Chính phủ cũng đã có Nghị định 52/2006/NĐ-CP cho phép tất cả các doanh nghiệp đều có thể huy động vốn thông qua phát hành trái phiếu để phục vụ cho mục tiêu tăng trưởng kinh tế. Chỉ trong vòng 6 tháng sau khi Nghị định 52 ra đời, các doanh nghiệp đã huy động được khoảng gần 6.000 tỷ đồng trong đó có những doanh nghiệp như Tập đoàn Điện lực Việt Nam huy động được 5.000 tỷ đồng, Tập đoàn Công nghiệp và Tàu thuỷ huy động được 800 tỷ đồng. Đến nay, một số ngân hàng thương mại cũng đang dự kiến và đã phát hành trái phiếu tăng vốn cấp 2 thông qua huy động trái phiếu trên thị trường trong nước như Ngân hàng NN&PTNT (Agribank).
Tuy nhiên thị trường trái phiếu doanh nghiệp nước ta so với thế giới vẫn chưa thực sự phát triển:
Tổ chức phát thành chủ yếu mới chỉ là các ngân hàng thương mại, các công ty, tổng công ty lớn. Cơ cấu trái phiếu doanh nghiệp trong thị trường trái phiếu Việt Nam còn rất khiêm tốn(chỉ chừng 10%) trong khi trái phiếu chính phủ chiếm đa số (80-83%). Các nhà đầu tư chủ yếu mua và giữ trái phiếu tới khi đáo hạn, các dịch vụ liên quan hầu như chưa có Việc phát hành trái phiếu ra nước ngoài gặp rất nhiều khó khăn. Nguyên nhân của việc phát hành TPCT chưa được triển khai ở nước ta là: thông tin về các tổ chức phát hành còn quá thiếu và độ tin cậy thấp, chưa thực sự chứng tỏ năng lực cũng như hiệu quả kinh doanh; các tầng lớp dân cư chưa quen với TPCT; tính hấp dẫn của trái phiếu kém; doanh nghiệp quen huy động vốn bằng hình thức vay vốn tín dụng từ ngân hàng; khuôn khổ pháp lý chưa khuyến khích doanh nghiệp phát hành TPCT.
30 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1960 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng thị trường tài chính Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Chương 1
Sự cần thiết của thị trường tài chính đối với nền kinh tế ở Việt Nam.
1.1 Khái niệm chung về thị trường tài chính
1.1.1 Tài chính
Tài chính là hệ thống các quan hệ kinh tế trong phân phối, gắn liền với quá trình hình thành và sử dụng các quỹ tiền tệ.
1.1.2 Hệ thống tài chính
Hệ thống tài chính là tổng thể các bộ phận khác nhau trong một cơ cấu tài chính, mà ở đó các quan hệ tài chính hoạt động trên các lĩnh vực khác nhau nhưng có mối quan hệ với nhau theo những quy luật nhất định. Hệ thống tài chính bao gồm các tụ điểm vốn và các bộ phận dẫn vốn:
- Các tụ điểm vốn : là bộ phận mà ở đó các nguồn tài chính được tạo ra, đồng thời cũng là nơi thu hút trở lại các nguồn vốn ở các mức độ và phạm vi khác nhau, gồm có:
Tài chính doanh nghiệp
Ngân sách Nhà Nước
Tài chính dân cư,tổ chức xã hội
Tài chính đối ngoại
- Các bộ phận dẫn vốn: thực hiện chức năng truyền dẫn vốn giữa các tụ điểm vốn trong hệ thống tài chính, gồm có :
Thị trường tài chính: bộ phận dẫn vốn trực tiếp thực hiện chức năng truyền dẫn vốn giữa các tụ điểm vốn trong hệ thống tài chính.
Các trung gian tài chính: là các tổ chức tài chính thực hiện chức năng dẫn vốn từ người có vốn tới người cần vốn. Tuy nhiên không như dạng tài chính trực tiếp người cần vốn và người có vốn trao đổi trực tiếp với nhau ở thị trường tài chính, các trung gian tài chính thực hiện sự dẫn vốn thông qua một cầu nối nghĩa là người người cần vốn muốn có được vốn phải thông qua người thứ ba, đó chính là các tổ chức tài gián tiếp hay các tổ chức tài chính trung gian.
Như vậy, các bộ phận trong hệ thống tài chính hoạt động trên các lĩnh vực: tạo ra các nguồn lực tài chính, thu hút các nguồn lực tài chính và chu chuyển các nguồn tài chính(dẫn vốn). Với các hoạt động này, toàn bộ hệ thống tài chính thực hiện vai trò đặc biệt quan trọng trong nền kinh tế quốc dân là đảm bảo nhu cầu về vốn cho phát triển kinh tế xã hội.
1.1.3 Thị trường tài chính
1.1.3.1 Khái niệm
Thị trường tài chính là bộ phận dẫn vốn trực tiếp, thực hiện chức năng truyền dẫn vốn giữa các tụ điểm vốn trong hệ thống tài chính. Trong đó, hoạt động dẫn vốn của thị trường tài chính được thể hiện bằng cách người cần vốn và người có vốn trao đổi trực tiếp với nhau : những người cần vốn bán ra thị trường các công cụ nợ, các cổ phiếu hoặc thông qua các công cụ tài chính khác còn những người cần vốn sẽ mua các công cụ nợ, các cổ phiếu hay các công cụ tài chính đó.
1.1.3.2 Chủ thể của thị trường tài chính
1.1.3.2.1 Chủ thể đi vay
Đây là các chủ thể cần vốn để thực hiện các hoạt động của mình. Chủ thể đi vay trên thị trường tài chính bao gồm có Chính phủ, các doanh nghiệp và các hộ gia đình, các cá nhân.
- Chính phủ: vay trên thị trường tài chính bằng cách phát hành trái phiếu, tín phiếu kho bạc… để bù đắp sự thiếu hụt Ngân sách Nhà Nước hoặc huy động vốn cho các dự án phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội…của đất nước.
- Các doanh nghiệp: thường là đối tượng vay vốn với khối lượng lớn và thường xuyên nhất vì yêu cầu của sản xuất kinh doanh là luôn phải đầu tư thêm vốn để mở rộng, phát triển sản xuất: mua máy móc, cơ sở vật chất, thuê nhân công, đổi mới công nghệ…
- Các hộ gia đình: Hộ gia đình vay vốn trên thị trường tài chính để đáp ứng nhu cầu sản xuất kinh doanh và yêu cầu chi tiêu khác trong gia đình.
- Cá nhân : vay vốn trên thị trường tài chính để đáp ứng các nhu cầu cá nhân: mua sắm, học hành…
1.1.3.2 .2 Chủ thể cho vay hay đầu tư
Đây là các chủ thể sẽ cung cấp vốn hay nói cách khác là tạo vốn cho thị trường tài chính:
- Các hộ gia đình, cá nhân: Các chủ thể này cung cấp vốn bằng cách mua trái phiếu, tín phiếu,cổ phiếu,gửi tiền vào ngân hàng hoặc các công cụ tài chính khác.
- Các trung gian tài chính :Các tổ chức tài chính trung gian bao gồm: các ngân hàng, các công ty chứng khoán, các hiệp hội cho vay, các liên hiệp tín dụng, các công ty bảo hiểm, các công ty tài chính...cung cấp vốn thông qua các hoạt động: cho vay tiền, chứng khoán, phát hành chứng chỉ tiền gửi, phát hành thương phiếu, hối phiếu…
- Các doanh nghiệp và Chính phủ: Các doanh nghiệp và Chính phủ khi có tiền nhàn rỗi họ đều tìm cách sinh lợi dưới dạng: mua trái phiếu, mua cổ phiếu hay mua các công cụ tài chính khác…
1.3 Cấu trúc của thị trường tài chính
Có nhiều cách xem xét cấu trúc thị trường tài chính dựa theo từng khía cạnh khác nhau:
1.3.1 Theo tính chất của các công cụ tài chính
Thị trường tài chính bao gồm có: Thị trường nợ và thị trường vốn cổ phần:
- Thị trường nợ: Phương pháp chung nhất mà các công ty sử dụng để vay vốn trên thị trường tài chính là đưa ra một công cụ vay nợ, ví dụ như trái khoán hay một món vay thế chấp. Công cụ vay nợ là sự thoả thuận có tính chất hợp đồng có lãi suất cố định và hoàn trả tiền vốn vào cuối kì hạn. Kì hạn dưới 1 năm là ngắn hạn, trên 1 năm là trung và dài hạn. Thị trường nợ là thị trường diễn ra việc mua bán các công cụ nợ kể trên.
-Thị trường vốn cổ phần: Phương pháp thứ hai để thu hút vốn là các công ty phát hành cổ phiếu. Người nắm giữ cổ phiếu sở hữu một phần tài sản của công ty có quyền được chia lợi nhuận ròng từ công ty sau khi trừ chi phí, thuế và thanh toán cho chủ nợ (những người sở hữu công cụ nợ) .
1.3.2 Theo cách thức tổ chức của thị trường
Thị trường chứng khoán bao gồm: Thị trường cấp một và thị trường cấp hai :
- Thị trường cấp một: Là thị trường tài chính trong đó diễn ra việc mua bán chứng khoán đang phát hành hay chứng khoán mới. Việc mua bán chứng khoán trên thị trường cấp một thường được tiến hành thông qua trung gian là các ngân hàng.
- Thị trường cấp hai : Là thị trường mua bán lại những công cụ tài chính đã phát hành.
1.3.3 Theo cơ sở kỳ hạn thanh toán của các công cụ tài chính
Thị trường tài chính bao gồm có: Thị trường tiền tệ và thị trường vốn. Đây là cách phân loại phổ biến nhất:
- Thị trường tiền tệ: là thị trường vốn ngắn hạn, nơi diễn ra các hoạt động của cung và cầu về vốn ngắn hạn. Vốn ngắn hạn bao gồm cả trái phiếu ngắn hạn, có kỳ hạn tức là mua bán những món nợ ngắn hạn rủi ro thấp, tính thanh khoản cao. Thị trường tiền tệ diễn ra chủ yếu thông qua hoạt động của hệ thống ngân hàng, vì các ngân hàng là chủ thể quan trọng nhất trong việc cung cấp và sử dụng vốn ngắn hạn. Hàng hóa mua bán trên thị trường tiền tệ có tính thanh khoản rất cao, thường được giao dịch thường xuyên và có giao động nhỏ hơn trên thị trường tiền tệ nên thường an toàn hơn.
- Thị trường vốn: Là thị trường diễn ra việc mua bán các công cụ nợ dài hạn như cổ phiếu, trái phiếu. Thị trường vốn được phân thành ba bộ phận là thị trường cổ phiếu, các khoản cho vay thế chấp và trái phiếu.
1.1.4 Các công cụ chủ yếu của thị trường tài chính
1.1.4.1 Các công cụ của thị trường tiền tệ
- Tín phiếu kho bạc: là những công cụ vay nợ của ngắn hạn của Chính phủ thường được phát hành với kì hạn thanh toán 3, 6 hoặc 12 tháng. Chúng được trả với mức lãi suất cố định và được hoàn trả vốn khi đến hạn thanh toán lãi do việc bán lần đầu có giảm giá. Đây là loại lỏng nhất trong tất cả các công cụ trên thị trường tiền tệ nên an toàn nhất và được mua bán nhiều nhất.
- Chứng chỉ tiền gửi của ngân hàng: là một công cụ vay nợ do ngân hàng thương mại bán cho người gửi tiền. Người gửi tiền được thanh toán lãi hàng năm theo một tỷ lệ nhất định và khi đến kì hạn thanh toán thì hoàn thành trả gốc theo giá mua ban đầu. Hiện nay, đây là công cụ được hầu hết các ngân hàng sử dụng.
- Thương phiếu: là công cụ vay nợ ngắn hạn do các ngân hàng lớn và các doanh nghiệp nổi tiếng phát hành. Thương phiếu là chứng chỉ có giá ghi nhận lệnh yêu cầu thanh toán hoặc cam kết thanh toán không điều kiện một số tiền xác định trong một thời gian nhất định. Thương phiếu gồm hối phiếu và lệnh phiếu:
Hối phiếu: là chứng chỉ có giá do người ký phát lập, yêu cầu người bị ký phát thanh toán không điều kiện một số tiền xác định khi có yêu cầu hoặc vào một thời gian nhất định trong tương lai cho người thụ hưởng.
Lệnh phiếu: là chứng chỉ có giá do người phát hành lập, cam kết thanh toán không điều kiện một số tiền xác định khi có yêu cầu hoặc vào một thời gian nhất định trong tương lai cho người thụ hưởng.
- Hối phiếu được ngân hàng chấp nhận: là một hối phiếu ngân hàng (sự hứa hẹn thanh toán như một tấm séc), do một công ty phát hành, được thanh toán trong thời hạn xác định trước và được ngân hàng đóng dấu “ đã chấp nhận” lên hối phiếu. Công ty phát hành hối phiếu phải gửi món tiền bắt buộc vào tìa khoản của mình tại ngân hàng đủ để trả cho hối phiếu. Nếu công ty không có khả năng thanh toán thì ngân hàng buộc phải thanh toán theo số tiền đã ghi trên hối phiếu. Các hối phiếu đã chấp nhận này thường được giao dịch trên thị trường cấp hai nên nó có tác dụng tương tự như tín phiếu kho bạc.
1.4.2 Các công cụ trên thị trường vốn
- Cổ phiếu: là giấy chứng nhận số tiền nhà đầu tư đóng góp vào công ty phát hành. Cổ phiếu là chứng chỉ do công ty cổ phần phát hành hoặc bút toán ghi sổ xác nhận quyền sở hữu một hoặc một số cổ phần của công ty đó. Người nắm giữ cổ phiếu trở thành cổ đông và đồng thời là chủ sở hữu của công ty phát hành.
- Các khoản cho vay thế chấp: Đây là thuật ngữ để chỉ các khoản cho vay được bảo đảm bởi các tài sản thế chấp. Thông thường các khoản cho vay có thế chấp chịu mức lãi thấp hơn so với các hình thức cho vay khác bởi vì giá trị của chính tài sản thế chấp đã phần nào giảm bớt rủi ro đối với người cho vay.
- Trái phiếu công ty: là các trái phiếu do các công ty phát hành để vay vốn dài hạn. Trái chủ được trả lãi định kỳ và trả gốc khi đáo hạn, song không được tham dự vào các quyết định của công ty. Nhưng cũng có loại trái phiếu không được trả lãi định kỳ, người mua được mua dưới mệnh giá và khi đáo hạn được nhận lại mệnh giá. Khi công ty giải thể hoặc thanh lý, trái phiếu được ưu tiên thanh toán trước các cổ phiếu. Có những điều kiện cụ thể kèm theo, hoặc nhiều hình thức đảm bảo cho khoản vay.
- Trái phiếu chính phủ hay công trái: là trái phiếu được phát hành bởi chính phủ một quốc gia. Trái phiếu chính phủ có thể được phát hành bằng đồng tiền nước đó hoặc ngoại tệ (trường hợp sau gọi là sovereign bond). Trái phiếu chính phủ thường được coi là không có rủi ro bởi chính phủ có thể tăng thuế hoặc in thêm tiền mặt để chi trả trái phiếu đáo hạn.
1.4.3 Các công cụ tài chính phái sinh
Công cụ tài chính phái sinh là những công cụ được phát hành trên cơ sở những công cụ tài chính đã có nhằm nhiều mục tiêu khác nhau như phân tán rủi ro, bảo vệ lợi nhuận hoặc tạo ra lợi nhuận. Giá trị của công cụ phái sinh bắt nguồn từ một số công cụ cơ sở khác như tỉ giá, trị giá cổ phiếu, trái phiếu, chỉ số chứng khoán, lãi suất….Công cụ tài chính phái sinh xuất hiện lần đầu tiên nhằm giảm thiểu hoặc loại bỏ hoàn toàn rủi ro, trong đó thường được sử dụng cao nhất là hợp đồng kỳ hạn (forward contracts), hợp đồng tương lai (future contracts),công cụ hoán đổi. Những công cụ trên còn có thể kết hợp với nhau, với những khoản vay hoặc những chứng khoán truyền thống để tạo nên các công cụ lai tạo...
1.2 Sự cần thiết của thị trường tài chính đối với nền kinh tế ở Việt Nam
1.2.1 Sự cần thiết của thị trường tài chính đối với nền kinh tế nói chung.
Thị trường tài chính là một hệ thống phức tạp trong đó có hàng nghìn các tổ chức thành viên, hàng triệu đơn vị tham gia và hàng tỉ giao dịch được thực hiện mỗi ngày. Hoạt động giao dịch trên những thị trường tài chính vượt qua các giới hạn về địa lý và thời gian, những đơn vị giao dịch (cá nhân và tổ chức) từ những điểm hoàn toàn khác xa nhau có thể trao đổi và giao dịch với nhau vào bất kỳ thời điểm nào. Sự toàn cầu hóa trong các giao dịch này thậm chí còn làm người ta đặt ra câu hỏi về vai trò của chính phủ các nước và khả năng giám sát những giao dịch đang diễn ra hàng ngày trên khắp thế giới này. Liên tục mở rộng hơn trên phạm vi quốc tế, các giao dịch tài chính đang diễn ra liên tục kín mỗi vòng quay đồng hồ, tương ứng là những thị trường tài chính liên tục vận động và liên tục thay đổi.
Tuy nhiên nếu xét về bản chất, chức năng cơ bản mà thị trường tài chính thực hiện cho nền kinh tế trên thực tế là không nhiều nhưng lại có vai trò rất quan trọng. Những chức năng này nằm ở vị trí trung tâm của nền kinh tế, nhờ đó mà các hoạt động đầu tư, tích kiệm, giao dịch được đảm bảo thực hiện thông suốt, đầy đủ và không gặp phải khó khăn, rủi ro.
Ba chức năng cơ bản của thị trường tài chính xoay quanh vấn đề luân chuyển vốn từ những chủ thế kinh tế thừa vốn đến những chủ thế kinh tế thiếu và có nhu cầu vốn. Điều này đảm bảo sự luân chuyển các nguồn lực giữa các đơn vị kinh tế khác nhau trong một nền kinh tế nói chung. Và thị trường tài chính hỗ trợ quá trình này bằng cách cung cấp các dịch vụ tài chính cần thiết.
Thứ nhất, thị trường tài chính hỗ trợ cho sự hình thành và phân phối của các công cụ vốn (sở hữu) và các công cụ nợ.
Thứ hai, thị trường tài chính thúc đẩy sự hình thành của những cơ chế nhờ đó những công cụ nói trên có thể được chuyển đổi ngược lại thành tiền và tăng tính thanh khoản chung cho thị trường.
Thứ ba, thị trường tài chính thúc đẩy sự hình thành và phát triển của những tổ chức có khả năng hỗ trợ các giao dịch được tiến hành một cách đầy đủ và an toàn.
Sự cần thiết của thị trường tài chính đối với nền kinh tế ở Việt Nam
Qua trên, ta đã thấy được sự cần thiết của thị trường đối với nền kinh tế. Đối với Việt nam hiện nay, thị trường tài chính không chỉ cần thiết mà còn có thể nói là một bộ phận không thể thiếu đối với nền kinh tế Việt Nam hiện nay. Bởi lẽ, Việt Nam đang là một trong nước có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao nhất trên thế giới, lại đang tham gia vào các sân chơi lớn của các nước trong khu vực và trên thế giới như WTO, AFTA… nên nhu cầu vốn cho các lĩnh vực trong nền kinh tế là rất lớn, đồng thời muốn thu hút được các nhà đầu tư nước ngoài thì thị trường tài chính càng cần phải hoạt động hiệu quả và liên tục phát triển.
Thứ nhất, thị trường tài chính đóng vai trò quan trọng nhất trong nền kinh tế Việt Nam hiện nay do đây là kênh dẫn vốn từ người tiết kiệm đến người kinh doanh, giúp cho việc chuyển vốn từ người không có cơ hội đầu tư sinh lợi đến những người có cơ hội đầu tư sinh lợi nên có thể huy động được mọi nguồn lực của đất nước vào phát triển kinh tế.
Thứ hai, thị trường tài chính Việt Nam đã và đang thúc đẩy việc tích lũy và tập trung tiền vốn để tạo nên nguồn vốn lớn, cần thiết để đáp ứng nhu cầu xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, sản xuất kinh doanh tạo nên nền tảng cở sở hạ tầng vững chắc tạo tiền đề thuận lợi cho sự phát triển kinh tế đất nước .
Thứ ba, chỉ khi thị trường tài chính Việt Nam hoạt động hiệu quả mới tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện các chính sách mở cửa, cải cách kinh tế của Chính phủ thông qua các hình thức như phát hành trái phiếu ra nước ngoài, bán cổ phần, thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào các ngành sản xuất kinh doanh trong nước...
Như vậy, thị trường tài chính giúp cho việc sử dụng vốn có hiệu quả hơn, không chỉ đối với người có tiền đầu tư mà còn cả với người vay tiền để đầu tư. Vì vậy, thị trường tài chính Việt Nam thông suốt sẽ tạo nên ngày càng nhiều các công ăn việc làm cho người dân, huy động và sử dụng hiệu quả các nguồn lực cho nền kinh tế cho nền kinh tế phục vụ đắc lực cho sự phát triển kinh tế, xã hội đất nước; cải thiện chất lượng cuộc sống, đem lại cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho người dân.
Chương 2
Thực trạng thị trường tài chính
Việt Nam hiện nay
2.1 Đánh giá chung về thị trường tài chính Việt Nam hiện nay
Sau hơn 20 năm đổi mới, hệ thống tài chính Việt Nam đã có bước chuyển từ hành chính, bao cấp sang vận hành theo cơ chế thị trường. Nước ta đã có nhiều cải cách về hệ thống thuế, đổi mới hệ thống ngân hàng và tiền tệ, phát triển thị trường bảo hiểm, xây dựng thị trường chứng khoán... có thể nói, đến nay, nước ta đã có một cấu trúc thị trường tài chính khá đầy đủ. Tuy nhiên, hệ thống thị trường tài chính Việt Nam vẫn còn thiếu đồng bộ và bất cập cả trên 3 phương diện: cơ sở pháp lý, cơ chế vận hành và năng lực tổ chức giám sát thực hiện. Có thể nói, thị trường tài chính còn tụt hậu khá xa so với nhu cầu phát triển.
Có thể thấy điều đó qua những biểu hiện như: duy trì những rào cản đối với việc gia nhập của các ngân hàng nước ngoài nên 4 ngân hàng thương mại vẫn giữ thế khống chế thị trường. Ngân hàng Nhà nước vẫn hay sử dụng các biện pháp hành chính để điều tiết thị trường tiền tệ. Thị trường chứng khoán tuy đã được hình thành, nhưng vẫn còn rất nhỏ bé và chưa trở thành một kênh huy động vốn hữu hiệu như mong muốn. Trong khi đó, hoạt động giao dịch cổ phiếu phi chính thức, thị trường trái phiếu vẫn còn rất sơ khai, mang tính tự phát và tiềm ẩn nhiều rủi ro do chưa có luật điều chỉnh.
Hiện nay, các ngân hàng thương mại chưa được kinh doanh theo nguyên tắc thương mại và thị trường một cách triệt để, đôi khi vẫn phải chấp nhận cho vay các khoản tín dụng chính sách. Bên cạnh đó, hệ thống pháp luật về thị trường chứng khoán chưa hoàn chỉnh và còn nhiều chồng chéo đôi khi còn mâu thuẫn nhau. Chúng ta đã có một Nghị định về chứng khoán và thị trường chứng khoán nhưng hoạt động kinh doanh chứng khoán còn phải chịu sự điều chỉnh của nhiều luật khác như: Luật Doanh nghiệp, Luật Đất đai... điều này làm cho hoạt động chứng khoán gặp khó khăn trong công tác quản lý, gây tâm lý thiếu tin tưởng cho các nhà đầu tư.
Gia nhập WTO, thị trường tài chính Việt Nam sẽ còn phải đối mặt với nhiều thách thức lớn. Một mặt vì tính phức tạp của thị trường tài chính ngày càng gia tăng, mặt khác việc hội nhập tài chính ngày càng sâu rộng đòi hỏi Nhà nước phải có nhiều sự điều chỉnh hơn nữa.
2.2 Thực trạng thị trường tài chính Việt Nam hiện nay
2.2.1 Thị trường tiền tệ.
Thị trường tiền tệ Việt Nam đã được hình thành và từng bước hoàn thiện gắn liền với tiến trình đổi mới và phát triển nền kinh tế đất nước. Cho đến nay, mặc dù thị trường tiền tệ Việt Nam chưa thực sự phát triển, nhưng nó đã đóng vai trò quan trọng trong việc điều tiết cung cầu về nguồn vốn ngắn hạn nhằm hỗ trợ cho các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, đời sống của các chủ thể trong nền kinh tế.
Đặc biệt, thị trường đã thực hiện chức năng cân đối, điều hòa nguồn vốn giữa các ngân hàng, góp phần hỗ trợ cho các ngân hàng đảm bảo khả năng thanh toán, hoạt động an toàn và hiệu quả. Thông qua các hoạt động trên thị trường tiền tệ, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) đã thực hiện điều tiết tiền tệ nhằm thực thi chính sách tiền tệ quốc gia. Có thể khẳng định rằng, thị trường tiền tệ Việt Nam đã góp phần nhất định trong quá trình phát triển kinh tế đất nước, nhất là quá trình chuyển đổi sang kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa và từng bước hội nhập kinh tế quốc tế.
2.2.1.1 Các bộ phận cấu thành của thị trường
Có thể thấy rằng, mặc dù đến nay quy mô của thị trường tiền tệ Việt Nam còn rất khiêm tốn, nhưng các bộ phận cấu thành của thị trường đã hình thành ở một mức độ nhất định. Đó chính là thị trường nội tệ và ngoại tệ liên ngân hàng, thị trường đấu thầu tín phiếu Kho bạc, các hoạt động nghiệp vụ tiền tệ của NHNN như nghiệp vụ cho vay của NHNN dưới các hình thức cho vay cầm cố, chiết khấu giấy tờ có giá, hoạt động nghiệp vụ thị trường mở, nghiệp vụ hoán đổi ngoại tệ …Thành viên tham gia thị trường, hàng hóa giao dịch trên thị trường cũng như doanh số hoạt động của các nghiệp vụ thị trường tiền tệ đều được từng bước mở rộng; hoạt động của thị trường đã từng bước được hiện đại hoá, đáp ứng được yêu cầu hội nhập.
Trước hết, cần phải kể đến thị trường nội tệ và ngoại tệ liên ngân hàng, nơi thực hiện việc điều tiết vốn ngắn hạn bằng đồng Việt Nam và ngoại tệ giữa các ngân hàng.
2.2.1.1.1 Thị trường nội tệ liên ngân hàng
Thị trường này được hình thành từ năm 1993 dưới hình thức ban đầu là một thị trường tập trung, có tổ chức qua NHNN. Tuy nhiên, từ năm 1997, hoạt động của thị trường diễn ra theo hình thức các ngân hàng trực tiếp vay mượn lẫn nhau không thực hiện thông qua NHNN. Nhìn chung, các ngân hàng thường có quan hệ với nhau đã dựa trên mức độ tín nhiệm để thỏa thuận phương thức giao dịch, thời hạn, lãi suất cũng như các điều kiện đảm bảo tiền vay.
Đến nay, phần lớn các giao dịch liên ngân hàng được thực hiện dưới các hình thức tín chấp, bảo đảm bằng số dư tiền gửi đối ứng tại ngân hàng cho vay…. Thậm chí một số ngân hàng đã thực hiện quan hệ vay mượn dưới hình thức gửi tiền lẫn nhau. Cho đến nay, doanh số hoạt động trên thị trường đã tăng đáng kể, phương thức giao dịch của thị trường ngày càng đổi mới, hầu hết các giao dịch đều thực hiện qua mạng.
2.2.1.1.2 Thị trường ngoại tệ liên ngân hàng
Từ khi chính thức hình thành năm 1994 đến nay, thị trường đã có những chuyển động đáng kể, đóng vai trò quan trọng trong việc kết nối cung cầu ngoại tệ cho các ngân hàng. Thông qua thị trường, NHNN đã theo dõi được các giao dịch về ngoại tệ trong hệ thống ngân hàng, nắm bắt diễn biến cung cầu và tham gia thị trường với vai trò người mua bán cuối cùng. NHNN thực hiện can thiệp thị trường khi cần thiết nhằm thực hiện mục tiêu chính sách tiền tệ trong từng thời kỳ.
Từ năm 1999 đến nay, bên cạnh việc điều hành linh hoạt tỷ giá, việc NHNN thực hiện các biện pháp can thiệp kịp thời trên thị trường đã hỗ trợ cho các ngân hàng cân đối ngoại tệ và đặc biệt là góp phần ổn định tỷ giá, tăng dự trữ ngoại hối của Nhà nước.
2.2.1.1.3 Thị trường đấu thầu tín phiếu Kho bạc
Có thể khẳng định rằng, từ năm 1995, việc đấu thầu tín phiếu Kho bạc qua NHNN đã mở ra một kênh huy động vốn với chi phí thấp cho Ngân sách Nhà nước. Doanh số và tỷ trọng tín phiếu Kho bạc phát hành dưới hình thức đấu thầu qua NHNN trong tổng doanh số huy động vốn của Kho bạc Nhà nước ngày càng tăng qua các năm. Điều này phù hợp với xu thế phát triển thị trường và thông lệ quốc tế. Bên cạnh đó, thị trường đấu thầu tín phiếu Kho bạc đã trở thành nguồn cung cấp hàng hóa chủ yếu cho các giao dịch nghiệp vụ tiền tệ giữa NHNN với các ngân hàng thương mại (NHTM) nhất là nghiệp vụ thị trường mở để thực thi chính sách tiền tệ quốc gia. Kỳ hạn tín phiếu Kho bạc đến nay đã đa dạng hơn trước, gồm 364 ngày, 273 ngày và 182 ngày. Bên cạnh các NHTM Nhà nước, các NHTM cổ phần, ngân hàng liên doanh và chi nhánh ngân hàng nước ngoài cũng đã từng bước trở thành thành viên tham gia thị trường.
2.2.1.2 Các hoạt động nghiệp vụ tiền tệ của NHNN
Từ tháng 7/2000, với việc NHNN chính thức khai trương nghiệp vụ thị trường mở, đã đánh dấu một bước đổi mới mạnh mẽ trong việc điều tiết tiền tệ gián tiếp theo các nguyên tắc thị trường. Từ năm 2000 đến nay, nghiệp vụ thị trường mở đã được từng bước hoàn thiện và chú trọng sử dụng để trở thành công cụ điều tiết tiền tệ chủ yếu của NHNN. Tổng doanh số giao dịch nghiệp vụ thị trường mở theo cả 2 chiều mua và bán tăng mạnh qua các năm; kỳ hạn giao dịch cũng được đa dạng hóa từ 7-182 ngày; khối lượng giao dịch qua từng phiên, định kỳ giao dịch cũng ngày càng tăng thêm. Việc điều hành nghiệp vụ thị trường mở ngày càng mang tính thị trường hơn, qua đó tăng cường khả năng điều tiết của công cụ này đến vốn khả dụng của các tổ chức tín dụng và các điều kiện trên thị trường tiền tệ.
Bên cạnh nghiệp vụ thị trường mở, nghiệp vụ tái cấp vốn của NHNN cũng được từng bước đổi mới, hoàn thiện theo hướng nâng cao hiệu quả điều tiết tiền tệ gián tiếp của NHNN. Đến nay tái cấp vốn của NHNN cho các NHTM chủ yếu được thực hiện dưới các hình thức chiết khấu, tái chiết khấu, cho vay có đảm bảo bằng cầm cố giấy tờ có giá. Các hình thức cho vay theo chỉ định của Chính phủ trước đây (từng chiếm tỷ trọng lớn trong cho vay tái cấp vốn) đã giảm mạnh qua các năm. Thủ tục, quy trình xử lý đề nghị vay tái cấp vốn từng bước được tinh giản, tạo thuận lợi cho các ngân hàng. Cơ chế tái cấp vốn được áp dụng bình đẳng cho tất cả các ngân hàng, không phân biệt loại hình sở hữu.
Đặc biệt từ năm 2003, thực hiện Luật sửa đổi một số Điều Luật Ngân hàng Nhà nước, NHNN đã cho phép cả các giấy tờ có giá dài hạn như các loại trái phiếu Chính phủ được sử dụng trong các giao dịch giữa NHNN và các ngân hàng. Điều này làm tăng đáng kể khối lượng giấy tờ có giá được giao dịch với NHNN, mở rộng khả năng tiếp cận của các ngân hàng đối với các kênh hỗ trợ vốn của NHNN, tạo điều kiện nâng cao khả năng điều tiết của NHNN đối với thị trường tiền tệ. Đến nay, bên cạnh các NHTM Nhà nước, khá nhiều NHTM cổ phần, ngân hàng liên doanh và chi nhánh ngân hàng nước ngoài đã tiếp cận các kênh hỗ trợ vốn nêu trên của NHNN.
2.2.1.3 Lãi suất trên thị trường tiền tệ
Lãi suất tái cấp vốn, lãi suất chiết khấu ngày càng được điều hành linh hoạt, phù hợp với mục tiêu CSTT trong từng thời kỳ. Từ năm 2003, lãi suất tái cấp vốn và lãi suất chiết khấu được điều chỉnh dần để hình thành khung lãi suất định hướng lãi suất thị trường. Cùng với việc điều chỉnh lãi suất chiết khấu để trở thành lãi suất sàn, NHNN đã thực hiện phân bổ hạn mức chiết khấu cho các ngân hàng. Qua đó, nghiệp vụ chiết khấu được điều hành như một kênh hỗ trợ vốn thường xuyên với giá rẻ từ NHNN. Trong khi đó, nghiệp vụ cho vay có bảo đảm bằng cầm cố giấy tờ có giá áp dụng lãi suất tái cấp vốn là mức lãi suất trần để NHNN từng bước thực hiện vai trò là người cho vay cuối cùng trên thị trường.
Ngoài các kênh hỗ trợ vốn ngắn hạn của NHNN thông qua nghiệp vụ thị trường mở, nghiệp vụ tái cấp vốn, NHNN còn thực hiện cho vay thấu chi và cho vay qua đêm trong thanh toán điện tử liên ngân hàng. Thêm vào đó, từ 7/2001, NHNN bắt đầu thực hiện nghiệp vụ hoán đổi ngoại tệ để hỗ trợ các tổ chức tín dụng gặp khó khăn tạm thời về vốn khả dụng VND và nhằm đạt được mục tiêu chính sách tiền tệ. Thực tế công cụ này đã phát huy tác dụng trong những thời điểm các NHTM thực sự khan hiếm về vốn khả dụng VND, nhất là đối với các ngân hàng nước ngoài có ngoại tệ dư thừa nhưng lại khó khăn về vốn VND và không sở hữu giấy tờ có gía ngắn hạn nên không có điều kiện tiếp cận các kênh hỗ trợ vốn khác của Ngân hàng Nhà nước.
2.2.1.3 Công cụ của thị trường
Theo Luật NHNN, các giấy tờ có giá ngắn hạn được giao dịch trên thị trường tiền tệ gồm tín phiếu Kho bạc, tín phiếu NHNN, chứng chỉ tiền gửi và các loại giấy tờ có giá khác. Tuy nhiên, trên thực tế đến trước năm 2003, công cụ chủ yếu được sử dụng trên thị trường tiền tệ là tín phiếu Kho bạc và tín phiếu NHNN.
Thực hiện Luật sửa đổi, bổ sung một số điều Luật NHNN, từ sau năm 2003 đến nay danh mục giấy tờ có giá có thể giao dịch trong các nghiệp vụ thị trường tiền tệ đã được tăng cường bao gồm cả các giấy tờ có giá dài hạn như các loại trái phiếu Chính phủ. Tuy nhiên, các giấy tờ có giá có thể sử dụng trong các giao dịch trên thị trường tiền tệ vẫn tập trung chủ yếu ở các NHTM Nhà nước. Một số công cụ đã được sử dụng khá phổ biến trên thị trường tiền tệ các nước như thương phiếu, chứng chỉ tiền gửi... nhưng hầu như vẫn chưa được hình thành, hoặc còn ít sử dụng ở Việt Nam. Vừa qua, Luật công cụ chuyển nhượng đã được Quốc hội chính thức thông qua, song NHNN hiện đang trong quá trình phối hợp với các cơ quan hữu quan để triển khai soạn thảo các văn bản hướng dẫn.
Kỳ hạn của các trái phiếu Chính phủ – công cụ chủ yếu sử dụng trong nghiệp vụ thị trường tiền tệ vẫn chưa thực sự đa dạng hóa, nhất là tín phiếu Kho bạc với thời hạn ngắn dưới 364 ngày ít được phát hành. Thậm chí, đến nay chưa có tín phiếu Kho bạc với kỳ hạn ngắn 1 tháng, 2 tháng, 3 tháng …Điều này cũng làm cho nhiều NHTM khó có điều kiện đầu tư vào giấy tờ có giá, tạo công cụ tham gia các nghiệp vụ thị trường tiền tệ.
Các giao dịch giữa các ngân hàng trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng chủ yếu được thực hiện dưới hình thức giao ngay. Các công cụ mang tính phòng ngừa rủi ro, công cụ phái sinh còn ít được áp dụng hoặc mới bước đầu triển khai, nhất là giao dịch kỳ hạn, quyền chọn và giao dịch hoán đổi với các hình thức hoán đổi lãi suất, hoán đổi tiền tệ.
2.2.1.4 Lãi suất trên thị trường tiền tệ
Về nguyên tắc, thị trường tiền tệ là nơi hình thành lãi suất tham chiếu cho các hoạt động đầu tư khác trên thị trường tài chính. Nhất là lãi suất của các tín phiếu, trái phiếu do Chính phủ phát hành thường được coi là lãi suất chuẩn trên thị trường. Tuy nhiên, cho đến nay, vấn đề lãi suất trên thị trường tiền tệ Việt Nam còn nhiều bất cập. Trong đấu thầu tín phiếu Kho bạc vẫn áp dụng lãi suất chỉ đạo, nên lãi suất trúng thầu chưa hình thành theo các nguyên tắc thị trường.
Các lãi suất do NHNN công bố như lãi suất tái cấp vốn, lãi suất chiết khấu, lãi suất cơ bản đã phát tín hiệu điều hành chính sách tiền tệ (thắt chặt hay nới lỏng), nhưng chưa thực sự phát huy hiệu quả vai trò kích thích tăng giảm nhu cầu tiền tệ. Kể cả trong các giao dịch nghiệp vụ thị trường mở, số lượng thành viên tham gia hạn hẹp nên lãi suất nghiệp vụ thị trường mở cũng chưa phản ánh đúng quan hệ cung-cầu về vốn trên thị trường.
Nhìn chung, các mức lãi suất của NHNN chưa thực sự có mối quan hệ gắn kết với lãi suất thị trường tiền tệ. Và các lãi suất trên thị trường tiền tệ nói chung cũng chưa có sự gắn kết chặt chẽ với lãi suất của các công cụ dài hạn trên thị trường tài chính.
2.2.1.5 Thành viên tham gia thị trường
Cho đến nay lượng thành viên tham gia các nghiệp vụ thị trường tiền tệ vẫn còn hạn hẹp. Chẳng hạn, trên thị trường đấu thầu tín phiếu Kho bạc, thành viên chủ yếu vẫn là các NHTM Nhà nước. Ngoài ra, có khoảng 10 NHTM cổ phần, ngân hàng liên doanh, chi nhánh ngân hàng nước ngoài đã bước đầu tham gia nghiệp vụ này. Trong các giao dịch nghiệp vụ thị trường tiền tệ giữa NHNN và các ngân hàng, ngoài các NHTM Nhà nước, cũng chỉ có khoảng 12-14 NHTM cổ phần, chi nhánh ngân hàng nước ngoài là thành viên thường xuyên tham gia.
Đặc biệt, trên thị trường nội tệ liên ngân hàng đã hình thành nhóm các ngân hàng thường cung ứng nguồn tiền VND chủ yếu là các NHTM Nhà nước và ngược lại nhóm các NHTM cổ phần và chi nhánh ngân hàng nước ngoài, ngân hàng liên doanh là các ngân hàng thường có nhu cầu vay tiền VND. Việc điều chuyển vốn thường chỉ diễn ra một chiều giữa nhóm các ngân hàng thường cho vay và nhóm ngân hàng thường đi vay.
Trên thực tế thị trường hầu như chưa hình thành các thành viên có tính chuyên nghiệp như các nhà môi giới, các nhà tạo lập thị trường, các công ty đánh giá xếp loại…Điều này làm hạn chế sự phát triển của thị trường.
Ngoài ra, việc tham gia của các thành viên trên thị trường tiền tệ còn hạn chế chủ yếu là do các NHTM (là thành viên chủ yếu của thị trường), vẫn đang trong quá trình cơ cấu lại và đang triển khai dự án hiện đại hoá hệ thống thanh toán. Việc quản lý vốn tập trung trực tuyến trong hệ thống còn khó khăn. Nhiều ngân hàng chưa thực hiện được việc theo dõi, phân tích luồng luân chuyển vốn theo từng kỳ hạn, nên năng lực quản lý vốn còn hạn chế. Bản thân một số ngân hàng chưa thực sự quan tâm, chưa chủ động trong việc tham gia các nghiệp vụ thị trường tiền tệ.
Về phía NHNN, cũng chưa thực sự phát huy hiệu quả vai trò hướng dẫn, điều tiết thị trường. Cho đến nay, NHNN chưa có hệ thống mạng theo dõi kịp thời toàn bộ diễn biến trên thị trường tiền tệ nên việc thực hiện vai trò điều tiết tiền tệ còn có khó khăn. Hệ thống văn bản pháp lý cho hoạt động thị trường tiền tệ đã được NHNN triển khai một bước nhưng chưa đồng bộ. Cơ sở hạ tầng phục vụ cho hoạt động nghiệp vụ tiền tệ ở NHNN còn một số bất cập như các giao dịch tái cấp vốn, hệ thống lưu ký giấy tờ có giá chưa được thực hiện qua mạng... Điều này cũng phần nào hạn chế sự tham gia thị trường của các thành viên.
2.2 Thị trường vốn
Thị trường vốn ở Việt Nam bao gồm có: thị trường chứng khoán và thị trường trái phiếu:
2.2.1 Thị trường chứng khoán
Song song với hệ thống ngân hàng, thị trường chứng khoán là một kênh huy động vốn hữu ích, nhất là vốn dài hạn cho các doanh nghiệp. Nhưng trong thời gian qua, dường như thị trường chứng khoán Việt Nam chưa làm được điều này.
Trong số các công ty hiện có, chủ yếu mới đưa chứng khoán đã phát hành ra niêm yết là chính chứ chưa có nhiều doanh nghiệp phát hành thêm cổ phiếu để huy động vốn. Thậm chí TTCK đã có 8 năm tuổi mà hầu hết các ngân hàng thương mại cổ phần ở Việt Nam không có một đồng nào đầu tư vào chứng khoán nợ đủ tiêu chuẩn để tham gia nghiệp vụ thị trường mở của Ngân hàng Nhà nước, trong khi đó lại thi nhau kinh doanh cổ phiếu (chứng khoán vốn).
2.2.1.1 Nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán
Nhà đầu tư trong nước
Phần lớn là các nhà đầu tư cá nhân nhỏ lẻ. Nhỏ lẻ là xét theo mức vốn của từng nhà đầu tư, nhưng nếu xét tổng số thì tổng lượng vốn của họ không nhỏ chút nào, bởi tới trên 70% tổng số tài khoản đầu tư trên thị trường chứng khoán là tài khoản cá nhân. Một đặc điểm nổi bật của các nhà đầu tư cá nhân nhỏ lẻ là đầu tư theo phong trào và phương thức đầu tư của phần đông trong số này là khi chỉ số giá chứng khoán tăng thì ào ào mua vào, làm cho các nhà đầu tư nước ngoài cũng phải "kinh ngạc"; khi chỉ số chứng khoán xuống thì lại có phong trào "bán tháo" để cắt lỗ.
Một đặc điểm khác là các nhà đầu tư cá nhân nhỏ lẻ có nguồn vốn rất hạn hẹp, phần lớn là cầm cố tài sản, vay ngân hàng, khi ngân hàng "khóa" khoản cầm cố thì tiềm lực vốn quá yếu kém của nhà đầu tư trong nước bộc lộ ra. Nhà đầu tư nước ngoài đã chuyển từ "kinh ngạc" sang hết "kinh ngạc"- quyền lực trên thị trường đã chuyển sang các nhà đầu tư nước ngoài! Tuy nhiên, trong kinh tế thị trường, ngay ở những nước có nền kinh tế thị trường phát triển nhất, bên cạnh các tập đoàn, các nhà tư bản khổng lồ, thì vẫn còn các nhà tư bản nhỏ, các nhà sản xuất kinh doanh nhỏ lẻ (các thợ thủ công, các tiểu nông, các nhà buôn bán nhỏ).
Trong thị trường chứng khoán cũng vậy, bên cạnh các "đại gia" có vốn lớn hàng trăm, hàng nghìn tỉ đồng cũng cần phải tồn tại những nhà đầu tư cá nhân, nhỏ lẻ, nếu không các "đại gia" chơi với ai? Cũng vì vậy, chỉ số giá chứng khoán biến động theo hình "răng cưa": đẩy giá giảm xuống để các nhà đầu tư nhỏ lẻ bán ra (và các "đại gia" mua vào) và khi các đại gia đẩy mạnh mua vào thì giá sẽ tăng, có tác động kéo các nhà đầu tư nhỏ lẻ thấy tăng mà trở lại thị trường (bằng cách dừng bán ra hoặc mua vào trở lại).
Nhà đầu tư nước ngoài
Đây là chủ thể ngày một chiếm vị trí cao trong thị trường chứng khoán Việt Nam. Đối với các cổ phiếu còn hấp dẫn thì nhà đầu tư nước ngoài đã gần như hết ROM. Đích nhắm tới của họ là các đợt IPO của các công ty "đại gia" vừa có vốn lớn, có thương hiệu mạnh, có vị trí quan trọng trong nền kinh tế Việt Nam, trong khi các đợt IPO lại giãn tiến độ, nên với lượng vốn lớn và các nhà đầu tư khi nhận ra tiềm lực vốn hạn hẹp của các nhà đầu tư trong nước, các nhà đầu tư nước ngoài có vai trò rất lớn của mình. Một cuộc ép giá từ nhà đầu tư nước ngoài đang diễn ra trên thị trường: họ tăng mua thì thị trường tăng giá trị giao dịch và giá chứng khoán tăng, hoặc ngược lại, họ giảm mua thì thị trường giảm giá trị giao dịch và chỉ số giá chứng khoán sẽ xuống! Nhà đầu tư nước ngoài gần như đã trở thành người điều khiển giá trên thị trường chứng khoán hiện nay. 2.2.1.2 Các công ty niêm yết
Các công ty niêm yết có hai động thái tác động đến thị trường. Hầu hết các công ty niêm yết đã phát hành cổ phiếu tăng vốn hay trả cổ tức bằng cổ phiếu với khối lượng lớn. Động thái thứ hai là cổ phiếu thưởng. Việc đầu tư vào những cổ phiếu được xem là thưởng này đã làm tăng cung và khi lượng cổ phiếu tăng lên thì thị giá của cổ phiếu sẽ giảm xuống, hậu quả tất yếu của quan hệ cung - cầu.
Qua hai năm xếp hạng các doanh nghiệp niêm yết trên TTCK, số doanh nghiệp niêm yết hoạt động tốt ngày càng nhiều.
Theo như đánh giá của CIC (Trung tâm Thông tin tín dụng của Ngân hành Nhà nước) sau khi đã tiến hành xếp hạng 293/299 doanh nghiệp niêm yết (tính đến 30/6/2008), không xếp hạng tổ chức tín dụng, chứng chỉ quỹ. Có 117 doanh nghiệp đạt xếp hạng tối ưu AAA, chiếm 39,93%; 170 doanh nghiệp xếp hạng tốt và khá từ AA đến BB, chiếm 58,02%; số còn lại đạt mức trung bình, không có doanh nghiệp xếp hạng yếu kém. Kết quả xếp hạng lần này của CIC sử dụng số liệu từ báo cáo kiểm toán năm 2007 và thông tin tài chính của một số doanh nghiệp niêm yết tính đến thời điểm 30/6/2008.
Nếu như năm 2006 chỉ có 33,42% doanh nghiệp được xếp hạng AAA (xếp hạng tối ưu) thì năm 2007 con số này đã tăng lên 39,93%. Tỷ trọng các doanh nghiệp xếp hạng trung bình đã giảm 76% (từ 25 doanh nghiệp năm 2006 xuống còn 6 doanh nghiệp năm 2007).
Trong 299 DN niêm yết có 151 DN quy mô lớn, 119 DN quy mô trung bình và 29 DN quy mô nhỏ. Các DN quy mô lớn chủ yếu được niêm yết trên HOSE, với 103 DN. Số DN này cũng có tỷ lệ tăng lớn nhất so với số lượng các DN có quy mô trung bình và nhỏ (năm 2007 tăng 54,08% so với năm 2006). DN có quy mô trung bình và nhỏ chủ yếu tập trung trên HASTC, với số lượng năm 2007 lần lượt là 71 và 23 DN.
Danh sách này được CIC lựa chọn dựa trên hệ thống xếp hạng gồm 3 hệ thống chỉ tiêu. Thứ nhất là hệ thống các chỉ tiêu tài chính, dựa trên các BCTC của các doanh nghiệp. Thứ hai là hệ thống các chỉ tiêu vay nợ ngân hàng và cuối cùng là hệ thống các chỉ tiêu phi tài chính. Sản phẩm đặc thù mà chỉ CIC mới có là các chỉ số về quan hệ ngân hàng, tổng dư nợ ngân hàng, khả năng trả nợ ngân hàng, nợ không đủ tiêu chuẩn của ngân hàng… Ngoài ra, CIC cũng lượng hóa các chỉ tiêu phi tài chính để đưa vào phân tích.
Có thể nói, kết quả xếp hạng đã phản ánh đúng thực tế năng lực hoạt động của các doanh nghiệp trong bối cảnh khó khăn của nền kinh tế trong nước và kinh tế thế giới năm 2007 và đầu năm 2008, cũng như quy mô của TTCK.
2.2.1.3 Nguyên nhân thị trường chứng khoán suy giảm trong thời gian qua
Tuy chất lượng các công ty niêm yết trên thị trường giao dịch tập trung tăng lên nhưng thị trường chứng khoán từ cuối năm 2007 đến nay vẫn có nhiều đợt suy giảm liên tiếp. Lý do mà TTCK không hấp dẫn có thể có nhiều nguyên nhân.
Nguyên nhân khách quan
Thứ nhất là do ảnh hưởng sâu sắc của tình trạng lạm phát, khủng hoảng tín dụng diễn ra trên thế giới và cả ở Việt Nam trong thời gian qua đã có tác động mạnh tới hoạt động của các doanh nghiệp trong nước, tăng chi phí hoạt động của các doanh nghiệp, giảm lợi nhuận sản xuất kinh doanh, gây tâm lí thờ ơ của các nhà đầu tư đối với thị trường chúng khoán vì nếu họ chuyển sang các lĩnh vực đầu tư khác ít rủi ro hơn….
Thêm nữa, do thị trường chứng khoán Việt Nam là một thị trường còn tương đối mới mẻ, các nhà đầu tư cũng còn quá ít kinh nghiệm và hiểu biết khi tham gia thị trường. Trong khi đó, thị trường chứng khoán Việt Nam đã phát triển quá “nóng” trong nửa cuối năm 2006 và nửa đầu năm 2007 nên đến giờ thị trường chứng khoán đang điều chỉnh về giá trị thực của nó.
Nguyên nhân chủ quan
– Hàng hoá trên TTCK hiện có đang kém về chất lượng, mất cân đối về cơ cấu và đặc biệt là giá IPO mang tính áp đặt tại thời điểm xuất phát đã bị đẩy lên rất cao so với giá trị thị trường của hầu hết các hàng hoá.
– Về cơ cấu, các “ông” chủ của TTCK Việt Nam đã vô hình trung lái nhà đầu tư hướng nhiều sự quan tâm về việc phát hành và buôn bán chứng khoán vốn (cổ phiếu) hơn là sự quan tâm đến chứng khoán nợ (trái phiếu...) – một công cụ tài chính hữu hiệu nhất trong việc “nối” TTCK với thị trường tiền tệ, tín dụng trong vai trò “chạy tiếp sức” và làm tăng tính thanh khoản cho TTCK.
– Trong lúc TTCK đang hấp dẫn nhà đầu tư, lúc có nhiều cơ hội phát triển của thị trường sơ cấp với hàng hoá chất lượng cao... thì các đợt IPO của các doanh nghiệp lớn lại liên tục bị trì hoãn, kéo giãn, tính toán quá lâu, gây mệt mỏi cho các nhà đầu tư, vừa mất thời cơ cổ phần hoá với giá có lợi cho các doanh nghiệp nhà nước lớn, vừa làm “lạnh” TTCK đang phát triển mạnh trở lại chưa đầy một năm (từ tháng 10.2006 – 6.2007).
– Mối liên hệ có tính chất bản chất giữa TTCK và thị trường tiền tệ lẽ ra rất gắn bó theo nguyên lý “chạy tiếp sức”, thì ở Việt Nam lại rất rời rạc, thậm chí có tình trạng “gắn bó ngược” theo kiểu “đi vay tiền ngân hàng thời hạn ngắn để mua cổ phiếu vô thời hạn”.
– Các nhà phát hành cổ phiếu Việt Nam hầu hết sau khi “IPO một cách chụp giật” đã bỏ mặc các cổ đông. Thay vì phải trả lợi tức bằng tiền cho nhà đầu tư với tư cách là các cổ đông thì lâu nay lại chỉ trả bằng giấy... “bán giấy lấy tiền” thì cổ đông không thể yên tâm với “quyền” sở hữu công ty của mình được.
– Các nhà quản lý TTCK cũng chủ yếu chỉ quan tâm đến việc lên xuống của chỉ số trên các “sàn” chính thức, ít quan tâm đến TTCK nói chung (cả OTC). Nghĩa là quá quan tâm đến thị trường thứ cấp chính thức, nơi đang bao gồm những hàng hoá cũ do phát hành một cách chụp giật với giá cao, chất lượng thấp chiếm tỷ lệ áp đảo...
2.2.2 Thị trường trái phiếu
Hiện nay, trong bối cảnh hệ thống ngân hàng chủ động kiềm chế việc cho vay trung và dài hạn để đảm bảo an toàn hoạt động, thì việc phát hành TPCty, đặc biệt là qua kênh thị trường chứng khoán (TTCK) sẽ dần trở thành xu hướng mới đáp ứng nhu cầu phát triển hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp ở nước ta.
Chính phủ cũng đã có Nghị định 52/2006/NĐ-CP cho phép tất cả các doanh nghiệp đều có thể huy động vốn thông qua phát hành trái phiếu để phục vụ cho mục tiêu tăng trưởng kinh tế. Chỉ trong vòng 6 tháng sau khi Nghị định 52 ra đời, các doanh nghiệp đã huy động được khoảng gần 6.000 tỷ đồng trong đó có những doanh nghiệp như Tập đoàn Điện lực Việt Nam huy động được 5.000 tỷ đồng, Tập đoàn Công nghiệp và Tàu thuỷ huy động được 800 tỷ đồng. Đến nay, một số ngân hàng thương mại cũng đang dự kiến và đã phát hành trái phiếu tăng vốn cấp 2 thông qua huy động trái phiếu trên thị trường trong nước như Ngân hàng NN&PTNT (Agribank).
Tuy nhiên thị trường trái phiếu doanh nghiệp nước ta so với thế giới vẫn chưa thực sự phát triển:
Tổ chức phát thành chủ yếu mới chỉ là các ngân hàng thương mại, các công ty, tổng công ty lớn. Cơ cấu trái phiếu doanh nghiệp trong thị trường trái phiếu Việt Nam còn rất khiêm tốn(chỉ chừng 10%) trong khi trái phiếu chính phủ chiếm đa số (80-83%). Các nhà đầu tư chủ yếu mua và giữ trái phiếu tới khi đáo hạn, các dịch vụ liên quan hầu như chưa có…Việc phát hành trái phiếu ra nước ngoài gặp rất nhiều khó khăn. Nguyên nhân của việc phát hành TPCT chưa được triển khai ở nước ta là: thông tin về các tổ chức phát hành còn quá thiếu và độ tin cậy thấp, chưa thực sự chứng tỏ năng lực cũng như hiệu quả kinh doanh; các tầng lớp dân cư chưa quen với TPCT; tính hấp dẫn của trái phiếu kém; doanh nghiệp quen huy động vốn bằng hình thức vay vốn tín dụng từ ngân hàng; khuôn khổ pháp lý chưa khuyến khích doanh nghiệp phát hành TPCT.
Trái phiếu chất lượng cao, kỳ hạn dài, lãi suất hấp dẫn của Chính phủ, của các công trình trọng điểm quốc gia biết rõ sẽ có hiệu quả lớn còn chưa có và/hoặc rất hiếm hoi, trong khi ngân sách Nhà nước luôn thâm thủng và Nhà nước luôn phải đi vay trung hạn trong nước và cả ở nước ngoài.
MỤC LỤC
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 24926.doc