Đề tài Thực trạng thực thi chính sách tiền tệ Việt Nam giai đoạn 2005-2010

CHƯƠNG I. LÝ LUẬN CHUNG VỀ CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ 1. Chính sách tiền tệ và vai trò của nó 1.1 Khái niệm chính sách tiền tệ. 1.2 Vai trò chính sách tiền tệ. 2. Mục tiêu chính sách tiền tệ 2.1 Công ăn việc làm cao 2.2 Tăng trưởng kinh tế. 2.3 Ổn định giá cả 2.4 Ổn định lãi suất 2.5 Ổn định thị trường tài chính 2.6 Ổn định thị trường ngoại hối 3. Nội dung cơ bản của chính sách tiền tệ 4. Các công cụ thực hiện chính sách tiền tệ 4.1 Công cụ tái cấp vốn 4.2 Công cụ tỷ lệ dự trữ bắt buộc 4.3 Công cụ nghiệp vụ thị trường mở 4.4 Công cụ lãi suất tín dụng 4.5 Công cụ hạn mức tín dụng 4.6 Tỷ giá hối đoái CHƯƠNG II. THỰC TRẠNG THỰC THI CHÍNH SÁCH6TIỀN TỆ GIAI ĐOẠN 2005-2010 VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ TRONG THỜI GIAN TỚI. I.THỰC TRẠNG THỰC THI CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ GIAI ĐOẠN 2005-2010 1.Thành tựu đạt được. 1.1 Năm 2005: Thực hiện chính sách thắt chặt 1.2 Năm 2006: Chính sách tiền tệ thắt chặt. 1.3 Năm 2007 : Chính sách tiền tệ thắt chặt 1.4 Năm 2008: Chính sách tiền tệ thắt chặt vào đầu năm và nới lỏng vào cuối năm 1.5 Năm 2009: Chính sách nới lỏng 1.6 Năm 2010: Chính sách tiền tệ thắt chặt 2. Kết quả chung: 3. Tồn tại và nguyên nhân. II. GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ TRONG THỜI GIAN TỚI. 1. Điều hành các công cụ chính sách tiền tệ 2. Nâng cao tính độc lập, trách nhiệm của NHNN 3. Đẩy mạnh sự phát triển của thị trường tiền tệ 4. Sự phối hợp giữa chính sách tiền tệ với chính sách tài chính và một số chính sách kinh tế vĩ mô khác.

doc30 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 3540 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng thực thi chính sách tiền tệ Việt Nam giai đoạn 2005-2010, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Cao Thị Ý Nhi đã giúp em hoàn thành đề tài. CHƯƠNG I. LÝ LUẬN CHUNG VỀ CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ 1. Chính sách tiền tệ và vai trò của nó 1.1 Khái niệm chính sách tiền tệ. Chính sách tiền tệ (CSTT) là một bộ phận trong tổng thể hệ thống Chính sách Kinh tế của Nhà nước, do Ngân hàng Trung Ương (NHTW) thưc hiện để thực hiện việc quản lý vĩ mô đối với nền kinh tế, nhằm đạt tới những mục tiêu kinh tế - xã hội nhất định trong từng thời kỳ nhất định. Theo luật NHNNVN: “ CSTT quốc gia là một bộ phận của Chính sách Kinh tế - tài chính của Nhà nước nhằm ổn định giá trị đồng tiền, kiềm chế lạm phát, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng an ninh và nâng cao đời sống nhân dân….” 1.2 Vai trò chính sách tiền tệ. Chính sách tiền tệ có vai trò vô cùng quan trọng trong việc điều tiết khối lượng tiền lưu thông trong toàn bộ nền kinh tế. Thông qua chính sách tiền tệ NHTW có thể kiểm soát được hệ thống tiền tệ để từ đó kiềm chế và đẩy lùi lạm phát, ổn định sức mua của đồng tiền và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Mặt khác chính sách tiền tệ còn là công cụ để kiểm soát toàn bộ hệ thống các NHTM và các tổ chức tín dụng. 2. Mục tiêu chính sách tiền tệ 2.1 Công ăn việc làm cao Chính sách tiền tệ mở rộng hay thu hẹp có ảnh hưởng trực tiếp đến việc sử dụng hiệu quả các nguồn lực xã hội, quy mô sản xuất kinh doanh và từ đó ảnh hưởng tới tỷ lệ thất nghiệp của nền kinh tế. Để có một tỷ lệ thất nghiệp giảm thì phải chấp nhận một tỷ lệ lạm phát tăng lên. Tình hình đó đặt ra cho NHTW trách nhiệm là phải vận dụng các công cụ của mình góp phần tăng cưòng mở rộng đầu tư sản xuất kinh doanh đồng thời phải tham gia tích cực vào sự taưng trưởng liên tục và ổn định khống chế tỷ lệ thất nghiệp không vượt quá mức tăng thất nghiệp tự nhiên. 2.2 Tăng trưởng kinh tế. Tăng trưởng kinh tế là mục tiêu hàng đầu và quan trong nhất của chính sách tiền tệ. Sự tăng trưởng kinh tế thông qua hai yếu tố: lãi suất và số cầu tổng quát. Khối tiền tệ tăng hay giảm đều có tác động mạnh đến lãi suất và số cầu tổng quát, từ đó tác động đến sự gia tăng đầu tư sản xuất và cuối cùng là tác động lên tổng sản lượng quốc gia, tức là tác động lên sự tăng trưởng của nền kinh tế. Bởi vậy chính sách tiền tệ phải nhằm vào mục tiêu tăng trưởng kinh tế thông qua việc tăng hay giảm khối tiền tệ thích hợp. 2.3 Ổn định giá cả Ổn định giá cả có ý nghĩa quan trọng trong kinh tế vi mô và kinh tế vĩ mô. Ổn định giá cả giúp cho Nhà nước hoạch định được phương hướng phát triển kinh tế một cách có hiệu quả hơn vì loại trừ được sự biến động của giá cả. Ổn định giá cả giúp cho môi trường đầu tư ổn định góp phần thu hút vốn đầu tư, khai thác mọi nguồn lực xã hội, thúc đẩy các doanh nghiệp cũng như các cá nhân sản xuất đem lại nguồn lợi cho mình cũng như xã hội. 2.4 Ổn định lãi suất Mong muốn có một sự ổn định lãi suất vì những biết động của lãi suất làm cho nền kinh tế bấp bênh và khó lập kế hoạch cho tương lai. Vì vậy, ổn định lãi suất chính là thực hiện lãi suất tín dụng cung ứng phương tiện thanh toán cho nền kinh tế quốc dân thông qua nghiệp vụ tín dụng ngân hàng, dựa trên các quỹ cho vay được tạo lập từ các nguồn tiền gửi của xã hội và với một hệ thống lãi suất mềm dẻo phải linh hoạt, phù hợp với sự vận động của cơ chế thị trường. 2.5 Ổn định thị trường tài chính Một lý do rõ ràng của việc thành lập hệ thống dự trữ liên bang là hệ thống đó có thể thúc đẩy một hệ thống tài chính ổn định. Việc ổn định thị trường tài chính cũng được thúc đẩy bởi sự ổn định lãi suất bởi vì biến động trong lãi suất gay nên sự lưỡng lự lớn cho các tổ chức tài chính. Trong những năm gần đây những biến động mạnh của lãi suất là một vấn đề đặc biệt nghiêm trọng đối với các hiệp hội tiết kiệm và cho vay đã gặp khó khăn về tài chính như chúng ta đã biết. 2.6 Ổn định thị trường ngoại hối Thị trường ngoại hối là thị trường mà ở đó tiền tệ của các nước khác nhau được đem ra trao đổi với nhau, chính tại thị trường này tỷ giá hối đoái được xác định. Việc tỷ giá ổn định không chỉ có tác động tích cực do một phần vốn đầu tư USD trước đây có thể chuyển vào TTCK để “đánh sóng” mà nó còn có ý nghĩa rất lớn đối với việc củng cố niềm tin của nhà đầu tư nước ngoài. Chính sách tỷ giá luôn là một yếu tố vĩ mô quan trọng để nhà nhà đầu tư nước ngoài xem xét khi họ có ý định đầu tư vào Việt Nam. Sự biến động của tỷ giá sẽ ảnh hưởng đến sức mua của đông tiền, từ đó tác động ít hay nhiều đến hoạt động của nền kinh tế tùy theo mức độ hướng ngoại của nền kinh tế đó. 3. Nội dung cơ bản của chính sách tiền tệ Nội dung quan trọng nhất của chính sách tiền tệ là việc cung ứng tiền cho nền kinh tế. Việc cung ứng tiền có thể thông qua con đường tín dụng, cũng có thể thông qua hoạt động của thị trường mở (mua bán giấy tờ có giá), thị trường hối đoái (mua bán ngoại tệ) và để điều tiết mức tiền cung ứng, NHTW các nước sử dụng các công cụ khác nhau như lãi suất, tỷ giá, dự trữ bắt buộc…Chính vì thế mà chính sách tiền tệ tác động đến nền kinh tế là một điều hiển nhiên, bởi nó được sinh ra là để điều tiết tiền tệ, mà sự vận động của tiền tệ trong nền kinh tế lại như máu lưu thông trong cơ thể con người. 4. Các công cụ thực hiện chính sách tiền tệ 4.1 Công cụ tái cấp vốn Là hình thức cấp tín dụng của Ngân hàng Trung ương đối với các Ngân hàng thương mại. Khi cấp 1 khoản tín dụng cho Ngân hàng thương mại, Ngân hàng Trung ương đã tăng lượng tiền cung ứng đồng thời tạo cơ sở cho Ngân hàng thương mại tạo bút tệ và khai thông khả năng thanh toán của họ. 4.2 Công cụ tỷ lệ dự trữ bắt buộc Là tỷ lệ giữa số lượng phương tiện cần vô hiệu hóa trên tổng số tiền gửi huy động, nhằm điều chỉnh khả năng thanh toan (cho vay) của các Ngân hàng thương mại. 4.3 Công cụ nghiệp vụ thị trường mở Là hoạt động Ngân hàng Trung ương mua bán giấy tờ có giá ngắn hạn trên thị trường tiền tệ, điều hòa cung cầu về giấy tờ có giá, gây ảnh hưởng đến khối lượng dự trữ của các Ngân hàng thương mại, từ đó tác động đến khả năng cung ứng tín dụng của các Ngân hàng thương mại dẫn đến làm tăng hay giảm khối lượng tiền tệ. 4.4 Công cụ lãi suất tín dụng Là công cụ gián tiếp trong thực hiện chính sách tiền tệ bởi vì sự thay đổi lãi suất không trực tiếp làm tăng thêm hay giảm bớt lượng tiền trong lưu thông, mà có thể làm kích thích hay kìm hãm sản xuất.Cơ chế điều hành lãi suất được hiểu là tổng thể những chủ trương chính sách và giải pháp cụ thể của Ngân hàng Trung ương nhằm điều tiết lãi suất trên thị trường tiền tệ, tín dụng trong từng thời kỳ nhất định. 4.5 Công cụ hạn mức tín dụng Là 1 công cụ can thiệp trực tiếp mang tính hành chính của Ngân hàng Trung ương để khống chế mức tăng khối lượng tín dụng của các tổ chức tín dụng. Hạn mức tín dụng là mức dư nợ tối đa mà Ngân hàng Trung ương buộc các Ngân hàng thương mại phải chấp hành khi cấp tín dụng cho nền kinh tế. 4.6 Tỷ giá hối đoái Tỷ giá hối đoái là tương quan sức mua giữa đồng nội tệ và đồng ngoại tệ. Nó vừa phản ánh sức mua của đồng nội tệ, vừa là biểu hiện quan hệ cung cầu ngoại hối. Tỷ giá hối đoái là công cụ, là đòn bẩy điều tiết cung cầu ngoại tệ, tác động mạnh đến xuất nhập khẩu và hoạt động sản xuất kinh doanh trong nước. Chính sách tỷ giá tác động một cách nhạy bén đến tình hình sản xuất, xuất nhập khẩu hàng hóa, tình trạng tài chính, tiền tệ, cán cân thanh toán quốc tế, thu hút vốn dầu tư, dự trữ của đất nước. Về thực chất tỷ giá không phải là công cụ của chính sách tiền tệ vì tỷ giá không làm thay đổi lượng tiền tệ trong lưu thông. Tuy nhiên ở nhiều nước, đặc biệt là các nước có nền kinh tế đang chuyển đổi coi tỷ giá là công cụ hỗ trợ quan trọng cho chính sách tiền tệ. CHƯƠNG II. THỰC TRẠNG THỰC THI CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ GIAI ĐOẠN 2005-2010 VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ TRONG THỜI GIAN TỚI. I.THỰC TRẠNG THỰC THI CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ GIAI ĐOẠN 2005-2010 1.Thành tựu đạt được. 1.1 Năm 2005: Thực hiện chính sách thắt chặt a. Bối cảnh kinh tế: Tốc độ tăng trưởng tín dụng năm 2005 ước tính giảm 5-7 điểm phần trăm so với năm 2004, trong đó tốc độ cho vay bằng ngoại tệ chậm hơn và tốc độ cho vay bằng VNĐ nhanh hơn năm 2004. Việc giảm tốc độ tăng trưởng tín dụng chủ yếu diễn ra ở các NHTM nhà nước, trong khi các NHTM cổ phần lại đẩy nhanh hơn tốc độ tăng trưởng tín dụng so với năm 2004. Tăng trưởng tín dụng của khu vực NHTM nhà nước giảm chủ yếu là do khu vực này tiếp tục cơ cấu lại nợ và nỗ lực nâng cao chất lượng tín dụng (trong các năm trước tốc độ tăng trưởng tín dụng là quá cao). Để kiểm soát lạm phát và hỗ trợ tăng trưởng kinh tế, ngày 20/4/2005 NHNN đã ban hành Chỉ thị số 02/2005/CT-NHNN yêu cầu các tổ chức tín dụng và các đơn vị trực thuộc NHNN thực hiện đồng bộ các giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng phù hợp với khả năng huy động vốn. NHNN chỉ tài trợ ngắn hạn để đáp ứng nhu cầu thiều hụt tạm thời vốn khả dụng của các NHTM qua các nghiệp vụ của NHNN, chủ yếu là thông qua nghiệp vụ thị trường mở. b. Thực hiện các công cụ chính sách tiền tệ: Trên cơ sở theo dõi sát diễn biến kinh tế và tiền tệ, Ngân hàng Nhà nước đã điều hành khá linh hoạt các công cụ chính sách tiền tệ, điều tiết kịp thời cung- cầu vốn trên thị trường tiền tệ và nhu cầu thiếu hụt vốn khả dụng của các NHTM. - Về điều hành lãi suất: 02 lần tăng lãi suất cơ bản của đồng Việt Nam từ 7,5% - 7,8% - 8,25%/năm vào tháng 02 và tháng 12/2005; 03 lần tăng lãi suất tái cấp vốn, lãi suất tái chiết khấu: lãi suất tái cấp vốn tăng từ 5% - 5,5% - 6% - 6,5%/năm, lãi suất tái chiết khấu tăng từ 3% - 3,5% - 4% - 4,5%/năm vào tháng 1 và tháng 4 và tháng 12/2005; 02 lần tăng lãi suất tiền gửi tối đa bằng USD của pháp nhân tại TCTD: loại không kỳ hạn tăng từ 0,2% - 0,3% - 0,5%; có kỳ hạn đến 6 tháng tăng từ 0,5%-0,7%-1,2%/năm; có kỳ hạn trên 6 tháng tăng từ 0,7%-1% -1,5% vào tháng 4 và tháng 9/2005. Lãi suất huy động và cho vay bằng VNĐ trong 10 tháng đầu năm 2005 tăng khoảng 15,8% so với tháng 12/2004. Nguyên ngân của sự biến động này là do: (1) lạm phát còn cao; (2) tốc độ tăng trưởng kinh tế qua các quý đều tăng; (3) lãi suất trên thị trường quốc tế có xu hướng tăng; (4) NHNN điều chỉnh tăng lãi suất; và (5) các NHTM cạnh tranh giữ thị phần. Tuy chưa có nghiên cứu cụ thể, nhưng thực tế cho thấy sự cạnh tranh để giữ thị phần giữa các NHTM có tác động không nhỏ đến sự biến động lãi suất trong năm 2005. - Nghiệp vụ thị trường mở: Giao dịch 3 phiên/tuần, chủ yếu là chào mua, là công cụ chủ yếu hỗ trợ vốn khả dụng cho các NHTM, có 116 phiên giao dịch, thời hạn từ 15 - 45 ngày, lãi suất dao động quanh mức 6%/năm. Doanh số giao dịch của nghiệp vụ thị trưởng mở đạt 102.511 tỷ VNĐ, tăng 65,5% so với năm 2004 - Nghịêp vụ chiết khấu và tái cấp vốn: Để hỗ trợ vốn cho các NHTM, bên cạnh nghiệp vụ thị trường mở, NHNN đã thực hiện nghiệp vụ tái cấp vốn cho các NHTM nhà nước, NHTM cổ phần và các ngân hàng liên doanh theo hạn mức chiết khấu. Nhiều NHTM đã sử dụng hết hạn mức chiết khấu được thông báo để đáp ứng nhu cầu vốn khả dụng. - Dự trữ bắt buộc: Từ đầu năm 2005 đến nay, tỷ lệ DTBB không thay đổi so với cuối năm 2004 nhằm tránh tác động làm tăng lãi suất thị trường, tạo điều kiện cho các TCTD mở rộng tín dụng có hiệu quả. - Tỷ giá được điều chỉnh giảm giá nhẹ đồng VND so với đồng USD nhằm khuyến khích xuất khẩu, góp phần kiểm soát nhập khẩu. tỷ giá tương đối ổn định, mà một nguyên nhân chủ yếu là do NHNN vẫn chủ trương dùng “neo” tỷ giá để kiểm soát lạm phát. Diễn biến tỷ giá xem ra vẫn phù hợp với quan hệ cung cầu. Tỷ giá trên thị trường tự do và tỷ giá trên thị trường liên ngân hàng chênh lệch không đáng kể. NHNN mua được một lượng ngoại tệ nhiều hơn mức bán ra, qua đó tăng được dự trữ ngoại tệ. - Bên cạnh việc điều hành chính sách tiền tệ thận trọng, linh hoạt, NHNN tiếp tục thực hiện các giải pháp đổi mới cơ chế, chính sách tín dụng và cơ cấu lại NHTM: + Ban hành Quy chế phát hành giấy tờ có giá của TCTD; sửa đổi cơ chế cho vay, bảo đảm tiền vay của TCTD đối với khách hàng, phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng, quy định về hạch toán kế toán theo hướng giao quyền chủ động cho các TCTD và đánh giá chất lượng tín dụng, quy định về các tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động của TCTD, chỉ đạo các TCTD thực hiện các giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng, kiểm soát rủi ro và bảo đảm an toàn hệ thống. + Yêu cầu các NHTM tăng vốn tự có, nâng cao tỷ lệ an toàn tối thiểu; trình Chính phủ ban hành quyết định cổ phần hoá Ngân hàng Ngoại thương trong năm 2006 và xây dựng Đề án cổ phần hoá Ngân hàng Phát triển nhà đồng bằng sông Cửu Long; chỉ đạo các TCTD đẩy nhanh thực hiện các cấu phần về hiện đại hoá công nghệ, quản trị kinh doanh và rủi ro, nâng cao chất lượng nhân sự và phát triển mạng lưới… c. Kết quả: Nhìn chung, chính sách tiền tệ năm 2005 đã có những đóng góp tích cực nhất định cho việc hỗ trợ tăng trưởng kinh tế và ổn định kinh tế vĩ mô. Tuy nhiên, cũng còn một số vấn đề chính sách cần được lưu ý. Trước hết, thị trường tín dụng của các khu vực NHTM nhà nước và cổ phần năm 2005 cho thấy lãi suất cho vay tăng, song ít có tác động hạn chế cầu tín dụng trong bối cảnh tăng trưởng kinh tế nhanh và lãi suất thực thấp, mà chỉ chủ yếu làm dịch chuyển phần nào cầu tín dụng bằng ngoại tệ sang cầu tín dụng bằng VNĐ (lưu ý là tốc độ tăng tín dụng bằng ngoại tệ năm 2004 cao hơn nhiều so với năm 2003 và cũng cao hơn tốc độ tăng tín dụng bằng VNĐ). Điều này phần nào phản ánh hiệu lực chính sách lãi suất của NHNN còn hạn chế, do thị trường tiền tệ chưa hoàn thiện và thị trường vốn còn không ít méo mó. Thêm vào đó, việc điều tiết cung - cầu về vốn và lãi suất của NHNN bị hạn chế do nhiều luồng vốn còn nằm ngoài tầm kiểm soát của NHNN, đặc biệt là luồng chu chuyển vốn của khu vực chính phủ. Một ví dụ là năm 2005 tiền gửi ngân sách tại NHNN tăng nhiều, qua đó đã rút một lượng tiền không nhỏ khỏi lưu thông, gây áp lực tăng lãi suất trên thị trường tiền tệ (đến tháng 9/2005 NHNN bơm tiền qua các kênh tăng khoảng 9%, nhưng thực tế tiền cơ bản chỉ tăng 2,4%). Mặt khác, một lượng tiền gửi của Kho bạc nhà nước được gửi tại các NHTM đang phát huy khả năng tạo tiền mà NHNN khó có thể tính toán chính xác để có thể chủ động điều tiết tiền tệ theo mục tiêu đã định. Một vấn đề nữa là NHNN cũng đã nhận thức rõ ràng hơn rằng việc sử dụng các biện pháp can thiệp để duy trì tỷ giá ổn định về lâu dài sẽ có ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát triển của thị trường ngoại hối và hoạt động xuất khẩu. Tuy nhiên, NHNN dường như vẫn chưa có đủ sự tự chủ cần thiết để xây dựng và thực thi một chính sách tiền tệ đủ hiệu lực và một chính sách tỷ giá linh hoạt hơn. Trên thực tế, NHNN đã thiên về mục tiêu ngắn hạn hơn là cân nhắc đầy đủ hơn đến các mục tiêu dài hạn. Điều này đang hạn chế khả năng điều chỉnh linh hoạt chính sách tiền tệ và chính sách tỷ giá trước những biến động kinh tế vĩ mô, nhất là trong bối cảnh lạm phát có khả năng còn đứng ở mức tương đối cao trong thời gian tới. Tăng trưởng huy động vốn, tín dụng và tổng phương tiện thanh toán xấp xỉ mức tăng cùng kỳ năm 2004 và có khả năng vượt chỉ tiêu cả năm đề ra ( tăng trưởng tín dụng khoảng 25%, tổng phương tiện thanh toán tăng 22%). Mặt bằng lãi suất thị trường tăng nhẹ so với cuối năm 2004, nhưng không tăng đột biến (lãi suất huy động bằng VND tăng từ 0,03%-0,08%/tháng, lãi suất cho vay tăng ở mức thấp hơn, khoảng 0,05%/tháng so với cuối năm 2004); tỷ giá VND so với USD trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng tăng 0,73%, dự kiến cả năm 2005 tăng khoảng 1%. 1.2 Năm 2006: Chính sách tiền tệ thắt chặt. VN vẫn tiếp tục phải đối phó với lạm phát ngày càng tăng cao. Do đó, Chính phủ tiếp tục duy trì và thực hiện linh hoạt chính sách tiền tệ thắt chặt đã áp dụng từ cuối 2005 nhằm kiềm chế lạm phát, góp phần ổn định môi trường kinh tế vĩ mô, tạo thuận lợi cho tăng trưởng kinh tế. Theo đó, trong năm 2006, NHNN vẫn giữ nguyên các mức lãi suất chính thức nhằm tránh phát tín hiệu làm tăng lãi suất thị trường, giữ nguyên tỷ lệ dự trữ bắt buộc để giảm áp lực tăng lãi suất huy động trên thị trường, tiếp tục thực hiện cơ chế tỷ giá thả nổi có quản lý. Kết quả là tổng phương tiện thanh toán năm 2006 đã được giữ ở mức tăng 33,59% so với năm 2005, nhưng vẫn cao hơn so với mức tăng 29,65% của năm 2005; tín dụng tăng chậm lại nhưng chất lượng tín dụng được nâng cao; kim ngạch xuất nhập khẩu tăng tăng 22,2%; tốc độ tăng GDP đạt 8,17%, tốc độ tăng CPI giảm còn 6,6%. 1.3 Năm 2007 : Chính sách tiền tệ thắt chặt a. Bối cảnh kinh tế Tình hình kinh tế thế giới lại trải qua những xáo trộn mạnh, đặc biệt trên thị trường tài chính do xuất phát từ cuộc khủng hoảng tín dụng ở Mỹ và giá dầu tăng lên mức kỷ lục 100 USD/thùng. Trong khi đó, lạm phát ở nền kinh tế VN đang ngày càng gia tăng. b. Thực hiện các công cụ chính sách tiền tệ Các giải pháp điều hành CSTT - Tăng cường hoạt động thị trường mở. Trong phạm vi khối lượng tiền cung ứng tăng được Chính phủ phê duyệt năm 2007, NHNN đã sử dụng linh hoạt các công cụ CSTT để điều tiết có hiệu quả khối lượng tiền cung ứng này, nhằm đạt mục tiêu mua ngoại tệ tăng dự trữ ngoại hối Nhà nước, hạn chế sức ép tăng giá đồng Việt Nam, góp phần bình ổn thị trường ngoại hối, nhưng đồng thời cũng hút mạnh lượng tiền đã cung ứng ra cho mục đích mua ngoại tệ để giảm mức độ dư thừa vốn khả dụng của các NHTM, hạn chế sự giá tăng của tổng phương tiện thanh toán (TPTTT), qua đó giảm áp lực lạm phát. Điều chỉnh, tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc gấp 1,5 – 2 lần, kiểm soát tăng trưởng tổng phương tiện thanh toán, kiểm soát tín dụng rất chặt chẽ để hạn chế mức độ dư thừa vốn khả dụng của các TCTD, qua đó hạn chế tăng trưởng tín dụng vào những lĩnh vực kém hiệu quả, giảm sức ép tăng lạm phát trong những tháng cuối năm. - Giữ nguyên các mức lãi suất như lãi suất cơ bản là 8,25%/năm, lãi suất tái cấp vốn là 6,5%/năm, lãi suất chiết khấu là 4,5%/năm, lãi suất qua đêm, lãi suất tiền gửi tại NHNN nhằm ổn định thị trường; bỏ quy định trần lãi suất tiền gửi bằng USD đối với pháp nhân kể từ ngày 1/1/2007. - NHNN đã thực hiện, ban hành Chỉ thị 03/2007/CT – NHNN yêu cầu các TCTD thực hiện kiểm soát tín dụng, khống chế dư nợ cho vay đầu tư, kinh doanh chứng khoán ở mức dưới 3% tổng dư nợ tín dụng, tăng cường thanh tra giám sát hoạt động cho vay đầu tư kinh doanh chứng khoán nhằm đảm bảo an toàn, hiệu quả hoạt động của hệ thống TCTD. Tuy nhiên, tăng trưởng tín dụng năm 2007 vẫn đạt rất cao, dư nợ cho vay của hệ thống ngân hàng tăng 53,89% so với năm 2006. - Cũng trong năm, bên cạnh việc đưa 144.000 tỷ VND ra thị trường để mua 9 tỷ USD tăng dự trữ ngoại hối; NHNN đã nới lỏng biên độ tỷ giá từ +/- 0,25% lên +/-0,5% và đến 12/12/2007, tiếp tục nới rộng biên độ lên +/-0,75% nhằm giảm áp lực lạm phát, tăng tính chủ động cho các TCTD trong hoạt động kinh doanh ngoại tệ. Đồng thời NHNN đã thực hiện việc mua ngoại tệ theo nhu cầu bán của các NHTM, Kho bạc Nhà nước và các tổ chức quốc tế với tỷ giá phù hợp để hạn chế sức ép tăng giá đồng Việt Nam và tăng cường mức dự trữ ngoại hối Nhà nước. Chênh lệch giữa tỷ giá mua ngoại tệ của NHNN và tỷ giá bình quân trên thị trường liên ngân hàng đã được thu hẹp, phản ánh sát cung cầu ngoại tệ trên thị trường. - Hạn chế cho vay có bảo đảm bằng cầm cố giấy tờ có giá, thực hiện cho vay chiết khấu trong hạn mức phân bổ. - Thực hiện Quyết định số 597/QĐ-TTg ngày 11/5/2007 của Thủ tướng Chính phủ, NHNN đã duy trì hạn mức Quỹ bình ổn tỷ giá và giá vàng bằng 30% tổng dự trữ ngoại hối nhà nước, (xác định theo quý) với biên độ +/- 10% thay vì xác định hạn mức theo giá trị tuyệt đối như trước đây. Việc xác định hạn mức như vậy cho phép NHNN tăng cường tính linh hoạt trong điều hành tỷ giá, kịp thời ứng phó với các rủi ro đảo chiều của các nguồn vốn, đặc biệt là các nguồn vốn đầu tư gián tiếp của nước ngoài. - NHNN đã quản lý an toàn dự trữ ngoại hối Nhà nước, đáp ứng mục tiêu thanh khoản và sinh lời ở mức độ nhất định. Tổng dự trữ ngoại hối Nhà nước tính theo tuần nhập khẩu hàng hoá và dịch vụ tăng từ mức 13,6 tuần vào thời điểm cuối năm 2006 lên gần 18 tuần năm 2007. - Xây dựng và ban hành các văn bản hướng dẫn thực hiện Pháp lệnh Ngoại hối; triển khai thực hiện Đề án nâng cao tính chuyển đổi của đồng tiền Việt Nam, khắc phục tình trạng đô la hóa trong nền kinh tế đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Thực hiện các giải pháp kiểm soát chất lượng và tốc độ tăng trưởng tín dụng, tăng tổng phương tiện thanh toán nhằm kiểm soát lạm phát. Bên cạnh việc sử dụng các công cụ CSTT để thu hút tiền dư thừa của các TCTD để hạn chế việc mở rộng quá mức đầu tư tín dụng và tăng TPTTT, NHNN tiếp tục thực hiện hoàn thiện cơ sở pháp lý và yêu cầu các TCTD thực hiện các quy định về kiểm soát rủi ro, quy mô, chất lượng tín dụng và cho vay đầu tư, kinh doanh chứng khoán nhằm kiểm soát lạm phát, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. c. Kết quả: Với việc thực thi CSTT như trên về cơ bản đạt được mục tiêu đề ra là ổn định tiền tệ, kiềm chế lạm phát, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô và hỗ trợ vốn tạo môi trường thuận lợi cho tăng trưởng kinh tế. Điều này thể hiện ở những kết quả sau: - Kết quả là tăng trưởng GDP năm 2007 đạt 8,48%, nhưng lạm phát cũng tăng từ 7,45% lên 8,3%. - Qui mô thị trường tiền tệ mở rộng và ổn định, không để xẩy ra những cú sốc về lãi suất và tỷ giá trước những biến động khó lường của tình hình thị trường tài chính quốc tế + Lãi suất thị trường liên ngân hàng mặc dù có biến động mạnh trong vài ngày giữa tháng 11/2007, song, nhìn chung, mặt bằng lãi suất trong năm ổn định: lãi suất huy động và cho vay của TCTD vẫn giữ được ổn định và có xu hướng giảm nhẹ so với cuối năm 2006, tạo điều kiện cho việc huy động vốn và đầu tư cho tăng trưởng kinh tế. Tính đến cuối tháng 9/2007, huy động vốn của các TCTD tăng 31,2%, ước cả năm tăng 39,6%, cao hơn tốc độ tăng 33,1% của năm 2006; tín dụng đến cuối tháng 9 tháng tăng 30,9%, ước cả năm tăng 37,8%, cao hơn nhiều so với tốc độ tăng 22,8% của năm 2006). + Tỷ giá danh nghĩa giao động nhẹ và có xu hướng giảm (VND lên giá nhẹ), trong bối cảnh lạm phát gia tăng đã góp phần tích cực trong việc ổn định lãi suất VND và ổn định thị trường tiền tệ. Mặt khác, tỷ giá thực thấp hơn tỷ giá hối đoái danh nghĩa trên thị trường, cho nên tác động khuyến khích xuất khẩu, kiểm soát nhập khẩu, hỗ trợ ổn định lãi suất VND. - Diến biến tổng phương tiện thanh mặc dù tăng cao, nhưng cơ cấu thay đổi theo chiều hướng tích cực + Tỷ lệ tiền mặt trên TPTTT giảm từ mức 19,3% năm 2006 xuống mức 17,8% năm 2007. + Tỷ lệ ngoại tệ trên tổng tiền gửi từ mức 25,9% năm 2007 xuống còn 22,6% năm 2007 - giảm mức độ đô la hoá của nền kinh tế. - Hỗ trợ tích cực cho tăng trưởng kinh tế + Trong hoạt động đầu tư tín dụng của các TCTD có những diễn biến tích cực, các sản phẩm dịch vụ tín dụng đã được đa dạng hơn nhiều so với những năm trước đây, nhiều lĩnh vực cho vay đầu tư được mở rộng, các doanh nghiệp vừa và nhỏ có nhiều điều kiện thuận lợi tiếp cận nguồn vốn vay ngân hàng để phát triển sản xuất, tạo công ăn việc làm, giảm tỷ lệ thất nghiệp góp phần ổn định xã hội, cho vay phát triển nông nghiệp nông thôn, cho vay chính sách hỗ trợ các hộ nghèo, hộ sản xuất kinh doanh vùng khó khăn cũng được mở rộng, góp phần tích cực thực hiện mục tiêu xoá đói giảm nghèo. Bên cạnh đó, việc cho vay tiêu dùng cũng được mở ra rất đa dạng đáp ứng đầy đủ các nhu cầu của xã hội. + Tín dụng đầu tư vào thị trường chứng khoán được kiểm soát chặt chẽ và giảm dần cả số tuyệt đối và tỷ lệ dư nợ qua các tháng, góp phần thúc đẩy thị trường chứng khoán phát triển ổn định. Tín dụng đối với lĩnh vực bất động sản cũng được theo dõi, giám sát chặt chẽ nhằm góp phần hạn chế những tiềm ẩn rủi ro trong hoạt động ngân hàng và thúc đẩy thị trường bất động sản phát triển bến vững. Những thách thức phải đối mặt: Có thể nói, điều hành CSTT năm 2007 về cơ bản, đạt đuợc mục tiêu đặt ra, tuy nhiên, trong bối cảnh tình hình thế giới có nhiều biến động, cùng với việc Việt Nam gia nhập WTO nên việc điều hành CSTT đã phải đối mặt với nhiều thách thức làm cho việc thực hiện mục tiêu ban đầu còn có hạn chế nhất định. Thách thức lớn nhất mà điều hành CSTT năm 2007 phải đối mặt, đó là dòng vốn đầu tư nước ngoài vào nhiều (Theo số liệu thống kê đến tháng 10/2007, doanh số phát sinh tiền gửi bằng VND của người không cư trú tại các NHTM thì có khoảng 13 tỷ USD của người không cư trú được chuyển cho người cư trú cho mục đích đầu tư vào thị trường chứng khoán, đầu tư vào bất động sản và chi tiêu các nhu cầu tiêu dùng khác trong nước). Tình hình này đã có tác động làm tăng tổng phương tiện thanh toán của nền kinh tế ( tăng M2); làm tăng cung ngoại tệ, gây sức ép làm VND lên giá; dự trữ vượt của hệ thống ngân hàng tăng mạnh - là một nhân tố thúc đẩy tín dụng tăng nhanh; dòng vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài (FII) có tác động thúc đẩy thị trường chứng khoán phát triển mạnh hơn, và một lượng vốn nhất định cuả dân cư cũng như từ hệ thống ngân hàng được đầu tư trên thị trường chứng khoán, qua đó đã làm tăng dư nợ cho vay nền kinh tế; cùng với việc gia tăng mạnh dòng vốn đầu tư nước ngoài là sự tăng giá khó lường mang tính toàn cầu của một một số mặt hàng, như giá dầu thô, giá lương thực, bên cạnh đó là hạn hán lũ lụt, dịch bệnh gia cầm trong nước đã có tác động mạnh đến mức mức giá tiêu dùng nói chung. Trong bối cảnh trên, CSTT phải cùng một lúc đạt hai mục tiêu là vừa phải hỗ trợ tích cực cho tăng trưởng kinh tế đạt 8,5%, vừa phải kiềm chế lạm phát dưới mức tăng trưởng là cực kỳ khó khăn. Giải pháp ổn định lãi suất và tỷ giá danh nghĩa hỗ trợ tích cực cho tăng trưởng kinh tế và ổn định thị trường tiền tệ không để xẩy ra sự dịch chuyển dòng vốn, nhưng lại rất khó khăn để kiểm soát khối lượng tiền trong nền kinh tế và kiềm chế lạm phát. Chính vì vậy, NHNN đã gặp khó khăn trong việc kiểm soát TPTTT, tín dụng, qua đó đã chưa kiểm soát được lạm phát theo mục tiêu đặt ra: TPTTT của Việt Nam tăng mạnh trong năm 2007 là khó tránh khỏi khi dòng vốn đầu tư nước ngoài vào nhiều như năm nay. Muốn hạn chế gia tăng TPTTT, thì cần phải hạn chế sự gia tăng của dòng vốn này. Tuy nhiên, hạn chế dòng vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam là vấn đề không đơn giản khi Việt Nam đã gia nhập WTO, thị trường tài chính từng bước tự do hóa. Vì vậy, việc hạn chế sự gia tăng nguồn vốn nước ngoài nằm ngoài tầm kiểm soát của NHNN, mà đòi hỏi phải có chính sách vĩ mô đồng bộ để đảm bảo việc sử dụng nguồn vốn nước ngoài có hiệu quả, giám sát chặt chẽ luồng vốn đầu tư gián tiếp, hạn chế tình trạng đầu cơ trên thị trường chứng khoán,… nhằm hạn chế những tác động bất lợi của dòng vốn này. Nhìn chung, năm 2007 thực thi CSTT của NHNN là cực kỳ khó khăn bởi tác động bất lợi của dòng vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam quá lớn trong năm, cùng với những diễn biến phức tạp của giá cả những mặt hàng chủ yếu và những nhu cầu hội nhập của nền kinh tế. Mặc dầu vậy, về cơ bản, điều hành CSTT đã đạt được sự ổn định tiền tệ, hỗ trợ tích cực cho tăng trưởng kinh tế, tạo môi trường vĩ mô thuận lợi cho phát triển kinh tế, song năm 2008, thực thi CSTT vẫn tiếp tục phải đối mặt với những thách thức do dòng vốn đầu tư nước ngoài vẫn tiếp tục gia tăng và những biến động khó lường của thị trường tài chính quốc tế, cùng với biến động của giá cả thế giới. Điều đó đòi hỏi NHNN tiếp tục thực hiện CSTT chặt chẽ và cần có những giải pháp mang tính dài hạn để hạn chế đến mức thấp nhất những tác động bất lợi của những thách thức phải đối mặt . 1.4 Năm 2008: Chính sách tiền tệ thắt chặt vào đầu năm và nới lỏng vào cuối năm a. Bối cảnh kinh tế Trong bối cảnh tình hình thế giới lại rơi vào vòng xoáy khủng hoảng nặng nề hơn. Ở Việt Nam, hai quý đầu của năm 2008, cùng với những bất ổn trên thị trường tài chính thế giới, tình hình kinh tế trong nước cũng diễn biến hết sức phức tạp. Giá cả tăng cao, cùng với sự dồn tích khá lâu về lượng tiền thừa đã làm cho thị trường hàng hóa Việt Nam có hiện tượng “bốc hỏa” về giá. So với tháng 12/2007, giá tiêu dùng tăng 17,18%. Đến cuối tháng 6 chỉ số lạm phát tuy có tăng chậm nhưng vẫn ở mức cao nhất so với tháng 6 của nhiều năm trước. Chỉ trong 1 năm, VN phải gánh chịu cả hai bối cảnh đối nghịch nhau hoàn toàn: lạm phát tăng cao vào đầu năm và suy giảm kinh tế những tháng cuối năm. Điều này gây ra rất nhiều sức ép cho việc hoạch định chính sách tiền tệ trong năm. b. Thực hiện các công cụ chính sách tiền tệ - Chính sách tiền tệ thắt chặt những tháng đầu năm 2008 Để kiềm chế lạm phát NHTW đã thực hiện đồng thời các công cụ: lãi suất, dự trữ bắt buộc và thị trường mở đồng thời ban hành những quy định siết chặt thị trường chứng khoán, thị trường bất động sản… + Lãi suất cơ bản thay đổi 3 lần Lãi suất Quyết định Ngày thực hiện 8,25% / năm 1746/QĐ-NHNN ngày 01/12/2005 Ngày 01/12/2005 8,75% / năm 305/QĐ-NHNN ngày 30/01/2008 Ngày 01/02/2008 12% / năm 1099/QĐ-NHNN ngày 16/05/2008 Ngày 19/05/2008 14% / năm 1317/QĐ-NHNN ngày 10/06/2008 Ngày 11/06/2008 + Tỷ lệ dự trữ bắt buộc: Tăng lên 1% ( ngày 16/01/2008) + Nghiệp vụ thị trường mở: Giai đoạn này xuất hiện hiện tượng “tháo chạy” của khách hàng khỏi ngân hàng có lãi suất thấp và dòng người xếp hàng bất chấp thời gian trước những ngân hàng có lãi suất cao để gửi tiền. Mở ra một cuộc chạy đua nâng cao lãi suất để hút lượng tiền trong nhân dân. Chỉ trong thời gian vài ngày có ngân hàng đẩy lãi suất tiền gửi từ 15% /năm lên 19%/năm, lãi suất cho vay được đẩy lên đúng với lãi suất tối đa 21%/năm ở hầu hết các ngân hàng. Để tránh tình trạng đổ vỡ hệ thống ngân hàng xảy ra, NHNN đã liên tục thực hiện bơm thêm tiền thông qua nghiệp vụ thị trường mở để đáp ứng nhu cầu thanh khoản cho các ngân hàng, điển hình như việc đưa hơn 39.000 tỷ đồng vào thị trường trong vòng một tuần vào cuối tháng 2/2008. NHNN cũng đã thực hiện việc điều hành chính sách tỷ giá linh hoạt hơn nhằm ổn định nền kinh tế. Chỉ trong 6 tháng đầu năm 2008, NHNN đã có 3 lần điều chỉnh nới lỏng biên độ tỷ giá lên mức +/-2% từ ngày 27/6. Đây là một động thái cho chính sách tỷ giá đang cởi mở hơn, phản ánh sát tình hình cung cầu ngoại tệ trên thị trường. + Chính sách tỷ giá: Trong quý 1/2008, có những lúc tỷ giá USD liên ngân hàng xuống dưới 16.000 và tỷ giá thị trường tự do thậm chí còn thấp hơn trong ngân hàng. Nhưng chỉ qua đầu quý 2, tỷ giá lại tăng đến chóng mặt, có lúc đã lên tới 19.500. NHNN đã quyết định nới biên độ dao động từ +1% lên +2% (từ ngày 26/06/08) đồng thời triển khai hàng loạt các biện pháp khác: kiểm soát chặt các đại lý thu đổi ngoại tệ, tăng cường truyền thông, công bố dự trữ ngoại hối của Việt Nam (điều chưa hề có tiền lệ tại Việt Nam), … Nhờ đó, tỷ giá đã dần dịu lại và duy trì ở mức ~ 16.500 cho đến hết quý 3/08 - Chính sách tiền tệ nới lỏng những tháng cuối năm 2008 Những tháng cuối năm 2008, nền kinh tế trong nước phải đối mặt với nhiều khó khăn, tăng trưởng kinh tế giảm dần, thị trường chứng khoán, thị trường bất động sản vẫn đang trong tình trạng “ngủ đông”, thị trường tiền tệ thì diễn biến phức tạp, sản xuất kinh doanh thì chật vật vì lãi suất cao, chi phí nguyên vật liệu cao… + Lãi suất cơ bản giảm xuống từ 14%/năm còn 8,5 % Lãi suất Quyết định Ngày thực hiện 14%/năm 1317/QĐ-NHNN ngày 10/06/2008 Ngày 11/06/2008 13%/năm 2316/QĐ-NHNN ngày 20/10/2008 Ngày 21/10/2008 12%/năm 2559/QĐ-NHNN ngày 03/11/2008 Ngày 05/11/2008 11%/năm 2808/QĐ-NHNN ngày 20/11/2008 Ngày 21/11/2008 10%/năm 2948/QĐ-NHNN ngày 03/12/2008 Ngày 05/12/2008 8,5%/năm 3161/QĐ-NHNN ngày 19/12/2008 Ngày 22/12/2008 + Tỷ lệ dự trữ bắt buộc Để chống lại nguy cơ giảm phát, bắt đầu từ tháng 10/2008, các loại lãi suất chỉ đạo liên tục được NHNN hạ xuống theo một lộ trình thích hợp; tỷ lệ dự trữ bắt buộc giảm, lãi suất trả cho dự trữ bắt buộc lần lượt tăng lên Giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc từ 10%/năm xuống còn 8%/năm (QĐ 2811 ngày 20/11/2008), 8%/năm xuống còn 6%/năm (QĐ 2951 ngày 03/12/2008), và cuối cùng còn 5%/năm ( QĐ 3158 ngày 19/12/2008). + Nghiệp vụ thị trường mở Cho phép các NHTM được thanh toán tín phiếu bắt buộc trước hạn và được sử dụng nó làm công cụ tham gia nghiệp vụ thị trường mở; tín hiệu cho vay kinh doanh chứng khoán, cho vay BĐS cũng được phát ra; + Chính sách tỷ giá Từ cuối năm 2008 đến nay, suy thoái kinh tế đã tác động mạnh đến nguồn cung ngoại tệ của Việt Nam; cộng thêm tâm lý găm giữ ngoại tệ của dân cư và các thành phần kinh tế đã dẫn đến tình trạng khan hiếm ngoại tệ, làm cho tỷ giá ngoại tệ luôn nóng, phố biến ở mức ~ 18.000. NHNN đã điều chỉnh biên độ dao động tỷ giá (+3% từ 06/11/08) và triển khai một số công cụ can thiệp khác. Vì vậy, tỷ giá ngoại tệ đang dần ổn định c. Kết quả Sau hàng loạt các chính sách nới lỏng tiền tệ cho đến cuối tháng 12/2008, tình hình kinh tế có dấu hiệu khả quan hơn, hoạt động ngân hàng khởi sắc trở lại, huy động vốn và cho vay bắt đầu trở về với nhịp độ bình thường,…Tuy nhiên, hoạt động của thị trường vẫn trong tình trạng chưa có dấu hiệu cải thiện, luồng di chuyển tiền tệ trong nền kinh tế có hiện tượng chậm lại, tiến độ cho vay của các ngân hàng cũng như khả năng tiếp cận vốn vay từ phía doanh nghiệp vẫn còn nhiều bất cập. 1.5 Năm 2009: Chính sách nới lỏng a. Bối cảnh Năm 2009, một năm mà chính sách tiền tệ đã phải đối mặt với nhiều thách thức khó lường phát sinh từ những bất cập của nền kinh tế và tác động bất lợi của khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế. - Lạm phát cao năm 2008, cùng với sự đảo chiều của vốn đầu tư nước ngoài và thâm hụt mạnh cán cân thương mại (12,783 tỷ USD) đã có tác động mạnh đến tâm là các nhà đầu tư trên thị trường ngoại hối, gây những biến động khó lường đến tỷ gía b. Thực thi chính sách tiền tệ: Các biện pháp chính sách tập trung vào những nội dung chủ yếu sau: - Thực hiện gói hỗ trợ lãi suất 4% trị giá 17.000 tỷ đồng cung cấp tín dụng ngắn hạn cho các tổ chức, cá nhân để sản xuất – kinh doanh. Từ tháng 4/2009, gói hỗ trợ lãi suất này được mở rộng cho các khoản vay trung và dài hạn; đồng thời, sự hỗ trợ lãi suất cũng được thực hiện với các khoản vay mua máy móc, thiết bị, vật tư phục vụ sản xuất nông nghiệp và vật liệu xây dựng nhà ở khu vực nông thôn. - Điều chỉnh giảm và duy trì ổn định lãi suất điều hành ở mức hợp lý từ tháng 2/2009 để vừa giảm mặt bằng lãi suất cho vay, vừa tăng cường nguồn huy động, đáp ứng nhu cầu mở rộng tín dụng của nền kinh tế, theo đó lãi suất cơ bản bằng đồng VN được điều chỉnh giảm từ 8,5%/năm xuống 7%/năm, lãi suất tái cấp vốn giảm từ 9,5%/năm xuống 7%/năm, lãi suất tái chiết khấu giảm từ 7,5%/năm xuống 5%/năm. Kể từ tháng 12/2009, các mức lãi suất trên được điều chỉnh tăng them 1% cho phù hợp với điều kiện mới của nền kinh tế. - Điều chỉnh giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tiền gửi VNĐ không kỳ hạn và có kỳ hạn dưới 12 tháng từ 5% xuống 3% kể từ dự trữ tháng 3/2009; tiền gửi có kỳ hạn từ 12 tháng trở lên từ 2% xuống 1% kể từ dự trữ tháng 1/2009. Đồng thời , điều chỉnh giảm lãi suất tiền gửi dự trữ bắt buộc từ mức 8,5%/năm xuống dưới 1,2%/năm; điều chỉnh giảm lãi suất tiền gửi vượt dự trữ bắt buộc bằng ngoại tệ từ mức 1%/năm xuống 0,1%/năm. - Điều hành linh hoạt nghiệp vụ thị trường mở, chủ yếu là chào mua giấy tờ có giá với kỳ hạn và lãi suất hợp lý để điều tiết vốn khả dụng của các tổ chức tín dụng, tăng cung vốn cho thị trường, hỗ trợ các tổ chức tín dụng đảm bảo khả năng thanh khoản và giữ ổn định lãi suất trên thị trường liên ngân hàng. - Thực hiện hoãn đổi ngoại tệ với các NHTM để vừa hỗ trợ vốn VNĐ, giảm bớt tình trạng mất cân đối giữa vốn và sử dụng vốn VNĐ và ngoại tệ của các NHTM, vừa bổ sung thêm nguồn ngoại tệ để NHTM có thể can thiệp thị trường ngoại hối khi cần thiết. - Mở rộng biên độ ấn định tỷ giá mua bán USD/VNĐ của các NHTM từ +3% lên +5% kể từ ngày 24/3/2009 và điều hành linh hoạt tỷ giá bình quân liên ngân hàng phù hợp với tín hiệu thị trường và mục tiêu đẩy mạnh xuất khẩu, hạn chế nhập siêu. Từ ngày 26/11/2009, để phù hợp với diễn biến mới trên thị trường ngoại hối và trên cơ sở xem xét mối quan hệ giữa tỷ giá với lãi suất, chỉ số giá tiêu dung và cán cân thanh toán quốc tế, NHNN đã điều chỉnh giảm biên độ ấn định tỷ giá xuống +3%, đồng thời công bố tỷ giá bình quân liên ngân hàng tăng thêm 5,4% từ 26/11/2009. - Triển khai đồng bộ các giải pháp về điều hành chính sách tín dụng, gồm: xem xét cơ cấu lại thời hạn trả nợ, điều chỉnh giảm lãi suất đối với các hợp đồng đã ký kết trước đây về mực lãi suất cho vay hiện hành, không phạt quá hạn đối với các doanh nghiệp không trả nợ đúng hạn do tác động của khủng hoảng và suy thoái kinh tế toàn cầu; điều chỉnh cơ cấu tín dụng để tập trung vốn cho sản xuất, xuất khẩu, kiểm soát chặt chẽ vốn cho vay lĩnh vực phi sản xuất ( cho vay kinh doanh bất động sản, cho vay kinh doanh đầu tư chứng khoán, cho vay tiêu dùng) c. Kết quả - Tổng phương tiện thanh toán tăng 28,7% và tổng tín dụng cho nền kinh tế tăng 37,7% so với năm 2008. Điều này đã tạo điều kiện cho nhiều doanh nghiệp tiếp cận vốn với lãi suất thấp, thông qua đó hạ giá thành sản phẩm, duy trì và mở rộng sản xuất, kinh doanh, tạo việc làm cho người lao đông, giúp cho doanh nghiệp tồn tại và đứng vững trước cơn bão khó khăn trong nước và khủng hoảng toàn cầu. - Giải pháp hỗ trợ lãi suất ( CSTK ) có tác động tích cực hỗ trợ doanh nghiệp phục hồi sản xuất, làm khởi sắc TTCK, bất động sản và thị trường tín dụng. - Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã thực thi CSTT một cách linh hoạt phối hợp đồng bộ với nhiều giải pháp khác để giữ b.nh ổn thị trường. 1.6 Năm 2010: Chính sách tiền tệ thắt chặt a. Bối cảnh kinh tế: Nền kinh tế Việt Nam bước vào năm 2010 được đánh giá là có nhiều thuận lợi hơn so với một năm trước đó, trong đó đáng chú ý là ba thuận lợi cơ bản: - Đã ngăn chặn được đà suy giảm tốc độ tăng trưởng GDP ngay từ cuối quý I/2009 và tốc độ tăng trưởng đang trong xu hướng hồi phục rõ rệt - Phần lớn các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế đều duy trì được sản xuất, kinh doanh, cá biệt còn tăng quy mô và đạt tốc độ tăng trưởng cao trong khủng hoảng - Tình hình kinh tế vĩ mô được ổn định hơn b. Thực hiện công cụ chính sách tiền tệ: Tình hình chung:  Lãi suất cơ bản giữa nguyên là 8%.  Lãi suất chiết khấu là 6%. Lãi suất tái cấp vốn là 8%.  Năm 2010 Nhà nước đã đặt trọng tâm vào mục tiêu giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, ngăn ngừa lạm phát cao, duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế hợp lý gắn với mục tiêu nâng cao chất lượng tăng trưởng, tạo tiền đề thúc đẩy tăng trưởng cao hơn trong các năm tiếp theo.  Cụ thể : - Ngày 6/1/2010 NHNN bơm 15000 tỷ đồng thông qua nghiệp vụ thị Trường mở Động thái này của NHNN làm cho lãi suất vay vốn giữa các Ngân hàng giảm mạnh, kỳ hạn một tuần còn 11%/năm, vay qua đêm còn 8,5%/năm. Vì trước đó, lãi suất liên Ngân hàng ở mức 16-17%/năm, có thời điểm vượt 20%/năm. Và điều này đã làm cho tổng dư nợ tín dụng trong những tháng đầu năm tăng rất ít so với năm 2009. Cụ thể :Tháng 1 chỉ tăng 0,26%, tháng 2 tăng 1,14%, tháng 3 tăng 1,49% và quý 1 chỉ tăng 3,52%, trong đó dư nợ tín dụng bằng VND tăng 0,57% so với tháng 12/2009. Và mức tổng phương tiện thanh toán và mức tổng dư nợ tín dụng năm 2010 cũng được ngân hàng nhà nước kiềm chế ở mức 25% thấp hơn so với năm 2009 là 37,73%. Chỉ tiêu này được đặt ra nhằm kiểm soát mức độ lạm phát năm 2010 tiếp tục giữ ở mức một con số. Và nếu đi theo định hướng này ngân hàng trung ương muốn đảm bảo rằng lãi suất năm 2010 không quá căng.  - Ngày 18/1/2010, NHNN đưa ra Quyết định số 74/QĐ-NHNN giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tiền gửi bằng ngoại tệ có kỳ hạn dưới 12 tháng 4%, đối với tiền gửi có kỳ hạn từ 12 tháng trở lên 2% tạo điều kiện cho các NHTM tăng nguồn cung vốn ngoại tệ cho thị trường.  - Ngày 14/2, Ngân hàng Nhà nước đã tăng tỷ giá liên ngân hàng thêm 3% lên mức 18.544 đồng/USD Trong khi đó biên độ tỷ giá giữ nguyên ở mức +/-3%.  - Ngày 26-02-2010, Thông tư số 07/2010/TT-NHNN được ban hành, chính thức cho phép các ngân hàng được áp dụng cơ chế lãi suất thỏa thuận với các khách hàng vay trung và dài hạn nhằm đáp ứng nhu cầu vốn sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và đầu tư phát triển. Trên thực tế, lãi suất cho vay của các NHTM từ lâu đã vượt mức trần cho phép theo quy định của NHNN. Thông tư trên ra đời đã "hợp pháp hóa" các khoản vay với mức lãi suất cao đó, giải tỏa áp lực tâm lý cho các Ngân hàng thương mại, góp phần khơi thông dòng chảy tín dụng nhằm duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt mục tiêu 6,5% năm 2010 và kiềm chế lạm phát ở mức không vượt quá 7%.  - Ngày 14/04/2010, Ngân hàng Nhà nước đã chính thức cho phép các Ngân hàng Thương mại sử dụng lãi suất thỏa thuận với các khoản vay ngắn hạn, tiếp nối việc sử dụng lãi suất cho vay thỏa thuận với các khoản vay. trung và dài hạn đã được thực hiện từ cuối tháng 2.  - Ngày 17/8/2010, cơ quan này thực hiện điều chỉnh tỷ giá bình quân liên ngân hàng giữa đồng Việt Nam với Đô la Mỹ áp dụng cho ngày 18/8/2010 từ mức 18.544 VND lên mức 18.932 VND (tăng gần 2,1%). Trong khi đó biên độ tỷ giá giữ nguyên ở mức +/-3%.  - Về tỷ giá NHNN cấp giấy phép cho doanh nghiệp, ngân hàng nhập khẩu vàng mục đích ổn định tỷ giá (7/10/2010) thông qua hình thức quota.   Năm 2010 sau khi ngân hàng nhà nước điều chỉnh ổn định tỷ giá các tổ chức tín dụng được giao dịch tối đa là 19000 VND/USD và những biện pháp mà chính phủ yêu cầu các tập đoàn, tổng công ty nhà nước bán ngoại tệ cho ngân hàng thương mại, kêu gọi các doanh nghiệp, người dân dùng hàng việt. Đến nay, diễn biến thị trường ngoại hối theo chiều hướng tích cực, nhiều ngân hàng thương mại đã cân đối được ngoại tệ. c. Kết quả: Chính sách tiền tệ năm 2010 chính phủ điều hành với mục đích ổn định kinh tế trong đó tỷ giá là tâm điểm quan trọng nhất việc điều chỉnh tăng tỷ giá đã ảnh hưởng rất lớn đến thị trường vàng làm cho giá vàng tăng đến mức cao,việc tăng tỷ giá giúp cho các doanh nghiệp thuận lợi trong xuất khẩu nhưng khó khăn trong việc nhập khẩu vì đồng tiền giảm giá ,gây tình trạng nhập nguyên liệu cho sản xuất với chi phí cao phần lớn nước ta là nước sản xuất mang tính gia công phụ thuộc vào thị trường nước ngoài rất lớn nên sản phẩm sản xuất ra sẽ định giá cao và điều này có thể gây ra lạm phát cao nguyên nhân là chi phí đẩy. Đồng thời tỷ giá tăng có thể ảnh hưởng đến khoảng nợ quốc gia tăng. 2. Kết quả chung: Những thành công Quá trình điều hành chính sách tài chính tiền tệ thời gian qua đã chứng tỏ được vai trò hết sức quan trọng của nó đối với nền kinh tế VN. Các công cụ được sử dụng tương đối linh hoạt, bám sát các mục tiêu đã đề ra trong từng thời kỳ, và vì vậy đã đạt được những thành công nhất định: - Đã chủ động kiểm soát và điều tiết tốc độ gia tăng tổng phương tiện thanh toán, thực hiện mục tiêu kiềm chế đẩy lùi lạm phát, ổn định giá trị tiền tệ, làm giảm đáng kể khối lượng tiền mặt trong lưu thông; - Kiểm soát được gia tăng khối lượng tín dụng đối với nền kinh tế; - Tốc độ tăng tổng phương tiện thanh toán hàng năm nhìn chung giữ ổn định: - Đã thực hiện tốt yêu cầu ổn định tỷ giá ngoại tệ, cải thiện cán cân thanh toán quốc tế, góp phần ổn định giá cả nói chung. 3. Tồn tại và nguyên nhân. Bên cạnh những thành công đạt được, điều hành chính sách tiền tệ ở VN vẫn còn một số bất cập: - Tạo nhiều rủi ro cho hệ thống NHTM trong thời gian qua, đặc biệt là rủi ro thanh khoản; suy giảm sự tương tác giữa các ngân hàng, nợ xấu có nguy cơ gia tăng; - Sự bất nhất trong việc vận hành chính sách tiền tệ của NHNN; - Việc thực thi chính sách tiền tệ còn bị động, phần lớn chạy theo sau khắc phục hậu quả đã xảy ra - Điều hành chính sách tỷ giá còn nhiều bất cập, nhiều khi gây căng thẳng trên thị trường ngoại hối. II. GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ TRONG THỜI GIAN TỚI. 1. Điều hành các công cụ chính sách tiền tệ Trong điều kiện nước ta hội nhập kinh tế quốc tế và nhất là trong bối cảnh kinh tế thế giới đang sụt giảm, thì việc tiếp tục điều hành các công cụ chính sách tiền tệ cần chủ động, linh hoạt; theo kịp sự phát triển của thị trường tiền tệ và trong khả năng kiểm soát tiền tệ là một trong các giải pháp để đạt được chính sách tiền tệ hiệu quả. Duy trì việc tự do hoá công cụ lãi suất. Để Ngân hàng Nhà nước (NHNN) thực sự là người cho vay cuối cùng trên thị trường liên ngân hàng, cần tiếp tục đổi mới cơ chế điều hành lãi suất theo hướng : sử dụng lãi suất tái chiết khấu như lãi suất sàn; lãi suất cho vay qua đêm và lãi suất tái cấp vốn làm lãi suất trần trên thị trường liên ngân hàng nhằm tác động đến việc huy động vốn và cho vay của các ngân hàng thương mại trên thị trường. Tiếp tục điều hành công cụ dự trữ bắt buộc một cách chủ động và linh hoạt theo diễn biến của thị trường nhằm kiểm soát tiền tệ; mặt khác tạo điều kiện cho các tổ chức tín dụng sử dụng vốn khả dụng linh hoạt và hiệu quả. Trong điều kiện kiềm chế lạm phát, trong năm 2007 và năm 2008 NHNN nâng tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tổ chức tín dụng từ 5%, lên đến 10% và 11% là cần thiết để chống lạm phát; ngược lại trong bối cảnh ngăn chặn nguy cơ sụt giảm nền kinh tế trong nước do ảnh hưởng của kinh tế thế giới, do đó cần giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc nhằm tạo điều kiện cho các tổ chức tín dụng nâng cao sử dụng vốn khả dụng. Đẩy mạnh việc đổi mới điều hành công cụ nghiệp vụ thị trường mở xem thị trường mở là công cụ được sử dụng rộng rãi nhằm duy trì lãi suất chủ đạo “lãi suất liên ngân hàng định hướng”; mở rộng việc kết nạp thành viên tham gia trên thị trường mở; đa dạng hoá hàng hoá giao dịch trên thị trường mở nhằm đáp ứng thanh khoản cho các tổ chức tín dụng. Tạo điều kiện và thúc đẩy sự phát triển của thị trường tiền tệ liên ngân hàng, thị trường đấu thầu tín phiếu kho bạc và thị trường mua bán lại giấy tờ có giá giữa các tổ chức tín dụng với nhau và giữa tổ chức tín dụng với khách hàng. Tiếp tục điều hành chính sách tỷ giá linh hoạt theo quan hệ cung cầu trên thị trường, trong mối quan hệ phối hợp với lãi suất, có sự kiểm soát của Nhà nước nhằm đảm bảo các cân đối vĩ mô : kiểm soát được lạm phát; kích thích xuất khẩu, kiểm soát nhập khẩu; khuyến khích đầu tư nước ngoài vào Việt Nam; không ảnh hưởng lớn đến việc doanh nghiệp vay nợ bằng ngoại tệ; tạo điều kiện quản lý và thu hút nguồn ngoại tệ vào hệ thống ngân hàng; nâng cao quỹ trữ ngoại tệ của Nhà nước. Đẩy mạnh tuyên truyền phổ biến cho các doanh nghiệp áp dụng các công cụ phòng ngừa, bảo hiểm rủi ro tỷ giá. 2. Nâng cao tính độc lập, trách nhiệm của NHNN Đây là một trong các điều kiện tiên quyết nhằm nâng cao hiệu quả điều hành chính sách tiền tệ của NHNN. Việc nâng cao tính độc lập, trách nhiệm cho NHNN phải thích ứng với mức độ hội nhập tài chính thế giới và phù hợp thể chế chính trị ở nước ta. Theo đó, cần sửa đổi, bổ sung Luật NHNN theo hướng trao thêm chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn cho NHNN trong xây dựng dự án chính sách tiền tệ; chủ động trong việc sắp xếp cơ cấu tổ chức và nhân sự; tự chủ về tài chính trong bồi dưỡng, đào tạo, đào tạo lại nhằm nâng cao trình độ cho đội ngũ cán bộ NHNN; có chế độ đãi ngộ hợp lý để khuyến khích thu hút nhân tài; hiện đại hoá công nghệ quản lý trong việc tổng hợp, thống kê, phân tích, dự báo ..phục vụ cho việc điều hành chính sách tiền tệ. 3. Đẩy mạnh sự phát triển của thị trường tiền tệ Tiếp tục tạo hàng hoá và phát triển nghiệp vụ trên thị trường tiền tệ; mở rộng thành viên tham gia thị trường; nâng cao vai trò điều tiết, hướng dẫn của NHNN trên thị trường tiền tệ; hoàn thiện hành lang pháp lý tạo điều kiện cho thị trường tiền tệ phát triển. Sự phát triển của thị trường tiền tệ sẽ là kênh dẫn có hiệu quả trong cơ chế truyền tải các tác động của chính sách tiền tệ đến nền kinh tế. 4. Sự phối hợp giữa chính sách tiền tệ với chính sách tài chính và một số chính sách kinh tế vĩ mô khác. Để nâng cao hiệu quả điều hành chính sách tiền tệ cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa chính sách tiền tệ với các chính sách kinh tế vĩ mô khác (chính sách tài chính, chính sách thu hút vốn đầu tư nước ngoài..). Trong điều kiện dòng vốn đầu tư nước ngoài chảy vào Việt Nam nhiều như một số năm trước đây (trong đó có dòng vốn ngắn hạn), nếu không kiểm soát tốt dòng vốn này, sẽ ảnh hưởng đến việc chống lạm phát. Do đó, cần có sự phối hợp chặt giữa chính sách tiền tệ với chính sách tài chính và chính sách thu hút vốn đầu tư nước ngoài : đánh thuế hoặc yêu cầu ký quỹ đối với dòng vốn ngắn hạn vào Việt Nam. Hiện nay trong bối cảnh kinh tế thế giới sụt giảm, thì việc điều hành chính sách tiền tệ trong quan hệ phối hợp chính sách tài chính nhằm mục tiêu góp phần ngăn chặn nguy cơ sụt giảm nền kinh tế trong nước, nhưng đồng thời kiểm soát được lạm phát. KẾT LUẬN Mặc dù trong khoảng thời gian 2005-2010 có những biến động rất lớn của tình hình kinh tế, chính trị thế giới ảnh hưởng trực tiếp đến Việt Nam nhưng Chính phủ, NHNN và các TCTD đã có những biện pháp kịp thời, sáng tạo đưa Việt Nam trở thành một trong những nước có tốc độ tăng trưởng khá trong khu vực và thế giới. Có được thành công trên là do NHNN đã sử dụng rất kịp thời, đúng đắn, quyết liệt các công cụ CSTT phù hợp với từng điều kiện của nền kinh tế trong từng thời kỳ. ‘‘Thắt chặt” khi nền kinh tế rơi vào tình trạng lạm phát cao và ‘‘nới lỏng” khi nền kinh tế rơi vào tình trạng suy thoái bởi khủng hoảng tài chính toàn cầu. Sự vận dụng chính sách tiền tệ của NHTW tốt hay xấu có ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển của nền kinh tế ,tuỳ theo mục tiêu của mỗi quốc gia và từng giai đoạn phát triển của đất nước mà NHTW mỗi nước điều chỉnh chính sách tiền tệ cho phù hợp. Hiện nay Việt Nam đang đứng trước nhiều thách thức: nền kinh tế Việt nam đang ở trong giai đoạn lạm phát gia tăng ,giá cả đắt đỏ,sự bất ổn định về chính trị của một số nước, đòi hỏi cần phải nâng cấp hệ thống ngân hàng, và đòi hỏi các NH sử dụng có hiệu quả hơn các công cụ của chính sách tiền tệ. Ngoài ra, thì cần phải lựa chọn đội ngũ nhân viên là những người có đủ đức độ và năng lực, đặc biệt là đối với các cán bộ lãnh đạo. Bên cạnh đó cần phải thưòng xyên nâng cấp về trình độ kinh tế thị trường và nghiệp vụ chuyên môn cho tất cả các cán bộ, nhân viên. Để tạo ra một hệ thống ngân hàng ngang tầm thê giới về cả trình độ lẫn sức vóc cạnh tranh, từ đó tạo tiền đề cho nền kinh tế phát triển hội nhập với nền kinh tế thê giới, và tạo ra một nền kinh tế phát triển bền vững . MỤC LỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Giáo trình Lý Thuyết Tài Chính Tiền Tệ 2. Báo PHÁT TRIỂN & HỘI NHẬP Số 3 - Tháng Hai 2010 3. Frederic S. Mishkin: “Tiền tệ, Ngân hàng và thị trường tài chính”NXB khoa học và kỹ thuật Hà nội - 1996 MỤC LỤC

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docchính sách tiền tệ 01.doc
Tài liệu liên quan