các nhà máy may. ă Đầu tư dây chuyền sản xuất mới đồng bộ từ khâu cắt đến khi hoàn thành sản phẩm may cuối cùng. ă Xây dựng các chương trình tu sửa nhà xưởng đạt chất lượng cao. ă Công ty nên nâng cấp các phòng kiểm tra chất lượng tại nhà máy có cùng điều kiện vật chất với phòng KCS trung tâm, và phòng khớp màu dưới sự quản lý của phòng kiểm tra chất lượng. Đi đôi với việc tăng cường cơ sở vật chất Công ty cần phải tăng tốc đầu tư công nghệ mới. Công ty có lợi thế là rất am hiểu về công nghệ mới của các thiết bị sản xuất, đây là thuận lợi để công ty có thể tăng tốc đầu tư công nghệ mới. Công ty có thể thực hiện theo các hướng sau: ă Ký hợp đồng với các chuyên gia quốc tế để tự giúp việc mua săm các công nghệ phù hợp cho Công ty, đảm bảo triển khai sử dụng đúng và có hiệu quả nhất nhà xưởng và thiết bị mới. ă Triển khai một chương trình đầu tư có mục tiêu để mua công nghệ thông tin sãn có mới nhất đặc biệt là các hệ thống thông tin quản lý. Với hệ thống công nghệ thông tin này sẽ giúp Công ty thực hiện việc giao hàng một cách đáng tin cậy trong thời gian ngắn nhất với giá cạnh tranh nhất, chất lượng tốt nhất đến với khách hàng. Công nghệ này còn giúp công ty đánh giá chinh xác hiệu quả đối với đầu tư, việc ra quyêt định một cách có hiệu quả nhất trong việc mua hàng và cung cấp nhờ đó mà chi phí tồn kho có thể duy trì ở mức hợp lý. Việc đổi mới công nghệ của Công ty cần hướng tới các mục tiêu: + Nâng cao chất lượng sản phẩm hiện có. + Giảm giá bán của sản phẩm. + Đa dạng hoá sản phẩm, khai thác tốt nhất những sản phẩm là thế mạnh của Công ty như: các loại áo dệt kim Poloshirt, Tshirt... Khi thực hiện đổi mới công nghệ Công ty cần phải nghiên cứu thị trường công nghệ trong và ngoài nước, đánh giá phân tích kỹ lưỡng dây chuyền sản xuất mà mình dự định sẽ mua để có thể tiếp nhận được công nghệ tiên tiến. Để có nguồn vốn đầu tư đối mới công nghệ, nâng cao năng lực sản xuất Công ty có thể huy đồng bằng nguồn vốn tự có, vay ngân hàng, hợp tác với các đối tác nước ngoài. Hiện nay lãi suất ngân hàng đã giảm nhiều so với trước nhưng tỷ lệ cho vay trung và dài hạn trong tổng dư nợ thấp nên các doanh nghiệp không có điều kiện vay vốn để đầu tư chiều sâu. Các khoản vay tín dụng ưu đãi của nhà nước hay nước ngoài với lãi xuất thấp lại không dễ dàng có được nên khả năng đầu tư đổi mới công nghệ dệt may là rất hạn chế. Có nhiều doanh nghiệp vì không có nguồn vay dài hạn đã phải vay trung hạn và ngắn hạn để đầu tư, lãi không kịp trả dẫn đến tình trạng nợ lớn có nguy cơ phá sản. Như vậy, huy động vốn từ nguồn đi vay là không mấy khả thi đối với các doanh nghiệp dệt may. Một nguồn vốn khác có thể huy động là vốn tự có của doanh nghiệp được tích luỹ từ lãi của hoạt động sản xuất kinh doanh thì cũng còn nhỏ, chỉ có thể cải tiến, nâng cấp điều kiện lao động chứ để đầu tư chiều sâu là khó. Để huy động nội lực, công ty có thể tiến hành cổ phần hoá doanh nghiệp song công ty chưa có kế hoạch thực hiện kế hoạch này mà hiện nay việc huy động vốn của công ty vẫn chủ yếu là đi vay. Công ty cũng có thể huy động vốn bằng cách hợp tác với người nước ngoài. Đầu tư nước ngoài trực tiếp sẽ mang lại không chỉ vốn mà kèm theo đó còn là công nghệ tiên tiến và công nghệ quản lý hiện đại, hứa hẹn một sự phát triển vượt bậc nếu theo hướng đầu tư này. 1.8. Chăm lo hơn nữa tới công tác đạo tạo nguồn nhân lực. Nguồn nhân lực là yếu tố cốt lõi của hoạt động sản xuất kinh doanh cũng như trong bất cứ một cuộc cạnh tranh nào. Một doanh nghiệp có nguồn nhân lực có trình độ cao, được chuyên môn hoá, hăng say làm việc, chắc chắn sẽ sớm nâng cao được vị thế và sức cạnh tranh của mình trên thị trường trong nước và quốc tế. Hiện nay, điều mà các doanh nghiệp nói chung và Công ty Hanosimex nói riêng thiếu nhất là đội ngũ lao động có trình độ, năng lực thực sự và bộ máy quản lý hoạt động có hiệu quả. Nêu các doanh nghiệp làm tốt điều này sẽ góp phần làm cho hoạt động xuất khẩu được trôi chảy, nhịp nhàng hơn và do đó nâng cao sức cạnh tranh của hàng hoá. Vì vậy, Công ty Hanosimex cần phải chú trọng nâng cao trình độ đội ngũ lao động: Đối với những người làm công tác xuất nhập khẩu ở công ty hiện nay còn tồn tại một nghịch lý là những người làm việc lâu năm có kinh nghiệm chuyên môn vững vàng thì lại yếu về ngoại ngữ, trong khi những người trẻ giỏi về ngoại ngữ lại thiếu kinh nghiệm sử lý công tác chuyên môn. Do vậy, trong thời gian tới, công ty phải thường xuyên gửi các cán bộ trẻ đi đào tạo nhằm nâng cao kiến thức về kinh doanh quốc tế, củng cố nghiệp vụ xuất nhập khẩu tại các trường đại học ở trong và ngoài nước. Đồng thời có kế hoạch đào tạo lại số cán bộ ở phòng Xuất nhập khẩu để họ có điều kiện nâng cao nghiệp vụ, trình độ ngoại ngữ. Đối với đội ngũ công nhân trực tiếp sản xuất là những người ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng sản phẩm của công ty, do đó công ty cần có kế hoạch nâng cao tay nghề cho đội ngũ này. Công ty có thể gửi những công nhân trẻ, tay nghề thấp đi đào tạo tại các trung tâm dạy nghề hoặc các trường đào tạo chuyên ngành dệt may. Hoặc có thể đào tạo tại chỗ bằng cách tổ chức các lớp học thuê các chuyên gia kỹ thuật đến giảng dạy, công ty có thể nâng cao tay nghề cho các lao động trẻ bằng các cử các công nhân kỹ thuật bậc cao kèm cặp, hướng dẫn ngay tại nơi làm việc, điều này có thể giúp cho người có tay nghề thấp nhanh chóng tiến bộ. 1.9 Xây dựng một thương hiệu quốc tế cho hàng hoá trên thị trường may mặc EU để tăng sức cạnh tranh của Công ty. Khi đã có được những sản phẩm có chất lượng, mẫu mã đa dạng, giá cả thấp thì làm thế nào để các công ty Thương mại và người tiêu dùng EU biết đến sản phẩm của Công ty. Công ty nên tạo cho sản phẩm của mình một hình ảnh và một uy tín, khi đã có được một uy tín nhất định trên thị trường EU thì sức cạnh tranh của Công ty cũng được nâng lên. Hiện nay, Công ty chưa làm được điều này, người tiêu dùng biết đến sản phẩm của Công ty không phải bằng thương hiệu của chính Công ty mà bằng thương hiệu của các hàng nước ngoài. Việc sản xuất gia công và gắn tên, mác nước ngoài đem lại thuận lợi cho công ty không phải lo lắng trong khâu tiêu thụ trực tiếp với người tiêu dùng, nhưng có bất lợi là về lâu dài công ty không khẳng định được mình trên thị trường. Tuy nhiên, điểm bất lợi này có thể được khắc phục trong ngày một ngày hai. Để thâm nhập vào thị trường nước ngoài, nhất là thị trường các nước công nghiệp phát triển, việc tạo uy tín qua nhãn hiệu hàng hoá sẽ gặp phải những khó khăn nhất định và công ty cần phải khắc phục những khó khăn đó trong phạm vi có thể. Trước mắt, các việc cần làm để xây dựng thương hiệu là: Kỹ thuật: hàng hoá đã đăng ký nhãn hiệu phải đảm bảo chất lượng ổn định, công ty không nên để tính chất lao động thủ công ảnh hưởng tới chất lượng của sản phẩm. Tài chính: chi phí cho các hoạt động quảng cáo, xúc tiến ...là rất cao, do đó công ty cần sử dụng và kết hợp chi tiêu một cách hợp lý và có hiệu quả. Cung cấp: sản phẩm đã có nhãn hiệu phải đảm bảo lúc nào cũng cung cấp đủ nhu cầu thị trường, nếu chỉ vắng bóng trên thị trường một thời gian vì một lý do nào đó sẽ bị lu mờ và bị sản phẩm khác thế chỗ. Vị trí của những người đến sau thường thấp và không có được thị phần lớn. Nhưng khi đã có đủ điều kiện, công ty cần mạnh dạn gắn nhãn mác riêng của mình lên sản phẩm, bước đầu có thể gặp khó khăn do chưa được người mua tin tưởng, song nếu không có bước đầu đó công ty sẽ không bao giờ đến được với khách hàng bằng chính tên tuổi của mình. 2. Các kiến nghị với Nhà nước. Để nâng cao sức cạnh tranh hàng hoá của công ty trên thị trường EU thì chỉ những nỗ lực từ phía công ty thôi chưa đủ mà phải có sự trợ giúp từ phía Nhà nước. Sau đây em xin nêu ra một số kiến nghị đối với Nhà nước để góp phần nâng cao sức cạnh tranh hàng hoá của Công ty Hanoisimex nói riêng và hàng hoá Việt Nam nói chung trên thị trường EU. 2.1. Phát triển nguồn nguyên liệu trong nước nhằm giúp các doanh nghiệp chủ động trong khâu nguyên liệu để nâng cao sức cạnh tranh trên thị trường may mặc. Như đã phân tích ở chương II, một trong những nguyên nhân của chất lượng sản phẩm may mặc Việt Nam kém, giá thành sản phẩm cao là do nguồn nguyên liệu dệt may trong nước kém phát triển dẫn đến sức cạnh tranh kém trên thị trường thế giới. Nguyên liệu dành cho ngành công nghiệp dệt may được chia thành 2 loại: một loại có nguồn gốc từ thiên nhiên như bông, đay, tơ tằm...; một loại có nguồn gốc từ các quá trình hoá học như sợi tổng hợp, nhân tạo. Trên thế giới, nhiều nước đã biết phát huy lợi thế về từng chủng loại nguyên liệu để phát triển ngành công nghiệp dệt may của mình như Nhật, Trung quốc...là những nước phải nhập khẩu gần như toàn bộ số nguyên liệu thiên nhiên nhưng nhờ tự túc dược nguồn nguyên liệu hoá học nên công nghiệp dệt may cũng hết sức phát triển. Ngược lại, nhiều quốc gia trên thế giới là các nước xuất khẩu bông nhưng công nghiệp dệt may lại kém phát triển như: Pakisttan, Uzbekistan...Do vậy, có thể thấy rằng có được nguồn nguyên liệu chỉ là điều kiện cần chứ không phải là điều kiện đủ để phát triển ngành dệt may. Việt Nam thuận lợi về điều kiện tự nhiên để phát triển nguồn nguyên liệu thiên nhiên nhưng để phát triển ổn định và bền vững cần có những điều kiện sau: ă Chính phủ phê duyệt quy hoạch vùng nguyên liệu các loại sơ thiên nhiên cho ngành dệt may bao gồm vùng trồng bông, vùng trồng dâu nuôi tằm, vùng trồng đay...Từ đó, có các chính sách hợp lý trong việc bảo đảm cung cấp lương thực và các nhu yếu phẩm khác cho nông dân các vùng này, đồng thời có cơ chế thích hợp trong việc khai thác, bảo toàn và phát triển vùng nguyên liệu lâu dài. ă Cho phép trích tỷ lệ % trong doanh thu để lấy nguồn bù đắp cho quy hoạch và phát triển vùng nguyên liệu. Giảm hoặc miễn thuế GTGT đối với sản phẩm được sản xuất từ nguyên liệu trong nước ( bông, đay, tơ tằm) để ngành dệt may dùng số tiền đó đầu tư cho các hộ cung cấp nguyên liệu. ă Đẩy nhanh qua trình xây dựng các khu công nghiệp hoá dầu, làm tiền đề cho việc sản xuất các loại sơ sợi tổng hợp, góp phần tạo thế chủ động về nguyên liệu cho ngành. 2.2. Cải thiện chính công nghệ nhằm nâng cao khả năng công nghệ cho các doanh nghiệp xuất khẩu. Thực trạng công nghệ yếu kém và lạc hậu trong các doanh nghiệp Việt Nam đã được nêu ra tại nhiều hội nghị, diễn đàn. Nhưng tình hình này chậm được cải thiện nên đã ảnh hưởng đến chất lượng và khả năng cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam trên thị trường thế giới như thị trường EU. Việc xây dựng một chính sách công nghệ hợp lý có thể khắc phục được những nhược điểm này, muốn vậy nhà nước phải thực hiện một số biện pháp sau: ă Cho phép các thành phần kinh tế được tham gia trực tiếp và bình đẳng vào hoạt động nhập khẩu công nghệ. Bởi vì vấn đề lãng phí trong nhập khẩu công nghệ chỉ tồn tại ở khu vực quốc doanh do việc qui định trách nhiệm chưa rõ ràng còn các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh thì ít khi mắc phải sai lầm trong nhập khẩu thiết bị do phải quan tâm đến hiệu quả đầu tư. Thực hiện điều này buộc các doanh nghiệp quốc doanh vì mục tiêu sống còn cũng phải vươn lên để cạnh tranh với họ, nhưng lưu ý hơn đến hiệu quả đầu tư từ đó cải tiến công nghệ và nâng cao hiệu quả sử dụng công nghệ. ă Chú trọng nhập khẩu công nghệ đòi hỏi xuất đầu tư thấp thu hồi vốn nhanh, có khả năng tạo thêm nhiều chỗ làm việc trực tiếp và gián tiếp. Việc hiện đại hoá công nghệ là cần thiết nhưng phải lấy hiệu quả kinh tế - xã hội làm tiêu chuẩn cơ bản để lựa chọn. Việc nhập khẩu thiết bị tiên tiến và hiện đại cho mọi ngành sản xuất nhiều khi lại là sự lãng phí vì không phù hợp với khả năng quản lý và vận hành của cơ sở sử dụng thiết bị. Các thiết bị công nghệ cao thường sử dụng ít lao động, không tận dụng được thế mạnh lao động rẻ. Giá thiết bị cao còn làm tăng giá thành và làm suy yếu sức cạnh tranh của hàng hoá. Vì lý do đó, nhập khẩu thiết bị tiên tiến cần được tính toán ký về mặt hiệu quả, tập trung vào một số ngành then chốt như năng lượng, tin học, điện tử, viễn thông. Còn những ngành còn lại cần tận dụng các loại công nghệ có trình độ vừa phải sử dung nhiều lao động, phù hợp với trình độ phát triển của ta. ă Nhà nước đầu tư thành lập Ngân hàng dữ liệu công nghệ cung cấp thông tin cho doanh nghiệp. Việc này đã được làm nhưng qui mô còn nhỏ, tới đây nên tiến hành đầu tư một cách bài bản hơn cho lĩnh vực này, đồng thời tăng cường phổ biến tới các doanh nhân để họ biết và cố điều kiẹn tham khảo trước khi ra quyết định đầu tư. ă Tạo lập thị trường công nghệ để các sản phẩm khoa học công nghệ được trả giá đúng mức và lưu thông bình thường như một hàng hoá đặc biệt. Thi hành nghiêm túc các qui định của luật pháp về bảo hộ quyền sở hữu công nghệ cũng là biẹn pháp quan trọng để khuyến khích đầu tư khoa học phục vụ cho công cuộc đổi mới và cải tiến công nghệ. ă áp dụng chế độ đăng ký và kiểm tra chất lượng bắt buộc đối với các hàng xuất khẩu để vừa thúc đẩy các doanh nghiệp quan tâm hơn đến vấn đề công nghệ (đặc biệt là công nghệ sạch), vừa nâng cao sức cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam trên thị trường thế giới. 2.3. Chính sách hỗ trợ xuất khẩu. Hiện nay, Việt Nam chưa thành lập được quỹ bảo hiểm xuất khẩu cũng như quỹ hỗ trợ xuất khẩu để khuyến khích các doanh nghiệp mạnh dạn tham gia hoạt động này, nhất là trong điều kiện thị trường thế giới đầy biến động. Các doanh nghiệp nhỏ, vốn ít vẫn không giám mạo hiểm bán hàng theo phương thức bán trả chậm, trả góp...mặc dù đủ điều kiện ký kết hợp đồng xuất khẩu. Vẫn chưa có hiệp hội ngành may mặc xuất khẩu để hỗ trợ trong việc nghiên cứu thị trường, hỗ trợ về giá cả...Tuy nhiên, đã có quỹ thưởng xuất khẩu. Vừa qua, bộ thương mại đã ban hành quy chế quản lý và sử dụng quỹ thưởng xuất khẩu nhằm khen thưởng, động viên và khuyến khích các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh có thành tích xuất sắc và đạt hiêụ quả cao trong hoạt động xuất khẩu. Để hỗ trợ tích cực hơn nữa trong hoạt động xuất khẩu của các doanh nnghiệp, nhà nước cần sớm thực hiện các giải pháp sau: ă Thành lập quỹ bảo hiểm và quỹ hỗ trợ xuất khẩu chung cho cả nước và cho phép công ty doanh nghiệp Hà Nội thành lập quỹ hỗ trợ khi giá cả thị trường thế giới có nhiều biến động, gặp nhiều rủi ro trong việc thực hiện hợp đồng ngoại thương, trong quá trình vận chuyển hàng xuất khẩu. ă Chính Phủ sớm ra quyết định thành lập hiệp hội dệt may Việt Nam nhằm tập hợp và hỗ trợ các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế tham gia xuất khẩu. Đồng thời nhanh chóng xúc tiến việc thành lập cơ quan xúc tiến thương mại chuyên về thị trường xuất khẩu, trong đó có thị trường hàng may mặc. ă Chính phủ cần tạo điều kiện thuận lợi nhất cho các doanh nghiệp sản xuất hàng dệt may xuất khẩu như: hỗ trợ vốn, cho vay vốn với lãi xuất thấp đối với các doanh nghiệp thiếu vốn để sản xuất hoặc thực hiện hợp đồng khi đã có thị trường và đối tác để xuất khẩu hoặc doanh nghiệp mở rộng hoặc tham gia vào thị trường mới... ă Nhà nước có chính sách hỗ trợ cho các vệ tinh cung ứng dịch vụ, nguyên phụ liệu cho hàng dệt may xuất khẩu: chính sách cho vay vốn, trợ giúp về mặt kỹ thuật. 2.4. Đẩy mạnh hoạt động xúc tiến thương mại và cung cấp thông tin về thị trường may mặc EU cho các doanh nghiệp. Thực tế quan hệ buôn bán Việt Nam- EU cho thấy các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu của Việt Nam rất thiếu thông tin về thị trường EU bởi vì họ không chịu bỏ tiền hoặc không có khả năng bỏ tiền ra cho những chuyến đi nghiên cứu, thăm dò thị trường hay tổ chức các cuộc hội thảo tại thị trường EU. Vì vậy, họ rất cần sự giúp đỡ của nhà nước. Trong thời gian tới nhà nước cần thực hiện một số biện pháp sau: ă Đứng ra tổ chức và đài thọ kinh phí những chuyến đi thăm dò thị trường cho doanh nghiệp Việt Nam và các tổ chức trưng bày sản phẩm Việt Nam tại EU. ă Thành lập đại diện các công ty dịch vụ và xuất nhập khẩu Việt Nam tại EU do bộ thương mại trực tiếp chỉ đạo thông qua nghiệp vụ kinh doanh ngay trên thị trường EU, cơ quan đại diện sẽ là đơn vị cùng với Thương vụ cung cấp các thông tin kinh tế thương mại, đặc biệt là những thông tin nghiệp vụ cho Bộ cũng như các công ty và tổ chức xuất nhập khẩu trong nước. ă Sớm thành lập Cục xúc tiến thương mại để làm cầu nối giữa Bộ thương mại, Thương vụ tại các nước với các doanh nghiệp Việt Nam cũng như nước ngoài trong việc trao đổi, thu thập và phổ biến các thông tin về thị trường nước ngoài. Về lâu dài chính phủ cần thành lập một ngân hàng dữ liệu về thị trường EU để sẵn sàng cung cấp thông tin cho các doanh nghiệp khi họ cần. 2.5. Tăng cường hơn nữa quan hệ Thương mại với EU và các tổ chức kinh tế Thế giới. Chính phủ Việt Nam cần đẩy mạnh các công tác ngoại giao, thiết lập mối quan hệ tốt đẹp với chính phủ các quốc gia thuộc EU, khối EU và các tổ chức kinh tế thế giới, nhằm giành được các ưu đãi tối huệ quốc, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp Việt Nam nói chung và Công ty Hanoisimex nói riêng có thể xuất khẩu vào thị trường này một cách thuận lợi nhất, giảm tối thiểu các hạn chế kinh doanh để họ đủ tự tin và khả năng cạnh tranh với các doanh nghiệp trên thế giới. Nhà nước có thể thực hiện các biện pháp cụ thể sau: ă Nhà nước mà trực tiếp là Bộ Thương Mại cần xây dựng được tiến trình gia nhập WTO có hiệu quả. ă Nhà nước tích cực tham gia các diễn đàn quốc tế và khu vực để Việt Nam nhanh chóng trở thành thành viên của WTO. ă Quan hệ tốt với các thị trường EU nhằm tạo dựng được khuôn khổ pháp lý tốt đối với các thị trường này để sản xuất hàng tiêu dùng Việt Nam nói chung và hàng dệt may nối riêng được hưởng các ưu đãi đặc biệt như hạn ngạch, tối huệ quốc... và có điều kiện để xuất khẩu với khối lượng lớn. ă Tạo điều kiện cho ngành dệt may tham gia vào các hoạt động quốc tế, các diễn đàn chuyên ngành của khu vực để có điều kiện tham gia vào sự phân công lao động quốc tế. ă Thực hiện nghiêm túc công ước quốc tế về quyền sở hữu trí tuệ công nghiệp để các sản phẩm dệt may có chất lượng cao mang nhãn hiệu " made in Việt Nam" giữ được uy tín ,trên thị trường. Có quy chế phù hợp (bao gồm trách nhiệm và quyền lợi) về hoạt động của các nhân viên thương vụ của các đại sứ quán của Việt Nam ở nước ngoài trong việc cung, cấp thông tin, giúp ngành dệt may mở rộng thị trường. Ngoài ra các biện pháp trên, Nhà nước cũng cần cải cách lại thủ tục hành chính nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp xuất khẩu hàng hoá. Các cải cách này có thể hướng vào việc hoàn thiện cơ chế quản lý xuất nhập khẩu, bãi bỏ các thủ tục không cần thiết, có thể làm lỡ các cơ hội kinh doanh của các doanh nghiệp xuất khẩu. Song song với đó, Nhà nước cũng nên hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật, giúp cho các doanh nghiệp có thể yên tâm sản xuất và xuất khẩu. Hy vọng trong thời gian tới, với những hỗ trợ tích cực từ phía chính phủ các doanh nghiệp Dệt may Việt Nam và Công ty Hanoisimex có thể nâng cao được sức cạnh tranh hàng hoá của mình trên thị trường thế giới nói chung và thị trường EU nói riêng. Kết luận. Trước xu thế cạnh tranh ngày càng gay gắt trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, ngành dệt may Việt Nam với những lợi thế về nhân công rẻ, môi trường chính trị ổn định đã và đang dần dần tạo cho mình một chỗ đứng trên thị trường may mặc thế giới. Tuy nhiên, đánh giá một cách toàn diện thì hàng may mặc của ta còn yếu thế trong sức cạnh tranh với các đối thủ như Trung Quốc, Kồng Kông, Inđônêxia. Những sản phẩm may mặc của Việt Nam xuất ra thị trường thế giới còn nghèo nàn về chủng loại, đơn giản về mẫu mã, chất lượng chưa cao, giá cả sản phẩm chưa tạo ra được sức cạnh tranh, do đó mức độ chấp nhận của khách hàng chưa cao. Vì vậy trong thời gian tới, may mặc Việt Nam cần phải không ngừng nỗ lực không ngừng nhằm tăng sức cạnh tranh cho sản phẩm của mình trên thị trường thế giới, đặc biệt là các thị trường truyền thống như EU, Nhật Bản. Thị trường may mặc EU là một thị trường nhập khẩu lớn của thế giới và là thị trường xuất khẩu quan trọng của may mặc Việt Nam nói chung và Công ty Hanoisimex nói riêng. Tuy nhiên, sự cạnh tranh trên thị trường này ngày càng diễn ra gay gắt do có nhiều quốc gia lớn cùng tham gia xuất khẩu vào. Vấn đề đặt ra là làm phải nâng cao được sức cạnh tranh hàng may của Việt Nam và của Công ty Hanoisimex thì mới có thể có được một chỗ đứng vững chắc trên thị trường này. Muốn vậy trong thời gian tới Công ty Hanoisimex cần phải đẩy nhanh sản xuất hàng hoá, đổi mới công nghệ, nâng cao chát lượng sản phẩm, tập trung nghiên cứu thị trường và thực hiện tốt công tác tiếp thị. Đề tài “Một số giải pháp nâng cao sức cạnh tranh hàng may mặc của công ty HANOSIMEX trên thị trường EU” đã đánh giá được một cách khái quát những ưu điểm và yếu điểm còn tồn tại trong quả trình xuất khẩu hàng may sang thị trường EU, để phân tích thực trạng cạnh tranh sản phẩm của Công ty trên thị trường này trong điều kiện thương mại nhát định. Qua đó, em cũng xin mạnh dạn đưa ra một số ý kiên đóng góp với Công ty và Nhà nước, nhằm góp phần vào quá trình nghiên cứu, cải thiện và nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm Công ty Hanoisimex nói riêng và ngành may mặc Việt Nam nói chung trên thị trường thế giới. Một lần nữa em xin được cảm ơn sự giúp đỡ và chỉ bảo tận tình của các thầy cô giáo trong khoa Kinh tế và Kinh doanh quốc tế, đặc biệt là PGS.TS Nguyễn thị Hường đã giúp em hoàn thành đề tài này. Lời cảm ơn. Trong quá trình hoàn thành bài luận văn này, em đã nhận được rất nhiều sự giúp đỡ từ phía nhà trường, đặc biệt là các thầy cô giáo trong khoa Kinh tế và Kinh doanh quốc tế, cũng như các càn bộ công nhân viên ở Công ty Hanosimex. Nhân đây, cho phép em xin được đặc biệt gửi những lời cảm ơn chân thành và sâu sắc nhất đến: - PGS.PTS Nguyễn thị Hường- Chủ nhiệm bộ môn Kinh doanh quốc tế, trường Đại học Kinh tế quốc dân cùng TH.S Mai Thế Cường đã tận tình chỉ bảo và hướng dẫn em hoàn thành bài luận văn tốt nghiệp này. - Các cán bộ công nhân viên Công ty Hanosimex đặc biệt là các cô chú và anh chị phòng Xuất nhập khẩu của Công ty đã hướng dẫn và cung cấp các thông tin về Công ty giúp em viết bài luận văn này. Danh sách các tài liệu tham khảo I. Sách: 1. TS Nguyễn thị Hường: Giáo trình Kinh doanh quốc tế-NXBTK, năm 2001. 2. TS Nguyễn Văn Cao: Giáo trình Marketing Quốc tế- NXBGD, năm 2000. 3. Michael Porter: Chiến lược cạnh tranh- NXBHN, năm 1999. 4. J. shaw: Chiến lược thị trường- NXBHN, năm 1997. II. Tạp chí: 1. Tạp chí Dệt may: số 140 năm 2001; số 25, 27, 50 năm 2002. 2. Tạp chí Kinh tế và Dự Báo: Số7/2000- Nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng hoá và doanh nghiệp Việt Nam. 3. Tạp chí Kinh tế và Phát triển: Số31/2000- Nâng cao sức cạnh tranh sản phẩm xuất khảu Việt Nam trong TMQT. Số 33/2000- Hàng dệt may Việt Nam- Thực trạng và giải pháp. 4. Tạp chí Nghiên cứu Châu Âu: Số 1/2001- Ngành công nghiệp dệt may của liên minh EU. 5. Tạp chí Thương Mại: Số 2+3/2001- Nâng cao khả năng cạnh tranh Của sản phẩm. 6. Tạp chí Tài chính: Số 11/2000- Chặn đà tụt hậu và chiến lược khuyến khích cạnh tranh xuất khẩu. III. Các tài liệu khác: 1. Chiến lược dệt tăng tốc hàng dệt may của tổng công ty dệt may Việt Nam. 2. Các báo cáo tổng kết của Tổng công ty Dệt may Việt Nam (năm 2002) 3. Hiệp định thương mại dệt may giữa Việt Nam và EU 4. Báo cáo kết quả hoạt động của công ty dệt may Hà Nội các năm1999, 2000, 2001, 2002. + Báo cáo xuất khẩu của công ty dệt may Hà Nội. + Báo cáo chuẩn đoán của công ty dệt may Hà Nội. 5. Một số trang webside:vnecomomy.com.vn; vineseek.com, mục lục

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docJ0061.doc
Tài liệu liên quan