Đề tài Thực trạng tình hình giải quyết tranh chấp kinh tế bằng Toà án và một số giải pháp, kiến nghị

Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế quy định hai hình thức xét lại các bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật đó là thủ tục giám đốc thẩm và thủ tục tái thẩm. Tuy cùng xét lại các bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật trên cơ sở có kháng nghị của người có thẩm quyền nhưng giám đốc thẩm và tái thẩm là hai giai đoạn độc lập của tố tụng kinh tế. 6.5.1. Thủ tục giám đốc thẩm Giám đốc thẩm là một giai đoạn đặc biệt của tố tụng kinh tế. Trong đó Toà án cấp trên kiểm tra tính hợp pháp, tính có căn cứ đối với những bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Toà án cấp dưới trên cơ sở kháng nghị của người có thẩm quyền. Theo quy định của Luật tổ chức Toà án nhân dân, Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân và Điều 47 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế, những người sau đây có quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm: - Chánh án Toà án nhân dân tối cao, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao có quyền kháng nghị bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Toà án nhân dân địa phương.

doc61 trang | Chia sẻ: haianh_nguyen | Lượt xem: 1240 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng tình hình giải quyết tranh chấp kinh tế bằng Toà án và một số giải pháp, kiến nghị, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
lý và giải quyết phúc thẩm Số vụ thụ lý và giải quyết giám đốc thẩm, tái thẩm Ghi chú 6 tháng năm 1994 78 4 0 1995 453 49 10 1996 510 59 12 1997 630 71 13 1998 1.266 198 25 1999 1.280 206 27 Cộng 4.217 587 83 (Nguồn: Báo cáo tổng kết công tác Toà án năm 1994 - 1999) Đến nay, các Toà địa phương đã giải quyết xong cấp sơ thẩm 100% các vụ án đã thụ lý đến tháng 12/1999. Trong số đó đã hoà giải thành công 2.302 vụ bằng 54,6% số vụ án đã giải quyết, đưa ra xét xử 20,1% so với số vụ án đã giải quyết. Số còn lại là đình chỉ và tạm đình chỉ. Các Toà án nhân dân tỉnh giải quyết theo thủ tục phúc thẩm không nhiều chỉ có 12 vụ. Sở dĩ các Toà án cấp tỉnh ít phải giải quyết các vụ án kinh tế theo thủ tục phúc thẩm và giám đốc thẩm vì Toà án cấp huyện chỉ có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp hợp đồng kinh tế mà giá trị tranh chấp dưới 50 triệu đồng. Trong hoạt động kinh tế thì đây là những loại hợp đồng nhỏ, nếu có phát sinh tranh chấp các bên đương sự cũng rất dễ hoà giải hoặc thanh toán được với nhau, ít xảy ra kiện tụng. Hiện nay có nhiều Toà án nhân dân cấp huyện không thụ lý và giải quyết vụ án kinh tế. Các vụ án kinh tế hiện nay chủ yếu do Toà án nhân dân cấp tỉnh giải quyết theo trình tự sơ thẩm. Trong các năm từ 1994 - 1999 các Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao đã thụ lý 575 vụ. Đã giải quyết trong hạn luật định 316 vụ đạt tỷ lệ 54,9% số vụ thụ lý. Trong số đó đã xét xử 315/316 vụ và đã xử y án sơ thẩm 110 vụ (34,8%), sửa bản án sơ thẩm 10 vụ (32,1%), huỷ bản án sơ thẩm 75 vụ (24,1%), đình chỉ việc giải quyết đối với 29 vụ. Cùng thời gian trên, Uỷ ban thẩm phán Toà án nhân dân tối cao đã thụ lý 16 vụ, đã xét xử 12 vụ, đạt tỷ lệ 75%. Trong số đó sửa bản án 2 vụ, huỷ bản án 6 vụ (50%), y án phúc thẩm 4 vụ. Toà kinh tế Toà án nhân dân tối cao đã thụ lý 30 vụ, đã xét xử 29 vụ, đạt tỷ lệ 97%. Trong đó huỷ án 15 vụ, sửa bản án 6 vụ, y án phúc thẩm 8 vụ. Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao đã xét xử 4 vụ. Nếu tính tất cả các vụ án được giải quyết theo trình tự sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm của Toà án các cấp là 4.887 vụ (sơ thẩm: 4.217 vụ; phúc thẩm: 597 vụ; giám đốc thẩm, tái thẩm: 83 vụ) thì số vụ án bị kháng cáo, kháng nghị chiếm tỷ lệ 14%. Tình hình giải quyết tranh chấp kinh tế bằng Toà án nhân dân năm 2000 Trong năm 2000, các Toà án nhân dân địa phương đã thụ lý 859 vụ, số vụ án cũ còn lại là 101 vụ, tổng số vụ phải giải quyết trong năm là 960 vụ, đã giải quyết 859 vụ, đạt tỷ lệ là 89,4%. So với năm 1999, số vụ án mới thụ lý giảm 368 vụ. Trong số các vụ án mới thụ lý trong năm, Toà án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh có 257 vụ, chiếm 29,9% tổng số vụ án thụ lý mới của cả nước. Các Toà án nhân dân Thành phố Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng mỗi Toà thụ lý mới: Hà Nội 73 vụ, Hải Phòng 36 vụ, Đà Nẵng 22 vụ. Các Toà án nhân dân các tỉnh khác thụ lý mới từ 1 vụ đến 6 vụ. Một số Toà án nhân dân không thụ lý vụ án kinh tế nào như Toà án các tỉnh: Quảng Trị, Sơn La, Lai Châu, Lào Cai, Yên Bái, Bắc Cạn, Hà Nam, Hà Tĩnh. Các Toà án nhân dân cấp tỉnh giải quyết theo thủ tục phúc thẩm không nhiều, cả năm 2000 chỉ có 5 vụ. Các Toà án nhân dân cấp huyện trong cả nước chỉ thụ lý 74 vụ. Nguyên nhân chính dẫn tới việc các Toà án nhân dân cấp huyện ít hoặc không thụ lý giải quyết các vụ án kinh tế là do thẩm quyền giải quyết tranh chấp hợp đồng kinh tế của Toà án cấp huyện chỉ giới hạn giá trị tranh chấp dưới 50 triệu đồng. Đây là những hợp đồng nhỏ, rất ít gặp trong quan hệ kinh tế và nếu có phát sinh, các đương sự có thể thoả thuận, dàn xếp với nhau về các vấn đề tranh chấp. Mặt khác, các doanh nghiệp rất ngại kiện tụng tại Toà án vì lý do mặc cảm và sợ mất uy tín trên thương trường. Các vụ án kinh tế hiện nay chủ yếu vẫn do Toà án nhân dân cấp tỉnh giải quyết từ trình tự sơ thẩm. Trong năm 2000, các Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao đã thụ lý mới 124 vụ, số vụ án cũ còn lại là 64 vụ. Tổng số vụ án phải giải quyết là 188 vụ, đã giải quyết 124 vụ, đạt tỷ lệ 65,9%. Trong số các vụ án đã xét xử thì y án sơ thẩm 65 vụ bằng 52,4%, sửa bản án sơ thẩm 24 vụ bằng 19,3%, tạm đình chỉ việc giải quyết đối với 5 vụ bằng 4,08%, hoà giải thành 1 vụ và cho rút kháng cáo, kháng nghị 7 vụ. Toà kinh tế phải giải quyết 9 vụ, trong đó số thụ lý mới là 7 vụ và số vụ án cũ là 2 vụ. Trong số đó có 4 vụ do Viện kiểm sát nhân dân tối cao kháng nghị, đã xét xử 7 vụ và đã huỷ án cả 7 vụ, trong đó huỷ án để giao cho Toà án các cấp sơ thẩm xét xử lại là 6 vụ, huỷ và đình chỉ giải quyết vụ án 1 vụ. Uỷ ban thẩm phán Toà án nhân dân tối cao phải xét xử 20 vụ, trong đó có 14 vụ án mới thụ lý và 6 vụ án cũ còn lại. Trong số này có 4 vụ do Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao kháng nghị. Đã xét xử 14 vụ, trong đó bác kháng nghị và giữ nguyên bản án phúc thẩm 2 vụ, huỷ bản án phúc thẩm 8 vụ, đình chỉ giải quyết vụ án 1 vụ, sửa bản án phúc thẩm 3 vụ. Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao đã xét xử 1 vụ và giữ nguyên quyết định giám đốc thẩm của Uỷ ban thẩm phán Toà án nhân dân tối cao. Như vậy về cơ bản các vụ án kinh tế phải giải quyết theo trình tự giám đốc thẩm của Toà án nhân dân tối cao đã được giải quyết. So với năm 1999, năm 2000 các Toà án đã có nhiều cố gắng để khắc phục những thiếu sót đã được rút kinh nghiệm trong báo cáo tổng kết công tác ngành Toà án năm 1999. Chất lượng xét xử của các Toà án có tiến bộ hơn trước, việc giải quyết vụ án kinh tế đã nhanh hơn trước. Tuy nhiên trong công tác xét xử các vụ án kinh tế cũng vẫn còn có những thiếu sót, nhược điểm chính sau đây: Chưa nắm vững và nhận thức đầy đủ pháp luật kinh tế và các văn bản hướng dẫn thực hiện của Toà án nhân dân tối cao cũng như hướng dẫn tại thông tư liên ngành, thiếu sự so sánh, đối chiếu, tổng hợp giữa các tài liệu, chứng cứ nên không phát hiện được mâu thuẫn, do đó không đưa ra được những quyết định đúng. Ví dụ, như về vụ kiện giữa nguyên đơn là Công ty Vật tư tổng hợp Vĩnh Phúc và bị đơn là Công ty xây dụng số 34 Thanh Xuân - Hà Nội: Ngày 05/09/1998, ông Nguyễn Việt Trung là đội trưởng xây dựng số 2 Công ty xây dựng số 34 và Cửa hàng kim khí theo uỷ quyền của Công ty Vật tư tổng hợp Vĩnh Phúc đã ký hợp đồng số 19 mua bán sắt thép. Hợp đồng có xác nhận của Công ty xây dựng số 34. Đến hạn thanh toán, Công ty xây dựng số 34 không thanh toán được tiền hàng. Ngày 12/08/1999, Cửa hàng kim khí phát đơn khởi kiện Công ty xây dựng số 34. Ngày 29/02/2000 Toà án cấp sơ thẩm đã ra quyết định công nhận sự thoả thuận. Ông Trung sẽ thanh toán số tiền nợ gốc là 198 triệu đồng, trả trực tiếp hoặc thông qua Công ty xây dựng số 34. Sau đó, ông Trung khiếu nại không đồng ý trả nợ. Ngày 11/09/2000, Phó Chánh án Toà án nhân dân tối cao đã ra quyết định kháng nghị số 03 đề nghị Toà kinh tế Toà án nhân dân tối cao xử lý huỷ quyết định công nhận sự thoả thuận của Toà án cấp sơ thẩm để giải quyết lại vụ án vì: khi thụ lý, Toà án cấp sơ thẩm đã xác định đúng bị đơn là Công ty xây dựng số 34. Tại buổi hoà giải không thành ngày 16/11/1999, Toà án cũng đã triệu tập ông Nguyễn Xuân Bắc là Giám đốc Công ty xây dựng 34. Ngày 23/12/1999, Toà án lập biên bản làm việc (không phải là biên bản hoà giải) giữa ông Thắng - Phó giám đốc Công ty Vật tư tổng hợp Vĩnh Phúc và ông Nguyễn Việt Trung - đội trưởng đội 2 (không có uỷ quyền của Giám đốc). Việc các bên thoả thuận và Toà án công nhận ông Trung là người trả nợ là không đúng. Mặt khác Cửa hàng kim khí đứng đơn khởi kiện không có uỷ quyền của Công ty Vật tư tổng hợp Vĩnh Phúc cũng không đúng, lẽ ra Toà án phải trả lại đơn nhưng Toà án vẫn thụ lý. Trong hồ sơ cũng chưa thể hiện rõ địa vị pháp lý vủa Công ty xây dựng số 34. Như vậy về mặt tố tụng, quyết định công nhận sự thoả thuận của Toà án cấp sơ thẩm có nhiều sai sót. Ngày 20/10/2000, Toà kinh tế Toà án nhân dân tối cao đã chấp nhận kháng nghị của Phó Chánh án Toà án nhân dân tối cao, xử huỷ quyết định công nhận sự thoả thuận nêu trên của Toà án cấp sơ thẩm. Xác định sai thẩm quyền và nhẫm lẫn giữa quan hệ tranh chấp kinh tế và quan hệ tranh chấp tài sản. Ví dụ, vụ kiện giữa nguyên đơn là ông Đặng Xuân Đăng và bị đơn là Công ty TNHH Việt Quang do 6 thành viên sáng lập, trong đó có ông Nguyễn.Quang Minh. Ông Minh là thành viên của Công ty Việt Quang có cổ phần là 60 triệu đồng. Ông Minh nhượng lại cổ phần này cho ông Đăng không phải là thành viên của Công ty TNHH Việt Quang. Việc chuyển nhượng này chưa được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền xác nhận nên ông Đăng không phải là thành viên của Công ty Việt Quang. Ngày 25/11/1999, ông Đặng Xuân Đăng khởi kiện tại Toà án nhân dân huyện Tân Phú đòi Công ty Việt Quang số tiền là 50 triệu đồng. Tại bản án số 01/KTST ngày 12/05/1999, Toà án nhân dân huyện Tân Phú đã xử buộc Công ty Việt Quang phải trả cho ông Đăng 50 triệu đồng. Công ty Việt Quang kháng cáo. Tại bản án số 01/KTPT ngày 08/10/1999 Toà án nhân dân tỉnh Đồng Nai đã xử y án sơ thẩm về nội dung, chỉ sửa về án phí. Ngày 13/03/2000, tại quyết định số 01 Phó Chánh án Toà án nhân dân tối cao đã kháng nghị bản án phúc thẩm nói trên, đề nghị Toà kinh tế Toà án nhân dân tối cao xử huỷ bản án sơ thẩm và bản án phúc thẩm nói trên để giao hồ sơ vụ án cho Toà án nhân dân tỉnh Đồng Nai giải quyết lại vụ án. Theo Khoản 1, Điều 13 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế thì tranh chấp giữa thành viên công ty với thành viên công ty không thuộc thẩm quyền của Toà án nhân dân cấp huyện nên Toà án nhân dân huyện Tân Phú không có thẩm quyền giải quyết. Mặt khác, tuy ông Minh có nhượng lại cổ phần của mình cho ông Đăng nhưng việc chuyển nhượng này không đúng quy định của pháp luật bởi sự thay đổi này phải được Sở kế hoạch đầu tư ghi vào giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh. Vì vậy ông Đăng chưa có tư cách là thành viên để khởi kiện Công ty. Ông Đăng đưa tiền cho ông Mình thì ông Đăng có quyền khởi kiện dân sự đòi ông Minh hoàn trả lại số tiền và đây là 1 vụ kiện phải được giải quyết bằng tố tụng dân sự. Ngày 05/05/2000 Toà kinh tế Toà án nhân dân tối cao khi xét xử giám đốc thẩm đã chấp nhận kháng nghị của Phó Chánh án Toà án nhân dân tối cao 3. Một số vấn đề về hoạt động của Toà án nhân dân trong việc giải quyết tranh chấp kinh tế Kết quả hoạt động của các Toà kinh tế trong 7 năm qua cho thấy việc thành lập Toà kinh tế, một cơ quan tài phán tư pháp mới trong nền kinh tế thị trường là một công việc mới mẻ, còn gặp không ít khó khăn về cơ sở vật chất, về bộ máy tổ chức đội ngũ thẩm phán kinh tế cũng như những văn bản pháp luật về nội dung và tố tụng kinh tế. Tuy nhiên các Toà án đã hoạt động đạt được những kết quả nhất định, khẳng định chủ trương đúng đắn của việc thành lập Toà kinh tế ở Việt Nam, đáp ứng yêu cầu công cuộc cải cách các cơ quan tài phán, cải cách tư pháp và cải cách bộ máy Nhà nước. Đa số các vụ tranh chấp kinh tế thuộc chức năng và thẩm quyền của Toà kinh tế đã được thụ lý và giải quyết nhanh chóng, đúng luật định, đáp ứng yêu cầu của các nhà doanh nghiệp. Các quyết định của bản án đảm bảo đúng pháp luật, bảo vệ và khôi phục quyền lợi về kinh tế cho bên bị vi phạm. Do đó, bước đầu hoạt động của Toà kinh tế đã tạo được niềm tin cho các nhà doanh nghiệp vào tính công lý và công bằng xã hội. Yêu cầu chính đáng của các nhà doanh nghiệp là mọi tranh chấp kinh tế sẽ được Toà kinh tế giải quyết nhân danh Nhà nước và quyết định của Toà án được thực hiện bằng sức mạnh cưỡng chế của Nhà nước, Toà kinh tế thực sự trở thành biểu tượng của công lý, một chỗ dựa về mặt pháp lý cho các nhà doanh nghiệp khi tiến hành hoạt động sản xuất, kinh doanh trong điều kiện kinh tế thị trường. Điều đó khác với việc giải quyết tranh chấp kinh tế bằng các cơ quan trọng tài kinh tế Nhà nước trước đây như việc giải quyết thiếu triệt để, chủ yếu là những khuyến nghị, thậm chí khi có các quyết định của trọng tài nhưng không được thực thi trong cuộc sống. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế xã hội, nhiều tranh chấp kinh tế mới nảy sinh không thuộc thẩm quyền giải quyết của trọng tài kinh tế Nhà nước trước đây. Do đó chúng không được hoặc có giải quyết nhưng cũng không triệt để và không đúng với yêu cầu công việc, đúng với các phương thức giải quyết như các tranh chấp trong quá trình thành lập, hoạt động, giải thể doanh nghiệp. Nhưng hiện nay các tranh chấp này đã có nơi để tiến hành giải quyết đó là Toà kinh tế và điều này đã đáp ứng kịp thời những đòi hỏi mới của nền kinh tế thị trường. Đây chính là một quá trình tư pháp hoá việc giải quyết các tranh chấp và vi phạm pháp luật trong xã hội thay thế cho trình tự hành chính giải quyết các tranh chấp, các vi phạm bằng mệnh lệnh của cơ quan hành chính, góp phần dân chủ hoá đời sống xã hội và thực hiện nguyên tắc bình đẳng giữa các thành phần kinh tế. Việc giải quyết tranh chấp kinh tế bằng con đường Toà án đã góp phần nâng cao ý thức tôn trọng pháp luật cho các nhà doanh nghiệp, giúp họ khắc phục những thiếu sót, sơ hở trong quá trình hoạt động kinh tế. Đồng thời việc ra các bản án kinh tế đúng pháp luật, nghiêm minh cũng có tác dụng răn đe góp phần lành mạnh hoá trật tự pháp luật trong đời sống kinh tế xã hội. Nhìn chung số vụ án được Toà án giải quyết trong 7 năm qua so với các vụ tranh chấp kinh tế trên thực tế ở mức thấp. Có thể nhận thấy điều đó qua số vụ án được trọng tài kinh tế Nhà nước giải quyết trong 4 năm: năm 1990: 6.240 vụ; năm 1991: 4.058 vụ; năm 1992: 1648 vụ; năm 1993: 1465 vụ. Nguyên nhân tình trạng này có thể là do các doanh nghiệp thời kỳ đầu chưa quen với việc đưa vụ kiện ra Toà án, họ sợ mất uy tín, sợ ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh, bên cạnh đó việc khởi kiện ra Toà án thường kéo dài, thủ tục giải quyết rườm rà, án phí cao... do đó xu hướng chung của các doanh nghiệp là khi có tranh chấp xảy ra họ thường tự thương lượng với nhau hoặc cậy nhờ đến trọng tài kinh tế. Về chất lượng xét xử Theo báo cáo của Chánh án Toà án nhân dân tối cao và Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao thì số lượng án dân sự, kinh tế và lao động được giải quyết tăng lên nhưng chất lượng xét xử nhìn chung là còn thấp. Đáng lo ngại là chất lượng xét xử của các án kinh tế. Hiện nay các vụ án kinh tế đang có chiều hướng tăng lên và chủ yếu do Toà án cấp tỉnh xét xử sơ thẩm nhưng số bản án sơ thẩm bị Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao huỷ và sửa trong năm 1999 là khá cao (61,4%). Do chất lượng xét xử và kiểm sát xét xử các vụ án kinh tế còn nhiều hạn chế nên yêu cầu bức xúc là phải nâng cao hơn nữa chất lượng xét xử và kiểm sát xét xử theo thủ tục giám đốc thẩm. Thủ tục giám đốc thẩm là một thủ tục đặc biệt nhằm xét lại các bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật nên các quyết định kháng nghị giám đốc thẩm phải thật đúng đắn và chính xác. Quá trình giải quyết các vụ án kinh tế còn một số thiếu sót như: Nghiên cứu chưa sâu, phân tích đánh giá chứng cứ không đúng dẫn đến công nhận những thoả thuận hoặc hợp đồng không hợp pháp. Ví dụ về vụ tranh chấp hợp đồng thuê địa điểm kinh doanh giữa nguyên đơn là Công ty xuất nhập khẩu rau quả III và bị đơn là Công ty Trách nhiệm hữu hạn Đồng Tiến. Theo hợp đồng thời hạn thuê là 5 năm, giá thuê là 3000$/tháng. Do Công ty Trách nhiệm hữu hạn Đồng Tiến vi phạm nghĩa vụ trả tiền nên Công ty xuất nhập khẩu rau quả III khởi kiện. Toà án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã tiến hành hoà giải và ra quyết định công nhận sự thoả thuận số 23 - 29/01/1999. Sai sót trong việc giải quyết vụ án này là: + Công ty xuất nhập khẩu rau quả III không có chức năng kinh doanh cho thuê nhà, đã cho thuê nhà khi chưa được cơ quan có thẩm quyền cho phép. + Không được thanh toán bằng ngoại tệ. + Đại diện Công ty xuất nhập khẩu rau quả III tham gia ký kết hợp đồng chỉ là cấp phó và không có giấy uỷ quyền. + Hợp đồng không được công chứng theo quyết định của pháp luật. Với những vi phạm đó thì hợp đồng thuê nhà giữa hai bên đương sự là hợp đồng vô hiệu toàn bộ. Toà án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh công nhận sự thoả thuận của các bên, tức là đã công nhận hợp đồng kinh tế đó hợp pháp là không đúng. Quyết định này đã bị Phó Chánh án Toà án nhân dân tối cao kháng nghị và Toà kinh tế Toà án nhân dân tối cao huỷ quyết định này. Ra quyết định không đúng với thẩm quyền Ví dụ: 3 tranh chấp hợp đồng tín dụng giữa nguyên đơn là Ngân hàng thương mại và phát triển nhà Thành phố Hồ Chí Minh với 3 bị đơn là Công ty Trách nhiệm hữu hạn Vạn Thuận Hưng, Công ty Trách nhiệm hữu hạn Vạn Thắng, Công ty Trách nhiệm hữu hạn An Đông, người có nghĩa vụ liên quan là Ngân hàng thương mại cổ phần Việt Hoa. Hồ sơ của 3 vụ án nói trên đều thể hiện trách của Ngân hàng thương mại cổ phần Việt Hoa trong việc thay thế người vay trả nợ cho Ngân hàng thương mại cổ phần phát triển nhà. Toà án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã xác định đúng quan hệ pháp luật và đã tiến hành xét xử sơ thẩm các vụ án kinh tế nêu trên. Khi có kháng cáo, Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xác định đúng quan hệ pháp lý trong các vụ án trên phải giải quyết bằng vụ án kinh tế, nhưng lại nhận định có dấu hiệu hình sự trong mối quan hệ kinh tế nêu trên và đã quyết định huỷ cả 3 vụ án giao hồ sơ về Toà án cấp sơ thẩm điều tra làm rõ trách nhiệm hình sự trong quan hệ tín dụng Ngân hàng. Căn cứ vào Luật tổ chức Toà án và Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế thì Toà án không có chức năng điều tra về hình sự, thế nhưng Toà án cấp phúc thẩm lại buộc Toà án cấp sơ thẩm điều tra làm rõ trách nhiệm hình sự của các đương sự. Do sai lầm đó mà cả 3 bản án phúc thẩm đều đã bị Chánh án Toà án nhân dân tối cao kháng nghị và Uỷ ban thẩm phán Toà án nhân dân tối cao đã huỷ cả 3 bản án phúc thẩm để Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại Thành phố Hồ Chí Minh giải quyết lại theo thủ tục chung. Một thiếu sót có tính phổ biến ở cả Toà án cấp sơ thẩm và Toà án cấp phúc thẩm là chưa chú ý nghiên cứu, đối chiếu các văn bản hướng dẫn và các Luật chuyên ngành. Nên đã vận dụng thời hạn khởi kiện 6 tháng theo quy định của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế cho các Hợp đồng tín dụng, Thương mại, Hàng hải trong khi các luật chuyên ngành này lại quy định thời hạn khiếu nại, khởi kiện khác với Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế. Chính vì vậy, đã có những quyết định đình chỉ việc giải quyết vụ án kinh tế trong những trường hợp này là không đúng. Không cẩn thận, thiếu kiểm tra để nhầm lẫn dẫn đến vi phạm Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế. Ví dụ: Cuối năm 1998, Toà án nhân dân thành phố Hà Nội thụ lý 4 vụ án tranh chấp Hợp đống mua bán ô tô giữa nguyên đơn là Công ty liên doanh ôtô Việt Nam- Daewoo và bị đơn là Công ty vận chuyển khách du lịch và Taxi. Trong quá trình giải quyết Toà án đã tổ chức hoà giải. Toà án thành phố Hà Nội đã xác định bị đơn là Tổng công ty xây dựng công trình giao thông 8 (Doanh nghiệp có tư cách pháp nhân). Nhưng khi ban hành quyết định công nhận sự thoả thuận của các đương sự, bị đơn lại là Công ty vận chuyển khách du lịch và Taxi (Một đơn vị thành viên không có tư cách pháp nhân thuộc Tổng công ty xây dựng công trình giao thông 8). Vì vậy đã vi phạm Điều 20, Điều 36 - Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế đồng thời gây khó khăn cho việc thi hành án. Toà án nhân dân tối cao đã xết xử theo trình tự giám đốc thẩm, huỷ (cả 4) bản án nói trên, giao hồ sơ cho Toà án nhân dân thành phố Hà Nội giải quyết lại theo thủ tục chung. Nguyên nhân của những thiếu sót trên là: Do trình độ khả năng của thẩm phán và cán bộ nghiên cứu pháp luật còn chưa đáp ứng được so với đòi hỏi của thực tiễn. Thiếu sự tận tâm tận lực đề cao trách nhiệm trong giải quyết công việc nên đã có những chứng cứ đã có trong hồ sơ nhưng không phát hiện ra, dẫn đến nhận định không đúng với sự thật khách quan. Hệ thống pháp luật kinh tế của nước ta chưa hoàn chỉnh. Các hoạt động kinh tế phụ thuộc rất nhiều vào các văn bản hướng dẫn dưới luật. Các văn bản hướng dẫn thường chậm, lại có trường hợp chưa cụ thể, chồng chéo rất khó vận dụng hoặc không còn phù hợp với thực tiễn. Một trong những nguyên nhân làm cho công tác xét xử các vụ án kinh tế gặp nhiều vướng mắc do quy định của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế còn có những điểm không phù hợp với thực tiễn như vấn đề thời hạn khởi kiện, vấn đề hợp đồng bảo hiểm kinh tế, vấn đề vụ án kinh tế đã đình chỉ vì lý do tố tụng nhưng chưa giải quyết về nội dung có được khởi kiện hay không... Các Toà án địa phương còn thiếu thốn về tài liệu pháp luật về kinh tế để cung cấp cho các thẩm phán. Chương III Một số giải pháp kiến nghị về giải quyết tranh chấp kinh tế bằng Toà án nhân dân ở Việt Nam Công tác giải quyết tranh chấp kinh tế bằng Toà án nhân dân trong điều kiện kinh tế thị trường với việc mở rộng sản xuất kinh doanh có một ý nghĩa hết sức quan trọng, nó tạo ra sự bình đẳng trên cơ sở pháp luật để các doanh nghiệp yên tâm, đầu tư vào sản xuất kinh doanh và tin tưởng vào sự bảo vệ bằng pháp luật của Nhà nước. Từ việc nghiên cứu thực trạng tình hình giải quyết tranh chấp kinh tế bằng Toà án trong những năm vừa qua chúng tôi mạnh dạn đề xuất một số giải pháp, kiến nghị sau đây góp phần nâng cao chất lượng giải quyết tranh chấp kinh tế trong giai đoạn hiện nay. Các giải pháp Về phương diện pháp luật Mở rộng thẩm quyền giải quyết tranh chấp kinh tế của Toà án nhân dân Toà án kinh tế phải có thẩm quyền giải quyết tất cả những tranh chấp phát sinh từ hợp đồng giữa các chủ thể với nhau khi ít nhất một bên tham gia quan hệ hợp đồng có mục đích kinh doanh. Mở rộng thẩm quyền giải quyết tranh chấp kinh tế cho Toà án nhân dân cấp huyện theo hướng tất cả tranh chấp kinh tế đều có thể giải quyết ở Toà án cấp huyện trừ trường hợp tranh chấp kinh tế có nhân tố nước ngoài. Theo phân định thẩm quyền như hiện nay,Toà án nhân dân cấp tỉnh và Toà án nhân dân tối cao đang phải tập trung phần lớn thời gian và đội ngũ cán bộ vào việc xét xử phúc thẩm ( với tư cách là một cấp xét xử) ít có điều kiện để giám đốc thẩm việc xét xử của các Toà án cấp dưới thực hành quyền giám đốc thẩm, tái thẩm. Thủ tục giám đốc thẩm ở cấp Toà án nhân dân tối cao cũng có đến 3 cấp giám đốc thẩm gây rất nhiêù trở ngại về mặt tố tụng, kéo dài thời gian giải quyết án, không đáp ứng được yêu cầu giải quyết nhanh chóng, kịp thời các vụ án kinh tế (Điều 78, Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế có quy định thẩm quyền giám đốc thẩm ở cấp Toà án nhân dân tối cao, Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao). Toà kinh tế Toà án nhân dân cấp tỉnh cũng được pháp luật về tố tụng kinh tế giao đủ các thẩm quyền từ sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm đến tái thẩm tất cả các vụ án kinh tế. Tình trạng trên dẫn đến công tác xét xử của Toà án cấp tỉnh rất nặng, tập trung nhiều vụ việc. Từ nhận định nêu trên, cần có sự điều chỉnh lại thẩm quyền xét xử giữa Toà án các cấp theo hướng “ tăng thẩm quyền xét xử cho Toà án nhân dân cấp huyện, quận theo hướng: việc xét xử sơ thẩm được thực hiện chủ yếu ở Toà án cấp này. Toà án cấp tỉnh chủ yếu xét xử phúc thẩm, Toà án nhân dân tối cao chủ yếu xét xử giám đốc thẩm, tổng kết kinh nghiệm xét xử, hướng dẫn Toà án nhân dân cấp địa phương thực hiện xét xử thống nhất theo pháp luật...” (Văn kiện Hội nghị lần thứ 8 Ban chấp hành Trung ương khoá VII). Chủ trương điều chỉnh lại thẩm quyền giữa Toà án các cấp tiếp tục được khẳng định trong Báo cáo chính trị tại Đại hội Đảng lần thứ VIII. “Củng cố và kiện toàn bộ máy các cơ quan tư pháp. Phân định lại thẩm quyền xét xử của Toà án nhân dân, từng bước mở rộng thẩm quyền xét xử sơ thẩm cho Toà án nhân dân cấp huyện”. Để thực hiện chủ trương nêu trên, Nhà nước cần có kế hoạch từng bước kiện toàn và nâng cao năng lực hoạt động cho bộ máy Toà án nhân dân cấp huyện bằng các biện pháp như: tăng cường đội ngũ thẩm phán, nâng cao năng lực, trình độ chuyên môn, mở rộng thẩm quyền xét xử của Toà án cấp huyện. Trong lĩnh vực giải quyết án kinh tế, cần phải mở rộng quyền của Toà án cấp huyện, ví dụ như quy định giá trị tranh chấp kinh tế dưới 50 triệu đồng thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án cấp huyện (Khoản 1, Điều13 Pháp luật thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế) là không phù hợp, làm hạn chế số vụ việc thuộc thẩm quyền của Toà án cấp huyện. Việc tổng kết các vụ tranh chấp kinh tế mà Toà án nhân dân đã giải quyết trong 7 năm qua cho thâý: hầu hết giá trị tranh chấp trên 50 triệu đồng. Do đó, việc quy định tại Khoản 1 Điều 13 pháp luật thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế lấy giá trị tranh chấp kinh tế làm căn cứ, phân định thẩm quyền là không phù hợp. Bởi lẽ, việc các nhà doanh nghiệp quyết định có đưa vụ kiện ra Toà án để giải quyết hay không sẽ phụ thuộc vào nhiều yếu tố như việc giữ uy tín với bạn hàng, giữ mối làm ăn... trong đó giá trị tranh chấp lớn hay nhỏ cũng được coi là một yếu tố quan trọng. Trong hoạt động sản xuất kinh doanh hiện nay, việc thua lỗ, mất mát từ 50-100 triệu được các nhà doanh nghiệp coi là những “con số rủi ro được phép”. Sửa đổi, bổ sung về Pháp luật hợp đồng kinh tế Hình thức văn bản của hợp đồng kinh tế Theo Điều 1 và Điều 11- Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế giải quyết về hình thức hợp đồng kinh tế: “ Hợp đồng kinh tế được ký kết bằng văn bản, tài liệu giao dịch: công văn, điện báo, đơn đặt hàng, đơn chào hàng”. Trong nền kinh tế thị trường, đặc tính cơ bản của nó là tính năng động, linh hoạt và chớp thời cơ, đó cũng là những yếu tố quyết định sự thành bại của doanh nghiệp. Vì vậy mà việc quy định hình thức hợp đồng kinh tế như trên phải chăng là quá cứng nhắc và bất cập. Mặt khác trong điều kiện hiện nay khi mà mạng lưới thông tin phát triển rộng khắp, việc làm ăn trao đổi thông tin giữa các doanh nghiệp được tiến hành nhanh chóng thuận lợi thông qua fax, thư điện tử, telex thì việc bắt buộc hợp đồng kinh tế phải được lập thành văn bản nhiều khi làm hạn chế tính năng động, hiệu quả cũng như làm mất thời cơ trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Để đảm bảo thuận lợi cho các chủ thể trong hoạt động kinh tế nên chăng cần sửa đổi, bổ sung hình thức của hợp đồng kinh tế như sau: hợp đồng kinh tế có thể được ký kết bằng một trong các hình thức : Văn bản Tài liệu giao dịch: công văn, điện báo, đơn chào hàng, đơn đặt hàng, hoá đơn mua hàng và các tài liệu khác có giá trị pháp lý như văn bản hợp đồng kinh tế. Telex, Fax, thư điện tử, các hình thức thông tin điện tử khác có sự đảm bảo về mặt kỹ thuật hoặc thực tiễn để xác định được các bên tham gia ký kết. Chủ thể của hợp đồng kinh tế Điều 2, Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế quy định: Hợp đồng kinh tế được ký kết giữa các bên sau đây: pháp nhân với pháp nhân; pháp nhân với cá nhân có đăng ký kinh doanh. Như vậy bắt buộc một bên chủ thể hợp đồng kinh tế phải là pháp nhân. Theo công văn số 11 KHXX của toà án nhân dân tối cao thì hợp đồng kinh tế được ký kết giữa các doanh nghiệp tư nhân với nhau nếu có tranh chấp sẽ giải quyết theo thủ tục giải quyết các vụ án dân sự. Trong điều kiện nền kinh tế nước ta, các chủ thể của hoạt động kinh tế chiếm phần lớn là các doanh nghiệp tư nhân và cá nhân có đăng ký kinh doanh, giữa họ có nhiều hợp đồng mang mục đích sản xuất kinh doanh. Doanh nghiệp tư nhân là loại hình kinh tế thích hợp với nền sản xuất vừa và nhỏ như chúng ta hiện nay. Vì lẽ đó khi có tranh chấp kinh tế phát sinh thì họ cần phải được bảo vệ trong quan hệ pháp luật hợp đồng kinh tế. Vì vậy cần mở rộng hơn về chủ thể của hợp đồng kinh tế bao gồm: + Pháp nhân + Cá nhân có đăng ký kinh doanh + Công ty hợp danh Với việc quy định này sẽ tạo ra sự bình đẳng cho các chủ thể kinh tế ký kết hợp đồng có mục đích kinh doanh trước pháp luật. Các doanh nghiệp tư nhân, cá nhân có đăng ký kinh doanh khi có tranh chấp về lợi ích kinh tế phải được giải quyết theo thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế. Hợp đồng vô hiệu Hiện nay phần lớn các tranh chấp kinh tế do Toà án giải quyết là tranh chấp hợp đồng kinh tế. Các hợp đồng được ký kết nếu rơi vào trong các trường hợp được quy định tại Điều 8, Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế thì bị coi là vô hiệu toàn bộ. Theo đó, hợp đồng này sẽ không làm phát sinh quyền và nghĩa vụ ràng buộc các bên ký kết và đương nhiên không có sự vi phạm để truy xét trách nhiệm tài sản. Trong trường hợp này, Toà án tuyên bố hợp đồng kinh tế vô hiệu toàn bộ và xử lý về tài sản. Từ thực tiễn giải quyết tranh chấp hợp đồng kinh tế dễ nhận thấy chế định hợp đồng kinh tế vô hiệu còn bộc lộ nhiều hạn chế thiếu sót: Thứ nhất: các văn bản pháp luật về Hợp đồng kinh tế chưa quy định các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng kinh tế, trong khi các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng là cơ sở không thể thiếu để quy định sự vô hiệu của hợp đồng kinh tế và xử lý hợp đồng kinh tế vô hiệu. Thứ hai: quy định một hợp đồng kinh tế bị coi là vô hiệu toàn bộ khi nội dung của hợp đồng kinh tế vi phạm điều cấm của pháp luật là qúa rộng, chỉ nên nói đến những điều khoản chủ yếu của hợp đồng vi phạm điều cấm của pháp luật Thứ ba: quy định một trong các bên ký kết hợp đồng kinh tế không có đăng ký kinh doanh theo quy đinh của pháp luật để thực hiện công việc đã thoả thuận trong hợp đồng là căn cứ xác định hợp đồng kinh tế vô hiệu là không phù hợp trong điều kiện kinh tế thị trường, chỉ nên coi đây là điều kiện để xác định chủ thể của hợp đồng kinh tế. Thứ tư: cụm từ “hành vi lừa đảo” dùng không chính xác khi nói về điều kiện vô hiệu của hợp đồng. Thứ năm: các quy định về xử lý hợp đồng vô hiệu còn quá chung chung khó có thể đem áp dụng đối với việc xử lý hợp đồng kinh tế trong lĩnh vực xây dựng cơ bản và vận chuyển hàng hoá bị tuyên vô hiệu. Thứ sáu: quy định thiệt hại phát sinh các bên phải chịu là không hợp lý và công bằng, nên quy định trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho bên có lỗi. Thứ bảy: Pháp lệnh hợp đồng kinh tế chưa phân biệt hợp đồng vô hiệu tuyệt đối và hợp đồng vô hiệu tương đối, trong lúc đó sự phân biệt này là cần thiết để từ đó xử lý đối với mỗi loại hợp đồng vô hiệu khách quan và công bằng hơn (chẳng hạn hợp đồng vô hiệu tương đối chỉ có thể bị tuyên vô hiệu theo yêu cầu các bên tham gia hợp đồng). Hoàn thiện về pháp luật tố tụng kinh tế Pháp điển hóa tố tụng kinh tế tại Toà án Từ tình hình thực tiễn hoạt động của Toà kinh tế trong thời gian qua, trong quá trình cải cách tư pháp ở nước ta đã và đang đi vào chiều rộng lẫn chiều sâu. Việc hoàn thiện và bổ sung các quy định về tố tụng kinh tế cũng phải được xác định trong chủ trương chung về cải cách tư pháp, từng bước hình thành Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Do những điều kiện lịch sử, hệ thống pháp luật nước ta còn trong tình trạng thiếu đồng bộ chồng chéo dẫn đến việc kém phát huy hiệu lực trong cuộc sống. Các Nghị quyết của Đảng và pháp luật của Nhà nước đã khẳng định sự cần thiết từng bước khắc phục tình trạng nêu trên. “ Hệ thống pháp luật mà chúng ta cần xây dựng trong những năm trước mắt phải là một hệ thống đồng bộ, nhất quán năng động, thể chế hoá được chủ trương đường lối đổi mới của Đảng và Nhà nước trên tất cả mọi lĩnh vực đời sống xã hội, thực sự có tác dụng thúc đẩy, từng bước hình thành ở nước ta nền kinh tế thị trường”. Với những quan điểm chỉ đạo của Đảng và Nhà nước về công tác xây dựng pháp luật như trên, theo chúng tôi cần xây dựng thống nhất các quy định về thủ tục tố tụng dân sự, kinh tế, lao động vào một bộ luật tố tụng chung. Việc đặt ra vấn đề thống nhất ba loại tố tụng: Dân sự, Kinh tế, Lao động vào một bộ luật tố tụng chung trong điều kiện hiện nay là hoàn toàn có cơ sở. Trong chương trình làm luật của Quốc hội khoá IX đã đưa chương trình xây dựng Bộ luật tố tụng dân sự vào kế hoạch. Thông qua nhiều cuộc hội thảo của Ban soạn thảo Bộ luật tố tụng dân sự, đa số các ý kiến đều cho rằng sau khi Nhà nước ban hành Bộ luật dân sự và thành lập các Toà chuyên trách mới, việc thống nhất ba loại tố tụng kinh tế, lao động, dân sự vào một Bộ luật tố tụng dân sự là cần thiết. Sửa đổi, bổ sung một số nội dung của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế: Làm rõ hơn thẩm quyền của Toà Kinh tế theo vụ việc và theo sự lựa chọn của nguyên đơn. Thẩm quyền theo vụ việc: Khoản 1 Điều 12 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế quy định: Toà án có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp về hợp đồng kinh tế giữa pháp nhân với pháp nhân, giữa pháp nhân với cá nhân có đăng ký kinh doanh. Theo đó để xác định thẩm quyền cho Toà kinh tế trong việc giải quyết tranh chấp hợp đồng, trước hết phải xem hợp đồng phát sinh tranh chấp đó có phải là hợp đồng kinh tế hay không? Căn cứ vào Điều 1, Điều 2 Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế, chúng ta sử dụng ba dấu hiệu để nhận biết một hợp đồng là hợp đồng kinh tế. Đó là chủ thể hợp đồng, hình thức và mục đích của hợp đồng. Một hợp đồng được coi là hợp đồng kinh tế khi thoả mãn ba dấu hiệu trên. Nghe qua có vẻ đơn giản và rõ ràng nhưng thực tế việc xác định nó lại rất khó khăn và hay nhầm lẫn. Thế nào là “ mục đích kinh doanh”? Những hợp đồng ký kết phục vụ một cách gián tiếp cho hợp đồng kinh doanh (hợp đồng thuê trụ sở giao dịch) có được coi là hợp đồng có mục đích kinh doanh hay không? Nói đến hợp đồng là nói đến nhiều bên, vậy “mục đích kinh doanh” có phải là dấu hiệu bắt buộc cho các bên chủ thể khi tham gia hợp đồng không? Và làm thế nào để biết được mục đích hợp đồng là kinh doanh hay tiêu dùng. Vậy để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các chủ thể khi tham gia vào hoạt động kinh doanh, nếu có tranh chấp kinh tế phát sinh nên quy định theo hướng mở rộng thẩm quyền giải quyết các vụ án kinh tế cho Toà án. Toà án kinh tế phải có thẩm quyền giải quyết tất cả các tranh chấp phát sinh từ hợp đồng giữa các chủ thể kinh doanh với nhau, khi ít nhất một bên tham gia quan hệ hợp dồng có mục đích kinh doanh. Ngoài ra, khi nền kinh tế thị trường phát triển, xuất hiện hàng loạt phát sinh tranh chấp kinh tế mới như: tranh chấp về hoạt động quảng cáo, cạnh tranh... thì những tranh chấp này nên quy định cho các Toà kinh tế thẩm quyền giải quyết. Một vấn đề khác liên quan đến thẩm quyền giải quyết tranh chấp kinh tế của Toà kinh tế đó là: Những tranh chấp kinh tế phát sinh tại Việt Nam do việc ký kết và thực hiện hợp đồng giữa pháp nhân Việt Nam với các tổ chức, cá nhân nước ngoài tại Việt Nam (Điều 87 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế, Điều 43 Pháp lệnh hợp đồng kinh tế) thì thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà kinh tế và tuân theo Pháp lệnh thủ tục giải quyết cá vụ án kinh tế. Nhưng nếu những tranh chấp kinh tế phát sinh tại Việt Nam mà một hoặc các bên là tổ chức cá nhân nước ngoài không thường trú tại Việt Nam hoặc không có trụ sở giao dịch tại Việt Nam thì có được giải quyết tại Toà kinh tế theo quy định tại Điều 87 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế hay không? Hay tranh chấp đó không phải là tranh chấp phát sinh từ hợp đồng kinh tế theo quy định tại Điều 43 Pháp lệnh hợp đồng kinh tế. Với những trường hợp như vậy, chúng ta nên quy định cụ thể hơn trong Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế nếu Pháp lệnh này được sửa đổi. Hoặc phải có văn bản hướng dẫn chi tiết giúp cho hoạt động của Toà kinh tế tránh được những khó khăn vướng mắc trong quá trình giải quyết tranh chấp kinh tế, một khi những tranh chấp này phát sinh trên thực tiễn. Thẩm quyền theo sự lựa chọn của nguyên đơn Thẩm quyền này của Toà án được qui định ở Điều 15 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế. Khoản 3 Điều 15 qui định: “ Nếu vụ án phát sinh do vi phạm hợp đồng kinh tế thì nguyên đơn có thể yêu cầu Toà án nơi thực hiện hợp đồng giải quyết”. Theo chúng tôi đây là nội dung khó thực hiện và áp dụng.Trên thực tế hiểu thế nào là ”nơi thực hiện hợp đồng” cũng rất khó khăn. Đó có thể là nơi nguyên đơn hoặc bị đơn có trụ sở, chi nhánh... hoặc cũng có thể là một nơi khác. Và việc áp dụng nội dung này trong thực tế sẽ gặp rất nhiều khó khăn. Ví dụ như: Doanh nghiệp A có trụ sở tại Tuyên Quang ký hợp đồng mua bán hàng hoá với doanh nghiệp B có trụ sở tại thành phố Hồ Chí Minh. Hai bên thoả thuận nơi thực hiện hợp đồng tại cảng Hải Phòng. Như vậy nếu phát sinh tranh chấp thì sẽ do Toà án kinh tế Thành phố Hải Phòng giải quyết. Vấn đề thời gian là rất quan trọng đối với hoạt động sản xuất kinh doanh. Trong trường hợp trên, nhiều chủ doanh nghiệp sẽ từ bỏ quyền khởi kiện của mình vì chi phí đi lại và tốn kém thời gian... Vì vậy việc quyết định về thẩm quyền giải quyết của Toà án nơi thực hiện hợp đồng là không cần thiết và chưa phù hợp. Theo quan điểm của chúng tôi là nên để các bên tranh chấp tự do lựa chọn một toà án thích hợp đã nêu trong Điều 15 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế. Việc quy định như vậy sẽ đảm bảo quyền tự định đoạt của đương sự và sẽ thuận lợi cho việc giải quyết tranh chấp của Toà án. Thời hiệu khởi kiện Khoản 1 Điều 81 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế quy định thời hiệu khởi kiện các vụ án kinh tế như sau: “ Người khởi kiện phải làm đơn yêu cầu Toà án giải quyết vụ án kinh tế trong thời hạn 6 tháng, kể từ ngày phát sinh tranh chấp, trừ trường hợp pháp luật quy định khác” Khi tham gia hoạt động sản xuất kinh doanh, thực hiện ký kết hợp đồng kinh tế các bên đều mong muốn hợp đồng sẽ được thực hiện đúng theo các điều khoản đã cam kết. Tuy nhiên thực tế thì có không ít những kẻ đã chơi xấu đối tác, lợi dụng kẻ hở của pháp luật để cố tình trì hoãn việc thực hiện hợp đồng kinh tế. Bên bị vi phạm quyền lợi nhiều khi không muốn mất uy tín, mất bạn hàng... đã gia hạn thêm thời hạn cho bên kia để bên kia có điều kiện tiếp tục thực hiện hợp đồng. Hết thời hạn này bên được gia hạn vẫn không tiến hành thực hiện nghĩa vụ theo hợp đồng. Và đến lúc này thì thời hiệu khởi kiện đã hết, người bị vi phạm đã mất quyền khởi kiện. Vì vậy mà qua thực tiễn trên hợp đồng xét xử của Toà án kinh tế thấy rằng có nhiều vụ kiện kinh tế đã hết thời hiệu khởi kiện, tranh chấp giữa các bên không được cơ quan có thẩm quyền nào giải quyết. Từ thực trạng nêu trên, nếu cứ theo quy định về thời hiệu khởi kiện tại Điều 81- Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế thì sẽ không đảm bảo được các quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể kinh doanh. Vì vậy, nên có quy định theo hướng kéo dài thời hạn khởi kiện (ít nhất là một năm) đối với tranh chấp kinh tế. Với quy định này, một mặt sẽ tạo ra sự thống nhất giữa các văn bản pháp luật khi quy định về thời hiệu khởi kiện (Điều 241, 242 Luật thương mại). Mặt khác tạo điều kiện cho các đương sự có thời gian để thu thập chứng cứ, tài liệu để họ bảo vệ quyền lợi chính đáng của mình trước pháp luật. Vấn đề hoà giải trong giải quyết tranh chấp kinh tế Hoà giải có một ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc giải quyết các tranh chấp kinh tế. Theo báo cáo của công tác giải quyết án kinh tế trong những năm gần đây, tỷ lệ hoà giải thành tới 50% tổng số vụ việc tranh chấp kinh tế được giải quyết thông qua Toà án. Trong tố tụng kinh tế, hoà giải được coi là một thủ tục bắt buộc. Khi có tranh chấp xảy ra, các bên phải thương lượng hoà giải với nhau, nếu không thể hoà giải được mới đưa ra Toà án để giải quyết. Ngay cả khi đã đưa đơn kiện tới Toà án, các bên vẫn có thể hoà giải với nhau. Việc hoà giải được áp dụng cho mọi tranh chấp kinh tế và có thể được diễn ra trong bất kỳ giai đoạn nào của quá trình tố tụng. Toà án phải tạo mọi điều kiện để đương sự tiến hành hoà giải với nhau. Khi các bên đã thoả thuận được, Toà án ra quyết định lập biên bản hoà giải thành và ra quyết định công nhận sự thoả thuận của đương sự, quyết định này có hiệu lực ngay. Thực tiễn xét xử cho thấy trong một số trường hợp nhất định, việc hoà giải giữa các đương sự còn mang nặng tính hình thức. Khi các bên tranh chấp đưa ra phương án hoà giải, thẩm phán còn lúng túng trong việc ra quyết định công nhận sự thoả thuận của đương sự. Nhiều trường hợp doanh nghiệp Nhà nước hoà giải với doanh nghiệp tư nhân (Công ty trách nhiệm hữu hạn, Doanh nghiệp tư nhân) theo hướng Doanh nghiệp Nhà nước từ bỏ quyền đòi nợ của mình vì vậy làm thất thoát tài sản của Nhà nước. Có ý kiến cho rằng khi đương sự hoà giải được với nhau, Toà án phải ra quyết định công nhận. Và nếu việc thực hiện quyết định đó gây thiệt hại cho người khác thì Viện kiểm sát sẽ kháng nghị. Rõ ràng đây là mâu thuẫn khó giải quyết khi Toà án vừa phải tôn trọng quyền tự định đoạt của đương sự, vừa bảo vệ lợi ích của Nhà nước và của công dân. Từ thực tế đó, chúng tôi cho rằng cần phải có văn bản hướng dẫn quy định cụ thể các điều kiện của phương án hoà giải để trên cơ sở đó Toà án có căn cứ ra hoặc không ra quyết định công nhận sự thoả thuận của các đương sự. Các điều kiện đó có thể là: Thoả thuận của đương sự phải xuất phát từ sự tự nguyện Nội dung của thoả thuận không được trái pháp luật Phương án thoả thuận không được xâm hại đến lợi ích của người thứ ba (được hiểu là Nhà nước...) Với những điều kiện như trên sẽ giúp cho Toà án ra được quyết định công nhận sự thoả thuận giữa các đương sự được chính xác, khách quan và đúng pháp luật. Về tổ chức thi hành Bản án, quyết định kinh tế Củng cố cơ quan thi hành án, hoàn thiện pháp luật thi hành án để các phán quyết về giải quyết tranh chấp kinh tế của Toà án đều được đưa ra thi hành một cách đầy đủ, triệt để và kịp thời. Về các phương diện khác Công tác đào tạo cán bộ giải quyết tranh chấp kinh tế Xây dựng chương trình, kế hoạch đào tạo, đào tạo lại và bồi dưỡng thường xuyên thẩm phán xét xử các vụ án kinh tế làm cho đội ngũ này có kiến thức nghiệp vụ chuyên sâu, có kiến thức pháp luật chuyên ngành. Đồng thời phải có sự am hiểu nhất định về hoạt động kinh doanh của các chủ thể của hoạt động kinh tế. Nâng cao chất lượng xét xử của Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân Về Thẩm phán Trong hoạt động của Toà án, người thẩm phán giữ một vị trí trung tâm, quyết định đến hiệu quả của hoạt động xét xử. Để nâng cao chất lượng hoạt động của tài phán kinh tế, chúng ta đã có chủ trương chuyên môn hoá nghiệp vụ xét xử bằng cách bồi dưỡng và đào tạo các thẩm phán chuyên ngành: Hình sự, Dân sự, Kinh tế...Để được bổ nhiệm làm thẩm phán kinh tế thì ngoài việc phải hội tụ đầy đủ các điều kiện theo quy định tại Điều 37, Luật tổ chức Toà án nhân dân và Pháp lệnh về Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân (1993) họ cần phải trải qua các lớp tập huấn, bồi dưỡng về pháp luật kinh tế. Để khắc phục dần tình trạng đội ngũ thẩm phán kinh tế thiếu về số lượng, yếu kém về chất lượng cần phải có giải pháp tổng thể về công tác đào tạo đối với đội ngũ thẩm phán kinh tế. Xét xử các tranh chấp kinh tế là một vấn đề mới và phức tạp. Ngoài việc nắm vững luật nội dung (pháp luật kinh tế) và luật hình thức (tố tụng kinh tế), người thẩm phán phải có những hiểu biết, những kiến thức nhất định về các lĩnh vực kinh tế, tài chính, thương mại, ngân hàng, bảo hiểm... thì mới có thể đưa ra được những phán quyết chính xác. Kinh nghiệm giải quyết tranh chấp kinh tế ở một số nước cho thấy, thẩm phán kinh thế phải là những thương gia (Pháp), hoặc là những nhà doanh nghiệp, nhà kinh tế (ở Đức, Anh). Do đó để nâng cao chất lượng xét xử các tranh chấp kinh tế, phù hợp với thông lệ chung, ngoài các quy định chung về tiêu chuẩn thẩm phán cần bổ sung thêm tiêu chuẩn có bằng đại học về kinh tế và khoa học tự nhiên. Giải pháp trước mắt là tổ chức các lớp bồi dưỡng cán bộ Toà án dự kiến bổ nhiệm thẩm phán kinh tế tại Trung tâm đào tạo thẩm phán và các chức danh tư pháp khác thuộc trường Đại học Luật Hà Nội. Đề ra các quy định mới để làm cơ sở cho việc điều chuyển, phân công công tác đội ngũ thẩm phán nói chung nhằm khắc phục tình trạng thiếu hụt thẩm phán kinh tế ở một số vùng sâu vùng xa. Hiện nay ở Toà án các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, Toà án nhân dân tối cao, nguồn cán bộ đủ tiêu chuẩn để bổ nhiệm thẩm phán kinh tế cấp huyện không phải là không có, trong khi đó ở Toà án cấp huyện nhiều nơi không có nguồn cán bộ. Người thẩm phán là thẩm phán của Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam chứ không phải là thẩm phán của một tỉnh, địa phương nào. Trong hội đồng xét xử, họ độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. Về Hội thẩm nhân dân Hội thẩm là một chế định quan trọng thể hiện tính chất dân chủ trong hoạt động xét xử của Toà án, chế định hội thẩm đã được quyết định trong Hiến pháp và các văn bản pháp luật khác có liên quan. Theo Điều 17 - Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế, thành phần Hội đồng xét xử án kinh tế gồm hai thẩm phán và một hội thẩm. Như vậy số luợng hội thẩm tham gia thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm án kinh tế ít hơn một người so với Hội đồng xét xử dân án, hình án. Trước đây, chúng ta thường có quan niệm lựa chọn người hội thẩm từ số cán bộ viên chức hưu trí Nhà nước. Với cách lựa chọn như vậy nhiều khi cứng nhắc, hạn chế dân chủ, hạn chế năng lực của nhiều người có khả năng thực hiện tốt vai trò hội thẩm. Quá trình lựa chọn hội thẩm nhân dân cần được tiến hành một cách khoa học, thận trọng dựa trên cơ sở một số tiêu chuẩn lựa chọn thẩm phán. Về cơ bản họ phải là những người có hiểu biết về lĩnh vực hoạt động kinh doanh, có kiến thức xã hội rộng. Chúng ta có thể lựa chọn Hội thẩm nhân dân từ các thương gia, doanh nghiệp có uy tín, có kinh nghiệm thương trường. Như vậy, trong quá trình xét xử các tranh chấp kinh tế, ý kiến đóng góp của họ sẽ góp phần vào việc giải quyết vụ án được nhanh chóng và hiệu quả hơn. Với những quy định như trên, chúng ta sẽ hoàn thiện đội ngũ xét xử của Toà án kinh tế, giúp họ có đủ khả năng giải quyết các tranh chấp kinh tế ngày càng phức tạp trong điều kiện kinh tế xã hội nước ta hiện nay. Công tác tuyên truyền phổ biến pháp luật Để pháp luật nói chung và pháp luật kinh tế nói riêng đi vào cuộc sống thì việc tuyên truyền, phổ biến pháp luật rộng rãi cho mọi đối tượng là việc làm hết sức cần thiết. Trong điều kiện kinh tế xã hội ngày càng phát triển, có nhiều lĩnh vực rất mới mẻ, thì việc phổ biến pháp luật về những lĩnh vực này đến mọi người là điều cần thiết. Đây cũng có thể coi là một biện pháp phòng ngừa những hiện tượng tiêu cực trong xã hội vì một khi mọi người am hiểu pháp luật thì các vi phạm pháp luật sẽ ít xảy ra hơn. Đối với pháp luật kinh tế, công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật là một yếu tố hỗ trợ tích cực cho việc giải quyết các tranh chấp kinh tế. Nếu phổ biến tốt pháp luật việc giải quyết tranh chấp sẽ nhanh chóng tốt đẹp vì mọi người hiểu sự việc theo đúng nội dung pháp luật hoặc tranh chấp kinh tế sẽ không xảy ra nếu họ không hiểu sai tinh thần của pháp luật. Vì vậy mà Toà án nhân dân cũng như các cơ quan có thẩm quyền khác cần tăng cường đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến hướng dẫn pháp luật nói chung và pháp luật về hợp đồng kinh tế, pháp luật về tố tụng kinh tế nói riêng, giúp mọi người dân hiểu và nắm vững pháp luật để từ đó họ có ý thức sống và làm việc theo pháp luật, tạo tiền đề cho việc xây dựng một Nhà nước pháp quyền Việt Nam giàu mạnh. Một số kiến nghị Công tác giải quyết tranh chấp kinh tế có một ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc thực hiện quản lý Nhà nước đối với các quan hệ kinh tế, tạo ra một sự bình đẳng trên cơ sơ pháp luật để các doanh nghiệp an tâm, đầu tư kinh doanh và tin tưởng ở pháp luật Nhà nước. Để nâng cao chất lượng công tác giải quyết tranh chấp kinh tế, chúng tôi đưa ra một số kiến nghị sau: Khẩn trương tiến hành việc sửa đổi bổ sung Pháp lệnh hợp đồng kinh tế, Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế Tổ chức sưu tầm, tổng hợp, in ấn các văn bản pháp luật của các ngành kinh tế có liên quan đến công tác giải quyết tranh chấp kinh tế để cung cấp cho Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân. ở các Toà phúc thẩm cần bố trí đào tạo một số thẩm phán có trình độ xét xử chuyên sâu về kinh tế. Đồng thời tổng hợp đúc rút kinh nghiệm qua thực tế xét xử và tham khảo luật pháp nước ngoài nhất là đối với các nước mà Việt Nam thường xuyên có quan hệ hợp đồng kinh tế. Tổ chức tổng kết chuyên đề về giải quyết tranh chấp kinh tế, thông tin tới các doanh nghiệp về các bài học được rút ra qua các vụ án đã được giải quyết nhằm nâng cao trình độ hiểu biết pháp luật cho các doanh nghiệp. Kết luận Trong công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, đặc biệt là đường lối đổi mới kinh tế đặt ra nhiều yêu cầu, đòi hỏi khách quan cho pháp luật nước ta phát sinh từ các quan hệ kinh tế trong nước cũng như từ quan hệ kinh tế quốc tế. Việc xây dựng một hành lang pháp lý đảm bảo an toàn và có hiệu quả là vấn đề quan trọng và cần thiết. Các tranh chấp kinh tế phát sinh trong cơ chế mới ngày càng trở nên đa dạng và phức tạp đòi hỏi cần phải có một đường lối giải quyết phù hợp. Trước tình hình đó năm 1994 Toà kinh tế được thành lập với chức năng xét xử các vụ án kinh tế và được tổ chức bên cạnh Trung tâm trọng tài kinh tế Quốc tế - Trung tâm trọng tài kinh tế Việt Nam (gọi tắt là trọng tài phi Chính phủ). Việc thành lập Toà kinh tế để giải quyết các tranh chấp kinh tế theo trình tự thủ tục riêng đã đáp ứng được các yêu cầu của nền kinh tế thị trường như tính công bằng, hiệu quả, nhanh chóng và đảm bảo quyền định đoạt của các bên tranh chấp. Qua quãng thời gian hoạt động, việc giải quyết tranh chấp kinh tế bằng Toà án đã đạt được những kết quả nhất định. Các vụ án kinh tế được Toà án thụ lý, giải quyết kịp thời, có hiệu quả và đúng pháp luật, bước đầu tạo và củng cố được niềm tin đối với các nhà doanh nghiệp. Những bản án, quyết định mà Toà án nhân dân đưa ra sớm được thực thi trong cuộc sống, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp bị vi phạm, góp phần duy trì pháp luật trong sản xuất kinh doanh và đảm bảo tính pháp chế trong các hoạt động kinh tế ở nước ta. Nhằm đáp ứng các yêu cầu đòi hỏi của các chủ thể khi tham gia vào quan hệ kinh tế cũng như công cuộc cải cách tư pháp ở nước ta, trong chương III của khoá luận, chúng tôi đã đề xuất một số kiến nghị và mong rằng với những đề xuất đó sẽ góp phần vào việc hoàn thiện pháp luật, nâng cao năng lực hoạt động của Toà kinh tế trong thời gian tới, tạo tiền đề xây dựng một Nhà nước Việt Nam pháp quyền giàu mạnh. Tài liệu tham khảo Văn kiện nghị quyết của Đảng và Nhà nước Văn kiện Đại hội lần thứ VI, VII, VIII Nghị quyết Trung ương 8 Khoá VII Nghị quyết Trung ương 7 Khoá VIII Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam 1992 Các tài liệu tham khảo khác Giáo trình Luật kinh tế - Khoa Luật - Đại học KHXH & NV Bộ Luật Dân sự 1995 Luật Thương mại 1998 Luật Tổ chức Toà án nhân dân 1993 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế 1994 Pháp lệnh hợp đồng kinh tế 1989 Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm Báo cáo tổng kết công tác Toà án các năm 1995-2000 Tạp chí Toà án nhân dân số 02, 05, 08 năm 2000 Tạp chí Kiểm sát số 05, 07, 11 năm 2000 Giải quyết tranh chấp kinh tế bằng Toà án/ Đào Văn Hội-NXB CTQG-1999

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docI0044.doc
Tài liệu liên quan