Đề tài Thực trạng thị trường chứng khoán Việt Nam - Một số giải pháp để phát triển

Thứ tư, hiệu quả của quốc tế hóa thị trường chứng khoán . Việc mở của thị trường chứng khoán làm tăng tính thanh khoản và cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Thứ năm, thị trường cứng khoán tạo cơ hội cho Chính Phủ huy động các nguồn tài chính mà không tạo áp lực về lạm phát, đồng thời tạo các công cụ cho việc thực hiện chính sách tài chính tiền tệ của Chính Phủ. Thứ sáu, thị trường chứng khoán cung cấp một dự báo hiệu quả về các chu kỳ kinh doanh trong tương lai.

doc15 trang | Chia sẻ: Dung Lona | Lượt xem: 1355 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Thực trạng thị trường chứng khoán Việt Nam - Một số giải pháp để phát triển, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI NÓI ĐẦU Qua một thời gian học tập và tìm hiểu môn lý thuyết tài chính tiền tệ và môn thị trường chứng khoán, em đã bước đầu hiểu được những vấn đề cơ bản về thị trường chứng khoán Việt Nam. Nhằm đáp ứng yêu cầu của môn học và nhằm tìm hiểu rõ hơn về thị trường chứng khoán, em đã tìm kiếm ,thu thập tài liệu và viết bài luận về môn này với nhan đề “ Thực trạng thị trường chứng khoán Việt Nam - một số giải pháp để phát triển” cấu trúc của bài được chia làm 3 phẩn: - Phần 1: Tổng quan về thị trường chứng khoán - Phần 2: Thực trạng thị trường chứng khoán Việt Nam - Một số giải pháp để phát triển. - Phần 3: Kết luận Do kiến thức và thời gian nghiên cứu có hạn nên chắc chắn bài viết còn nhiều thiếu sót. Kính mong sự đóng góp ý kiến của thầy cô để bài viết này được hoàn thiện hơn. Xin chân thành cảm ơn! PHẦN 1 TỔNG QUAN VỀ THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN 1/Khái niệm và bản chất của thị trường chứng khoán Hiện nay có rất nhiều quan điểm khác nhau về TTCK, nhưng thị trường chứng khoán trong điều kiện của nền kinh tế hiện đại, được quan niệm là nơi diễn ra các hoạt động giao dịch mua bán chứng khoán trung và dài hạn. Chứng khoán được hiểu là các loại giấy tờ có giá hoặc bút toán ghi sổ. Việc mua bán này được tiến hành ở thị trường sơ cấp khi người mua mua được chứng khoán lần đầu từ những người phát hành, và ở những thị trường thứ cấp khi có sự mua đi bán lại các chứng khoán đã được phát hành ở thị trường sơ cấp. Như vậy, xét về mặt hình thức, thị trường chứng khoán chỉ là nơi diễn ra các hoạt động trao đổi, mua bán, chuyển nhượng các loại chứng khoán, qua đó thay đổi chủ thể nắm giữ chứng khoán. Thị trường chứng khoán không giống với các thị trường hàng hóa thông thường khác vì hàng hóa của TTCK là một loại hàng hóa đặc biệt, là quyền sở hữu về tư bản. Loại hàng hóa này cũng có giá trị sử dụng. Như vậy có thể nói, bản chất của thị trường chứng khoán là thị trường thể hiện mốI quan hệ giữa cung và cầu của vốn đầu tư mà ở đó, giá cả của chứng khoán chứa đựng thông tin về chi phí vốn hay giá cả của vốn đầu tư. Thị trường chứng khaón là hình thức phát triển bậc cao của sản xuất và lưu thông hàng hóa. 2/ Vị trí và cấu trúc của thị trường chứng khoán 2.1/ Vị trí của thị trường chứng khoán trong thị trường tài chính Thị trường chứng khoán là một bộ phận của thị trường tài chính. Vị trí của thị trường chứng khoán trong thị trường tài chính thể hiện: Thị trường chứng khoán là hình ảnh đặc trưng của thị trường vốn. TT tiền tệ Thị trường vốn TTCK Thời gian đáo hạn 1 năm t Như vậy, trên TTCK giao dịch 2 loại công cụ tài chính: công cụ tài chính trên thị trường vốn và công cụ tài chính trên thị trường tiền tệ. Thị trường chứng khoán là hạt nhân trung tâm của thị trường tài chính, nơi diễn ra quá trình phát hành, mua bán các công cụ nợ và các công cụ vốn (các công cụ sở hữu). TT Nợ TT Vốn cổ phần TT Trái phiếu TT Cổ phiếu 2.2/ Cấu trúc của thị trường chứng khoán Thị trường chứng khoán là nơi diễn ra các giao dịch, mua bán những sản phẩm tài chính (cổ phiếu, trái phiếu, các khoản vay ngân hàng... có kỳ hạn trên 1 năm). Sau đây là một số cách phân loại TTCK cơ bản: a. Căn cứ vào sự luân chuyển các nguồn vốn Thị trường chứng khoán được chia thành thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp. ·        Thị trường sơ cấp Thị trường sơ cấp là thị trường mua bán các chứng khoán mới phát hành. Trên thị trường này, vốn từ nhà đầu tư sẽ được chuyển sang nhà phát hành thông qua việc nhà đầu tư mua các chứng khoán mới phát hành. ·        Thị trường thứ cấp Thị trường thứ cấp là nơi giao dịch các chứng khoán đã được phát hành trên thị trường sơ cấp, đảm bảo tính thanh khoản cho các chứng khoán đã phát hành. b. Căn cứ vào phương thức hoạt động của thị trường Thị trường chứng khoán được phân thành thị trường tập trung (Sở giao dịch chứng khoán) và phi tập trung (thị trường OTC). c. Căn cứ vào hàng hoá trên thị trường Thị trường chứng khoán cũng có thể được phân thành các thị trường: thị trường cổ phiếu, thị trường trái phiếu, thị trường các công cụ chứng khoán phái sinh. ·        Thị trường cổ phiếu: thị trường cổ phiếu là thị trường giao dịch và mua bán các loại cổ phiếu, bao gồm cổ phiếu thường, cổ phiếu ưu đãi. ·        Thị trường trái phiếu: thị trường trái phiếu là thị trường giao dịch và mua bán các trái phiếu đã được phát hành, các trái phiếu này bao gồm các trái phiếu công ty, trái phiếu đô thị và trái phiếu chính phủ. ·        Thị trường các công cụ chứng khoán phái sinh Thị trường các chứng khoán phái sinh là thị trường phát hành và mua đi bán lại các chứng từ tài chính khác như: quyền mua cổ phiếu, chứng quyền, hợp đồng quyền chọn... 3/ Vai trò và chức năng của thị trường chứng khoán Thứ nhất, thị trường chứng khoán, với việc tạo ra các công cụ có tính thanh khoản cao, có thể tích tụ, tập trung và phân phối vốn, chuyển thời hạn của vốn phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế. Thứ hai, thị trường cứng khoán góp phần thực hiện tái phân phối công bằng hơn, thông qua việc buộc các tập đoàn gia đình trị phát hành chứng khoán ra công chúng, giải tỏa sự tập trung quyền lực kinh tế của các tập đoàn, song vẫn tập trung vốn cho phát triển kinh tế. Thứ ba, thị trường chứng khoán tạo điều kiện cho việc giữa sở hữu và quản lý. Thứ tư, hiệu quả của quốc tế hóa thị trường chứng khoán . Việc mở của thị trường chứng khoán làm tăng tính thanh khoản và cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Thứ năm, thị trường cứng khoán tạo cơ hội cho Chính Phủ huy động các nguồn tài chính mà không tạo áp lực về lạm phát, đồng thời tạo các công cụ cho việc thực hiện chính sách tài chính tiền tệ của Chính Phủ. Thứ sáu, thị trường chứng khoán cung cấp một dự báo hiệu quả về các chu kỳ kinh doanh trong tương lai. 4/ Các chủ thể tham gia thị trường chứng khoán Thị trường chứng khoán là nơi diễn ra các giao dịch, mua bán những sản phẩm tài chính (cổ phiếu, trái phiếu, các khoản vay ngân hàng... có kỳ hạn trên 1 năm). Sau đây là một số cách phân loại TTCK cơ bản: a. Căn cứ vào sự luân chuyển các nguồn vốn Thị trường chứng khoán được chia thành thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp. ·        Thị trường sơ cấp Thị trường sơ cấp là thị trường mua bán các chứng khoán mới phát hành. Trên thị trường này, vốn từ nhà đầu tư sẽ được chuyển sang nhà phát hành thông qua việc nhà đầu tư mua các chứng khoán mới phát hành. ·        Thị trường thứ cấp Thị trường thứ cấp là nơi giao dịch các chứng khoán đã được phát hành trên thị trường sơ cấp, đảm bảo tính thanh khoản cho các chứng khoán đã phát hành. b. Căn cứ vào phương thức hoạt động của thị trường Thị trường chứng khoán được phân thành thị trường tập trung (Sở giao dịch chứng khoán) và phi tập trung (thị trường OTC). c. Căn cứ vào hàng hoá trên thị trường Thị trường chứng khoán cũng có thể được phân thành các thị trường: thị trường cổ phiếu, thị trường trái phiếu, thị trường các công cụ chứng khoán phái sinh. ·        Thị trường cổ phiếu: thị trường cổ phiếu là thị trường giao dịch và mua bán các loại cổ phiếu, bao gồm cổ phiếu thường, cổ phiếu ưu đãi. ·        Thị trường trái phiếu: thị trường trái phiếu là thị trường giao dịch và mua bán các trái phiếu đã được phát hành, các trái phiếu này bao gồm các trái phiếu công ty, trái phiếu đô thị và trái phiếu chính phủ. ·        Thị trường các công cụ chứng khoán phái sinh Thị trường các chứng khoán phái sinh là thị trường phát hành và mua đi bán lại các chứng từ tài chính khác như: quyền mua cổ phiếu, chứng quyền, hợp đồng quyền chọn... 5/ Thị trường chứng khoán Việt Nam Trước yêu cầu về đổi mới và phát triển kinh tế phù hợp với các điều kiện kinh tế chính trị và xã hội trong nước và xu thế hội nhập kinh tế quốc tế, trên cơ sở tham khảo và chọn lọc các mô hình kinh tế trên thế giớI, Việt Nam đã quyết đinh thành lập thị trường chứng khoán Việt Nam với những đặc thù riêng biệt: thành lập 2 trung tâm giao dịch chứng khoán ở thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội, sau khi thị trường phát triển thì chuyển sang thành Sở giao dịch chứng khoán. Sự ra đời của TTCK Việt Nam được đánh dấu bằng việc đưa vào vận hành trung tâm giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh ngày 20/07/2000 và thực hiện việc giao dịch đầu tiên vào này 28/07/2000. Các chủ thể trên thị trường chứng khoán Việt Nam gồm: Chủ thể phát hành Nhà đầu tư Các tổ chức quản lý và giám sát thị trường chứng khoán Các tổ chức khác PHẦN 2 THỰC TRẠNG THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM MỘT SỐ GIẢI PHÁP ĐỂ PHÁT TRIỂN 1/ Thực trạng thị trường chứng khoán Việt Nam Sau hơn 6 năm đi vào hoạt động, thị trường chứng khoán còn non trẻ của Việt Nam đã dần phát triển về nhiều mặt dần định hình trở thành một kênh huy động vốn năng động, hiệu quả cho nền kinh tế đất nước. Tính đến nay đã có 63 công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán và mỗi phiên giao dịch có tổng khối lượng niêm yết trung bình là 11363.09 tỷ đồng. Thị trường chứng khoán đã huy động được một khối lượng vốn nhất định cho ngân sách nhà nước thông qua việc đấu thầu và bảo lãnh phát hành hàng nghìn tỷ đồng trái phiếu Chính phủ, trái phiếu của Quỹ hỗ trợ đầu tư phát triển để niêm yết trên TTGDCK. Một hệ thống các tổ chức tài chính trung gian tham gia trên thị trường với 19 công ty chứng khoán, 16 các tổ chức hoạt động lưu ký cùng với ngân hàng lưu ký, ngân hàng chỉ định thanh toán đã thực hiện tốt các nghiệp vụ về kinh doanh chứng khoán, về lưu ký, đăng ký và thanh toán bù trừ. Trong những năm qua, các công ty chứng khoán đều đã triển khai được các nghiệp vụ cơ bản là môi giới và tự doanh, tích cực tham gia tư vấn niêm yết với kết quả kinh doanh có chiều hướng phát triển tốt. Các công ty phần lớn đã mở thêm chi nhánh và đại lý nhận lệnh để mở rộng phạm vi hoạt động. Đồng thời thị trường chứng khoán đã thu hút được sự tham gia của công chúng đầu tư trong và ngoài nước với số lượng hơn 53.000 tài khoản của nhà đầu tư được mở tại các công ty chứng khoán, góp phần quan trọng cho sự tồn tại và phát triển của thị trường chứng khoán. Tuy nhiên so với tiềm năng phát triển của nền kinh tế, xu hướng hội nhập quốc tế thì quy mô của thị trường chứng khoán Việt Nam còn quá nhỏ bé, tổng giá trị chứng khoán niêm yết (cổ phiếu và trái phiếu tính theo mệnh giá) mới chỉ chiếm khoảng 8% GDP năm 2005, chưa đáp ứng được nhu cầu huy động vốn trung và dài hạn cho nền kinh tế và chưa tổ chức được thị trường thứ cấp hiệu quả đối với trái phiếu, đặc biệt là trái phiếu Chính phủ. Thị trường chứng khoán đã trải qua nhiều biến động thăng trầm "sốt nóng và nguội lạnh" gây tâm lý dè dặt và thiếu niềm tin cho nhà đầu tư tham gia thị trường. Công tác tạo hàng hoá cho thị trường gặp nhiều khó khăn, số lượng các công ty niêm yết trên thị trường chưa nhiều. Thị trường trái phiếu trong thời gian qua hoạt động chưa có hiệu quả cao, chưa thu hút được sự quan tâm của các nhà đầu tư v.v... Nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên là: Trước hết, phải nói rằng thị trường chứng khoán là một thị trường mới nên công chúng đầu tư chưa thực sự hiểu biết về hoạt động chứng khoán, cũng như chưa thấy được lợi ích của việc tham gia thị trường. Trong khi đó sự thiếu vắng các nhà đầu tư có tổ chức (bảo hiểm, quỹ đầu tư, các tổ chức đầu tư chứng  khoán chuyên nghiệp) trên thị trường đã ảnh hưởng đến tính ổn định của thị trường bởi tác động tâm lý của các nhà đầu tư nhỏ, thiếu tính chuyên nghiệp. vì vậy thường xuyên xảy ra nöôùc, hôiững đợt đầu tư mua bán ồ ạt theo kiểu “tâm lý bầy đàn”. Các doanh nghiệp Việt Nam còn mang nặng tư tưởng của cơ chế bao cấp, còn trông chờ vào nguồn vay ưu đãi, chưa muốn huy động vốn trên thị trường chứng khoán. Nhiều doanh nghiệp lại e ngại kiểm toán và công bố thông tin trên thị trường chứng khoán, và sự thiếu vắng các doanh nghiệp lớn ra niêm yết trên thị trường chứng khoán đã không hấp dẫn các nhà đầu tư, do vậy, hàng hoá trên thị trường còn thiếu về số lượng và hạn chế về chất lượng. Thêm vào đó, tiến trình cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước chưa gắn kết được với việc phát chứng khoán ra công chúng và niêm yết trên thị trường chứng khoán; các chính sách khuyến khích, ưu đãi, đặc biệt là ưu đãi về thuế đối với các tổ chức tham gia thị trường chưa được chú ý đúng mức có ảnh hưởng không nhỏ đến sự vận hành và phát triển của thị trường chứng khoán. Mặt khác, việc quản lý và điều hành thị trường còn bất cập, hạn chế do sự thiếu chủ động và thiếu kinh nghiệm thực tiễn của cơ quan quản lý và giám sát thị trường. Điều rất quan trọng là hệ thống pháp luật về chứng khoán và thị trường chứng khoán thiếu đồng bộ và hiệu lực pháp lý không cao, chưa  có Luật chứng khoán để tạo môi trường pháp lý đầy đủ, ổn định để điều chỉnh mọi hoạt động trên thị trường chứng khoán phù hợp với điều kiện thực tế hiện nay và định hướng, chiến lược phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam đến năm 2010 trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế v.v... Thứ hai, Hệ thống văn bản pháp luật điều chỉnh hoạt động của thị trường chứng khoán hiện nay ở Việt Nam còn chưa phù hợp vớI sự phát triển của thị trường. Các văn bản pháp luật hiện hành chủ yếu điều chỉnh hoạt động của thị trường chứng khoán bao gồm: Nghị định số 144/2003/NĐ-CP ngày 28/11/2003 (thay thế Nghị định 48/1998/NĐ-CP của Chính phủ ngày 11/7/1998 về chứng khoán và thị trường chứng khoán); Nghị định số 22/2000/NĐ-CP  của Chính phủ ngày 10/7/2000 về xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực chứng khoán và thị trường chứng khoán: Nghị định số 64/2002/NĐ/CP về cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước: Luật doanh nghiệp ban hành ngày 12/6/1999 cùng với các văn bản hướng dẫn thi hành bước đầu đã tạo được khung pháp lý góp phần xây dựng và phát triển thị trường chứng khoán trong thời gian qua. Tuy nhiên, do sự phát triển của nền kinh tế nói chung và thị trường chứng khoán Việt Nam nói riêng, đến nay, hệ thống pháp luật về chứng khoán và thị trường chứng khoán đã bộc lộ những điểm hạn chế nhất định làm cản trở sự phát triển của thị trường, chưa bao quát và phù hợp với điều kiện thực tế cũng như định hướng chiến lược phát triển thị trường chứng khoán đến năm 2010. Hơn nữa, do chưa có Luật chứng khoán nên hệ thống các văn bản pháp luật về chứng khoán và thị trường chứng khoán ở tầm Nghị định chưa mang tính pháp lý cao, chưa đồng bộ, do vậy không thể giải quyết được một cách triệt để những mâu thuẫn với các văn bản pháp luật khác có liên quan. Phạm vi điều chỉnh của các văn bản pháp luật về chứng khoán và thị trường chứng khoán còn hẹp, chưa bao quát và điều chỉnh thống nhất việc phát hành chứng khoán ra công chúng, các hoạt động kinh tế chứng khoán của các đối tượng tham gia thị trường, chưa tạo cơ sở pháp lý cao cho hoạt động của các tổ chức dịch vụ chứng khoán v.v... Vì vậy, việc Luật Chứng chính thức đi vào hoạt động vào ngày 01/01/2007 sẽ tạo ra một môi trường pháp lý ổn định, vững chắc và thuận lợi cho cơ quan quản lý cũng như mọi tổ chức, cá nhân tham gia hoạt động trên thị trường, tạo tâm lý yên tâm cho các tổ chức, cá nhân khi tham gia kinh doanh, đầu tư vào thị trường chứng khoán và từ đó thu hút được các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước tham gia. Đồng thời Luật Chứng khoán sẽ tạo cơ sở pháp lý cho thị trường chứng khoán Việt Nam phát triển an toàn, lãnh mạnh và có hiệu quả, nâng cao hiệu lực quản lý Nhà nước đối với hoạt động chứng khoán, bảo vệ quyền, lợi ích của các chủ thể tham gia thị trường, góp phần xây dựng và phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam trở thành một kênh huy động vốn trung và dài hạn quan trọng và thiết yếu đáp ứng cho công cuộc công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước. 2/Cơ hộI và thách thức Trong những ngày ngày tháng 11 vừa qua, cả đất nước ta thật sự vui mừng khi Việt Nam đã được gia nhập vào tổ chức thương mại thế giới (WTO). Điều đó có nghĩa là chúng ta sẽ có cơ hội được mở rộng giao lưu buôn bán trên thị trường thế giới, các hàng hóa được tư do lưu thông giữa các nước với nhau một cách dễ dàng. Thị trường vốn cũng sẽ được tự do chuyễn từ những quốc gia phát triển sang các nước kém phát triển hơn để đầu tư. Như vậy TTCK Việt Nam sẽ càng được phát triển nhơ sự tham gia của các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào Việt Nam thông qua TTCK. Ngoài ra, khi các doanh nghiệp Việt Nam gia nhập vào WTO sẽ có cơ hội phát triển, từ đó các công ty sẽ lớn mạnh và được tham gia niêm yết trên thị TTCK. Vì vậy, TTCK Việt Nam sẽ có thêm nhiều loại hàng hóa mới để các nhà đầu tư lựa chọn. Đó là những tín hiệu đáng mừng cho TTCK Việt Nam. Bên cạnh đó TTCK Việt Nam cũng sẽ găợ không ít những thách thức như: Cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ bắt đầu năm 1997 từ châu Á đã lan sang Nga, Trung và Nam Mỹ, thị trường tiền tệ biến động lây lan sang thị trường chứng khoán, rồi từ quốc gia này đến quốc gia khác. Sự đổ vỡ của thị trường bất động sản, sự thua lỗ của các công ty dẫn đến hiện tượng giảm giá cổ phiếu và trở thành trào lưu rút vốn ồ ạt ra khỏi TTCK của một nước rồi cả một khu vực. Đây là một nguy cơ đối với TTCK Việt Nam khi kết nối với nền kinh tế thế giới. Một nguy cơ khác, theo các chuyên gia kinh tế là sự quá phụ thuộc vào luồng vốn quốc tế, dẫn đến tình trạng lệ thuộc kinh tế và thậm chí là chính trị. Thực tế cho thấy, đây là điều đáng lo ngại vì nhiều nước không đủ khả năng kiểm soát quá trình hội nhập khiến nền kinh tế rơi vào tình trạng mất chủ quyền do áp dụng hoàn toàn những quy định của nước mạnh. Ở mức độ thấp hơn là nguy cơ biến dạng thị trường khi các cường quốc mạnh áp đặt những nguyên tắc của họ vào các nước nhỏ, làm cho những nước nhỏ phải thay đổi những nguyên tắc, chuẩn mực ban đầu của họ. Hậu quả là, thị trường một nước yếu hơn rất dễ trở thành "sân sau" của một nước mạnh hơn do những quy luật nghiệt ngã của cạnh tranh trong quá trình hội nhập. Theo các chuyên gia kinh tế khi tham gia vào quá trình hội nhập, TTCK của Việt Nam cũng có nguy cơ đối đầu với sự biến dạng này nếu không có được những biện pháp phòng ngừa hợp lý. 3/ Một số giải pháp để phát triển Như vậy, để thị trường chứng khoán việt Nam phát triển hơn trong tương lai và trở thành một bộ phận quan trọng trong kênh huy đọng vốn của nền kinh tế thì cần phải có các giải pháp để khắc phục những khó khăn đang tồn tại trong TTCK Việt Nam hiện nay. Về yếu tố vĩ mô: sự ổn định môi trường chính trị và kinh tế vĩ mô nhằm khuyến khích đầu tư và tiết kiệm của công chúng; mức độ lạm phát được kiềm chế vừa đủ để duy trì nền kinh tế phát triển. Về yếu tố vi mô + Hoàn thiện khung pháp lý và các văn bản pháp quy đầy đủ, rõ ràng. Bên cạnh đó sớm đưa luật chứng khoán vào hoạt động để thị trường hoạt động có hiệu quả hơn. + Cung cấp một cơ chế giao dịch hiệu quả thông qua tổ chức, vận hành của trung giao dịch chứng khoán như đua vào vạn hành hệ thống giao dịch khớp lệnh liên tục để thay cho việc giao dịch khớp lệnh hệ thống như hiện nay; hoàn thiện và phát triển hệ thống công bố thông tin, hệ thống lưu ký, thanh toán bù trừ Ngoài ra thị trường cần đến sự tham gia của các nhà đầu tư chuyên nghiệp đóng vai trò dẫn dắt thị trường, can thiệp thị trường vào những thờI điểm mất cân đốI quan hệ cung cầu, vì vậy cần phảI đào tạo những nhà đầu tư có tính chuyên nghiệp hơn. Ngoài ra cần có những chính sách khuyến khích các nhà đầu tư lớn và có tính chuyên nghiệp tham gia vào thị trường để họ trở thành những nhà dẫn dắt chính cho thị trường phát triển. KẾT LUẬN Như vậy, sau 6 năm hoạt động thị trường chứng khoán Việt Nam đã đạt được những thành công bước đầu đáng nhận. Tuy nhiên trong bối cảnh đất nước đang trong quá trình hội nhập và phát triển một cách mạnh mẽ thì thị trường chứng khoán Việt Nam cần phải phát huy hơn nữa vai trò của mình như là một kênh huy động vốn chủ yếu của nền kinh tế. Chính vì vậy nghiên cứu thực trạng của nền chứng khoán Việt Nam hiện nay là một vấn đề hết sức cần thiết. Trong phạm vi chuyên đề này chỉ nghiên cứu một phần nhỏ những mặt còn yếu của thị trường chứng khoán Việt Nam và đưa ra một số giải pháp để phát triển trong tương lai. Hy vọng rằng trong những năm tới thị trường chứng khoán Việt Nam sẽ phát triển mạnh mẽ đáp ứng nhu cầu vốn cho sự phát triển của nền kinh tế đất nước và thực sự trở thành một phần quan trọng không thể thiếu của nền tài chính Việt Nam. Trong quá trình thực hiện bài viết này không thể tránh khỏi những thiếu sót, kính mong sự góp ý của thầy cô và các bạn để bài viết này được hoàn thiện hơn. Xin chân thành cảm ơn!

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc4815.doc
Tài liệu liên quan