Thứ nhất, tính vô hình – phi vật thể: các dịch vụ đều tồn tại ở dạng vô hình, hay nói cách khác, dịch vụ có đặc điểm là không hiện hữu, không tồn tại dưới dạng vật thể, không thể sờ mó, tiếp xúc hoặc nhìn thấy trước khi quyết định tiêu dùng. Tuy nhiên, đừng quên rằng để tạo ra nó lại đòi hỏi phải có sự phát triển rất cao của hệ thống hạ tầng kinh tế - xã hội làm điều kiện, kể cả yếu tố phát triển nguồn lực con người. Tính không hiện hữu - vô hình của dịch vụ làm cho nó không có những tính chất cơ, lý, hoá xác định để có thể đo lường bằng các tiêu chuẩn kỹ thuật như công suất, mức tiêu hao, khối lượng, trọng lượng.Do đó, rất khó xác định chính xác số lượng và chất lượng dịch vụ. Do vậy, khi xây dựng các tiêu chí cũng như bộ tiêu chuẩn chất lượng phải mang tính khoa học, hệ thống, chuẩn xác và khả thi.
Thứ hai, tính chỉnh thể - không thể phân chia: được thể hiện ở việc tiêu dùng bất cứ một loại hình dịch vụ nào thường kéo theo sự tiêu dùng đối với các loại dịch vụ phụ trợ khác. Chất lượng dịch vụ, sự hài lòng của người tiêu dùng phụ thuộc rất nhiều vào các dịch vụ phụ trợ này. Nói cách khác, đặc điểm tiêu dùng hàng hoá dịch vụ là mang tính tổng hợp. Ví dụ, du khách khi đến nghỉ ngơi du lịch dịch sẽ tất yếu có nhu cầu về các dịch vụ khác liên quan như: vui chơi - giải trí, thương mại - bán hàng, giao thông - liên lạc - viễn thông, y tế - chăm sóc sức khoẻ, kể cả hệ thống tín dụng - thanh toán tiện lợi cho việc chi tiêu, mua sắm, thủ tục quá cảnh và hải quan.Tính chất này đòi hỏi phải phát triển đồng bộ và đa dạng hoá các loại hình dịch vụ, nhằm nâng cao chất lượng dịch vụ cũng như khai thác hiệu quả hoạt động dịch vụ nói chung.
56 trang |
Chia sẻ: Dung Lona | Lượt xem: 1002 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng và các giải pháp phát triển dịch vụ chất lượng cao của thành phố Hà Nội tới năm 2010, tầm nhìn 2020, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ư nhân trong sản xuất và cung ứng dịch vụ, không tạo lập được môi trường cạnh tranh lành mạnh giữa các thành phần kinh tế trong việc nâng cao chất lượng, giảm giá dịch vụ.
- Công tác phối kết hợp giữa các tỉnh, thành phố lân cận với Hà Nội, giữa Hà Nội với Trung ương trong quy hoạch phát triển dịch vụ còn yếu, chưa tạo ra được những kế hoạch hành động chung. Điều này đã hạn chế khả năng xuất khẩu dịch vụ tại chỗ của Hà Nội, gây ra sự cạnh tranh không cần thiết, hạn chế khả năng và sự phát huy những gì sẵn có, những tiềm năng, thế mạnh của Hà Nội và trong vùng kinh tế Bắc Bộ.
- Những tác động tiêu cực của cơ chế thị trường bên cạnh sự hạn chế trong quản lý nhà nước nên nhiều đơn vị hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ chỉ quan tâm đến lợi ích kinh tế mà không quan tâm tới luật pháp và những vấn đề kinh tế – xã hội khác, do đó tình trạng cạnh tranh thiếu lành mạnh và vi phạm pháp luật vẫn thường xuyên xảy ra.
- Khung pháp lý của nhà nước về lĩnh vực dịch vụ không những thiếu tính đồng bộ mà còn phải sửa đổi cho phù hợp với yêu cầu thực tế. Điều này dẫn đến sự không yên tâm của các nhà đầu tư trong và ngoài nước trong việc tham gia đầu tư sản xuất và cung ứng dịch vụ. Bên cạnh đó, công tác quản lý, kiểm tra, giám sát chất lượng, giá cả dịch vụ còn chưa đồng đều và chưa mang tính thường xuyên.
Chương III
Định hướng và những giải pháp
chủ yếu nhằm phát triển lĩnh vực dịch vụ trên địa bàn Hà Nội tới năm 2010, tầm nhìn 2020
3.1. MụC TIÊU, định hướng phát triển dịch vụ ở Hà Nội trong giai đoạn 5-10 năm tới
3.1.1. Mục tiêu, định hướng chung phát triển dịch vụ Thủ đô
a/ Mục tiêu phát triển dịch vụ trong kế hoạch 5 năm 2006-2010:
- Chuyển nhanh và vững chắc cơ cấu kinh tế Thủ đô sang cơ cấu: dịch vụ - công nghiệp - nông nghiệp. Phấn đấu đến năm 2020, lĩnh vực dịch vụ Thủ đô đạt trình độ phát triển trung bình trên thế giới, trở thành động lực thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội và cải thiện đời sống nhân dân Thủ đô.
- Tập trung phát triển các hoạt động dịch vụ gắn với tiềm năng và điều kiện đặc thù của Thủ đô; khuyến khích phát triển dịch vụ Hà Nội có lợi thế và đáp ứng yêu cầu hội nhập; phấn đấu đạt tốc độ tăng trưởng dịch vụ cao hơn tốc độ tăng trưởng chung của GDP, từng bước ổn định và nâng dần tỷ trọng dịch vụ trong GDP.
- Nâng cao chất lượng sản phẩm dịch vụ và khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ trên thị trường nội địa, khu vực và quốc tế; tăng cường hợp tác, cạnh tranh lành mạnh giữa các loại hình dịch vụ để cùng phát triển.
b/ Định hướng phát triển dịch vụ Hà Nội
- Đa dạng hoá, phát triển toàn diện, đồng bộ; thiết kế các sản phẩm dịch vụ mới, tạo dựng sản phẩm dịch vụ mũi nhọn trong từng ngành, đáp ứng người tiêu dùng và hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Tập trung mọi nguồn tài chính và nhân lực có trình độ chuyên môn cao, nhanh chóng tiếp cận và phát triển dịch vụ chất lượng cao, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của khách hàng trong và ngoài nước.
- Tạo khung khổ pháp lý thích hợp, cơ chế khuyến khích đủ mạnh để tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế tham gia phát triển dịch vụ, đặc biệt là dịch vụ chất lượng cao. Mở rộng xã hội hoá sẽ giúp huy động mọi nguồn lực từ mọi thành phần kinh tế trong nước (nhất là các doanh nghiệp, công ty, dân cư) và quốc tế để nâng cấp, xây dựng mới kết cấu hạ tầng, trang bị phương tiện kỹ thuật hiện đại cho phát triển dịch vụ. Đẩy nhanh tiến trình sắp xếp doanh nghiệp, đặc biệt là cổ phần hoá; tổ chức hoạt động kinh doanh theo các mô hình mới có hiệu quả để huy động nguồn lực của toàn xã hội cho đầu tư, phát triển dịch vụ, trước hết là thương mại, du lịch, hạ tầng công cộng, giáo dục, y tế, tài chính, ngân hàng, bưu chính viễn thông, kinh doanh bất động sản.
- Phát triển một cách đồng bộ các ngành dịch vụ dựa trên cơ sở vận dụng tổng hoà các mối quan hệ biện chứng liên ngành - liên vùng - liên khu vực, khắc phục sự chia cắt, manh mún giữa Trung ương và địa phương.
- Cơ cấu lại lĩnh vực dịch vụ Thủ đô, tập trung phát triển các dịch vụ theo phân loại của WTO phù hợp với khả năng và thế mạnh của Thủ đô. Cùng với đột phá phát triển các dịch vụ chất lượng cao, tiếp tục phát triển toàn diện các loại dịch vụ và nâng cao hiệu quả hoạt động dịch vụ, đảm bảo tỷ lệ hợp lý giữa các cấp độ dịch vụ nhằm phục vụ tốt nhất các nhu cầu cơ bản của dân cư Thủ đô.
- Nguồn vốn từ ngân sách nhà nước cần được ưu tiên bố trí cho việc phát triển, củng cố, nâng cấp, hiện đại hoá có trọng điểm kết cấu hạ tầng phục vụ cho dịch vụ. Hỗ trợ trang thiết bị, phương tiện kỹ thuật hiện đại cho các ngành dịch vụ chủ yếu để nâng cao năng lực cạnh tranh trong nước, quốc tế và phục vụ ngày càng tốt hơn nhu cầu của sản xuất và tiêu dùng của nhân dân.
- Mở cửa thị trường dịch vụ theo cam kết quốc tế, tăng cường vận động, xúc tiến đầu tư nước ngoài vào phát triển lĩnh vực dịch vụ.
3.1.2. Định hướng phát triển dịch vụ chất lượng cao
a/ Định hướng chung
- Đa dạng hoá các ngành dịch vụ trên cơ sở lấy phát triển dịch vụ chất lượng cao là khâu đột phá để đưa toàn bộ lĩnh vực dịch vụ Thủ đô trở thành mũi nhọn trong phát triển kinh tế.
- Phát triển dịch vụ chất lượng cao theo qui hoạch, kế hoạch và hệ thống tiêu chí phù hợp với từng ngành, từng sản phẩm dịch vụ. Lựa chọn một số ngành dịch vụ gắn với đặc thù, thế mạnh Thủ đô như thương mại, du lịch, dịch vụ hạ tầng cơ sở công cộng, dịch vụ tư vấn các loạiđể ưu tiên tập trung nguồn lực phát triển đồng bộ, ngang tầm các nước khu vực.
- Cho phép các thành phần kinh tế mở rộng thị phần theo chiều rộng và sâu trên thị trường dịch vụ, đặc biệt loại dịch vụ chất lượng cao. Tạo thuận lợi cho các thành phần kinh tế phát huy mọi tiềm năng và lợi thế của họ trong phát triển dịch vụ, tạo nên cách làm mới và nâng cao toàn diện chất lượng dịch vụ. Thực thi hệ thống tiêu chuẩn và tăng cường giám sát nhằm đảm bảo chất lượng dịch vụ ngày càng được nâng cao.
- Xây dựng Hà Nội trở thành trung tâm cung cấp dịch vụ chất lượng cao một cách đồng bộ, tạo điều kiện thúc đẩy sự phát triển dịch vụ của các địa phương khác trong cả nước.
b/ Định hướng phát triển dịch vụ chất lượng cao một số chuyên ngành
* Trong ngành Thương mại
Hướng tới xây dựng Hà Nội thành trung tâm bán buôn và xuất nhập khẩu dẫn đầu cả nước, cần tập trung vào các điểm sau:
- Nâng cấp hệ thống siêu thị, quy hoạch lại mạng lưới chợ.
- Xây dựng và phát triển hệ thống trung tâm thương mại quốc tế ngang tầm với các nước trong khu vực.
- Tiếp tục tạo dựng một số cơ sở hạ tầng cần thiết ban đầu nhằm khuyến khích áp dụng thương mại điện tử.
- Mở rộng hoạt động xuất, nhập khẩu trên cơ sở đẩy mạnh các hoạt động xúc tiến thương mại nhằm khai thác nguồn hàng trong và ngoài nước, thu hút mạnh FDI vào sản xuất hàng xuất khẩu trên địa bàn Hà Nội
- Đẩy mạnh sự hợp tác thương mại giữa Hà Nội với các tỉnh, thành trong cả nước, đặc biệt là các tỉnh, thành lân cận nhằm khai thác tối đa lợi thế từng địa phương và hạn chế những cạnh tranh không đáng có giữa các địa phương.
- Hoàn thiện thể chế, pháp luật; hiện đại hoá cơ sở vật chất cho các hoạt động thương mại như hệ thống kho hàng, phương tiện vận chuyển hàng hoá, hệ thống thanh toán.
* Trong ngành Du lịch
- Phát triển du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn của Thủ đô, hiện đại, đậm đà bản sắc Thăng Long - Hà Nội. Cùng với thương mại, du lịch phải góp phần quảng bá và tạo ra hình ảnh mới về Hà Nội trong lòng bè bạn trong nước và quốc tế.
- Đầu tư đồng bộ, thoả đáng cho du lịch, từ địa điểm tham quan, khách sạn đến vận chuyển hành khách, đào tạo nguồn nhân lực...
- Phát triển du lịch văn hoá, truyền thống, lễ hội; du lịch sinh thái; du lịch kinh doanh. Kết hợp tốt giữa du lịch văn hoá và tôn tạo các di tích danh lam thắng cảnh, giữa phát triển sản phẩm du lịch với quảng bá truyền thống lịch sử văn hoá Thăng Long - Hà Nội.
- Phát triển nhanh hệ thống khách sạn đạt tiêu chuẩn chất lượng cao và các sản phẩm du lịch mới để tăng thêm ngày lưu trú của khách. Phối hợp với các Tỉnh - Thành phố trong cả nước để xây dựng cơ sở vật chất phục vụ các chương trình phát triển du lịch đa dạng.
- Đẩy mạnh hoạt động tuyên truyền quảng bá để thu hút khách du lịch trong nước và quốc tế.
* Trong ngành Giao thông công cộng
- Vươn tới các tỉnh, thành lân cận bằng việc xây dựng một số tuyến đường chất lượng cao hướng tới những cảng sông, biển và sân bay, mở nhiều tuyến nhánh xương cá để tránh ùn tắc ở các tuyến chính, tuyến trục.
- Xây dựng hệ thống các đường song song hỗ trợ cho các trục chính nhằm giảm tải cho các tuyến đường này và tránh bị tắc nghẽn.
- Trong nội đô, mở một số tuyến chuyên biệt phục vụ từng loại đối tượng dân cư: phục vụ chợ đêm (buýt nhanh, buýt sinh viên,).
- Phát triển một số loại hình giao thông hiện đại ngang tầm khu vực và thế giới như đường bộ, đường sắt trên cao, tàu điện ngầm.
- Xây dựng hầm ngầm tại một số nút giao thông để các luồng không giao cắt nhau.
- Hạn chế phương tiện cá nhân, tăng cường phương tiện công cộng đảm bảo giao thông thuận tiện an toàn.
* Trong ngành Giáo dục đào tạo
- Nâng cao chất lượng và hiệu quả giáo dục - đào tạo, chuẩn hoá, hiện đại hoá, đa dạng hoá, xã hội hoá các hoạt động giáo dục - đào tạo Thủ đô .
- Phát triển mạnh các loại hình trường tư thục ở các bậc học phù hợp với quy hoạch giáo dục - đào tạo Thủ đô.
- Đổi mới nội dung và phương thức đào tạo, tạo sự liên thông giữa các bậc học, ngành học. Huy động thêm nguồn lực cho giáo dục - đào tạo từ ngân sách (người học, doanh nghiệp) và nguồn hỗ trợ quốc tế.
- Xây dựng đội ngũ cán bộ quản lý và giáo viên đủ về số lượng, đồng bộ và đạt chuẩn hoá, có lòng yêu nghề và trình độ chuyên môn nghiệp vụ vững vàng đáp ứng yêu cầu của việc đổi mới nội dung, phương pháp và phương tiện dạy học.
- Hiện đại hoá các cơ sở giáo dục- đào tạo, đặc biệt là mạng lưới các trường trọng điểm chất lượng cao ở các bậc học, ngành học.
* Trong ngành dịch vụ y tế
- Phấn đấu 100% xã (phường) đạt tiêu chuẩn quốc gia về y tế. Phát triển dịch vụ y tế cơ động để phục vụ những yêu cầu mới.
- Nâng cao năng lực quản lý nhà nước về y tế, đặc biệt là quản lý bệnh viện và sự phối hợp hoạt động giữa các bệnh viện trên địa bàn Hà Nội. Từng bước áp dụng các hình thức quản lý chất lượng vào cơ sở y tế.
- Đầu tư cơ sở vật chất kỹ thuật nâng cấp chất lượng bệnh viện và công nghệ thông tin trong quản lý và điều trị. Xây dựng mới bệnh viện đa khoa kỹ thuật cao. Đầu tư thiết bị cơ bản cho các bệnh viện, thiết bị chuyên sâu cho các bệnh viện hạng 1 đạt trình độ quốc tế để bệnh nhân trong nước không phải ra nước ngoài chữa trị phổ biến như thời gian gần đây.
- Đổi mới quản lý kinh tế y tế trong bệnh viện, quản lý tốt hành nghề y dược tư nhân.
- Huy động, sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn đầu tư xây dựng và phát triển sự nghiệp khám chữa bệnh cho nhân dân thủ đô, đa dạng hoá các hình thức tổ chức chăm sóc sức khoẻ.
- Có cơ chế chính sách khuyến khích đầu tư trong và ngoài nước để phát triển ứng dụng kỹ thuật cao, dịch vụ chất lượng cao vào những lĩnh vực quan trọng như y tế dự phòng, y tế cơ sở, các chương trình y tế.
* Trong dịch vụ Tài chính- ngân hàng
- Xây dựng Hà Nội thành trung tâm Tài chính - Ngân hàng hàng đầu ở khu vực phía Bắc và có vai trò quan trọng của cả nước. Hình thành các tập đoàn tài chính lớn, kinh doanh tài chính dưới mọi hình thức đối với các doanh nghiệp trong và ngoài nước, từng bước xoá bỏ việc cấp vốn ngân sách nhà nước, tạo sự chủ động, năng động trong sản xuất kinh doanh. Xây dựng Ngân hàng trở thành nhà đầu tư lớn vào các dự án KT-XH của Thủ Đô.
- Hoàn thiện, tiêu chuẩn hoá, quốc tế hoá tiêu chuẩn thống kê, kế toán nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh, khả năng tiếp cận nguồn vốn ngân hàng. Từng bước thống nhất giữa hệ thống kiểm toán Việt nam và quốc tế, giữa tập quán kinh doanh bảo hiểm Việt Nam và quốc tế.
- Kiện toàn tổ chức bộ máy Ngân hàng Nhà nước Thành phố Hà Nội theo hướng gọn nhẹ, hiệu quả, không ngừng nâng cao năng lực tổ chức thực thi chính sách tiền tệ quốc gia an toàn và hiệu quả.
- Hiện đại hoá hệ thống thanh toán điện tử liên ngân hàng theo kế hoạch và chỉ đạo của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Tổ chức tốt điều hoà tiền mặt trên địa bàn, đáp ứng đầy đủ và kịp thời mọi nhu cầu tiền mặt cho sản xuất kinh doanh và đời sống nhân dân Thủ đô..
- Đưa vào áp dụng các phương thức quản lý mới, nâng cao chất lượng và hiệu lực của công tác thanh tra, giám sát hoạt động ngân hàng của Chi nhánh Ngân hàng Nhà nước thành phố Hà Nội theo chuẩn mực quốc tế, thực hiện tốt quản lý các ngân hàng liên doanh và chi nhánh ngân hàng nước ngoài trên địa bàn.
- Lành mạnh hoá tài chính ngân hàng thương mại thông qua việc giải quyết nhanh các khoản nợ không sinh lời, nợ tồn đọng đi đôi với nâng cao chất lượng tín dụng.
- Đẩy mạnh đầu tư hiện đại hoá công nghệ ngân hàng và hệ thống thanh toán, nâng cao chất lượng dịch vụ để nâng cao khả năng cạnh tranh trong tiến trình hội nhập quốc tế.
* Trong dịch vụ Bưu chính viễn thông
- Chuyển trọng tâm vào phát triển các dịch vụ như điện thoại di động, internet, thương mại điện tử, là những dịch vụ hạt nhân của xã hội thông tin và nền kinh tế tri thức trong tương lai.
- Đẩy mạng khai thác các dịch vụ mang tính xã hội cao như dịch vụ thông tin qua hộp thư trả lời tự động, dịch vụ thông tin giải trí, các dịch vụ gắn giữa viễn thông và truyền hình.
- Đối với dịch vụ internet: khẩn trương phổ cập dịch vụ internet 100% các trường đại học, cao đẳng, viện nghiên cứu, bệnh viện trên địa bàn. Đến năm 2010, dịch vụ internet được cung cấp rộng rãi tới các trường phổ thông trung học, phổ thông cơ sở trên địa bàn Thành phố Hà Nội. Phấn đấu tỷ lệ người sử dụng internet đạt mức trung bình thế giới.
- Mật độ điện thoại bình quân đạt 55 máy/100 dân vào năm 2010, 100% số hộ gia đình có máy điện thoại.Tăng cường khai thác dịch vụ VNN 1268, 1269, 1260-P và internet công cộng làm phong phú khả năng lựa chọn của khách hàng.
3.2. Các giải pháp tổng thể phát triển dịch vụ Thủ đô thời kỳ đến năm 2010.
3.2.1. Đổi mới tư duy - nhận thức đối với phát triển dịch vụ
Tiếp tục đổi mới toàn diện và sâu sắc tư duy lãnh đạo, tư duy quản lý đối với sự phát triển lĩnh vực dịch vụ Thủ đô; tư duy của người cung ứng và người sử dụng về dịch vụ chất lượng cao trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Đổi mới tư duy các nhà lãnh đạo, quản lý nhà nước trước hết là đổi mới trong cách suy nghĩ về khái niệm, vai trò các ngành dịch vụ, trên cơ sở đó tiến tới đổi mới về cách làm, về tổ chức quản lý. Nhiều ngành, nhiều lĩnh vực trước đây không được coi là dịch vụ, nay vẫn tồn tại như vậy trong tư duy không ít nhà lãnh đạo, quản lý. Do đó, họ vẫn coi đây là công việc nhà nước phải làm và không tính đến lợi nhuận để đầu tư nâng cao chất lượng dịch vụ. Họ cản trở các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh đầu tư, phát triển dịch vụ trong “ sân chơi” quen thuộc của các doanh nghiệp nhà nước. Nhiều doanh nghiệp dịch vụ công không có khả năng đáp ứng đầy đủ các nhu cầu của người dân như điện, nước sạch, giao thông công cộng, vệ sinh môi trường...song lại cản ngăn việc xã hội hoá các hoạt động dịch vụ do sợ giảm thu nhập, mất việc làm. Trên tầm vĩ mô, xã hội hoá thực chất tạo ra thêm nhiều việc làm và tăng thu nhập cho người lao động do tính cạnh tranh tất yếu trong nền kinh tế thị trường. ưu thế về tính độc quyền dẫn đến đặc lợi đã hạn chế việc nâng cao chất lượng dịch vụ, làm giảm tính cạnh tranh trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Chúng ta muốn tiếp cận nhanh chóng với dịch vụ chất lượng cao, song lại khá dè dặt khi mở cửa thị trường này cho các nhà đầu tư nước ngoài nhiều vốn, giàu kinh nghiệm.
Đi đôi với đổi mới tư duy lãnh đạo và quản lý, cần đổi mới tư duy, nhận thức của mọi người dân trong xã hội, từ nhà cung cấp dịch vụ cho đến người dân thụ hưởng dịch vụ thông qua việc trả tiền hay không phải trả tiền đầy đủ. Đối tượng hưởng thụ và chất lượng dịch vụ cũng là một vấn đề còn đang được tranh luận. Nên phát triển dịch vụ theo hướng tập trung vào nâng cao chất lượng cho đối tượng có thu nhập cao hay chú trọng đến phát triển dịch vụ cho đối tượng có thu nhập thấp. Cần phát triển cả hai cấp độ dịch vụ để đảm bảo định hướng XHCN trong nền kinh tế thị trường. Vấn đề chính là khu vực nhà nước cần tập trung vào cung cấp dịch vụ cho đại đa số người thụ hưởng, đặc biệt là cho đối tượng thu nhập thấp. Nhà nước đang cho thực hiện khám chữa bệnh miễn phí cho trẻ em dưới 6 tuổi là một ví dụ. Tư nhân sẽ được khuyến khích mạnh hơn để đầu tư vào phát triển dịch vụ chất lượng cao, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao trong quá trình Hội nhập kinh tế quốc tế.
Các nhà cung ứng dịch vụ còn thiếu tầm nhìn chiến lược, trông chờ lợi nhuận trước mắt; tập trung khai thác tối đa nguồn lực hiện có. Vì vậy, vẫn loại hàng đó, khách hàng đó, doanh nhân nước ngoài làm thì doanh thu tăng nhanh, lợi nhuận lớn. Phải chăng là doanh nghiệp Việt Nam chưa làm được như vậy là do thiếu kinh nghiệm, chưa dám làm với sự đầu tư lớn, đồng bộ để tạo ra được chất lượng cao bền vững. Sự huy động nguồn lực để có được sản phẩm dịch vụ chất lượng cao còn ít.
Người sử dụng dịch vụ thì thụ động, ngại thay đổi, chưa thích ứng nhanh với sự xuất hiện các loại dịch vụ chất lượng cao. Số lượng người có thu nhập cao ngày càng tăng, song họ vẫn “ sính” dịch vụ ngoại hơn dịch vụ trong nước. Đôi khi lại có quan niệm hẹp hòi đối với việc cung cấp dịch vụ chất lượng cao (thí dụ dịch vụ y tế) đối với một bộ phận dân cư.
Xuất phát từ vị thế đầu não của Thủ đô, việc phát triển dịch vụ Thủ đô trong giai đoạn tới phải nắm chắc tính quy luật trong phát triển dịch vụ Thủ đô, với biểu hiện đặc trưng là phát triển rút ngắn; trong sự liên kết Trung ương - địa phương, liên ngành - liên vùng; từ trung tâm lan toả ra các địa phương khắp cả nước; triệt để phát huy lợi thế so sánh của Thủ đô; và quá trình “hút - đẩy” các hoạt động dịch vụ trong mối quan hệ hữu cơ cùng phát triển với các địa phương cả nước.
Dịch vụ Thủ đô phát triển đột phá trong sự kích cầu đi đôi với kích cung, từng bước vững chắc trở thành khâu dẫn dắt phát triển toàn nền kinh tế - xã hội Thủ đô, và là tụ điểm của hội nhập WTO. Trong việc phổ biến, quán triệt các nhận thức mới nêu trên, chú trọng các công tác sau:
Thứ nhất, tăng cường tuyên truyền quảng cáo qua đài, tivi với nhiều hình thức đa dạng phong phú, giới thiệu các sản phẩm dịch vụ nhằm giúp cho mọi người có nhận thức sâu sắc về nội dung, ý nghĩa của các loại hình dịch vụ. Từ đó, người sử dụng sẽ dùng dịch vụ nhiều hơn và đòi hỏi chất lượng dịch vụ phải ngày càng được cải tiến, nâng cao.
Thứ hai, mở các hội thảo chuyên đề giới thiệu các loại hình dịch vụ chất lượng cao, trình độ cao ở các nước khu vực và thế giới cho những đối tượng sử dụng và các nhà cung cấp dịch vụ.
Thứ ba, giới thiệu và tổ chức tạo đàm về hội nhập kinh tế khu vực và thế giới, làm rõ những cơ hội và thách thức đối với sự phát triển lĩnh vực dịch vụ.
3.2.2. Hoàn thiện cơ chế, chính sách tạo hành lang pháp lý thuận lợi cho phát triển dịch vụ
- Trên cơ sở phân loại dịch vụ của Tổ chức Thương mại thế giới và hướng dẫn của Bộ Thương mại và Tổng cục Thống kê, Thành phố chủ động xây dựng chiến lược phát triển dịch vụ, đề xuất cơ chế, chính sách thích hợp để phát triển dịch vụ, đưa dịch vụ vào nội dung của Kế hoạch 5 năm 2006-2010 với nhận thức và vị thế mới.
- Rà soát, hoàn thiện cơ chế, chính sách về xuất nhập khẩu và thương mại dịch vụ phù hợp với các định chế của Tổ chức Thương mại thế giới WTO và Hiệp định chung về thương mại dịch vụ (GATS). Phổ cập các thông tin, hướng dẫn các ngành và các địa phương chuẩn bị điều kiện thực hiện các cam kết về thương mại và dịch vụ sau khi gia nhập WTO, các cam kết tự do hoá thương mại và dịch vụ trong khuôn khổ ASEAN (CEPT/AFTA, AFAS,...) đến năm 2010 và giai đoạn tiếp theo.
- Thực hiện các danh mục phân loại về dịch vụ và xuất, nhập khẩu dịch vụ theo hướng tuân thủ sự tương thích với các bảng danh mục chuẩn mực quốc tế và được mở rộng theo thực tiễn và yêu cầu của Việt Nam. Hoàn thiện chế độ báo cáo thống kê về dịch vụ và thương mại theo chuẩn quốc tế; trước mắt tập trung đối với một số ngành dịch vụ chủ yếu như: thương mại, du lịch, bưu chính viễn thông, tài chính - ngân hàng.
- Tổ chức thu thập và tổng hợp báo cáo thống kê về dịch vụ quốc tế theo chế độ quy định để phục vụ công tác hoạch định chính sách, quản lý và điều hành nền kinh tế.
Trước mắt, cần tập trung hoàn thiện môi trường pháp lý, đẩy mạnh cải cách hành chính và nâng cao năng lực quản lý Nhà nước các cấp trên lĩnh vực dịch vụ:
- Tích cực nghiên cứu, đề xuất sửa đổi bổ sung hoàn thiện hệ thống pháp lý, chính sách của Nhà nước, tạo ra môi trường thông thoáng cho mọi hoạt động kinh tế - xã hội; tranh thủ tối đa sự quan tâm, chi viện và lãnh đạo trực tiếp của Trung ương trong quá trình nâng cao chất lượng. Chủ động xây dựng, thực hiện các cơ chế chính sách đặc thù theo tinh thần Pháp lệnh Thủ đô và Nghị quyết 15/NQ-TW của Bộ chính trị, tăng cường phân cấp, sắp xếp lại tổ chức, dỡ bỏ những bộ phận và quy định không cần thiết. Phát triển đồng bộ các loại thị trường và các loại định chế đầu tư hiện đại, tạo lập thêm những định chế thị trường cần thiết.
- Chỉ đạo và phối hợp hiệu quả việc phát triển hệ thống thông tin tổng hợp của Thành phố, các hoạt động xúc tiến thị trường, xây dựng và áp dụng hệ thống định mức kỹ thuật và tiêu chuẩn chất lượng, nghề nghiệp tiếp cận các tiêu chuẩn quốc tế, mở rộng cấp chứng chỉ hành nghề và phong cấp hàm chuyên môn nghề nghiệp, đồng thời thực thi nghiêm khắc các chế tài cần thiết để bảo đảm sự tuân thủ, bảo vệ quyền lợi tác giả, sở hữu trí tuệ và quyền lợi người tiêu dùng.
- Nâng cao vai trò quản lý Nhà nước trong từng ngành dịch vụ, thường xuyên kiểm tra, kiểm soát các hoạt động dịch vụ; đồng thời có các cơ chế chính sách khuyến khích phát triển các ngành dịch vụ thông qua việc khuyến khích mọi thành phần kinh tế tham gia kinh doanh dịch vụ với các cơ chế hỗ trợ đặc thù về đất đai, phát triển cơ sở hạ tầng. Khuyến khích doanh nghiệp quốc doanh mở rộng đầu tư vào các loại dịch vụ như bưu điện, viễn thông, điện lực, thương mại (cung cấp hàng hoá cho các tỉnh vùng xa).
- Hoàn thiện cơ chế thưởng phạt
Nguyên tắc chính của cơ chế thưởng phạt là thông qua việc đánh giá mức độ sai sót của đơn vị trong quá trình kinh doanh dịch vụ để điều chỉnh quỹ khen thưởng năng suất, chất lượng hành quý của đơn vị; nguồn từ quỹ khen thưởng của từng đơn vị, ngành, thành phố. Nội dung của cơ chế cần bao gồm:
+ Căn cứ các tiêu chuẩn chất lượng của ngành, các quy trình, quy phạm của cung cấp dịch vụ và quản lý mạng lưới để giám sát, kiểm tra và đánh giá mức độ sai sót của quá trình cung cấp dịch vụ.
+ Căn cứ đặc điểm hoạt động sản xuất kinh doanh xây dựng phương pháp đánh giá mức độ sai sót và mức độ ảnh hưởng đến chất lượng dịch vụ. Các mức độ này được lượng hoá dưới dạng các hệ số khi phân chia quỹ khen thưởng cho các đơn vị.
- Thực hiện giám sát thường xuyên chất lượng dịch vụ
Căn cứ của bộ tiêu chuẩn trên được xây dựng trên cơ sở: nghiên cứu chuyên gia, nghiên cứu ý kiến khách hàng sau đó tổng hợp và xây dựng bộ tiêu chuẩn, phương pháp tính toán "chỉ số chất lượng phục vụ".
Đối tượng áp dụng: áp dụng cho việc đánh giá chất lượng phục vụ của các đơn vị trực thuộc, các giao dịch và đánh giá đến từng cá nhân.
Nội dung chương trình:
+ Xây dựng tiêu chuẩn chất lượng phục vụ giao tiếp khách hàng.
+ Tổ chức đào tạo, tập huấn, thi sát hạch định kỳ.
+ Sử dụng phương pháp: chuyên gia đánh giá trong vai khách hàng để tiếp xúc và đánh giá điểm giao dịch và người giao dịch viên trên cơ sở bộ tiêu chuẩn. Đơn vị và giao dịch viên sẽ chỉ biết chuyên gia đánh giá là một khách hàng, nhưng thực chất là người kiểm tra và đánh giá trong vai gọi là "khách hàng bí mật".
- Tổ chức đánh giá định kỳ bằng phương pháp khách hàng bí mật để chấm điểm "chỉ số chất lượng phục vụ khách hàng" của từng giao dịch viên, từng điểm phục vụ. Xây dựng các phần mềm máy tính thống kê vẽ biểu mẫu, theo dõi biến động của chỉ số này.
3.2.3. Đẩy mạnh đầu tư, tăng cường cơ sở hạ tầng và phát triển công nghệ cho lĩnh vực dịch vụ
Thành phố Hà Nội chủ động phối hợp với Bộ Kế hoạch Đầu tư, Bộ Tài chính và các cơ quan liên quan nghiên cứu sửa đổi, bổ sung cơ chế, chính sách đầu tư cho khu vực dịch vụ theo hướng khuyến khích xã hội hoá; mở rộng cho các thành phần kinh tế, kể cả doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài, nhằm thu hút vốn đầu tư lớn, những tập đoàn xuyên quốc gia, hướng mạnh vào một số lĩnh vực dịch vụ như: thương mại, du lịch, giao thông công cộng, tài chính- ngân hàng, bưu chính viễn thông,...
Đầu tư mở rộng mạng lưới, phát triển dịch vụ
- Tiếp tục đẩy mạnh đầu tư phát triển, nâng cao khả năng của mạng luới, đầu tư phát triển các dịch vụ mới đáp ứng nhu cầu của khách hàng và tận dụng tối đa năng lực sẵn có của mạng lưới hiện nay.
- Xây dựng kế hoạch đầu tư phát triển mạng lưới trên cơ sở cấu trúc phù hợp với những tiến bộ khoa học công nghệ và gắn kết chặt chẽ với kết quả khai thác, kinh doanh các sản phẩm, dịch vụ trên từng địa bàn, từng khu vực.
- Hướng mạnh đầu tư có trọng điểm, kết hợp với đầu tư chiều sâu, phát triển mạng dịch vụ theo hướng đi trước, đón đầu, đầu tư tập trung vào các khu vực, các vùng thị trường có thể thương mại hoá nhanh, đảm bảo đầu tư có hiệu quả, kinh doanh có lãi và hoàn vốn nhanh.
- Đẩy mạnh phân cấp quản lý đầu tư với các đơn vị trực thuộc theo tính chất công trình và quy mô dự án, tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình dịch chuyển cơ cấu sản xuất kinh doanh và đầu tư, cơ cấu lao động, tăng thêm quyền chủ động cho các đơn vị thành viên.
- Đầu tư phát triển mạnh mạng lưới ra khu ven đô, các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu đô thị mới, nhà cao tầng... để khai thác nhu cầu những thị trường còn nhiều tiềm năng.
Cải thiện môi trường và cơ sở vật chất - kỹ thuật:
- Xây dựng quy chuẩn tăng diện tích mặt bằng của các điểm đại lý thuộc trung tâm. Loại bỏ các điểm giao dịch có mật độ khách hàng thấp, diện tích quá nhỏ không đảm bảo tính thẩm mỹ cũng như tính kinh tế.
- Thực hiện trang bị đồng phục đẹp, nghiêm túc nhằm tạo cảm giác thoải mái, tin cậy của khách hàng, nâng cao tính chuyên nghiệp và trình độ ứng xử cao của nhân viên.
- Bổ sung, nâng cấp trang thiết bị tại một số điểm giao dịch trung tâm thường có đông khách hàng.
- Hỗ trợ các đại lý lớn trong việc nâng cấp cửa hàng...trên cơ sở thống nhất về mặt trang trí với các điểm giao dịch của trung tâm và đảm bảo hiệu quả kinh doanh.
3.2.4. Phát triển, nâng cao tính chuyên nghiệp nguồn nhân lực
Phát triển nguồn nhân lực, đào tạo và sử dụng hiệu quả lực lượng lao động hoạt động trên lĩnh vực dịch vụ Thủ đô là khâu quyết định trong việc thực hiện chiến lược và chương trình phát triển dịch vụ Thủ đô. Đội ngũ này phải trở thành chuyên nghiệp, có trình độ ứng xử cao với phong cách văn minh, thanh lịch của người Tràng An. Người lao động hoạt động dịch vụ vừa là cầu nối trực tiếp giữa Nhà nước với nhân dân, là người ngoại giao nhân dân với bạn bè quốc tế.
Cần có quy hoạch xây dựng đội ngũ cán bộ đồng bộ và có chất lượng, từ cán bộ quản lý Nhà nước, cán bộ quản lý sản xuất kinh doanh, cán bộ tham mưu, chuyên gia trên các lĩnh vực, trong đó nòng cốt là đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở đến người lao động hoạt động dịch vụ.
Cần thiết lập cơ chế hợp lý, đảm bảo sự chuyển tiếp liên tục giữa các thế hệ cán bộ một cách vững vàng, giữa thế hệ cán bộ lớn tuổi có nhiều kinh nghiệm với cán bộ trẻ có trình độ ngoại ngữ và chuyên môn cao. Mặt khác, cần có chiến lược đổi mới công tác cán bộ nhằm phát hiện, thu hút được nhân tài trong và ngoài nước; sử dụng hiệu quả cán bộ trẻ có năng lực và phẩm chất tốt vào các vị trí phù hợp.
Để những cơ chế, chính sách trên đi được vào cuộc sống, cần thực hiện những bước đi cụ thể sau:
Thứ nhất, xây dựng một hệ thống định mức, tiêu chuẩn và quy định cụ thể cho từng công việc về chất lượng sản phẩm dịch vụ, về chi phí tạo ra sản phẩm, trình độ cán bộ thực hiện.
Thứ hai, xây dựng và chỉ đạo thực hiện tốt công tác quy hoạch cán bộ bằng việc tiến hành các khảo sát, đánh giá cán bộ hiện tại và cán bộ trong diện quy hoạch, xem xét bổ sung những cán bộ phấn đấu tốt; loại khỏi danh sách quy hoạch những cán bộ không còn đảm bảo tiêu chuẩn, không phát huy được trong cương vị công tác được giao. Tổ chức lấy phiếu giới thiệu quy hoạch cán bộ trong tập thể cán bộ chủ chốt và lập danh sách quy hoạch cán bộ của đơn vị. Đặc biệt, việc quy hoạch cán bộ phải toàn diện, quan tâm tạo nguồn cán bộ lãnh đạo, quản lý trẻ hoạt động dịch vụ.
Thứ ba, cần xây dựng chương trình đào tạo cán bộ cho từng ngành và thực hiện kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng, rèn luyện và thử thách cán bộ, bố trí sử dụng đối với cán bộ đã được đào tạo thông qua quy hoạch. Đặc biệt, cần đổi mới công tác đào tạo bồi dưỡng cán bộ, đẩy mạnh hợp tác quốc tế trên lĩnh vực đào tạo bồi dưỡng cán bộ nhằm tiếp thu những kiến thức mới và hiện đại.
Thứ tư, đánh giá lại chất lượng cán bộ và người lao động để có tiêu chí cho việc lựa chọn, bổ nhiệm, bố trí sử dụng cán bộ đúng với năng lực, chuyên môn của họ. Tăng cường công tác quản lý cán bộ, quản lý nhân sự trong hoạt động dịch vụ.
Để hoàn thiện quy trình xây dựng kế hoạch đào tạo, cần xác định được nhu cầu (cả về số lượng và chất lượng theo cơ cấu từng lĩnh vực) của hoạt động dịch vụ. Trên cơ sở đó, cân đối giữa nhu cầu thực tế cho hoạt động dịch vụ và đội ngũ nhân sự hiện tại để lập kế hoạch. Xây dựng lại định mức, định biên lao động hợp lý làm cơ sở khoa học cho việc xác định nhu cầu nhân sự hiện tại đối với từng lĩnh vực hoạt động dịch vụ.
Chú trọng việc đánh giá kết quả đào tạo trong quá trình đào tạo và sự tiếp nhận của thị trường lao động dịch vụ sau quá trình đào tạo. Đổi mới cơ bản chương trình, nội dung và phương pháp đào tạo. Cùng với đào tạo mới, cần chú trọng đội ngũ nhân lực hoạt động dịch vụ.
Đối với cán bộ lãnh đạo, quản lý gồm giám đốc, phó giám đốc, lãnh đạo và chuyên viên các phòng, ban quản lý cấp công ty, nội dung chương trình đào tạo nhất thiết phải có các mảng kiến thức về quản lý vĩ mô, các phương pháp điều hành kinh doanh, chuyên sâu vào các lĩnh vực quản lý chức năng...
Đối với cán bộ lãnh đạo, quản lý các đơn vị trực thuộc gồm giám đốc, phó giám đốc, lãnh đạo các phòng, ban quản lý, cán bộ quản lý tham mưu giúp việc của lãnh đạo các đơn vị trực thuộc, nội dung chương trình đào tạo chú trọng các kiến thức về quản lý hành chính, xử lý thông tin, kiến thức về nghiệp vụ...
Chú trọng đào tạo bổ sung một số kỹ năng khác, gồm:
- Đào tạo kỹ năng sử dụng máy vi tính diện rộng cho cán bộ công nhân viên để khai thác mạng nội bộ theo quy trình xử lý thông tin hiện đại
- Đào tạo nâng cao trình độ ngoại ngữ cho các cán bộ quản lý, trực tiếp tham gia vào các hoạt động dịch vụ đối ngoại; cán bộ kỹ thuật, công nghệ, cán bộ tin học và một bộ phận cán bộ nhân viên khâu giao dịch với khách hàng.
3.2.5. Mở rộng xã hội hoá hoạt động dịch vụ
Xã hội hóa vừa là phương tiện mở rộng cung và mở rộng cầu, vừa là phương thức để nâng cao chất lượng dịch vụ. Xã hội hoá các hoạt động dịch vụ xã hội trên cơ sở cả hai hướng: xã hội hoá đối với người sử dụng dịch vụ và xã hội hoá đối với các nhà cung cấp dịch vụ.
+ Đối với người sử dụng dịch vụ:
Tuyên truyền sâu rộng qua các hệ thống truyền thông đại chúng và qua các cuộc tiếp xúc trực tiếp với nhân dân các phường, xã, thôn , xóm về lợi ích và sự bảo đảm, cũng như tính minh bạch của các loại hình dịch vụ. Từ đó vận động mọi người tham gia và đóng góp cho sự phát triển dịch vụ, đặc biệt đối với việc xây dựng và sử dụng đường giao thông, trường học, trạm xá.
Đầu tư từng bước với các cấp độ khác nhau để mở rộng diện khách hàng được phục vụ. Nghiên cứu đưa ra nhiều hình thức đa dạng, thích hợp đối với người thu nhập thấp để họ có thể sử dụng được một số dịch vụ ở trình độ chấp nhận với giá hợp lý. Đây cũng là những bước đi chiến lược nhằm đón trước sự phát triển của thị trường. Tuỳ theo khả năng tài chính, một số nhà cung cấp dịch vụ có thể chấp nhận lỗ trong một thời gian nhất định để thâm nhập thị trường tiềm năng.
Thành phố có thể xem xét để trợ giúp đầu tư một số công trình hạ tầng cơ bản giúp dân có thể tiếp cận được ngay các loại hình dịch vụ như xây dựng chợ, trường học, đường giao thông, trạm xá, điểm văn hoá...Đối với giao thông công cộng nội đô, việc tăng cường thêm một số tuyến xe buýt, xây dựng tàu điện ngầm, đường sắt trên cao sẽ góp phần đáng kể giảm lượng xe máy lưu thông hiện nay. Việc trợ giá cho vé giao thông công cộng là vấn đề chiến lược. Đối với y tế, giáo dục, cần tiếp tục rà soát đưa ra các tiêu chí hợp lý để xác định đúng các đối tượng cần được trợ giúp; cần có cơ chế giám sát hiệu quả để đảm bảo cho các đối tượng được phục vụ với chất lượng cao.
+ Đối với các nhà cung cấp dịch vụ :
Hoàn thiện, bổ sung cơ chế, chính sách khuyến khích các thành phần kinh tế kể cả đối tác nước ngoài, Việt kiều tham gia đầu tư vào dịch vụ.
Thứ nhất, mở rộng danh mục các lĩnh vực hoạt động dịch vụ cho các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, bao gồm cả DN 100% vốn đầu tư nước ngoài, phù hợp với yêu cầu và lộ trình Việt Nam tham gia vào các tổ chức kinh tế khu vực và thế giới.
Thứ hai, sớm ban hành luật doanh nghiệp chung cho mọi thành phần kinh tế, tạo sự bình đẳng trong cạnh tranh đưa dịch vụ chất lượng cao phục vụ khách hàng.
Thứ ba, tạo điều kiện ưu đãi cho các doanh nghiệp ngoài quốc doanh trong quá trình thành lập và thâm nhập thị trường dịch vụ như giảm thuế sử dụng đất, giảm thuế thu nhập doanh nghiệp...đặc biệt đối với doanh nghiệp đưa ra giá phục vụ ở mức thấp hợp lý, hoạt động ở những lĩnh vực Nhà nước chưa có điều kiện thực hiện.
3.2.6. Phát triển hợp tác kinh tế giữa các ngành trong hoạt động dịch vụ trên địa bàn Hà Nội
Hoạt động dịch vụ không thể phát triển mạnh, bền vững nếu không có sự hợp tác chặt chẽ với các ngành kinh tế liên quan khác. Sự hợp tác tạo điều kiện cho các bên tận dụng thế mạnh vốn có của nhau, đồng thời cùng nhau góp vật lực và nhân lực nhằm khắc phục những khó lớn ảnh hướng đến tất cả các bên. Các doanh nghiệp này cùng nhau đề xuất lên Nhà nước, chính quyền địa phương các cơ chế chính sách giúp nâng cao sức cạnh tranh trên thương trường. Nếu các bên có liên quan hợp nhất lại thành tập đoàn kinh tế hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ thì chất lượng dịch vụ sẽ được nâng cao lên nhiều và đối tượng thụ hưởng dịch vụ sẽ được mở rộng. Trong tình hình hội nhập kinh tế đang diễn ra mạnh mẽ như hiện nay, việc hợp tác và thành lập tập đoàn kinh doanh dịch vụ là rất cần thiết.
Việc thành lập các tập đoàn kinh tế mạnh kinh doanh dịch vụ có thể theo một số hướng sau :
+ Thành lập tập đoàn các doanh nghiệp cùng ngành trong nước
Các doanh nghiệp trong nước với thế mạnh về vị trí, đội ngũ cán bộ có trình độ chuyên môn cao, sử dụng công nghệ tiên tiến, khả năng tài chính mạnh, khả năng tiếp cận khách hàng tốt...liên kết lại với nhau theo mô hình công ty cổ phần hoặc mô hình công ty mẹ - con. Mô hình này phải được thực hiện một cách tự nguyện, các bên đều có lợi với sự phân công phối hợp rõ ràng và chặt chẽ. Đây không phải là sự sát nhập do yêu cầu đổi mới, sắp xếp doanh nghiệp vì hoạt động không hiệu quả.
+ Thành lập tập đoàn các doanh nghiệp có yếu tố nước ngoài
Việc liên doanh với nhà đầu tư nước ngoài thành lập tập đoàn kinh doanh dịch vụ dựa trên quan hệ làm ăn sẵn có trước đây sẽ giúp liên doanh nhanh chóng đi vào hoạt động dựa kinh nghiệm mỗi bên và sự tin cậy làm ăn. Phía Việt Nam sẽ học được kinh nghiệm quản lý, phương thức triển khai hoạt động dịch vụ một cách bài bản theo tiêu chuẩn quốc tế để dần có thể thay thế các vị trí điều hành quan trọng trong tập đoàn.
+ Thành lập tập đoàn đa ngành đa sở hữu với các đơn vị thành viên thuộc các ngành khác nhau, song bổ sung cho nhau. Một số đơn vị trong tập đoàn là khách hàng của nhau, cung cấp hàng hoá, dịch vụ cho nhau. Số còn lại là những đơn vị kinh tế cung cấp hàng hoá, dịch vụ ra ngoài xã hội. Như vậy, chất lượng hàng hoá, dịch vụ được bảo đảm lâu dài, chi phí được tiết kiệm, hạ giá bán cho khách hàng. Thành lập tập đoàn siêu thị là một ví dụ. Siêu thị là trung tâm của tập đoàn, có nhiệm vụ đầu tư tài chính cho các cơ sở sản xuất nông nghiệp, công nghiệp, các cơ sở chế biến thức ăn...và đặt yêu cầu chất lượng. Siêu thị là nơi cuối cùng xúc tiến thương mại, xây dựng thương hiệu, cung cấp sản phẩm cho khách hàng.
Ngoài ra, cần khai thác thế mạnh của các đơn vị có dịch vụ liên quan để tạo ra một chuỗi sản phẩm dịch vụ đáp ứng nhu cầu đa dạng, mang tính trọn gói của khách hàng. Nhờ có sự liên kết chặt chẽ giữa tour du lịch lữ hành với hàng không, khách sạn, các điểm du lịch, các nhà hàng... nên du lịch Thái Lan thực sự mang tính cạnh tranh cao, thấp giá hơn cả các tour tương đương trong nước và đi Trung Quốc. Kết quả tương tự có thể đạt được thông qua liên kết giữa Ngân hàng, Du lịch, Thương mại, Y tế...
3.2.7. Tăng cường phối hợp phát triển dịch vụ giữa các doanh nghiệp Trung ương với Hà Nội và giữa Hà Nội với các tỉnh lân cận
Trên địa bàn Hà Nội có rất nhiều tổ chức kinh tế thuộc các Bộ, Ngành trung ương và Hà Nội hoạt động trên cùng một lĩnh vực dịch vụ. Sự cạnh tranh là tất yếu, mang lợi lại cho khách hàng thông qua nâng cao chất lượng sản phẩm và hạ giá bán. Tuy nhiên, nếu thiếu sự phối hợp trên tinh thần các bên đều có lợi sẽ dẫn đến chi phí cao và người tiêu dùng lại bị thiệt. Các doanh nghiệp có thể sử dụng hạ tầng cơ sở của nhau để phát triển dịch vụ mới, trao đổi chuyên gia để cùng nâng cao chất lượng sản phẩm đáp ứng yêu cầu người sử dụng. Sự chồng chéo, lãng phí sẽ được khắc phục. Nhiều ngân hàng chưa thể chi trả tiền cho khách hành của nhau, sổ tiết kiệm chưa thể gửi một ngân hàng, rút tiền ở nhiều ngân hàng khác nhau. Cáp quang truyền hình Hà Nội và cáp quang truyền hình trung ương đều triển khai giống nhau dẫn đến chi phí lên cao do tăng lượng dây cáp và các đầu mối. Về cơ chế phối hợp, rất cần có những kỳ họp thường niên giữa các nhà lãnh đạo Hà Nội và các Bộ, Ngành để đánh giá hiệu quả sự phối hợp và đề xuất các giải pháp tháo gỡ các vướng mắc trong hoạt động dịch vụ theo một chương trình tổng thể chung.
Trong sự phối hợp với các tỉnh lân cận, Hà Nội đóng vai trò trung tâm, đặc biệt là trong lĩnh vực thương mại, du lịch và giao thông. Hà Nội là đầu mối nhập khẩu các hàng hoá quan trọng để từ đó phân phối đi các tỉnh và cũng là đầu mối để thu gom và bán buôn các loại hàng hoá trong nước. Du lịch phía bắc cũng xuất phát chủ yếu từ Hà Nội. Sự phối hợp vượt qua ranh giới lãnh thổ sẽ mang lại sự phát triển cho tất cả các địa phương. Trong thời gian tới, việc cung cấp thực phẩm cho Hà Nội, việc chống ô nhiễm môi trường từ Hà Nội càng trở nên cấp bách. Rác, nước thải Hà Nội đã và đang ảnh hưởng không ít đến các tỉnh lân cận. Sự vận động tự nhiên theo cơ chế thị trường hiện nay cần có sự điều tiết một cách hợp lý theo phương thức phối hợp giữa các nhà lãnh đạo các địa phương. Một chương trình hợp tác chặt chẽ về đầu tư tài chính, về đào tạo nguồn nhân lực, công nghệcủa nhiều ngành của các địa phương không thể thực hiện tốt nếu thiếu vắng sự phối hợp chỉ đạo của các chính quyền địa phương với Hà Nội.
3.2.8. Các giải pháp khác
a/ Tăng cường công tác quản lý thị trường
Thứ nhất, đẩy mạnh tuyên truyền giáo dục để mọi ngành, mọi cấp, các doanh nghiệp, người tiêu dùng cùng nhận thức được những nguy cơ cũng như thấy rõ trách nhiệm của mình trong công tác phòng chống buôn lậu, chống hàng giả và gian lận thương mại nhằm tạo ra sự thống nhất hành động trong công tác phối hợp, hợp tác phòng chống buôn lậu, chống hàng giả và gian lận thương mại.
Thứ hai, thường xuyên tiến hành rà soát, sửa đổi hệ thống cơ chế chính sách hiện hành tạo hành lang pháp lý thuận lợi cho công tác đấu tranh có hiệu quả hơn. Dưới góc độ tổ chức phối hợp, hợp tác giữa các lực lượng và các địa phương trong công tác phòng chống buôn lậu, chống sản xuất, buôn bán hàng giả và gian lận thương mại.
Thứ ba, kiện toàn các Ban chỉ đạo chống buôn lậu, chống hàng giả và gian lận thương mại ở Trung ương và các tỉnh, thành phố (Ban Chỉ đạo 127) với nhiệm vụ thống nhất chỉ đạo, điều hành, theo dõi, đôn đốc và tổ chức sự phối hợp giữa các ngành, các cấp... mặt khác, cần tiến hành đổi mới công tác chỉ đạo điều hành. Cần tăng cường việc tổ chức phối hợp lực lượng trong công tác kiểm tra và xử lý vi phạm.
Thứ tư, sớm ban hành luật sở hữu trí tuệ tạo điều kiện cho hội nhập kinh tế quốc tế. Các nghị định về bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ như 06, 63, 54/CP về sở hữu công nghiệp chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh tế nhiều thành phần, còn một số điểm bất cập cần chỉnh sửa.
b/ Hỗ trợ xây dựng thương hiệu cho doanh nghiệp
Thương hiệu tạo ra nhận thức và niềm tin của người tiêu dùng đối với sản phẩm và dịch vụ mà doanh nghiệp cung ứng. Giá trị của một thương hiệu là triển vọng lợi nhuận mà thương hiệu đó có thể đem lại cho nhà đầu tư trong tương lai. Nói cách khác, thương hiệu là tài sản vô hình của doanh nghiệp. Để giải quyết tốt vấn đề xây dựng thương hiệu, cần thực hiện tốt một số nội dung sau đây:
Thứ nhất, cần tăng cường sự nhận thức của doanh nghiệp về vấn đề thương hiệu bằng việc tổ chức công tác tuyên truyền sâu rộng trong nhân dân nói chung và giới doanh thương nói riêng về tầm quan trọng của việc đăng ký và bảo vệ thương hiệu hàng hoá doanh nghiệp.
Thứ hai, tổ chức sâu rộng hơn nữa công tác thông tin cho nhân dân về những mặt hàng và dịch vụ của Việt nam có chất lượng cao để giúp các doanh nghiệp có hàng chất lượng cao thâm nhập rộng và sâu vào thị trường nội địa và quốc tế.
Thứ ba, cần có những cơ chế, chính sách ưu đãi tín dụng, thủ tục đăng ký dễ dàng, cho các doanh nghiệp đầu tư cho thương hiệu.
Thứ tư, xây dựng và áp dụng hệ thống quản lý chất lượng ISO vào điều hành và triển khai dịch vụ. Đây là một đảm bảo đối với khách hàng về dịch vụ chất lượng cao.
Quy trình, thủ tục phục vụ khách hàng được xây dựng theo tiêu chuẩn tiên tiến và không ngừng hoàn thiện theo hướng giao dịch một cửa. Phong cách phục vụ luôn được đổi mới theo hướng tận tình chu đáo hơn đối với khách hàng.
Thực hiện hệ thống quản lý chất lượng ISO có điều kiện giữ khách hàng đang giao dịch và thu hút thêm khách hàng mới do có lợi thế của chứng chỉ ISO, đặc biệt đối với khách hàng nước ngoài.
3.3. Những giải pháp phát triển dịch vụ chất lượng cao
a/ Xây dựng lộ trình phát triển một số dịch vụ chất lượng cao trong từng ngành
Nghiên cứu, thống kê danh mục các dịch vụ chất lượng cao trong từng ngành dịch vụ ở các nước ASSEAN, Trung Quốc; phân tích các điều kiện cụ thể để có thể đưa các hoạt động dịch vụ chất lượng cao vào cuộc sống như đầu tư nhân lực, thiết bị, công nghệ, số lượng người sẽ tham gia sử dụng dịch vụ. So sánh với hướng phát triển của dịch vụ Hà Nội để dự báo thời điểm đưa dịch vụ chất lượng cao vào hoạt động.
Thành phố tạo điều kiện cho các ngành tham quan, học tập các mô hình dịch vụ ở nước ngoài. Khi một loại hình dịch vụ chất lượng cao mới được đưa vào hoạt động, cần có cơ chế miễn thuế thu nhập doanh nghiệp trong 3 năm đầu, giảm tiếp 50% trong 2 năm tiếp sau.
b/ Tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế tham gia hoạt động dịch vụ chất lượng cao một cách bình đẳng, thông qua :
Tham gia công ty cổ phần sau khi cổ phần hoá với vốn góp là những thiết bị hiện đại, nhân lực trình độ cao. Họ có thể là thể nhân hay pháp nhân trong nước hay của nước ngoài có tiềm lực về tài chính và kinh nghiệm phát triển dịch vụ chất lượng cao. Công cuộc cổ phần hoá đang được đẩy mạnh, song số cổ phiếu được bán ra ngoài vẫn rất ít ỏi.Trong số 1.557 DN đã CPH, vốn nhà nước chiếm 38%, cán bộ công nhân viên mua 54%. Vốn nhà đầu tư ngoài DN chỉ chiếm 8%. Như vậy CPH thực chất vẫn là CPH khép kín, chưa thu hút được các nhà đầu tư chiến lược, dẫn đến chưa có sự thay đổi căn bản về phương thức quản trị DN.
Các đối tác nước ngoài có đủ điều kiện được phép liên doanh với các cơ sở hoạt động dịch vụ của Nhà nước hay tư nhân trong nước. Thay vì lấy giá trị quyền sử dụng đất là chính làm vốn góp, các DN trong nước phải có khả năng tài chính nhất định để tham gia hoạt động dịch vụ.
Cho phép các doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài đầu tư vào Hà Nội với một số ưu đãi nhất định đối với một số dịch vụ chất lượng cao trong danh mục ưu tiên.
c/ Thuê chuyên gia, thiết bị cho dịch vụ chất lượng cao
Thuê chuyên gia cùng thiết bị giúp giải quyết ngay được nhu cầu về dịch vụ cao trước mắt, không phải đầu tư nhiều, không mất thời gian đào tạo. Bên cạnh đó là việc học hỏi kỹ năng vận hành thiết bị, thao tác nghiệp vụ, phương pháp quản lý của chuyên gia. Đây là một hướng đi rất tốt, giúp ta lựa chọn thiết bị tốt với giá hợp lý sau này. Nhân lực Việt nam được đào tạo, sẵn sàng tiếp cận thiết bị mới. Hàng không Việt nam đã tiên phong trong hoạt động này với 2 dạng: thuê khô và thuê ướt. Cần tập trung vào 4 hướng chính sau:
+ Thuê trọn gói cả thiết bị và chuyên gia để phục vụ, giải quyết ngay nhu cầu trước mắt theo yêu cầu của khách hàng.
+ Thuê trọn gói cả thiết bị và chuyên gia có kết hợp đào tạo cán bộ trong nước. Hướng đi này vừa giúp đáp ứng ngay nhu cầu thị trường ( đặc biệt đối với khách hàng trong và ngoài nước có khả năng lớn về tài chính) vừa từng bước giúp hình thành đội ngũ cán bộ chuyên giỏi.
+ Thuê thiết bị và cố vấn. Lúc này, cán bộ Việt Nam đã đủ khả năng vận hành thiết bị song chưa thực sự thành thạo, còn yếu về kỹ năng xử lý tình huống.
+ Thuê thiết bị, cán bộ trong nước tự vận hành. Đây là bước chuyển biến cơ bản để tiến tới tự đầu tư mua thiết bị.
d/ Tăng cường hợp tác quốc tế phát triển dịch vụ chất lượng cao
Dành một khoản ngân sách nhất định để đào tạo thực hành các chuyên gia giỏi ở các cơ sở hiện đại ở nước ngoài, gửi đào tạo bậc cao sau đại học... Các cán bộ đầu ngành cần được tham gia các hội chuyên ngành thế giới, tham gia các hội thảo khoa học để nhanh chóng tiếp cận thông tin về dịch vụ chất lượng cao, từ đó đề xuất các biện pháp kịp thời nâng khả năng đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế và xã hội. Thực hiện cho vay ưu đãi, giảm thuế thu nhập doanh nghiệp khi doanh nghiệp nhận chuyển giao công nghệ, thiết bị phục vụ cho hoạt động dịch vụ chất lượng cao
( trong danh mục ưu tiên )
Kết luận
Sự chuyển đổi và phát triển nền kinh tế theo cơ chế thị trường có sự quản lý và điều tiết của nhà nước hơn 20 năm qua đã làm chuyển biến căn bản, phát triển khá toàn diện và có tính hệ thống cả về nhận thức lý luận, tư duy quản lý và tổ chức chỉ đạo thực tiễn của chúng ta đối với các hoạt động sản xuất và cung ứng dịch vụ trên địa bàn Hà Nội. Các ngành, tiểu ngành dịch vụ đã phát triển cả về số lượng chủng loại và chất lượng, đó là sự xuất hiện và phát triển của tất cả các ngành dịch vụ, sự xuất hiện của hầu hết các tiểu ngành dịch vụ trên địa bàn Hà Nội. Điều này được thể hiện là trong giai đoạn 1990-2001, tỷ trọng giá trị của lĩnh vực dịch vụ trong GDP của Hà Nội luôn ở mức trên 60% và mặc dù hiện nay giảm nhưng vẫn ở mức 55%. Sự phát triển của lĩnh vực dịch vụ ngày càng đóng góp vai trò quan trọng và tích cực trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng khai thác hiệu quả tiềm năng, lợi thế; đẩy nhanh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nhằm nâng cao trình độ nền sản xuất; tạo tiền đề, điều kiện thuận lợi cho quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, phát triển kinh tế - xã hội Hà Nội.
Tuy nhiên, sự khuyến khích mọi nguồn lực xã hội cùng với sự đầu tư lớn của Trung ương và Hà Nội cũng mới chỉ phát triển được những ngành, tiểu ngành dịch vụ dẫn đầu so với mặt bằng chung của cả nước như viễn thông, ngân hàng, y tế, giáo dục - đào tạo nhưng sự hiệu quả, tốc độ phát triển của lĩnh vực dịch vụ trên địa bàn Hà Nội còn thấp hơn so với thành phố Hồ Chí Minh. So với các quốc gia trong ASEAN, trình độ phát triển dịch vụ trên địa bàn Hà Nội chỉ ở mức trung bình, còn so với các nước tiên tiến trên thế giới thì trình độ vẫn ở mức thấp cả về số lượng chủng loại và chất lượng dịch vụ.
Sự hạn chế về tính đa dạng chủng loại và chất lượng dịch vụ trên địa bàn Hà Nội là do trình độ sản xuất và cung ứng dịch vụ còn thấp; thu nhập bình quân đầu người, nhu cầu tiêu dùng dịch vụ ở Hà Nội còn thấp trong khi chưa có cơ chế, chính sách kích thích xuất khẩu dịch vụ tại chỗ; công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá vẫn đang tiếp tục đòi hỏi lượng vốn đầu tư lớn; cơ cấu phát triển ngành dịch vụ chưa hợp lý; trình độ, thái độ lao động trực tiếp tham gia thực hiện dịch vụ còn thấp, thiếu tính chuyên nghiệp; hệ thống các ngành, tiểu ngành dịch vụ chưa phát triển đồng bộ để hỗ trợ, bổ xung cho nhau; khung khổ pháp lý quy định hoạt động dịch vụ còn thiếu, chưa thực sự tạo ra môi trường thuận lợi cho phát triển dịch vụ.
Với xu thế hội nhập kinh tế quốc tế như hiện nay khi Việt Nam đã trở thành thành viên của WTO đã và sẽ ngày càng mở rộng cửa cho sự tham gia của các tổ chức, liên doanh quốc tế với chất lượng dịch vụ mà họ cung cấp rất cao. Đây sẽ thực sự là thách thức rất lớn đối với các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân khi phải cạnh tranh với các đối thủ quốc tế.
danh mục tài liệu tham khảo
1. Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng Cộng sản Việt Nam, NXB Chính trị quốc gia, 2000
2. Trần Văn Chử (chủ nhiệm), Kinh tế học phát triển (tái bản lần thứ ba có sửa chữa, bổ sung), NXB Chính trị quốc gia, 2000.
3. Tô Xuân Dân (chủ nhiệm), Nghiên cứu đề xuất các giải pháp chủ yếu nhằm phát triển một số dịch vụ chất lượng cao, trình đọ cao ở Hà Nội, Đề tài NCKH cấp thành phố, Hà Nội, 2002.
4. Nguyễn Bách Khoa, Marketing Thương mại, NXB Giáo dục, 1999.
5. Eiglier, P.et E. Langeard, Servuction: Marketing Dịch vụ (Tài liệu dịch), NXB Khoa học và Kỹ thuật, 1995.
6. Lưu Văn Nghiêm, Quản trị Marketing dịch vụ, NXB Lao động, 1997.
7. Bùi Tiến Quý, (chủ biên), Phát triển và quản lý nhà nước về kinh tế dịch vụ, NXB Khoa học và Kỹ thuật, 2000.
8. Smith, M.g. và tư vấn gia Việt Nam, Thương mại dịch vụ quốc tế: Chính sách và các vấn đề đàm phán đối với Việt Nam (Báo cáo nghiên cứu, Dự án VIE 95.024/A/01/99), Bộ Thương mại - UNDP, tháng 4/2000.
9. Quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn. Viện chiến lược phát triển - NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội năm 2004.
10. Báo cáo chuyển dịch cơ cấu kinh tế năm 2004, Viện Chiến lược phát triển, Bộ kế hoạch và Đầu tư. Hà Nội tháng 8 năm 2004.
11. Số liệu Thống kê Việt Nam, Thủ đô Hà Nội và các thành phố lớn: TP. Hải Phòng, TP. Hồ Chí Minh, TP. Đà Nẵng năm 2003.
mục lục
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 7755.doc