Đề tài Thực trạng thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Mĩ La Tinh và bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam

Doanh nghiệp liên doanh (DNLD) là loại hình được nước chủ nhà ưa chuộng vì có điều kiện để học tập kinh nghiệm quản lý tiên tiến của nước ngoài, đào tạo lao động, tiếp cận dần chỗ đứng trên thị trường thế giới. Tuy nhiên hình thức này đồi hỏi bên nước chủ nhà phải có khả năng góp vốn, có đủ trình độ tham gia quản lý doanh nghiệp với người nước ngoài thì nước chủ nhà mới đạt hiệu quả mong muốn. Xu hướng chung của tất cả các nước là tăng dần vốn góp của bên nước sở tại trong DNLD, từ đó từng bước tăng cường ảnh hưởng của mình trong doanh nghiệp, tiến tới kiểm soát và quản lý hoàn toàn các hoạt động sản xuất kinh doanh của DNLD. Tuy nhiên hình thức này ngày càng không được chủ ĐTNN ưa chuộng vì nhiều phiền phức do bất đồng trong quản lý, đối tác đầu tư chưa ngang tầm về kinh nghiệm kinh doanh, quy mô kinh tế.

doc29 trang | Chia sẻ: Dung Lona | Lượt xem: 1217 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Mĩ La Tinh và bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hạn kinh doanh, công trình sẽ được chuyển giao không bồi hoàn cho nước sở tại. Hợp đồng xây dựng - chuyển giao-kinh doanh(Building Transfer Operate - BTO). Hình thức này giống BTO, nhưng khác ở điểm là sau khi xây dựng xong, công trình được chuyển giao cho nước sở tại trước rồi nhà đầu tư mới được khai thác. Hợp đồng xây dựng-chuyển giao (Building Transfer-BT). Hình thức này cũng giống như hình thức BTO nhưng khác ở điểm là sau khi chuyển giao xong nhà đầu tư sẽ được chính phủ nước sở tại tạo điều kiện cho nhà ĐTNN thực hiện một dự án khác để thu hồi vốn đầu tư và có lợi nhuận hợp lý chứ không được khai thác công trình đã chuyển giao. Trong các loại hình FDI nói trên, hợp đồng hợp tác kinh doanh là hình thức đa dạng và thường áp dụng trong lĩnh vực thăm dò, khai thác dầu khí và trong lĩnh vực bưu chính viễn thông, công nghiệp gia công và dịch vụ. Doanh nghiệp liên doanh (DNLD) là loại hình được nước chủ nhà ưa chuộng vì có điều kiện để học tập kinh nghiệm quản lý tiên tiến của nước ngoài, đào tạo lao động, tiếp cận dần chỗ đứng trên thị trường thế giới. Tuy nhiên hình thức này đồi hỏi bên nước chủ nhà phải có khả năng góp vốn, có đủ trình độ tham gia quản lý doanh nghiệp với người nước ngoài thì nước chủ nhà mới đạt hiệu quả mong muốn. Xu hướng chung của tất cả các nước là tăng dần vốn góp của bên nước sở tại trong DNLD, từ đó từng bước tăng cường ảnh hưởng của mình trong doanh nghiệp, tiến tới kiểm soát và quản lý hoàn toàn các hoạt động sản xuất kinh doanh của DNLD. Tuy nhiên hình thức này ngày càng không được chủ ĐTNN ưa chuộng vì nhiều phiền phức do bất đồng trong quản lý, đối tác đầu tư chưa ngang tầm về kinh nghiệm kinh doanh, quy mô kinh tế. Đối với Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài, lúc đầu các nhà ĐTNN còn e ngại vì họ chưa nắm rõ tình hình và luật pháp nước sở tại, họ muốn chia sẻ rủi ro với đối tác nước chủ nhà, mặt khác nước chủ nhà cũng không thích hình thức đầu tư này vì họ muốn được chia sẻ lợi ích, học hỏi kinh nghiệm quản lý. Tuy nhiên xu hướng chung, hình thức này ngày càng được mở rộng hơn vì các chủ ĐTNN muốn tự mình quản lý và hưởng lợi nhuận do thành quả đầu tư đem lại, còn nước sở tại buộc phải chấp nhận để cạnh tranh thu hút FDI trong bối cảnh nước nào cũng tìm mọi cách để thu hút thật nhiều FDI. Hình thức đầu tư thông qua tư nhân hoá chỉ thực hiện ở các nước có quá trình tư nhân hoá các doanh nghiệp nhà nước mà cho phép nhà đầu tư nước ngoài tham gia. Hình thức M&As được áp dụng phổ biến khi các công ty xuyên quốc gia muốn nhanh chóng tìm được chỗ đứng của mình ở nước sở tại. Hình thức này thường diễn ra trong các ngành như viễn thông, chế tạo ô tô, ngân hàng. Hình thức BOT, BTO, BT được thành lập khi nước chủ nhà có nhu cầu tiêu dùng sản phẩm nhưng nước chủ nhà lại không có khả năng đáp ứng. Đặc biệt với những nước có cơ sở hạ tầng yếu kém thì hình thức này được ưa chuộng vì họ không có đủ vốn để xây dựng các hệ thống hạ tầng cho nền kinh tế. 3. Tác động của FDI đến những nước đang phát triển FDI là một đặc trưng nổi bật của nền kinh tế thế giới hiện đại, một yếu tố quan trọng thúc đẩy quá trình toàn cầu hoá. Trên phượng diện lý thuyết cũng như thực tiễn, khó có một lợi ích nào không đồi hỏi chi phí. FDI mang lại lợi ích và cả rủi ro cho cả nước chủ đầu tư và nước tiếp nhận đầu tư. Tuy nhiên, trong nghiên cứu này ta chỉ xem xét tác động của FDI tới nước nhận đầu tư là các nước đang phát triển (ĐPT). 3.1. Những lợi thế của FDI Thứ nhất, FDI bổ sung nguồn vốn cho nước chủ nhà phát triển kinh tế mà không làm tăng gánh nặng nợ nần. Trong giai đoạn đầu phát triển kinh tế, các nước đang phát triển đều bị thiếu vốn đầu tư do tích luỹ nội bộ thấp hoặc không có tích luỹ. Điều này đã hạn chế đến quy mô đầu tư và đổi mới công nghệ, trang thiết bị kĩ thuật ở các nước này. FDI là loại hình đầu tư không quy định mức vốn đầu tư tối đa mà chỉ quy định mức đầu tư tối thiếu, do vậy cho phép nước sở tại khai thác được nguồn vốn bên ngoài, làm tăng thêm nguồn lực để phát triển kinh tế. Nguồn vốn FDI có thể hoạt động trong nhiều lĩnh vực khác nhau của đời sống kinh tế xã hội và thường là vốn đầu tư dài hạn, do các nhà ĐTNN tự quản lý và tự chịu kết quả kinh doanh nên có hiệu quả để tăng trưởng kinh tế bền vững. Hình 1 cho ta thấy FDI vào các nước ĐPT tăng lên nhanh chóng từ 44,266 tỷ USD năm 1991 tăng lên 111,649 tỷ USD năm 1995 và đạt mức cao nhất vào năm 2000 với số lượng là 238,643 tỷ USD, tăng hơn 5 lần so với năm 1991. Đây là một nguồn vốn lớn giúp các nước ĐPT phát triển kinh tế của mình. Bên cạnh đó, như đã nói FDI là nguồn vốn do các chủ ĐTNN “tự làm, tự chịu”, nó khác với các khoản viện trợ chính thức (ODA) hay các khoản tín dụng quốc tế khác là không gây ra gánh nặng nợ nần cho nước tiếp nhận đầu tư nên các nước đang phải chịu sức ép nợ nần ở khu vực châu á, đặc biệt là các nước thuộc khu vực Mĩ La Tinh rất mong muốn tiếp nhận nguồn vốn đầu tư này. Hình 1: Luồng FDI vào các nước đang phát triển (1991-2000) Nguồn : UNCTAD Handbook of Statistics Thứ hai, FDI thúc đẩy chuyển giao công nghệ và học tập kinh nghiệm quản lý kinh doanh của nước ngoài. ở các nước đang phát triển, công nghệ thường là công nghệ cổ truyền, lạc hậu với năng suất thấp. Bên cạnh đó, với trình độ phát triển kinh tế xã hội, giáo dục, khoa học kĩ thuật không cao, các nước này có ít khả năng phát triển những công nghệ mới và hiện đại. Mặt khác, với số vốn tích lũy ít ỏi, khả năng tự nhập khẩu công nghệ của các nước này cũng rất hạn chế. Trong hoàn cảnh đó, FDI được coi là phương tiện hữu hiệu để các nước này có thể tiếp cận với những công nghệ cao, hiện đại của nước ngoài. Thông thường, khi triển khai dự án đầu tư vào một nước, chủ ĐTNN không chỉ chuyển vào đó vốn bằng tiền mà còn chuyển cả vốn hiện vật như máy móc, thiết bị, nguyên vật liệu (còn gọi là công nghệ cứng) và vốn vô hình như công nghệ, tri thức khoa học, bí quyết quản lý, kỹ năng tiếp cân thị trường (còn gọi là công nghệ mềm) cũng như đưa chuyên gia nước ngoài vào hoặc đào tạo các chuyên gia bản xứ về các lĩnh vực đó. Điều này cho phép các nước nhận đầu tư không chỉ có được những công nghệ đơn thuần mà còn nắm vững cả các kĩ năng nguyên lý vận hành, sửa chữa, mô phỏng và phát triển nó, nhanh chóng tiếp cận được công nghệ hiện đại ngay cả khi nền tảng quốc gia chưa được tạo lập đầy đủ. Ví dụ một nghiên cứu được thực hiện với 8 chi nhánh công ty nước ngoài và 16 công ty thầu phụ trong nước trong lĩnh vực điện tử của Xingapo cho thấy sự chuyển giao công nghệ lớn nhất được thực hiện thông qua các cơ hội học tập mà các chi nhánh công ty của nước ngoài đưa ra qua việc kiểm tra và phản hồi thông tin. Sự chuyển giao công nghệ trực tiếp như đề cập ở trên có tầm quan trọng không lớn và phần lớn được thực hiện thông qua việc cung cấp các kĩ năng như cố vấn hoặc đào tạo về hệ thống quản lý chất lượng và những kĩ năng thực hành sản xuất hàng hoá khác. Loại công nghệ chuyển giao chủ yếu liên quan đến các quá trình sản xuất, đặc biệt là những kĩ năng về quản lý chất lượng[30]. Việc chuyển giao công nghệ thông qua FDI của các công ty xuyên quốc gia (TNC-Transnational Corporation) có vai trò to lớn trong việc kích thích các doanh nghiệp trong nước tự nâng cao trình độ công nghệ và thông qua chuyển giao công nghệ tạo ra nhiều sản phẩm mới, kiểu dáng đẹp, chất lượng cao, góp phần nâng cao sức cạnh tranh của bản thân doanh nghiệp trên cả thị trường trong nước lẫn thị trường quốc tế. Với hình thức doanh nghiệp liên doanh, nước chủ nhà tham gia quản lý cùng các nhà ĐTNN nên có điều kiện tiếp cận và học hỏi kinh nghiệm quản lý tiên tiến của nước ngoài trong sản xuất kinh doanh, nâng dần kiến thức kinh doanh hiện đại của cán bộ và tay nghề của đội ngũ công nhân như kinh nghiệm xây dựng và đánh giá dự án, kinh nghiệm tổ chức điều hành doanh nghiệp, quản lý tài chính, kế toán, quản lý công nghệ, nghiên cứu thị trường, nghệ thuật tiếp thị, thông tin quảng cáo, tổ chức mạng lưới dịch vụ. Thứ ba, FDI mở ra cơ hội hội nhập kinh tế thế giới. Hiện nay, các nước đang phát triển đều đã nhận thức ra rằng sự phát triển kinh tế của mình phải dựa vào thị trường thế giới, phải tham gia tích cực vào phân công lao động quốc tế và họ luôn tìm cách để thực hiện quá trình đó một cách nhanh chóng và hiệu quả nhất. Hội nhập kinh tế thế giới có nghĩa là định hướng phát triển kinh tế từ thay thế nhập khẩu sang hướng vào xuất khẩu. Các nghiên cứu về quá trình phát triển kinh tế của các nước đang phát triển cho thấy một trong những nhân tố đảm bảo cho chiến lược hội nhập thành công là thu hút FDI. Điều này về mặt lý thuyết là do đầu tư trực tiếp nước ngoài gắn bó chặt chẽ với thương mại, còn về mặt thực tiễn là do các nước đang thiếu kinh nghiệm và khả năng thâm nhập thị trường nước ngoài. Hầu hết các nước đang phát triển đạt được tốc độ tăng trưởng xuất khẩu cao và tạo ra những chuyển biến trong cơ cấu thương mại của mình là nhờ thu FDI vào các ngành công nghệ tiên tiến và những ngành sản xuất các sản phẩm được ưa chuộng trên thị trường thế giới.Ví dụ điển hình về mặt này là trường hợp của Malaysia. Trong hơn hai thập kỷ qua, nước này đã thành công vang dội trong việc chuyển từ xuất khẩu sản phẩm sơ chế sang hàng có hàm lượng chế tạo cao. Tỷ lệ sản phẩm chế tạo trong tổng xuất khẩu của Malaysia đã tăng từ trên 20% vào đầu thập kỷ 70 lên 70% trong những năm của thập kỷ 90. Thành tích kỳ diệu này của Malaysia là có công rất lớn của FDI. Trong năm 1980, tỷ lệ FDI vào khu vực chế tạo đạt mức rất cao 77% và đã tăng lên tới 84,5% trong năm 1990. Bên cạnh đó, thông qua FDI, các nước đang và chậm phát triển được thu hút vào mạng lưới phân công lao động quốc tế và khu vực. Một thí dụ là ngành công nghiệp ô tô ở các nước Đông Nam á. Các hãng sản xuất ô tô nổi tiếng như Toyota, Honda, Nissan, Mazda... đều thực hiện chiến lược thiết lập mạng lưới sản xuất và lắp ráp được bố trí ở các nước khác nhau và được gắn bó với nhau thông qua buôn bán nội bộ công ty. Quá trình này được thúc đẩy mạnh mẽ bởi tự do hoá thương mại trong khu vực. Ngoài ra, FDI còn mang lại nhiều lợi ích khác cho nước chủ nhà. Đó là, hoạt động hiệu quả của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài sẽ giúp các quốc gia này khai thác có hiệu quả các thế mạnh sẵn có về tài nguyên, vị trí địa lý và nguồn nhân công vẫn còn được sử dụng rất lãng phí ở các nước này. Thứ tư, FDI thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá-hiện đại hoá (CHH-HĐH). Bằng việc chuyển giao công nghệ thường đã mất sức cạnh tranh ở chính quốc, nhưng lại còn khá mới mẻ và hiện đại đối với các nước tiếp nhận đầu tư, FDI góp phần cải thiện cơ cấu kinh tế các nước tiếp nhận đầu tư theo hướng công nghiệp hoá- hiện đại hoá và quốc tế hoá. ở những nền kinh tế mới CNH, đầu tư của các công ty xuyên quốc gia thường tập trung vào lĩnh vực công nghiệp chế tạo. Ví dụ, ở Xingapo các công ty nước ngoài chiếm 66-75% số tư bản đầu tư vào lĩnh vực công nghiệp chế tạo trong khoảng thời gian 1977-1981, ở Thái Lan năm 1988 FDI vào nông nghiệp, khai thác mỏ, dầu khí chiếm 12,2% còn gần 90% tập trung vào công nghiệp [1]. Điều này giải thích tại sao FDI đã đóng vai trò tích cực trong việc thúc đẩy quá trình xuất khẩu sản phẩm công nghiệp ở các nước này. Mặt khác vốn FDI đầu tư vào các ngành dịch vụ ngày càng tăng, do đó cũng góp phần thúc đẩy cơ cấu kinh tế theo hướng CNH-HĐH ở các nước tiếp nhận vốn. Chẳng hạn như: đầu những năm 90, tỉ lệ FDI đầu tư vào khu vực dịch vụ ở Mêhicô đã lên đến 60%, còn ngành công nghiệp chế tạo đã giảm còn 27%, do đó góp phần làm dịch chuyển cơ cấu kinh tế nước này theo hướng tăng của các ngành dịch vụ và giảm tỉ trọng của các ngành công nghiệp và nông nghiệp [4]. Thứ năm, FDI góp phần giả quyết tình trạng thất nghiệp và nâng cao thu nhập. Thông qua đầu tư trực tiếp nước ngoài, mục đích chủ yếu của các công ty nước ngoài là nhằm thu lợi nhuận cao, tìm kiếm thị trường mới, củng cố chỗ đứng và duy trì lợi thế cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Do đó các công ty này đặc biệt chú trọng đến việc tận dụng nguồn lao động rẻ ở nước tiếp nhận đầu tư. Thông qua việc thành lập các doanh nghiệp mới hoặc mở rộng quy mô các doanh nghiệp hiện có, hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài đã tạo ra công ăn việc làm cho một số lượng khá lớn người lao động tại nước tiếp nhận, đặc biệt là tại những nước đang phát triển - nơi có nguồn lao động dồi dào, nhưng thiếu vốn để khai thác và sử dụng. Chẳng hạn như một công ty máy tính sản xuất ổ đĩa đã làm tăng công ăn việc làm ở khu vực Băngkôc (Thái Lan) từ 5.000 lên đến 20.000 người trong năm 1989. Hoặc ở Xingapo, trong năm 1989 các công ty có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài chiếm 70% lao động có việc làm trong lĩnh vực chế biến [22]. Gần đây hơn, tại Mêhicô, trong năm 2001, tỷ lệ gia tăng người lao động vào làm tại các công ty có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đã cao gấp hai lần mức gia tăng bình quân của cả nước. Từ năm 1994, các công ty có vốn ĐTNN đã tạo ra 1/4 lượng công ăn việc làm mới cho nước này và hiện tại các ct này đang thu hút khoảng 20% số lao động chính thức của nước này [49]. Song song với tạo ra việc làm, đầu tư trực tiếp nước ngoài còn làm tăng thu nhập cho người lao động bởi tiền lương trả từ các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thường cao hơn các doanh nghiệp trong nước, điều này góp phần nâng cao mặt bằng tiền lương chung tại nước tiếp nhận. Bảng 1 cho thấy sự khác biệt về tiền lương giữa các công ty có vốn ĐTNN và các công ty trong nước thường ở mức khá cao, khoảng 20-30% ví dụ như ở Vênêzuêla là 29%, Thái Lan là 20%, Hồng Kông là 27%... đặc biệt có trường hợp mức chênh lệch này lên tới 50% (Mêhicô)[49] và 60% (Inđônêxia). Thông qua đầu tư trực tiếp nước ngoài, một bộ phận dân cư có thể có được mức thu nhập cao và kéo theo đó là mức tiêu dùng cũng như tiết kiệm sẽ cao hơn, điều đó sẽ thúc đẩy các ngành kinh tế khác phát triển cũng như mở rộng hoạt động tái đầu tư. Tóm lại, FDI đóng vai trò khá toàn diện đối với sự phát triển kinh tế xã hội của nước tiếp nhận đầu tư. Với những ưu điểm nổi bật trên thì việc thu hút FDI đã trở thành chiến lược phát triển kinh tế của mỗi quốc gia trong bối cảnh toàn cầu hoá đang diễn ra mạnh mẽ ngày nay. Tuy nhiên, song song với những nỗ lực thu hút FDI cũng phải xem chừng đến những những tác động tiêu cực mà FDI có thể gây ra. Bảng 1 : Sự chênh lệch về lương giữa các công ty có vốn ĐTNN và các công ty trong nước ở các nước ĐPT. Tác giả nghiên cứu Nước và năm nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu Cơ sở nghiên cứu Kết quả Aitken, Harrison và Lipsey Mêhicô (1990) và Vênêzuêla (1987) Lương có tay nghề và không có tay nghề Đặc điểm công ty, ngành và khu vực FOE* trả cao hơn 29% ở Vênêzuêla và 22% ở Mêhicô (có tay nghề); 22% ở Vênêzuêla và 3,3% ở Mêhicô (không có tay nghề) Haddad vad Harrison Moroco, các DNSX, 1985 – 1996 Mức lương TB trong DN Độ lớn công ty FOE trả cao hơn 30% Lipsey và Sjonlm Inđônêxia, các DNSX, 1996 Tiền công TB Đặc điểm công nhân và DN FOE trả cao hơn 12% cho người lao động chân tay và 22% cho người lao động trí óc Matsuoka Thái lan, ngành sản xuất, 1996 và 1998 Tiền công tính theo giờ NSLĐ khu vực và ngành FOE trả cao hơn 20% trong lĩnh vực phi sản xuất và 8% trong lĩnh vực sản xuất (1996) ; 28% và 12% năm 1998 Mazumdar Camơrun, Dămbia, ngành sản xuất, 1993 Thu nhập Đặc điểm công nhân và DN FOE trả cao hơn 18% ở Camơrun và 24% ở Dămbia. Ramstetter HồngKông (1983 -1996), Malayxia (1972 - 1979, 1981 - 1995), Xingapo (1975 - 1996), Đàiloan (1974-1995), các DNSX Tiền trả thực tế cho mỗi lao động FOE trả cao hơn 27% (HồngKông) ;20% (Malayxia) ;9%(Xingapo); 16% (Đài loan) Te velde và Morrissey Camơrun, Ghana, Kênia, Dămbia, Dimbabuê, DNSX, đầu thập niên 90 Thu nhập TB hàng tháng Đặc điểm công nhân và DN FOE trả cao hơn 8% (Camơrun); 22% (Ghanna), 17%(Kênia), 13% (Dimbabuê) Nguồn: www.odi.org.uk *FOE (Foreign-owned establishments): Doanh nghiệp có vốn ĐTNN. 3.2. Những mặt trái của FDI FDI có thể gây ra nhiều những mặt trái cho nước nhận đầu tư. Sau đây là một vài mặt tiêu cực có thể dễ dàng nhận thấy: Một là, chi phí thu hút FDI đôi khi quá cao. Ngày nay, thấy rõ lợi ích ngày càng to lớn do FDI mang lại, cùng với chiến lược phát triển dựa trên sự hoà nhập mạnh mẽ vào nền kinh tế thế giới, các quốc gia ngày càng tích cực hơn trong việc tìm kiếm nguồn vốn FDI. Một trong các biện pháp mà các nước thường đưa ra là các khuyến khích đầu tư. Đây chính là các ưu đãi mà nước chủ nhà dành cho các nhà đầu tư nước ngoài, thông thường nó có các hình thức sau: Các khuyến khích về tài chính: nước chủ nhà trực tiếp cung cấp vốn cho các nhà đầu tư nước ngoài dưới dạng tài trợ đầu tư và tín dụng ưu đãi (chẳng hạn như việc cho nhà đầu tư vay vốn với lãi suất ưu đãi khi đầu tư vào vùng có điều kiện kinh tế, xã hội khó khăn như Trung Quốc đang áp dụng). Các khuyến khích về thuế: được đặt ra nhằm giảm bớt gánh nặng về thuế cho các nhà đầu tư như việc miễn giảm thuế trong một thời gian đầu hoạt động. Các khuyến khích gián tiếp: được đặt ra nhằm tăng khả năng sinh lời cho các nhà đầu tư nước ngoài thông qua việc chính phủ cung cấp đất đai hoặc cơ sở hạ tầng với giá thấp hơn giá thương mại thông thường. Như vậy, có thể nhận thấy là các khuyến khích đầu tư này chính là việc chuyển một phần lợi ích từ các nước tiếp nhận sang các nhà đầu tư nước ngoài. Đó chính là chi phí của thu hút đầu tư. Trong nhiều trường hợp, khi mà nước chủ nhà không đánh giá chính xác được toàn bộ các tác động tích cực mà một dự án FDI mang lại thì sẽ rất dễ xảy ra tình trạng chi phí bỏ ra để thu hút được dự án còn lớn hơn tổng lợi nhuận mà dự án đem lại. Có thể nói việc này khá nguy hiểm nếu không có một chính sách thu hút đầu tư đúng đắn vì khi đó FDI không những không thúc đẩy dược tăng trưởng kinh tế mà còn làm thất thoát các nguồn lực của đất nước. Hai là, nguy cơ trở thành bãi rác công nghệ. Mục tiêu của các nhà đầu tư khi tiến hành hoạt động đầu tư ra nước ngoài là đạt được lợi nhuận cao nhất. Bởi vậy các nhà đầu tư bao giờ cũng tận dụng tối đa các yếu tố sản xuất. Bên cạnh đó, dưới tác động của cách mạng khoa học kỹ thuật nên máy móc, công nghệ rất mau trở nên lạc hậu, điều này luôn tạo ra sức ép buộc các nhà sản xuất phải nhanh chóng đổi mới công nghệ, đổi mới sản phẩm, nâng cao chất lương sản phẩm. Kéo dài thời gian khai thác công nghệ bằng cách đầu tư ra bên ngoài chính là biện pháp giải quyết được hai mục tiêu trên.Vì lẽ đó mà hầu hết công nghệ mà các nhà đầu tư chuyển giao sang các nước đang và chậm phát triển đều là những công nghệ đã qua sử dụng, thậm chí có những công nghệ đã rất lạc hậu. Việc chuyển giao công nghệ lạc hậu có thể gây ra rất nhiều thiệt hại cho nước nhận đầu tư, đó là: thứ nhất, rất khó tính được giá trị thực của những máy móc chuyển giao đó, do vậy nước chủ nhà thường bị các nhà đầu tư khai tăng giá công nghệ dẫn đến thiệt hại trong tỷ lệ góp vốn và cuối cùng là trong việc phân chia lợi nhuận; thứ hai, gây ô nhiễm môi trường; thứ ba, công nghệ lạc hậu thì chất lượng sản phẩm thấp, chi phí sản xuất cao và do đó sản phẩm của nước nhận đầu tư khó có khả năng cạnh tranh trên thị trường thế giới. Thực tiễn cho thấy tình hình chuyển giao công nghệ của các nước công nghiệp sang các nước đang phát triển vẫn còn nhiều vấn đề đáng quan tâm. Theo báo cáo của ngân hàng phát triển Mỹ, có tới 70% thiết bị mà các nước Mỹ La Tinh nhập khẩu từ các nước tư bản phát triển là công nghệ lạc hậu. Cũng như vậy, có rất nhiều công nghệ lạc hậu đã chuyển giao vào các nước ASEAN trong những năm qua bằng con đường FDI. Tuy nhiên, các quốc gia nhận đầu tư có thể hạn chế bớt tác động tiêu cực này thông qua chính sách công nghệ thích hợp của mình. Ngoài ra, các quốc gia này nên chú ý việc lựa chọn công nghệ phải phù hợp với phấp luật, chính sách về bảo vệ môi trường. Ba là, rất khó quản lý được chính xác hoạt động của các doanh nghiệp có vốn ĐTNN. Có thể nói đầu tư trực tiếp nước ngoài đang là một chiến lược hàng đầu của các công ty xuyên quốc gia trong xu thế quốc tế hoá các nền kinh tế. Hầu hết các chủ đầu tư nước ngoài rất giàu kinh nghiệm, sành sỏi trong kinh doanh, họ luôn tìm cách né tránh sự quản lý của chính phủ nước nhận đầu tư về vốn đầu tư trực tiếp nói riêng và các mặt quản lý hoạt động khác nói chung, nhất là quản lý lợi nhuận phát sinh. Do đó nhà nước rất khó nắm bắt chính xác các số liệu từ các doanh nghiệp nước ngoài. Mặt khác, với mục đích chính là lợi nhuận, các nhà đầu tư thường đầu tư vào những ngành, những lĩnh vực có hiệu suất lợi nhuận cao như bảo hiểm, ngân hàng, khai thác dầu khí... trong khi nước nhận đầu tư lại mong muốn các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào các ngành mà trong nước chưa phát triển như nông nghiệp, xây dựng cơ sở hạ tầng... Và vì thế có thể gây ra tình trạng mất cân đối trong đầu tư của nền kinh tế. Nếu nhà nước không có những quy hoạch và cơ chế quản lý hữu hiệu sẽ có thể dẫn tới tình trạng đầu tư tràn lan, kém hiệu quả, tài nguyên thiên nhiên bị khai thác quá mức, nạn ô nhiễm môi trường trầm trọng, cơ cấu kinh tế méo mó hoặc chậm được cải thiện và từ đó tích tụ những nguy cơ gây mất ổn định chung của đời sống kinh tế xã hội. Bốn là, bị biến thành nơi tiêu thụ sản phẩm và bị phụ thuộc vào vốn đầu tư và mô hình công ty ở chính quốc. Rất nhiều nhà đầu tư nước ngoài khi chọn nước để đầu tư mang theo mong muốn mở rộng thị trường tại nước nhận đầu tư. Đây chính là chiến lược xuất khẩu sản phẩm ngay tại thị trường nội địa và cũng lại là một mâu thuẫn lớn với chính sách hướng về xuất khẩu của nước nhận đầu tư. Do đó trên thực tế luôn xuất hiện các hành vi tiêu cực làm trái với các quy định pháp luật và các thoả thuận hợp đồng ban đầu về tiêu thụ sản phẩm. Nếu sản phẩm có khả năng xuất khẩu được thì các nhà đầu tư luôn nắm giữ và độc quyền thị trường tiêu thụ. Có nhiều nước đang phát triển có tích luỹ thấp, do đó nguồn vốn đầu tư chủ yếu dựa vào đầu tư trực tiếp nước ngoài và các nguồn vốn bên ngoài khác. Do đó khi có những biến cố xảy ra như khủng hoảng kinh tế, bất ổn về chính trị... các nhà đầu tư nước ngoài rút vốn đột ngột sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng tới nền kinh tế các nước này. Bên cạnh đó, thông qua nguồn đầu tư trực tiếp, các công ty xuyên quốc gia thiết lập một hệ thống các công ty, xí nghiệp ở nước ngoài theo hình ảnh và cơ chế của bản thân chủ đầu tư. Điều này đã tạo ra sự lệ thuộc tất yếu nhiều mặt của các cơ sở kinh tế nước ngoài vào chính quốc. Hạn chế này đã gây ra mâu thuẫn giữa mong muốn duy trì một cơ cấu kinh tế dân tộc, độc lập, tự chủ với xu hớng chuyển hoá các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thành một chi nhánh của công ty tư bản độc quyền. Ngoài ra, FDI còn gây ra nhiều những mặt tiêu cực khác như làm mất cân đối giữa các vùng, giữa nông thôn và thành thị, gây ra sự phân hoá giàu nghèo, tệ nạn xã hội. Tuy nhiên, những mặt trái của FDI cũng không thể phủ nhận được những lợi ích to lớn của nó, chỉ lưu ý rằng chúng ta không nên quá kì vọng vào FDI và phải có những biện pháp hữu hiệu để phát huy những mặt tích cực và hạn chế những mặt tiêu cực của FDI. Bởi vì mức độ thiệt hại mà FDI gây ra cho nước chủ nàh nhiều hay ít phụ thuộc rất nhiều vào chính sách, năng lực, trình độ quản lý, trình độ chuyên môn của nước nhận đầu tư. 4. Những nhân tố chủ yếu tác động đến thu hút FDI Có rất nhiều nhân tố ảnh hưởng đến khả năng thu hút FDI của một nước. Nó không chỉ phụ thuộc vào những điều kiện của nước chủ nhà mà nó còn phụ thuộc vào mục đích của nhà đầu tư. Nếu nhà đầu tư muốn tìm kiếm thị trường tiêu thụ sản phẩm thì điều kiện hấp dẫn nhà đầu tư sẽ là dân số đông, thu nhập trung bình cao, nếu họ muốn tìm nguồn nguyên liệu rẻ thì điều kiện đó là tài nguyên thiên nhiên dồi dào, dễ khai thác. Tuy nhiên, nếu không xét đến khả năng và nhu cầu về vốn đầu tư của cả bên nước chủ đầu tư lẫn bên nước nhận đầu tư và với giả định bối cảnh chung của thế giới ở điều kiện bình thường cả về tự nhiên và nhân tạo thì có thể nhận thấy dòng vốn đầu tư quốc tế nói chung và dòng FDI nói riêng chỉ thực sự mở rộng và ưa tìm đến những nơi có môi trường đầu tư đảm bảo cho đồng vốn sinh sôi nảy nở. Thực tế đã chứng minh một môi trường đầu tư hấp dẫn, có sức cạnh tranh để thu hút FDI trước hết phải bao gồm những nhân tố chủ yếu sau: 4.1 Sự ổn định về kinh tế và chính trị-xã hội Đây là điều kiện tiên quyết nhằm giảm thiểu những rủi ro về kinh tế-chính trị của dòng vốn FDI vượt khỏi tầm kiểm soát của nhà đầu tư nước ngoài. Những bất ổn về kinh tế-chính trị không chỉ làm cho dòng FDI bị chững lại, bị thu hẹp lại mà còn làm cho dòng vốn từ trong nứơc chảy ngược ra ngoài, tìm đến nơi trú ẩn mới an toàn và hiệu quả hơn. Theo thống kê, người ta đã nhận định rằng một nước mà có tình hình chính trị xã hội ổn định thì có thể tăng lượng FDI thu hút được lên 57% [69]. Điều kiện này không chỉ bao gồm các yêu cầu về duy trì sự phát triển kinh tế ổn định, trật tự an ninh chính trị-xã hội cần thiết cho sự vận hành bình thường của đất nước mà còn phải duy trì được dư luận và tâm lý chung thuận lợi và ủng hộ các nhà đầu tư nước ngoài. Bất kì sự bất ổn nào về chính trị như khủng bố, đảo chính, nội chiến hay sự hoài nghi, tẩy chay, thiếu thiện cảm của giới lãnh đạo và quần chúng nhân dân đối với ĐTNN đều là những nhân tố nhạy cảm tác động tiêu cực tới tâm lý cũng như là hành động thực tế của nhà ĐTNN và nó cũng sẽ làm chậm lại những cải cách về chính sách cần thiết nhằm thu hút FDI của nước chủ nhà. 4.2 Sự hoàn chỉnh, hữu hiệu của hệ thống pháp luật Hệ thống pháp luật đầu tư là thành phần quan trọng của môi trường đầu tư, bao gồm các văn bản pháp luật, các văn bản dưới luật, các văn bản quản lý hoạt động đầu tư nước ngoài như hướng dẫn đầu tư, đánh giá, thẩm định dự án và quản lý các hoạt động đầu tư nhằm tạo nên một hành lang pháp lý đồng bộ, hiệu quả tạo thuận lợi cho hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài. Bên cạnh đó, các quy định trong hệ thốn pháp luật đầu tư của nước sở tại phải đảm bảo sự an toàn về vốn và cuộc sống cá nhân cho nhà đầu tư khi hoạt động đầu tư của họ không vi phạm pháp luật, không làm phương hại đến lợi ích, an ninh quốc gia. Ví dụ như phải đảm bảo không quốc hữu hoá tài sản tư nhân, đảm bảo việc di chuyển lợi nhuận về nước cho các nhà đầu tư được dễ dàng. Nội dung của hệ thống pháp luật ngày càng đồng bộ, chặt chẽ, không chồng chéo, phù hợp với quy định của luật pháp và thông lệ quốc tế thì khả năng thu hút FDI càng cao. Một hệ thống pháp luật hoàng chỉnh, hữu hiệu có thể làm tăng lượng FDI thu hút được lên tới 100% [69]. 4.3 Sự mềm dẻo, hấp dẫn của hệ thống chính sách đầu tư nước ngoài Chính sách thương mại mở cửa là yếu tố quan trọng để thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài trong thời đại ngày nay. Những cuộc điều tra về các công ty Nhật Bản quyết định đầu tư ra nước ngoài cho thấy sự nhận thức tích cực về các chính sách chi phối các khoản đầu tư vào một nước, và các rào chắn thương mại thấp là những yếu tố có ảnh hưởng đáng kể, chi phối quyết định đầu tư của các công ty đa quốc gia vào đất nước đó. Bên cạnh đó, việc tích cực tham gia các khu vực mậu dịch tự do, các thoả thuận tự do hoá thương mại cũng là nhân tố thu hút FDI. Bởi lẽ động lực thúc đẩy các hoạt động đầu tư ra nước ngoài ngày càng gắn liền với các cơ hội thương mại hơn là khai thác thị trường địa phương. Chính sách tiền tệ phải giải quyết được các vấn đề chống lạm phát và ổn định tiền tệ. chính sách lãi suất và tỉ giá tác động trực tiếp đến dòng chảy của FDI với tư cách là những yếu tố quyết định giá trị đầu tư và mức lợi nhuận thu được tại một thị trường xác định. Việc xem xét sự vận động của vốn nước ngoài ở các nước trên thế giới cho thấy, dòng vốn đầu tư dài hạn, nhất là FDI đổ vào một nước thường tỉ lệ nghịch với độ chênh lệch lãi suất trong và ngoài nước, trong khu vực và ngoài khu vực. Nếu độ chênh lệch lãi suất càng cao, tư bản nước ngoài càng ưa đầu tư theo kiểu cho vay ngắn hạn, ít rủi ro hơn và hưởng lãi ngay trên số chênh lệch lãi suất đó. Hơn nữa, khi mức lãi suất trong nước cao hơn mức lãi suất quốc tế thì sức hút với dòng vốn chảy vào càng mạnh. Tuy nhiên, đồng nghĩa với lãi suất cao là chi phí trong đầu tư cao lại làm giảm lợi nhuận của các nhà đầu tư. Do đó xác định mức lãi suất hợp lý là một yếu tố quan trọng để thu hút FDI. Một tỉ giá hối đoái linh hoạt, phù hợp với tình hình phát triển kinh tế ở từng giai đoạn thì khả năng thu lợi nhuận từ xuất khẩu càng lớn và sức hấp dẫn với đầu tư nước ngoài cũng càng lớn. Một nước mà có mức tăng trưởng xuất khẩu cao sẽ làm yên lòng các nhà đầu tư hơn vì khả năng trả nợ của nước đó được đảm bảo hơn, độ mạo hiểm trong đầu tư sẽ giảm xuống. Các mức ưu đãi tài chính-tiền tệ dành cho nhà ĐTNN cũng là yếu tố hấp dẫn FDI. Các mức ưu đãi này nhằm đảm bảo cho nhà đầu tư kiếm được lợi nhuận cao nhất trong điều kiện kinh doanh chung của khu vực, của mỗi nước để khuyến khích họ đầu tư vào trong nước và vào những nơi mà chính phủ khuyến khích đầu tư. Những ưu đãi về thuế chiếm vị trí quan trọng hàng đầu trong những ưu đãi về tài chính - tiền tệ dành cho nhà đầu tư. Mức thuế ưu đãi cao hơn luôn dành cho các dự án có tỉ lệ vốn nước ngoài cao, quy mô lơn, dài hạn, hướng về thị trường nước ngoài, sử dụng nhiều lao động trong nước, tái đầu tư lợi nhuận. Có thể nói rằng nếu mức thuế trung bình của một nước giảm 1% thì nước đó có thể tăng lượng FDI lên 4% [69]. Ngoài ra, hệ thống thuế thi hành hiệu quả, rõ ràng dễ áp dụng và mức thuế không quá cao (so với lãi suất, lợi nhuận bình quân, so với mức thuế chung của khu vực và thế giới), các thủ tục thuế cũng đơn giản, hợp lý, tránh vòng vèo qua nhiều khâu trung gian, công khai và thuận lợi cho đối tượng nộp thuế cũng là những yêu cầu để hấp dẫn FDI nhiều hơn. 4.4 Sự phát triển của cơ sở hạ tầng Sự phát triển của cơ sở hạ tầng kĩ thuật của quốc gia tiếp nhận FDI luôn là điều kiện vật chất hàng đầu để các chủ đầu tư có thể nhanh chóng thông qua các quyết định và triển khai trên thực tế các dự án đầu tư đã cam kết. Một tổng thể hạ tầng phát triển phải bao gồm hệ thống giao thông vận tải phát triển với cầu, cảng, đường xá, bến bãi, sân bay và các phương tiện giao thông bảo phủ toàn quốc và đủ tầm hoạt động quốc tế; một hệ thống bưu chính viễn thông với các thiết bị hiện đại, có thể nối mạng quốc gia và quốc tế một cách thông suốt và an toàn; hệ thống điện nước dồi dào, phân bổ tiện lợi cho hoạt động sản xuất kinh doanh và đời sống hàng ngày và một mạng lưới dịch vụ phát triển, rộng khắp và có chất lượng cao như y tê, giải trí, các dịch vụ hải quan, tài chính, thương mại, quảng cáo. Tóm lại, hệ thống kết cấu hạ tầng đó phải giúp cho chủ ĐTNN cảm thấy thoải mái và an toàn như ở trong nước họ và giúp họ giảm các chi phí sản xuất về giao thông vận tải, thông tin liên lạc mà không bị cản trở trong việc kinh doanh với đối tác ở nước sở tại cũng như toàn cầu. Dịch vụ thông tin đầu tư cũng đóng vai trò quan trọng trong việc thu hút vốn FDI. Nội dung hoạt động dịch vụ này rất phong phú và mang tính thời sự cao, bao gồm từ việc cung cấp thông tin cập nhật, chính xác về môi trường đầu tư của nước tiếp nhận đầu tư cho các đầu tư tiềm năng trên toàn thế giới; hỗ trợ các đối tác đầu tư trong và ngoài nước tiếp xúc và lựa chọn các đối tác thích hợp đến giúp đỡ các bên làm thủ tục kí kết hợp đồng kinh doanh, thành lập doanh nghiệp liên doanh và các dịch vụ thông tin cần thiết khác. Việc phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng không chỉ là điều kiện cần để tăng tính hấp dẫn cảu môi trường đầu tư, tạo điều kiện thuận lợ cho các chủ đầu tư triển khai các dự án và kế hoạch đầu tư của mình mà đó còn là cơ hội để nước chủ nhà có thể và có khả năng thu lợi từ dòng vốn nước ngoài đã thu hút được thông qua thu nhập từ các dịch vụ như hải quan, thương mại, tài chính,... 4.5 Sự phát triển của đội ngũ lao động và hệ thống doanh nghiệp trong nước Với sự phát triển của khoa học kĩ thuật ngày nay, lao động có tay nghề, kĩ thuật cao là yêu cầu cần thiết nhất lại đối với các doanh nghiệp có vốn ĐTNN - nơi mà trình độ công nghệ được coi là cao hơn mặt bằng trong nước. Vì vậy, việc thiếu các nhân lực kĩ thuật lành nghề, các lãnh đạo, quản lý cao cấp, các nhà doanh nghiệp tài ba và sự lạc hậu về trình độ khoa học- công nghệ trong nước sẽ khó lòng đáp ứng được yêu cầu của nhà đầu tư để triển khai dự án của họ, làm chậm và thu hẹp lại dòng vốn nước ngoài chảy vào trong nước. Theo thống kê thì cứ tăng số lao động trên 25 tuổi được đào tạo sau phổ thông trung học lên 1% thì lượng FDI thu hút được sẽ tăng thêm 3% [69]. Một hệ thống doanh nghiệp trong nước phát triển, đủ sức tiếp thu công nghệ chuyển giao, và là đối tác bình đẳng với các nhà đầu tư là điều kiện cần thiết để nước tiếp nhận đầu tư có thể thu hút được nhiều hơn và hiệu quả hơn luồng vốn FDI. Hệ thống doanh nghiệp đó phải bao gồm cả những doanh nghiệp sản xuất và dịch vụ trên tất cả các lĩnh vực, ngành nghề, thông thạo các nghiệp vụ kinh doanh quốc tế, đặc biệt là các doanh nghiệp trong lĩnh vực tài chính. Bởi vì các doanh nghiệp này đóng vai trò quan trọng trong việc tạo ra những điều kiện thuận lợi cho việc lưu chuyển vốn trong nước và quốc tế, từ đó càng thuận lợi cho các hoạt động đầu tư. 4.6 Sự đơn giản về thủ tục hành chính và hiệu quả các dự án FDI đã triển khai Thủ tục hành chính rườm rà, phiền phức, gây tốn kém về thời gian và chi phí, làm mất cơ hội đầu tư là lực cản lớn nhất làm nản lòng các nhà đầu tư nước ngoài. Do đó một bộ máy hành chính hiệu quả quyết định sự thành công không chỉ trong việc thu hút vốn nước ngoài mà còn của toàn bộ quá trình huy động, sử dụng vốn cho đầu tư phát triển. Bộ máy đó phải thống nhất, gọn nhẹ, sáng suốt và nhạy bén với các chính sách, với những thủ tục hành chính, những quy định pháp lý đơn giản, công khai nhất quán mà vẫn đảm bảo được tính chặt chẽ, được thực hiện bởi những con người có trình độ chuyên môn cao, có tinh thần trách nhiệm và tôn trọng pháp luật. Các nhà đầu tư nước ngoài thực hiện các dự án FDI với mục đích hàng đầu là thu lợi nhuận. Do đó, các dự án đã và đang thực hiện đạt kết quả cao sẽ khuyến khích các nhà đầu tư tiếp tục tái đầu tư sản xuất mowr rộng, đông thời cũng thuyết phục các nhà đầu tư khác yên tâm bỏ vốn. Ngược lại, nếu các dự án đang triển khai không đạt hiệu quả, thua lỗ thường xuyên sẽ làm nản lòng các nhà đầu tư vì họ cho rằng môi trường đầu tư đã có rủi ro. Tóm lại, trong dòng vận động của mình, FDI sẽ tìm đến các quốc gia có nền kinh tế-chính trị-xã hội ổn định; hệ thống luật pháp đầu tư minh bạch; chính sách ĐTNN thông thoáng; hệ thống cơ sở hạ tầng phát triển; đội ngũ lao động có trình độ và rẻ; nền hành chính hữu hiệu, các dự án đã triển đạt hiệu quả và nhiều điều kiện khác nữa để có thể sinh sôi nảy nở và đạt hiệu quả tốt nhất. Thực tiễn FDI trên thế giới và những xu hướng cơ bản 1. Tình hình FDI trên thế giới Trong lịch sử thế giới, FDI đã tồn tại ngay từ thời tiền tư bản. Các công ty của Anh, Hà Lan, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha là những công ty đi đầu trong lĩnh vực FDI dưới hình thức đầu tư vốn vào các nước Châu á để khai thác đồn điền, khoáng sản nhằm cung cấp nguyên liệu cho các ngành công nghiệp ở chính quốc. Cùng với sự phát triển của chủ nghĩa tư bản, hoạt động đầu tư nước ngoài của các nước công nghiệp phát triển có quy mô ngày càng lớn. Những năm đầu của thế kỉ XX, khoảng 70% FDI của thế giới là đầu tư vào các nước đang phát triển. Sau chiến tranh thế giới thứ II, các nước thuộc địa dần lấy lại được độc lập dân tộc về mặt chính trị. Để giành độc lập về mặt kinh tế, ở những mức độ khác nhau, các nước này tiến hành “quốc hữu hoá” tư bản nước ngoài. Bối cảnh đó đã phần nào khiến cho dòng FDI từ các nước phát triển sang các nước đang phát triển và chậm phát triển đột nhiên bị chững lại và suy giảm. Từ sau 1945, các nước tư bản Tây Âu thiếu vốn để khôi phục nền kinh tế bị tàn phá sau chiến tranh. Tây Âu, Nhật Bản trở thành điểm nóng của đầu tư và thu hút tới 40% tổng FDI toàn thế giới năm 1950 và lên tới 69% năm 1960. Trong thời kì này, Mỹ là nước dẫn đầu thế giới về đầu tư trực tiếp ra nước ngoài, chủ yếu là vào Nhật Bản, Tây Âu và các đồng minh ở Đông Nam á. Đến những năm thập kỉ 60 và 70, dòng FDI từ các nước công nghiệp phát triển đã có sự dịch chuyển đến các nước đang phát triển, chủ yếu nhằm vào các lĩnh vực khai thác tài nguyên thiên nhiên và các ngành cần nhiều lao động như dệt may, chế biến.trong thời gian này, nổi lên có khu vực Mĩ La Tinh đã thu hút với quy mô lớn và nhịp độ khá cao trong nhiều năm liền, tạo nên nhịp tăng trưởng ngoạn mục. Năm 1970, khu vực này đã thu hút được 1,1 tỷ USD (chiếm gần 50%) tổng số FDI đổ vào các nước đang phát triển (2,3 tỷ USD) [33]. Cùng với quá trình phát triển thương mại quốc tế và quốc tế hoá hoạt động SXKD, từ giữa những năm 80 đến nay, dòng FDI trên thế giới có sự gia tăng nhanh chóng. Ta thấy tổng số FDI thế giới bình quân hàng năm trong thời kì 1983-1987 chỉ đạt 77,1 tỷ USD, vậy mà bốn năm tiếp theo con số này tăng thêm 100 tỷ USD, tăng hơn 2 lần so với thời kì 1983-1987, trong đó mức tăng kỉ lục đạt 235 tỷ USD vào năm 1990. Bảng 2: Dòng FDI vào các nước trên thế giới (1983 - 1992) Năm Toàn thế giới Các nước phát triển Các nước ĐPT Các nước Trung Đông ÂU Số lượng (tỷ USD) Tỷ lệ (%) Số lượng (tỷ USD) Tỷ lệ (%) Số lượng (tỷ USD) Tỷ lệ (%) Số lượng (tỷ USD) Tỷ lệ (%) 1983-1987 77,1 100 58,7 76 18,3 24 0,02 0,02 1988-1992 177,3 100 139,1 78 36,8 21 1,36 0,77 Nguồn: World Investment Report, 1996, tr 4 Theo báo cáo của Tổ chức thương mại và phát triển của Liên Hợp Quốc (UNCTAD) thì những năm thập kỉ 90, FDI toàn cầu đã tăng liên tục. Tuy nhiên bước sang những năm đầu của thế kỉ mới FDI thế giới lại có sự sụt giảm đáng báo động. Từ bảng 3, ta thấy mặc dù bị ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế nhiều khu vực, đặc biệt là cuộc khủng hoảng tài chính-tiền tệ Châu á năm 1997 nhưng dòng FDI chảy vào các nước toàn thế giới năm 1998 vẫn đạt 694,457 tỷ USD, tăng 45,25% so với năm 1997, năm 1999 tiếp tục tăng thêm 56,7% (đạt 1088,263 tỷ USD). Dòng FDI tăng mạnh và đạt đến đỉnh cao nhất vào năm 2000, đạt mức 1491,934 tỷ USD.Có thể nói nguyên nhân chủ yếu khiến cho dòng FDI tăng mạnh những năm 1999-2000 là do các cuộc thôn tính và sáp nhập qua biên giới (cross-boder M&A) của các tập đoàn kinh tế lớn. Riêng năm 2000, tổng giá trị các vụ M&A trên thế giới đạt mức kỉ lục là 3500 tỷ USD, tăng 200 tỷ USD so với năm 1999 [18]. Tuy nhiên lượng FDI tập trung chủ yếu vào các nước phát triển đạt hơn 80% trong khi các nước đang phát triển và các nước khác chỉ chiếm có gần 20% tổng FDI chảy vào của cả thế giới năm 2000. Bảng 3: Dòng FDI chảy vào các khu vực (1993-2002) Năm Toàn thế giới Các nước phát triển Các nước đang phát triển Tỷ USD Tỷ lệ (%) Tỷ USD Tỷ lệ (%) Tỷ USD Tỷ lệ (%) 1993 227,532 100 137,163 60,28 83,612 36,75 1994 259,696 100 145,066 55,86 108,651 41,84 1995 330,516 100 204,416 61,85 111,649 33,78 1996 386,140 100 220,726 57,16 152,587 39,52 1997 478,082 100 271,764 56,84 188,887 39,51 1998 694,457 100 484,800 69,81 188,597 27,15 1999 1088,263 100 839,263 77,12 225,747 20,74 2000 1491,934 100 1228,364 82,33 238,643 15,99 2001 735,146 100 503,144 68,44 204,801 27,86 2002 651,189 100 460,334 70,69 162,145 24,90 Nguồn: UNCTAD Handbook of Statistics [78] Tuy nhiên bước sang thế kỉ XXI, dòng FDI có sự giảm sút đột ngột, chỉ đạt 735,146 tỷ USD năm 2001, giảm hơn 50% so với năm 2000 và tiếp tục giảm 26,13% năm 2002(đạt 543 tỷ USD). Theo báo cáo đầu tư thế giới của UNCTAD-uỷ ban Liên hợp quốc về thương mại và phát triển thì suy giảm kinh tế Mỹ - Nhật và sự ngưng trệ của làn sóng sáp nhập công ty là nguyên nhân chủ yếu làm cho FDI thế giới giảm mạnh trong 2 năm qua. Sau khi lên đến đỉnh điểm vào năm 2000, làn sóng thôn tính và sáp nhập (M&A) nay đã lắng dịu lại, tính riêng 9 tháng đầu năm 2002, số vụ M&A trên thế giới giảm 45% chỉ đạt 250 tỷ US, giảm 210 tỷ USD so với cùng kì năm 2001). [20]. Sự sụt giảm FDI chủ yếu diễn ra ở các nước công nghiệp phát triển, đặc biệt là Mỹ và Tây Âu - nơi thu hút được lượng FDI lớn nhất kể từ những năm 80 trở lại đây. Năm 2001, các nước phát triển chỉ thu hút được 510 tỷ USD, giảm hơn 50% so với năm 2000, trong khi tại các nước đang phát triển FDI chỉ giảm khoảng hơn 15%, đạt hơn 200 tỷ USD. Tuy nhiên sang năm 2002, sự sụt giảm diễn ra ở cả hai khu vực, trong đó FDI vào các nước phát triển giảm 31%, đạt 349 tỷ USD; FDI vào các nước đang phát triển giảm 23%, đạt 194 tỷ USD [20]. Đánh giá về triển vọng của luồng vốn FDI trên thế giới, các chuyên gia của IMF cho rằng, năm 2003 FDI toàn thế giới có khả năng phục hồi nhẹ nhờ vào một số các nhân tố tác động như: nền kinh tế thế giới được dự đoán là sẽ phục hồi, đạt mức tăng trưởng cả năm 2,9%; các biện pháp giảm tỉ lệ lãi suất mà Mỹ, EU và Nhật Bản tiến hành trong thời gian qua sẽ kích thích đầu tư tăng trở lại...Trong khi đó nhân hàng đầu tư J.P.Morgan của Mỹ thì cho rằng, sản xuất công nghiệp thế giới có thể phục hồi vào cuối năm 2003 sẽ là cơ sở để các nhà sản xuất gia tăng thêm vốn đầu tư. Dự đoán, tỷ lệ đầu tư/GDP của thế giới tăng 22,9%vào năm 2003 và 23,5% cho giai đoạn 2004-2007. Cũng trong thời gian này, tỷ lệ đầu tư/GDP của các nước phát triển đạt 20,2% và 20,5% còn của các nước đang phát triển đạt 26,5% và 27,3% [20]. Việc xem xét toàn cục bức tranh về FDI trên thế giới trong thời gian qua cho ta thấy nguồn vốn FDI gia tăng nhanh chóng và chiếm vị trí ngày càng cao trong lưu chuyển vốn quốc tế. Tuy nhiên sự phân phối của dòng chảy này giữa các khu vực, giữa các quốc gia là không giống nhau, có liên quan đến chính sách và môi trường đầu tư ở các nước và về tổng quát diễn ra theo các xu hướng chính sau: 2. Những xu hướng cơ bản của dòng FDI 2.1. Sáp nhập và mua lại qua biên giới (cross - border M&A) có xu hướng chiếm tỷ trọng ngày càng lớn trong FDI Việc sáp nhập và mua lại các công ty để thành lập chi nhánh sản xuất ở nước ngoài giúp các công ty xuyên quốc gia tạo ra năng lực sản xuất lớn hơn, củng cố và phát huy thế mạnh của mình trong quá trình cạnh tranh quốc tế. Đặc biệt hình thức này còn là cách nhanh nhất giúp các công ty xuyên quốc gia thiết lập sự có mặt của mình ở nước chủ nhà, sử dụng hiệu quả mạng lưới cung ứng và hệ thống phân phối sẵn có để mở rộng thị phần, tránh được hàng rào thuế quan, tăng năng lực cạnh tranh. Do đó các tập đoàn xuyên quốc gia đã chủ yếu sử dụng hình thức đầu tư này để mở rộng quy mô của mình ở nước ngoài. Có thể nói sáp nhập và mua lại qua biên giới (cross - border M&As) là động lực chủ yếu làm gia tăng ĐTNN trong những năm gần đây.Nhìn vào bảng 3 ta thấy, năm 1999, giá trị các vụ cross-border M&As đã đạt 766,044 tỷ USD chiếm hơn 70% tổng FDI trên toàn thế giới. Năm 2000, xu hướng sáp nhập các công ty thành các công ty khổng lồ trên thế giới tăng lên, giá trị các vụ sáp nhập và mua lại qua biên giới đạt 1143,816 tỷ USD chiếm 76,6% lượng FDI toàn cầu Bảng 4: Giá trị các vụ cross - border M&As* Tỷ USD 1999 2000 2001 2002 Thế giới 766,044 1143,816 593,960 369,789 Các nước CNPT 679,481 1056,059 496,159 307,793 Các nước ĐPT 74,030 70,610 85,813 44,532 Nguồn: World Investment Report 2003 * Giá trị tại các nước bán Những ngành công nghiệp diễn ra những hoạt động sáp nhập và mua lại nhộn nhịp là các ngành viễn thông, dược phẩm, chế tạo ôtô, cung cấp năng lượng, ngân hàng và chủ yếu diễn ra trong nội bộ liên minh Châu Âu và Mỹ vào giữa những năm 90. Tuy nhiên gần đây có sự tăng lên của các vụ cross-border của Nhật Bản và một số nền kinh tế công nghiệp mới (NIEs). Sang năm 2001, làn sóng sáp nhập và mua lại có sự “lắng dịu”, chỉ đạt 593,960 tỷ USD giảm 48% so với năm 2000. Năm 2002, làn sóng này vẫn tiếp tục suy giảm, đạt 369,789 tỷ USD giảm 37,7% so với năm 2001. Sự suy giảm của làn sóng sáp nhập và mua lại cùng với các nhân tố khác đã làm cho dòng FDI sụt giảm gần 50% năm 2001 và gần 30% năm 2002. Như vậy, sáp nhập và mua lại đang trở thành hình thức đầu tư ra nước ngoài chiếm tỷ trọng lớn hiện nay. Thực tế cho thấy sự tăng hay giảm vốn FDI trên thế giới phụ thuộc rất lớn vào chiến lược toàn cầu của các công ty xuyên quốc gia và sự mở rộng của các vụ M&A. 2.2. Nguồn vốn FDI chủ yếu vẫn chảy vào các nước công nghiệp phát triển FDI vào các nước CNPT năm 1950 chiếm tỉ trọng 40% tổng FDI toàn cầu, năm 1960 chiếm khoảng 69%, năm 1970 chiếm 67,6%, năm 1980 chiếm 73,6%. Hình 2 : Lượng FDI vào các nước từ 1990 đến 2002(triệu USD) Các nước CNPT Các nước ĐPT Nguồn : Foreign Direct Invesment, inflows and outflows, by Region ) Hình 2 cho thấy FDI đổ vào các nước CNPT vẫn luôn chiếm tỉ trọng rất cao (luôn lớn hơn 50% lượng FDI của thế giới) từ năm 1990 trở lại đây. Các nước phát triển đã đạt mức kỉ lục trong thu hút FDI năm 2000, với tỉ trọng là 82,33%. Những nước thu hút FDI lớn nhất vẫn là Mỹ, Anh, Pháp, Đức, Bỉ và Luxămbua. Nhìn vào bảng 5 ta thấy, Mỹ luôn là địa chỉ hấp dẫn trong thu hút FDI trong những năm 1999, 2000, 2001.Tuy nhiên sang năm 2002 đã phải nhường vị trí này cho Bỉ và Lucxămbua. Bảng 5: Ba nước dẫn đầu trong thu hút FDI Vị trí 1999 2000 2001 2002 1 Mỹ Mỹ Mỹ Bỉ và Lucxămbua 2 Bỉ và Lucxămbua Bỉ và Lucxămbua Anh Pháp 3 Anh Đức Pháp Đức Nguồn : Mặc dù lượng FDI vào các nước CNPT bị giảm mạnh trong 2 năm 2001 và 2002 nhưng các chuyên gia của IMF cho rằng, trong 5 năm tới FDI vẫn chủ yếu tập trung tại các nền kinh tế phát triển, song các nền kinh tế ĐPT sẽ nâng tỷ phần của mình lên tới 30%% lượng FDI toàn cầu, tăng khoảng 10% và 10 nền kinh tế lớn của thế giới có khả năng chiếm tới 70% lượng FDI toàn cầu [20]. Như vậy, dòng FDI lại không chảy từ nơi nhiều vốn sang nơi ít vốn, mà lại chảy chủ yếu trong các nước CNPT - nơi có môi trường đầu tư tốt, đồng vốn được sử dụng hiệu quả, quay vòng nhanh và ít chịu rủi ro. 2.3. Có sự thay đổi lớn trong tương quan trật tự giữa các chủ đầu tư quốc tế Vào đầu thế kỉ XX, Anh, Pháp, Đức, Hà Lan là những nước đứng đầu thế giới về xuất khẩu tư bản thì đến giữa thế kỉ này, Mỹ nổi lên dẫn đầu thế giới về lượng tư bản đầu tư ra nước ngoài, sau đó mới đến Anh, Pháp. Đầu tư của Mỹ trong giai đoạn này tập trung chủ yếu vào các nước Tây Âu, Nhật Bản, các nước đồng minh ở Đông Nam á và các nước Mỹ La Tinh. Đến thập niên 70, Nhật Bản, Đức vượt qua Anh, Pháp về đầu tư nước ngoài và đe doạ vị trí đứng đầu của Mỹ. Trong những năm 80, Nhật dẫn đầu thế giới về đầu tư ra nước ngoài và đã làm rung chuyển nước Mỹ với các vụ đầu tư khổng lồ trong các lĩnh vực công nghiệp chế tạo, thép, điện tử, robot, bất động sản. Bước sang thập niên 90, trật tự các nước chủ đầu tư lớn thế giới lại có sự thay đổi. Do chịu sự ảnh hưởng của cuộc suy thoái kinh tế kéo dài nên FDI ra nước ngoài của Nhật giảm, kéo nước này xuống vị trí thấp hơn và đưa Mỹ, Anh, Pháp, Đức lên các vị trí đầu bảng (xem bảng 6). Phá vỡ trật tự truyền thống, một hiện tượng mới xuất hiện trong thị trường đầu tư quốc tế là có một số nước ĐPT trở thành chủ đầu tư, dù chỉ chiếm một tỷ lệ không lớn trong tổng số vốn đầu tư quốc tế nhưng con số này ngày càng gia tăng. Năm 1980, lượng FDI của các nước ĐPT đầu tư ra nước ngoài chiếm 4,77% tổng FDI ra nước ngoài trên thế giới, năm 1990 chiếm 7,14%, năm 1995 chiếm 13,89%.Từ năm 2001 trở lại đây, do có sự giảm sút của FDI toàn cầu nên FDI ra nước ngoài của các nước ĐPT cũng giảm theo, chiếm khoảng 6,46% tổng FDI đầu tư ra nước ngoài của thế giới năm 2001 [36]. Bảng 6: Ba nước dẫn đầu trong đầu tư ra nước ngoài Vị trí 1998 1999 2000 2001 2002 1 Mỹ Mỹ Anh Mỹ Mỹ 2 Anh Anh Pháp Pháp Pháp 3 Đức Pháp Mỹ Anh Anh Nguồn: UNCTAD Handbook Statistics Chủ đầu tư các nước ĐPT lớn nhất là các NIEs Châu á như Hàn Quốc, Đài Loan, Xingapo,... Đối tượng đầu tư của “các con rồng Châu á” khi đưa vốn ra đầu tư trực tiếp ở nước ngoài thời gian qua tập trung chủ yếu vào Mỹ, EU và các nước đang phát triển ở khu vực Đông Nam á như Trung Quốc, ASEAN, Việt Nam... mặc dù chính họ cũng đang rất cần thu hút vốn ĐTNN. Theo nhận xét của ông Toshio Wantabe - giáo sư kinh tế Học viện Công nghệ Tokyo thì kể từ năm 1990, các con rồng Châu á đã thực hiện khối lượng đầu tư vào các nước Châu á lớn hơn khối lượng do Nhật hoặc Mỹ thực hiện. Cũng theo nguồn trên, Hồng Kông là nhà đầu tư lớn nhất ở Trung Quốc và Inđônêxia, trong khi đó Đài Loan là nhà đầu tư lớn nhất ở Malayxia và nước này còn đầu tư vào Trung Quốc lớn hơn cả Mỹ rất nhiều. Sự vươn lên của các NIEs Châu á trong đầu ra của FDI chứng tỏ sự phát triển mạnh mẽ về kinh tế cũng như là tích luỹ của các nước này. 2.4. Có sự thay đổi lớn trong lĩnh vực đầu tư Đầu thế kỉ XX, các nước đầu tư ra nước ngoài thường đầu tư vào các lĩnh vực truyền thống như khai thác tài nguyên thiên nhiên, đồn điền và một số ngành chế biến nông sản để khai thác được nguồn nguyên liệu và lao động rẻ ở các nước thuộc địa. Sang những năm 80, dòng vốn FDI vào các nước công nghiệp chủ yếu tập trung vào các ngành công nghiệp chế tạo và dịch vụ, những ngành có hàm lượng công nghệ cao như bán dẫn vi điện tử, công nghệ sinh học... Trong đó đầu tư đầu tư vào các ngành dịch vụ có xu hướng gia tăng. Bảng 7: FDI vào các ngành, 1999 - 2001 Đơn vị : % Ngành 1999-2000 2001 Nước PT Nước ĐPT Thế giới Nước PT Nước ĐPT Thế giới Truyền thống 2,1 8,9 3,3 10,2 7,6 9,6 Công nghiệp chế tạo 21,0 30,8 22,6 16,6 33,0 20,5 Dịch vụ 71,0 56,3 68,5 64,9 58,4 46,53 Nguồn : World Investment Report 2002 Nhìn vào bảng 7 ta thấy trong những năm 1999 - 2000 dòng FDI thường tập trung chủ yếu vào các ngành dịch vụ (đặc biệt là thương mại và tài chính), chiếm 71% ở các nước phát triển và 56,3% ở các nước đang phát triển. Một bộ phận cao tiếp theo tập trung vào các ngành công nghiệp chế tạo, đặc biệt ;à những ngành có hàm lượng công nghệ, kĩ thuật cao như ngành điện tử, chế tạo ô tô... chiếm 21% ở các nước phát triển và 30,8% ở các nước ĐPT. Sang năm 2001 và năm 2002, FDI vào các lĩnh vực truyền thống của các nước phát triển lại tăng lên đến 10,2% trong khi FDI vào khu vực công nghiệp chế tạo và dịch vụ lại giảm xuống tương ứng là 16,6% và 64,9%. Tuy nhiên, hiện tượng tương tự không xảy ra đối với các nước ĐPT, lĩnh vực truyền thống vẫn giảm trong tỷ trọng thu hút FDI và FDI trong lĩnh vực công nghiệp chế tạo và dịch vụ vẫn tăng lên tương ứng. Điều này đã góp phần làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế các nước ĐPT theo hướng công nghiệp hoá - hiện đại hoá.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docChuong1.doc
  • docbang viet tat.doc
  • docBang14.doc
  • docBia.doc
  • docChuong2.doc
  • docChuong3.doc
  • docKetluan.doc
  • docMoDau.doc
  • docMuc Luc.doc
  • docTai lieu tham khao.doc
Tài liệu liên quan