Đề tài Thực trạng và giải pháp cho việc đầu tư phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa ở nước ta trong giai đoạn hiện nay

Khu vực doanh nghiệp ngoài quốc doanh chính thức của Việt Nam còn quá nhỏ bé. Theo tỷ trọng trong GDP, các doanh nghiệp ngoài quốc doanh thuộc bộ phận chính thức chỉ chiếm 16% GDP năm 1998 trong khi doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chiếm 10% và khu vực Nhà nước (gồm cả hành chính Nhà nước và doanh nghiệp Nhà nước) chiếm khoảng 40% GDP. Tuy nhiên, nếu trước thời kỳ đổi mới hầu như không tồn tại khối doanh nghiệp ngoài quốc doanh, thì nay với tỷ trọng còn khiêm tốn trong GDP khối doanh nghiệp này, nhất là bộ phận chính thức, cho thấy vai trò không thể thiếu của nó trong phát triển kinh tế.

doc78 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1492 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng và giải pháp cho việc đầu tư phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa ở nước ta trong giai đoạn hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
của mình hơn vì như vậy, họ được quyền độc lập trong việc quyết định phương án sử dụng vốn, lại không phải lên kế hoạch để trả nợ. Mặc dù vậy, bất kì doanh nghiệp nào cũng phải có một lượng vốn vay nhất định để đảm bảo đủ vốn cho quá trình sản xuất, kinh doanh được tiến hành liên tục, không bị cản trở. 1.2. Các nguồn tài chính chính thức và phi chính thức Theo nghiên cứu của Viện nghiên cứu và quản lý kinh tế trung ương thì 75% doanh nghiệp vừa và nhỏ có số vốn dưới 50 triệu đồng, chỉ có khoảng 1/3 số doanh nghiệp vừa và nhỏ vay được vốn, trong đó chỉ có 20% vay được từ ngân hàng, còn lại khoảng 80% là nguồn vốn phi chính thức. Nguồn vốn phi chính thức được tìm kiếm từ cho vay nặng lãi, vay bạn bè, vay người thân... Tuy nhiên phạm vi và quy mô nguồn vốn không lớn, chủ doanh nghiệp buộc phải cân nhắc các nhận xét của cá nhân người giúp đỡ tài chính và tạo nên mối quan hệ có tính chất cá nhân, thậm chí còn có thể va chạm đến sự độc lập kinh doanh. Nguồn tài chính chính thức gồm: + Quỹ hỗ trợ phát triển Quỹ này hoạt động qua ngân hàng phục vụ người nghèo, quỹ tín dụng nhân dân, quỹ phát triển nông thôn, liên hiệp hợp tác xã, quỹ hỗ trợ đầu tư quốc gia... Đến tháng 9/2001 trong cả nước có gàn 7 tỷ USD nhàn rỗi, hàng tỷ đồng của quỹ hỗ trợ đầu tư quốc gia chưa được sử dụng và hàng chục ngàn hecta đất và nhà xưởng chưa được dùng đến. Nhìn chung, các nguồn vốn chính thức này đáp ứng được 25,6% nhu cầu vốn của các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Năm 2001, ngân hàng dành tới 35% (45000 tỷ đồng) tổng dư nợ cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ vay nhưng tỷ lệ này còn ở mức thấp. + Nguồn vốn chính phủ và phi chính phủ Hiện nay có nhiều tổ chức quốc tế như ILO, UNIDO, ZDH, tổ chức phát triển Hà Lan, viện Friedrich Erbut (Đức), ESCAP... rất quan tâm đến sự phát triển của các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam. Dự án VIE/91/MOL/SID giữa chính phủ Việt Nam (qua VCCI – Phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam) và chính phủ Thụy Điển có giá trị 1,7 triệu USD dành cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Trung tâm hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam của VCCI (SMEPC) với sự hợp tác của ZDH (Đức) đã là chiếc cầu nối đáng tin cậy của các doanh nghiệp vừa và nhỏ về quản lý, khởi sự, phát triển và huy động. Các nguồn vốn chính thức này tuy không phải là không có song trên thực tế các doanh nghiệp vừa và nhỏ rất khó tiếp cận được với nguồn vốn này. Nguồn vốn quốc tế thường dành cho doanh nghiệp vừa và nhỏ có đủ điều kiện vay vốn như: Mức vốn điều lệ tối thiểu, sự cam kết thực hiện hợp đồng của nghiệp chủ, phương án khả thi... Các ngân hàng thương mại chưa có ưu đãi gì về vay vốn đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ, nhất là cho vay trung và dài hạn, điều kiện thế chấp tài sản chặt chẽ trong khi các doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam ít có đủ tài sản để thế chấp. Các doanh nghiệp nhiều khi không có đủ giấy tờ pháp lý của bất động sản đem thế chấp. Bản thân họ cũng không đủ sức lập kế hoạch kinh doanh dài hạn để thuyết phục các ngân hàng thương mại cho họ vay. Vì vậy, thiếu vốn là trở ngại đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp vừa và nhỏ. 1.3. Nghiệp vụ thu mua tài chính Theo số liệu thống kế của MPDF cho đến nay doanh nghiệp vừa và nhỏ vốn là đối tượng chính của các nghiệp vụ tài chính. Cụ thể các doanh nghiệp vừa và nhỏ đã chiếm 76% tổng số hợp đồng thuê tài chính đã ký và 66% tổng số tiền của hợp đồng thuê tài chính (xem thêm số liệu trong bảng 5) Bảng 12: Hợp đồng thuê tài chính của các doanh nghiệp vừa và nhỏ §èi t­îng thô h­ëng Sè l­îng hîp ®ång Sè tiÒn trong hîp ®ång DNTN võa vµ nhá 54 7880000 DNNN 12 1960000 DN liªn doanh vµ cã vèn ®Çu t­ n­íc ngoµi 5 1950000 Tæng 71 11490000 Nguồn: Nghiên cứu chuyên đề số 8 của MPDF Đối với nghiệp vụ này thì phạm vi của hợp đồng thuê khá rộng từ 7000 USD đến 1,5 triệu USD, mức trung bình hầu hết là 180000 USD. Quy mô hợp đồng trung bình đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ là 140000 USD – đây là con số tương đối lớn so với lượng vốn trung bình của các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam (từ 30000 USD – 120000 USD). Mặt khác, thời hạn trung bình thuê là 38 tháng lâu hơn so với các khoản vay ngân hàng hiện nay, trong đó, thời gian trung bình đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ là 39 tháng. Ngoài ra, nghiệp vụ thuê tài chính này rất có lợi và thiết thực đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam hiện nay, thể hiện ở những mặt sau: + Tỷ lệ đổ vỡ của các hợp đồng là rất thấp. Trong số 71 hợp đồng thuê mua tài chính đã được ký chỉ có 1 hợp đồng bị đổ vỡ. + Các doanh nghiệp vừa và nhỏ tham gia vào các hợp đồng thuê mua đang tỏ ra là những doanh nghiệp có độ tin cậy cao vì đến nay trong số 54 doanh nghiệp chỉ có 5 doanh nghiệp là thanh toán chậm. + Sau khi nhận thức được lợi ích thuê mua tài chính rất nhiều doanh nghiệp đã tiến hành thuê mua tiếp. + Thời gian giải quyết các thủ tục thuê mua tài chính thường chỉ từ 2 – 3 tuần, điều này phản ánh rõ mức độ tiện lợi hơn so với các khoản vay ngân hàng. 3. Vốn đầu tư phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa phân phối theo ngành Doanh nghiệp nhỏ và vừa chủ yếu là doanh nghiệp hoạt động trong những ngành đòi hỏi ít vốn, thu hồi vốn nhanh, không sử dụng nhiều lao động. Do đó, vốn đầu tư cho doanh nghiệp nhỏ và vừa cũng tập trung chủ yếu ở những ngành có đặc điểm là đầu tư ít vốn và thời gian quay vòng vốn nhanh. Các ngành đó là dịch vụ, các cơ sở sản xuất quy mô nhỏ. Xem bảng sau để biết chính xác hơn tỷ trọng vốn đầu tư phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa trong các ngành nghề. Bảng 13: Cơ cấu vốn đầu tư của doanh nghiệp nhỏ và vừa theo ngành kinh tế Đơn vị: tỷ đồng Năm 1999 Năm 2000 Tốc độ phát triển Thực hiện Cơ cấu (%) Thực hiện Cơ cấu (%) Tổng số 33405 100 38065 100 15,4 Nông, lâm nghiệp và thủy sản 4736 14,2 5467 14,4 12,9 Nông, lâm nghiệp 3997 12 4513 11,9 29,2 Thủy sản 738 2,2 954 2,5 12 Công nghiệp và xây dựng 12316 36,9 13797 36,2 11,6 Công nghiệp 11552 34,6 12895 33,9 8 Công nghiệp khai khoáng 884 2,6 954 2,5 16,3 Công nghiệp chế biến 6518 19,5 7582 19,9 5 Điện, khí đốt và nước 4150 12,4 4358 11,4 18,2 Xây dựng 764 2,3 903 2,4 15 Dịch vụ 16353 49 18800 49,4 19,4 Thương nghiệp 713 2,1 851 2,2 15,4 Vận tải và thông tin liên lạc 4535 13,6 5235 13,8 14,5 Dịch vụ khác 11105 33,2 12714 33,4 15,4 Nguồn: Tổng cục Thống kê 2001 Trong công nghiệp, hầu hết các doanh nghiệp nhỏ và vừa tập trung voàn những ngành như thực phẩm và đồ uống, sản xuất và chế biến gỗ và ngành sản xuất phi kim loại. Theo số liệu điều tra năm 1999 của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, số lượng các doanh nghiệp nhỏ và vừa sản xuất và kinh doanh thực phẩm, đồ uống đã tăng 9,2%, số doanh nghiệp nhỏ và vừa hoạt động trong lĩnh vực phi kim loại cũng tăng hơn so với năm trước. Điều này phản ánh xu hướng các doanh nghiệp nhỏ và vừa thường tập trung vào các ngành phục vụ đời sống và có thị trường rộng. Cũng theo bảng số liệu trên, vốn đầu tư phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa cho ngành công nghiệp khai khoáng có xu hướng giảm đi. Lý do một phần là chính sách của Đảng và Nhà nước hạn chế việc khai thác, xuất khẩu các sản phẩm khai thác như gỗ... một phần do yêu cầu của ngành này cần nhiều vốn, máy móc thiết bị hiện đại. Một điểm dễ nhận thấy là số lượng cũng như vốn đầu tư phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa sản xuất trong lĩnh vực may mặc có xu hướng tăng dần trong những năm vừa qua. Hầu hết các doanh nghiệp nhỏ và vừa thực hiện theo các hợp đồng gia công xuất khẩu hoặc cung cấp nguyên liệu, bán thành phẩm cho các đơn vị may mặc lớn trong nền kinh tế. Việc Nhà nước chủ trương khuyến khích khôi phục và phát triển các làng nghề truyền thống không những góp phần phát triển vốn trong ngành may mặc mà còn giúp gìn giữ và phát huy văn hóa dân tộc. Trong nông nghiệp, các doanh nghiệp nhỏ và vừa tập trung đầu tư cho nông, lâm nghiệp, riêng ngư nghiệp chiếm tỷ trọng nhỏ trong toàn bộ vốn đầu tư. Trong nông, lâm nghiệp, doanh nghiệp nhỏ và vừa tập trung cho các ngành thương mại, dịch vụ phục vụ sản xuất. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp, các hộ, hợp tác xã cũng đã quan tâm đầu tư cho khoa học công nghệ phục vụ sản xuất như: đầu tư cho giống mới, kỹ thuật mới... Thương mại, dịch vụ là ngành có mức doanh lợi hấp dẫn nên có nhiều doanh nghiệp nhỏ và vừa tập trung đầu tư. Trong ngành này, doanh nghiệp nhỏ và vừa thường đầu tư cho các ngành vận tải, thông tin liên lạc và khách sạn, nhà hàng. Các doanh nghiệp nhỏ và vừa ngoài tập trung mở rộng quy mô còn tiến hành đầu tư đổi mới công nghệ, phương tiện cũng như đổi mới cách thức quản lý. Sự phát triển của các doanh nghiệp nhỏ và vừa trong các ngành thương mại, dịch vụ vừa góp phần phát triển kinh tế đất nước, vừa giúp cho nền kinh tế vận hành thông suốt. Đặc biệt, sự phát triển của ngành thương mại du lịch còn giúp nâng cao vị thế của Việt Nam trên thế giới. III. Đánh giá tình hình thực hiện đầu tư phát triển của doanh nghiệp nhỏ và vừa ở nước ta 1. Những kết quả đạt được 1.1. Đóng góp trong GDP Khu vực doanh nghiệp ngoài quốc doanh chính thức của Việt Nam còn quá nhỏ bé. Theo tỷ trọng trong GDP, các doanh nghiệp ngoài quốc doanh thuộc bộ phận chính thức chỉ chiếm 16% GDP năm 1998 trong khi doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chiếm 10% và khu vực Nhà nước (gồm cả hành chính Nhà nước và doanh nghiệp Nhà nước) chiếm khoảng 40% GDP. Tuy nhiên, nếu trước thời kỳ đổi mới hầu như không tồn tại khối doanh nghiệp ngoài quốc doanh, thì nay với tỷ trọng còn khiêm tốn trong GDP khối doanh nghiệp này, nhất là bộ phận chính thức, cho thấy vai trò không thể thiếu của nó trong phát triển kinh tế. 1.2. Tạo việc làm Bộ phận doanh nghiệp ngoài quốc doanh chính thức và hợp tác xã phi nông nghiệp chỉ chiếm khoảng 10% việc làm trong năm 1998. Khu vực doanh nghiệp hộ gia đình và các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế ngoài quốc doanh khác chiếm trên 54% lao động công nghiệp trong khi khu vực doanh nghiệp Nhà nước tạo ra phần lớn sản lượng công nghiệp lại chỉ chiếm có 24% lực lượng lao động công nghiệp, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài chỉ chiếm 12% lực lượng lao động công nghiệp. Trong những năm thực hiện giảm biên chế trong các cơ quan hành chính sự nghiệp và doanh nghiệp Nhà nước, chính các doanh nghiệp ngoài quốc doanh đã đóng vai trò chính thu hút lại số lao động dư thừa đó. 1.3. Xuất khẩu Không có số liệu thống kê về phần xuất khẩu của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Tuy nhiên, một điều dễ quan sát thấy là càng ngày các doanh nghiệp ngoài quốc doanh càng xuất khẩu được nhiều hơn. Cuộc khảo sát gần 500 doanh nghiệp ngoài quốc doanh hoạt động chủ yếu trong các ngành công nghiệp sử dụng nhiều lao động như may mặc, giày dép, chế biến hải sản... do MPDF tiến hành cho thấy các doanh nghiệp này xuất khẩu tới 3/4 sản lượng của mình (xem bảng 17). Điều đó có nghĩa là các doanh nghiệp ngoài quốc doanh có định hướng xuất khẩu nhiều hơn so với các doanh nghiệp Nhà nước. Bảng 14: Định hướng xuất khẩu của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh Số lượng DN Tỷ lệ xuất khẩu so với sản lượng (%) Dệt may 159 80,5 Sản phẩm da 34 85 Cao su, nhựa 22 75 Thực phẩm, đồ uống 71 63,2 Chế biến gỗ 65 75,1 Các sản phẩm phi kim loai khác 39 73,2 Các sản phẩm kim loại 9 - Các sản phẩm hóa chất 9 20 Các sản phẩm khác 49 74,4 Tổng số 457 75,3 Nguồn: Số liệu của MPDF 2. Những khó khăn còn tồn tại 2.1. Môi trường chính sách vĩ mô và thủ tục hành chính Môi trường chính sách vĩ mô có một số thuận lợi cơ bản như: Khung khổ pháp lý và chính sách đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh đã liên tục được hoàn thiện; Luật Doanh nghiệp mới với nhiều thuận lợi hơn đã có hiệu lực. Chính phủ đã công bố một chương trình hành động phát triển khu vực tư nhân bao quát nhiều mặt, nhiều lĩnh vực. Cơ chế xuất nhập khẩu tự do hơn qua việc Chính phủ ban hành Nghị định 57/1998/NĐ-CP. Tuy nhiên, trước mắt vẫn còn nhiều khó khăn. Trước hết, đó là hệ quả của khủng hoảng tài chính khu vực xảy ra từ năm 1997. Do mức tăng trưởng chung và nhu cầu trong nước giảm sút trong vài năm trở lại đây kể từ khi cuộc khủng hoảng xảy ra ở một số nước trong khu vực, nên nhiều doanh nghiệp ngoài quốc doanh lâm vào tình trạng sa sút, kém hiệu quả và đình trệ. Điều này dẫn tới hiện tượng giảm đầu tư của tư nhân, cả tư nhân trong nước lẫn tư nhân nước ngoài ở Việt Nam. Tuy nhiên, đây chỉ là xu thế ngắn hạn. Đầu năm 2000, các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô đã có dấu hiệu khả quan hơn các năm trước, hứa hẹn những điều kiện thuận lợi để phục hồi hoạt động sản xuất, kinh doanh và đầu tư của khu vực doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Một khó khăn khác là mặc dù đường lối phát triển kinh tế nhiều thành phần đã được công bố và được thực hiện kể từ năm 1986 đến nay, nhưng các nhà kinh doanh tư nhân trong nước vẫn có tâm lý dè dặt trong đầu tư và sản xuất kinh doanh. Sự lo ngại này có nguồn gốc sâu xa từ những biến cố trong lịch sử chính sách phát triển kinh tế của đất nước, cũng như từ thực tế diễn ra hàng ngày ở các cấp khác nhau hiện nay. Tình trạng không rõ ràng về chủ trương và các chính sách cụ thể để thể hiện đường lối lớn đó đã gây ra tâm lý lo ngần ngại đầu tư lớn, đầu tư dài hạn, kinh doanh lâu dài và bài bản. Sự thiếu nhất quán, hay thay đổi và chồng chéo của một số chính sách cuãng là một yếu tố tác động tiêu cực đối với giới kinh doanh. Giữa doanh nghiệp Nhà nước và doanh nghiệp ngoài quốc doanh còn tồn tại nhiều hiện tượng phân biệt đối xử, cả trong việc đề ra chính sách lẫn trong việc thực hiện chính sách, chẳng hạn như doanh nghiệp Nhà nước có các lợi thế hơn sau đây so với doanh nghiệp ngoài quốc doanh: Vay ngân hàng dễ dàng hơn, lại không phải thế chấp. Dễ dàng thuê đất hơn. Tiếp cận tín dụng ưu đãi của Chính phủ dễ dàng hơn. Được các cấp chính quyền thường quan tâm giúp đỡ và ủng hộ hơn. Ít bị một số cán bộ quản lý Nhà nước ở các cấp gây phiền hà hơn. Tiếp cận với hạn ngạch xuất khẩu dễ dàng hơn. Dễ dàng nhận được thông tin từ các cơ quan Nhà nước hơn. Người lao động và giới quản lý cũng tiếp cận dễ dàng hơn với các dịch vụ đào tạo và bồi dưỡng ngắn hạn miễn phí của các cơ quan Nhà nước dành cho doanh nghiệp. 2.2. Thái độ của xã hội Trong một xã hội mà vai trò của kinh tế tư nhân hay ngoài quốc doanh còn có nhiều cách nhìn nhận khác nhau, ít nhất là theo quan điểm ngắn hạn, thì rõ ràng đó là yếu tố không thuận lợi cho việc phát triển khu vực này. Nghiên cứu của MPDF đã đưa đến một kết luận là quan điểm của xã hội đối với khu vực doanh nghiệp ngoài quốc doanh còn “tiêu cực”. Sự nhìn nhận tiêu cực của xã hội đối với kinh tế tư nhân thể hiện qua những quan điểm như sau: Kinh tế tư nhân không ổn định, mang tính bóc lột, không đóng góp gì cho đất nước. Đa số người được hỏi ý kiến, mà phần đông là giới trẻ cho rằng khu vực tư nhân là sự lựa chọn việc làm cuối cùng của họ. Cán bộ tín dụng không ưa khách hàng là tư nhân. Điều này đã phần nào lý giải tâm trạng không yên tâm của các nhà kinh doanh tư nhân. Về phần mình, các nhà kinh doanh tư nhân cũng cho thấy họ ít tin tưởng vào chính sách của Chính phủ. Rõ ràng đây là yếu tố rất đáng quan tâm và thực sự là một khó khăn không phải của riêng doanh nhân hay của Chính phủ. Một khi Chính phủ và các nhà kinh doanh chưa tin tưởng nhau và chưa tìm thấy cách thức hợp tác vì sự phát triển chung của nền kinh tế thì đó là dấu hiệu đáng lo ngại. Đối với các nhà kinh doanh tư nhân, đây quả là một thách thức lớn và nghiêm trọng. Có thể nói, không một nền kinh tế nào đi tới thành công mà lại thiếu sự hợp tác và đối thoại hiệu quả, thực sự cầu thị giữa Chính phủ và các nhà doanh nghiệp. 2.3. Khó khăn về vốn Tình trạng thiếu vốn rất phổ biến do bản thân các doanh nghiệp ngoài quốc doanh mới được hình thành và phát triển trong những năm gần đây nên tài sản sẵn có còn ít ỏi, không đủ thế chấp cho các khoản vay cần thiết, và chưa đủ uy tín để vay mà không cần thế chấp. Hệ thống ngân hàng thương mại mà nòng cốt là ngân hàng thương mại quốc doanh lại ngần ngại cho các doanh nghiệp ngoài quốc doanh vay do nhiều nguyên nhân: khó theo dõi và giám sát quá trình đầu tư; chi phí cho vay cao vì các khoản vay mà doanh nghiệp ngoài quốc doanh vay thường không lớn bằng các khoản vay dành cho doanh nghiệp Nhà nước; cán bộ tín dụng còn thiếu lòng tin vào doanh nghiệp ngoài quốc doanh; dự án vay mà doanh nghiệp ngoài quốc doanh trình lên ngân hàng thường chưa có tính khả thi cao; doanh nghiệp ngoài quốc doanh lại thường khó tiếp cận với các khoản vay ưu đãi của Nhà nước do các thr tục phê duyệt phức tạp và sự ưu ái của các cơ quan dành cho doanh nghiệp Nhà nước. Tất cả những điều đó dẫn tới tình trạng doanh nghiệp ngoài quốc doanh nhiều khi phải vay vốn trên thị trường tài chính phi chính thức với lãi suất cao, thời hạn vay ngắn, khoản vay không đủ lớn như cần thiết. Sự kém phát triển của hệ thống ngân hàng thương mại cũng là yếu tố cản trở rất lớn cho việc huy động vốn của doanh nghiệp. Sự yếu kém của hệ thống ngân hàng thương mại thể hiện ở những điểm sau: mạng lưới giao dịch quá thưa thớt, phương thức thanh toán chậm và không tiện lợi, năng lực thẩm định dự án còn thiếu, quyền hạn, lợi ích và trách nhiệm của nhân viên tín dụng chưa rõ ràng để khích lệ họ tiếp cận và phục vụ nhu cầu của doanh nghiệp. Các khoản cho vay của ngân hàng thương mại thường là ngắn hạn. Chỉ có khoảng 30% tổng số khoản vay là trung hạn và dài hạn trong khi phần lớn các khoản vay này cũng lại dành cho doanh nghiệp Nhà nước. Ngay cả các ngân hàng thương mại ngoài quốc doanh cũng dành tới 30% các khoản tín dụng để cho các doanh nghiệp Nhà nước vay. Năm 1998, các ngân hàng thương mại đã dành 66% các khoản vay trung và dài hạn cho doanh nghiệp Nhà nước, và 21,6% cho cá nhân vay trong khi các doanh nghiệp chính thức ngoài quốc doanh chỉ được vay 12% tổng số tín dụng trung và dài hạn. Bên cạnh đó, các quy định về thế chấp còn chưa phát triển đầy đủ: ít loại tài sản có thể mang thế chấp hợp pháp, quyền sử dụng đất lại thường chưa được hợp pháp hóa bằng việc được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, thường diễn ra tình trạng ngân hàng đánh giá quá thấp giá trị tài sản thế chấp nhằm đảm bảo an toàn cho mình. 2.4. Khó khăn về mặt bằng sản xuất Thiếu mặt bằng sản xuất cũng như các điều kiện hạ tầng sản xuất cần thiết là tình trạng chung của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Các địa phương còn chậm quy hoạch mặt bằng dnàh cho các hoạt động sản xuất công nghiệp nên các doanh nghiệp ngoài quốc doanh thường không có cơ hội thuê được đất tại địa phương để xây dựng nhà xưởng sản xuất. Các khu công nghiệp lớn, có cơ sở hạ tầng hiện đại, giá thue đất cao thường chỉ thích hợp với các doanh nghiệp lớn và doanh nghiệp Nhà nước mà không phù hợp với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh vốn chủ yếu có quy mô nhỏ và eo hẹp về tài chính. Nhiều doanh nghiệp ngoài quốc doanh phải thuê lại đất của doanh nghiệp Nhà nước với giá cao để sản xuất. Một khảo sát của các chuyên gia JICA (Nhật Bản) đối với một số doanh nghiệp ngoài quốc doanh tại Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh năm 1999 cho thấy chỉ có 51% doanh nghiệp được khảo sát sử dụng đất tự có để sản xuất kinh doanh, số còn lại thuê của Nhà nước hoặc thuê lại của các doanh nghiệp Nhà nước hoặc thuê của các tổ chức khác. Tỷ lệ doanh nghiệp phải đi thuê lại đất ở Hà Nội cao hơn ở thành phố Hồ Chí Minh. Việc thuê lại đất như vậy làm cho giá thành sản phẩm tăng lên, đồng thời doanh nghiệp ngoài quốc doanh đi thuê lại đất (thường là thuê ngắn hạn) không dám đầu tư dài hạn vào máy móc và thiết bị vì e ngại phải trả lại đất vào bất kỳ lúc nào. 2.5. Khó khăn về thị trường, xuất khẩu Thị trường trong nước còn quá nhỏ bé và tăng trưởng chậm do thu nhập của dân cư còn quá thấp và tăng trưởng chậm chạp. Chiến lược công nghiệp hóa để thay thế nhập khẩu với những dự án đầu tư lớn bằng ngân sách Nhà nước lại tạo được rất ít việc làm đã làm cho thu nhập của các tầng lớp dân cư chậm được cải thiện. Bên cạnh đó, chiến lược công nghiệp hóa ở nông thôn nơi có tới 80% dân số không được chú ý thích đáng và không phải là một chiến lược tăng nhanh thu nhập cho người nghèo thông qua việc tạo thêm việc làm. Ngoài ra, Nhà nước là một hộ tiêu thụ lớn, nhưng hàng hóa mà Nhà nước mua sắm, như thực tế các năm qua cho thấy, hầu hết không phải là sản phẩm của doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Kết quả là thị trường tiêu thụ trong nước đối với các sản phẩm của doanh nghiệp ngoài quốc doanh phát triển chậm. Vốn dĩ nhỏ bé, thị trường trong nước lại bị hàng hóa nước ngoài nhập lậu hoặc bán phá giá tràn vào, khiến cho cơ hội đầu tư của các nhà kinh doanh tư nhân càng hiếm hoi. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp Nhà nước với số lượng lớn đã tồn tại từ lâu cũng đang gặp phải những khó khăn về công ăn việc làm nên cũng cố gắng tranh thủ mọi cơ hội đầu tư, cạnh tranh với doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Việc hợp tác đặt hàng giữa các doanh nghiệp Nhà nước quy mô lớn với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh quy mô nhỏ hơn dường như đã không diễn ra. Tất cả những điều đó làm cho thị trường của doanh nghiệp ngoài quốc doanh chậm phát triển. Về xuất khẩu, những khó khăn chính mà doanh nghiệp ngoài quốc doanh gặp phải là: Tiếp cận hạn ngạch xuất khẩu còn hạn chế và dường như doanh nghiệp Nhà nước vẫn có ưu thế hơn. Thiếu thông tin về thị trường và bạn hàng nước ngoài, thiếu mạng lưới tiếp thị. Tín dụng xuất khẩu và bảo hiểm xuất khẩu chưa đáp ứng được nhu cầu của doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Thủ tục hải quan còn phức tạp, phiền toái, việc thực hiện thuế xuất nhập khẩu tùy tiện do mã thuế không đầy đủ. Các khó khăn trong xúc tiến thương mại: ít được tham gia vào các đoàn doanh nghiệp ra nước ngoài, không có điều kiện trưng bày và quảng cáo sản phẩm để xuất khẩu, thiếu cán bộ có năng lực và kiến thức và kinh nghiệm thương mại quốc tế. 2.6. Khó khăn về quản lý, nguồn nhân lực Đội ngũ các nhà kinh doanh tư nhân ở Việt Nam chủ yếu được hình thành trong những năm 90. Vì vậy, họ còn thiếu kinh nghiệm về nhiều mặt, từ kỹ năng quản lý đến hiểu biết về công nghệ và thị trường... Khó khăn chính về nguồn nhân lực là thiếu cán bộ kỹ thuật như kỹ sư có trình độ và thợ lành nghề bậc cao. Do thái độ của xã hội còn chưa thật sự coi trọng khu vực tư nhân, nên nhiều người có trình độ cao ngại làm việc cho khu vực này. Đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, việc tiếp cận các dịch vụ đào tạo nguồn nhân lực do Nhà nước cung cấp có nhiều hạn chế, chủ yếu là do nguồn ngân sách cho việc đào tạo này còn rất hạn hẹp. Các chương trình đào tạo hiện có của hệ thống các trường day nghề và đào tạo cán bộ kỹ thuật lại thường chưa đáp ứng được nhu cầu hiện tại của các doanh nghiệp vì thiên về lý thuyết, ít thực hành, nội dung đào tạo lạc hậu và không phù hợp với yêu cầu. Hiện tại chỉ có một số rất ít cơ sở đào tạo công nhân kỹ thuật trong nước được trang bị hiện đại cả về trang thiết bị lẫn chương trình và cách thức đào tạo. PHẦN 3 PHƯƠNG HƯỚNG PHÁT TRIỂN DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA Ở VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN TỚI I. Phương hướng phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam trong thời đại ngày nay 1. Quan điểm phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam trong thời gian tới Vai trò của doanh nghiệp nhỏ và vừa đã được thừa nhận rộng rãi ở hầu hết các nước trên thế giới. Nhận thức được vấn đề phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa là một nhiệm vụ chiến lược xây dựng quan hệ sản xuất mới, dựa trên đặc điểm, tính chất và xu hướng phát triển của khu vực này, nhằm đạt được mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2005-2010, phải quán triệt quan điểm cơ bản và định hướng phát triển như sau: Phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa là một nhiệm vụ quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của nước ta. Doanh nghiệp nhỏ và vừa cần được ưu tiên phát triển trên cơ sở thị trường throgn một số ngành có chọn lựa là: + Các ngành sản xuất hàng tiêu dùng, hàng thay thế nhập khẩu và hàng xuất khẩu có khả năng cạnh tranh cao. + Các ngành tạo đầu vào cho các doanh nghiệp lớn, cũng như trong các lĩnh viưc phục vụ đầu ra cho các sản phẩm của doanh nghiệp lớn (tức mạng lưới phân phối, gia công chế biến thành phẩm...). + Các ngành thuộc lĩnh vực công nghiệp nông thôn, bao gồm các sản phẩm truyền thống thuộc các làng nghề. Ưu tiên phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa ở nông thôn, cả trong công nghiệp và các ngành dịch vụ, coi công nghiệp nhỏ và vừa là bộ phận quan trọng nhất của chiến lược công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn. Doanh nghiệp nhỏ và vừa được khuyến khích phát triển trong một số ngành nhất định mà doanh nghiệp lớn không có lợi thế tham gia. Phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa trong mối liên kết chặt chẽ với doanh nghiệp lớn. Mối quan hệ chặt chẽ đó được thể hiện qua các khía cạnh sau: + Phân công chuyên môn hóa giữa doanh nghiệp nhỏ và vừa và doanh nghiệp lớn sao cho có hiệu quả, doanh nghiệp nhỏ và vừa vừa tạo đầu vào vừa góp phần tiêu thụ đầu ra của doanh nghiệp lớn. + Doanh nghiệp lớn hỗ trợ cho doanh nghiệp nhỏ và vừa về đào tạo tay nghề, trao đổi thông tin, chuyển giao công nghệ và kinh nghiệm quản lý. + Giao thầu lại cho doanh nghiệp nhỏ và vừa những phần việc trong các hợp đồng lớn mà doanh nghiệp lớn ký với Nhà nước. + Hỗ trợ tài chính lẫn nhau trong quá trình phát triển. Nên nghiên cứu thành lập một số khu công nghiệp tập trung ở các thành phố lớn dành riêng cho doanh nghiệp nhỏ và vừa. 2. Phương hướng phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa Dựa vào tình hình phát triển hiện tại của doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam và của các nước xung quanh như triển vọng phát triển kinh tế của các nước ASEAN, doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam nên phát triển theo 1 trong 4 hướng sau: 2.1. Đẩy mạnh phát triển ngành sản xuất hàng gia công xuất khẩu bằng cách tận dụng hết các lợi thế của Việt Nam Doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam trong ngành sản xuất hàng gia công đã đạt được đỉnh cao phát triển. Họ tiến hành gia công cho các nhà sản xuất nước ngoài như Nhật Bản, Đài Loan, Mỹ, Châu Âu và các nước khác trong các lĩnh vực như may mặc, men, đồ nội thất, đồ gỗ tre, các sản phẩm cao su và da (giầy dép). Sự khéo léo về chân tay và tiền lương thấp là những đóng góp cho khả năng cạnh tranh hàng hóa của họ trên thị trường quốc tế. Do ngành sản xuất hàng gia công đang có tiềm năng phát triển lớn, doanh nghiệp nhỏ và vừa trong lĩnh vực này cần thiết lập cơ chế quản lý tốt hơn để có thể đạt được sự tăng trưởng cao hơn. Điều cũng không kém phần quan trong đối với họ là cũng cần mở rộng sang các lĩnh vực khác như chế biến thức ăn đồng thời tăng năng suất bằng cải tiến công nghệ. Ngoài ra họ cũng nên mở rộng cơ sở cũng như quy mô kinh doanh để có thể tiến hành được việc lập kế hoạch và phát triển sản phẩm. Các doanh nghiệp có thể lợi dụng nghiên cứu sản phẩm trong quá trình gia công để tiến tới khả năng là nhà sản xuất chính sản phẩm của mình. 2.2. Phát triển ngành công nghiệp bổ trợ cho xuất khẩu Một cách khác mà Việt Nam có thể tiến hành đó là phát triển ngành công nghiệp bổ trợ sản xuất chi tiết phụ tùng cho các nhà sản xuất ô tô, hàng điện tử nước ngoài ở Việt Nam. Tuy nhiên, các ngành cơ khí, sửa chữa máy móc đã được các công ty Nhà nước khai thác và phát triển. Kỹ thuật cơ khí và sửa chữa máy hiện nay có thể tận dụng làm cơ sở cho việc phát triển ngành công nghiệp bổ trợ. Đây chính là lợi thế đặc biệt của Việt Nam cho phép Việt Nam cạnh tranh với các nước ASEAN. Không cần phải nói, đối với Việt Nam để phát triển được ngành công nghiệp bổ trợ đòi hỏi sự đổi mới rộng rãi cho kỹ nghệ cơ khí hiện nay. Để đạt được điều này, cần có sự hỗ trợ của Chính phủ trong nhiều lĩnh vực như chuyển giao công nghệ, phát triển nguồn nhân lực và cải tiến thiết bị. Cụ thể là trong ngành sản xuất ô tô và đồ gia dụng điện, việc tổ chức lại cơ cấu sản xuất phải phù hợp với các nước ASEAN nhằm thiết lập một hệ thống ngành sản xuất bổ trợ trong khu vực. Việt Nam cũng được mong đợi tham gia vào quá trình phân công lao động đa phương khu vực một khi ngành sản xuất bổ trợ của Việt Nam phát triển đầy đủ. Khả năng này rất có ý nghĩa bởi vì sự phát triển của ngành công nghiệp bổ trợ sẽ tạo ra cơ hội xuất khẩu mới cho Việt Nam. 2.3. Hướng các ngành sản xuất nông thôn vào xuất khẩu Ở khu vực nông thôn Việt Nam hiện đã có một số ngành như dệt, đồ gỗ, mây tre, sản phẩm bằng đá hay sơn mài. Được biết ở những khu vực gần thành phố lớn như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, ngành công nghiệp dã phát triển thành gia công hàng xuất khẩu. Chính phủ bước đầu cần tổ chức và củng cố lại các ngành sản xuất nông thôn trong nhiều lĩnh vực theo hướng hướng vào xuất khẩu. Ngoài ra, cần tiến hành phân công lại lao động trong cả nước kết hợp giữa sản xuất nông thôn và doanh nghiệp nhỏ và vừa trong nước nhăm phát triển sản xuất xuất khẩu. 2.4. Khuyến khích doanh nghiệp nhỏ và vừa kiểu thành thị Cùng với sự phát triển nền kinh tế Việt Nam, nhiều loại hình doanh nghiệp mới đang xuất hiện ở các thành phố lớn như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh do nhu cầu tiêu dùng mở rộng. Chẳng hạn như ở thành phố Hồ Chí Minh, ngành điện tử sản xuất thiết bị Karaoke đang phát triển. Với quan điểm tăng và mở rộng nhu cầu tiêu dùng ở thành phố, cần phát triển kỹ thuật sản xuất trong nhiều lĩnh vực như chế biến thức ăn, sản xuất hàng thời trang chất lượng cao, công nghiệp giải trí, sản xuất đồ chơi. Các doanh nghiệp nhỏ và vừa thành thị sẽ không chỉ tham gia vào sản xuất hàng gia công. Họ có thể thành lập doanh nghiệp sản xuất mới. Điều quan trọng đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa kiểu thành thị là cần phải tăng khả năng cạnh tranh về giá, tăng cường công tác lập kế hoạch và phát triển sản phẩm để có thể cạnh tranh được với hàng nhập khẩu. Việc khuyến khích sự phát triển doanh nghiệp kiểu thành thị sẽ góp phần thúc đẩy xuất khẩu trong thời gian tới bởi vì họ có khả năng đáp ứng được yêu cầu tiêu dùng của các nước ASEAN. 3. Triển vọng về sự phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam Bảng sau đây sẽ thể hiện các giai đoạn phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa trong thời gian tới theo 4 hướng chính nêu trên. Bảng 15: Triển vọng phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa theo từng giai đoạn Loại hình phát triển Ngắn hạn (nay – 2005) Trung hạn (2006-2010) Dài hạn (2010-2015) Công nghiệp gia công (may, men, gỗ, cao su...) Tiềm năng phát triển của doanh nghiệp nhỏ và vừa về xuất khẩu sẽ được duy trì và củng cố. Nếu xóa bỏ được những hạn chế về huy động vốn, có thể phát triển hơn nữa. Liên doanh với nước ngoài sẽ là phương pháp huy động vốn hiệu quả. Sự phát triển của doanh nghiệp nhỏ và vừa có thể dần dần đạt được thông qua các biện pháp khuyến khích xuất khẩu. Doanh nghiệp nhỏ và vừa sẽ có thể cải thiện được năng suất lao động gia tăng của họ nếu họ có thể thăm dò được các kênh bán hàng mới một cách thành công bằng cách củng cố công nghệ, phát triển sản phẩm của chính mình đồng thời vẫn tiến hành gia công. Những doanh nghiệp ở thành phố có thể trở thành doanh nghiệp nhỏ và vừa “kiểu thành thị” nếu như họ muốn thăm dò thị trường nội địa kèm theo tiêu dùng nội địa mở rộng. Tiếp tục phát triển sản phẩm của chính họ. Khuyến khích sản xuất nông thôn. Gia công sản phẩm cơ khí sẽ phát triển đến đỉnh cao. Ngành công nghiệp bổ trợ cho xuất khẩu (phụ tùng ô tô, điện tử, cơ khí...) Thành lập các doanh nghiệp mới trong ngành công nghiệp bổ trợ sẽ được khuyến khích trên cơ sở kỹ thuật bảo trì và sửa chữa hiện có lợi dụng kỹ thuật của các doanh nghiệp Nhà nước. Việc chuyển giao công nghệ từ các công ty lắp ráp nước ngoài ở Việt Nam cũng cần được khuyến khích. Trình độ công nghệ cao hơn của doanh nghiệp nhỏ và vừa trong ngành công nghiệp bổ trợ sẽ cho phép họ có mối quan hệ tốt hơn với các công ty lắp ráp nước ngoài. Ngành công nghiệp bổ trợ sẽ phát triển hơn nữa thành ngành công nghiệp xuất khẩu cung cấpphụ tung cho các công ty lắp ráp ASEAN. Việt Nam có thể trở thành nguồn cung cấp chính phụ tùng cơ khí chính cho Châu Á, một loại ngành mà không thể tìm thấy ở bất cứ nước ASEAN nào. Sản xuất nông thôn và xuất khẩu (sản phẩm đá, mây tre, sơn mài...) Hệ thống sản xuất nông thôn theo khu vực sẽ được tăng cường bằng sự hợp tác và phối hợp của chính họ (thiết lập quá trình phân công lao động ở mỗi ngành sản xuất). Các đơn đặt hàng sẽ tăng cùng với sự phối hợp với ngành sản xuất gia công. Phân công lao động theo ngành sản xuất sẽ được thiết lập. Họ cũng sẽ tham gia vào việc thăm dò thị trường nước ngoài và phát triển nhãn hiệu sản phẩm của họ với mục đích chuyển sang xuất khẩu (chuyển sang sản xuất gia công). Phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa kiểu thành thị (chế biến thực phẩm, may sản phẩm, kim loại gia dụng, xuất bản, thiết bị điện...) Doanh nghiệp nhỏ và vừa phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng của thành phố sẽ phát triển cùng với sự phát triển của các thành phố lớn như Hà Nội hay Hồ Chí Minh. Một số doanh nghiệp nhỏ và vừa gia công sẽ thăm dò thị trường thành phố và mở rộng sản xuất để đáp ứng nhu cầu nội địa. Thị trường của họ sẽ được mở rộng từ thành phố ra khắp cả nước. Một số doanh nghiệp nhỏ và vừa có thể sản xuất thành công sản phẩm thậm chí có chất lượng tốt hơn là hàng nhập khẩu. Khi doanh nghiệp nhỏ và vừa kiểu thành thị có khả năng cạnh tranh hơn, họ sẽ bắt đầu xuất khẩu một phần sản phẩm của họ ra thị trường nước ngoài. Một vài doanh nghiệp nhỏ và vừa trong ngành sản xuất gia công sẽ trở thành doanh nghiệp nhỏ và vừa kiểu thành thị trong lĩnh vực sản xuất thiết bị điện và cơ khí. Một phần sản phẩm của họ sẽ được xuất khẩu sang các nước láng giềng ASEAN. II. Một số giải pháp cụ thể 1. Giải pháp từ phía Nhà nước 1.1. Hỗ trợ huy động vốn Huy động vốn là vấn đề khó khăn nhất đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam bởi vì vay vốn ngân hàng hay các tổ chức tài chính là rất khó. Hầu hết doanh nghiệp nhỏ và vừa đều dựa vào vốn tư nhân hoặc sự hỗ trợ tài chính cá nhân bằng các quan hệ riêng của mình. Những khó khăn này có thể là những thách thức to lớn đối với sự phát triển của công ty. Chính phủ cần tạo ra một hệ thống tài chính đa dạng để hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa cùng với sự tham gia của các tổ chức tài chính. 1.2. Cải thiện mô hình kinh doanh cho xuất khẩu Doanh nghiệp nhỏ và vừa có thể được phân chia thành 2 nhóm: các công ty hướng xuất khẩu có tỷ trọng đáng kể doanh số bán hàng xuất khẩu trong tổng doanh số và các công ty phụ thuộc chủ yếu vào thị trường nội địa. Trong những năm gần đây, chính những công ty loại hai trên cũng tìm kiếm cơ hội xuất khẩu cho sự phát triển kinh doanh sau này. Tuy nhiên, doanh nghiệp nhỏ và vừa gặp phải rất nhiều hạn chế khi xuất khẩu sản phẩm của họ như giấy phép xuất khẩu và hạn ngạch xuất khẩu. Ngoài ra, hệ thống tín dụng xuất khẩu hoạt động dường như không hiệu quả để đáp ứng nhu cầu doanh nghiệp nhỏ và vừa. Cần có các biện pháp hữu hiệu để xóa bỏ vấn đề này. 1.3. Cải tiến môi trường kinh doanh Rất nhiều doanh nghiệp phàn nàn về môi trường kinh doanh bất lợi về phía họ hơn so với các doanh nghiệp quốc doanh trong nhiều trường hợp. Ngoài các vấn đề đã nêu ở trên về huy động vốn và giấy phép xuất khẩu, việc không đúng mức trong hoạt động của các cơ quan Nhà nước, thiếu đất công nghiệp cũng cần được đặt ra để có môi trường kinh doanh tốt hơn cho doanh nghiệp nhỏ và vừa. Và, cũng cần thiết có nhiều cơ hội liên doanh với nước ngoài dành cho doanh nghiệp nhỏ và vừa. 1.4. Tiếp tục hoàn thiện chính sách đất đai Đất đai và các công trình xây dựng là các yếu tố không thể thiếu được đối với các doanh nghiệp bao gồm cả các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Không có được quyền sử dụng, sở hữu hoặc thuê đất và các công trình xây dựng cần thiết một cách lâu dài, chắc chắn và rõ ràng thì không có một doanh nghiệp nào có thể tiến hành kinh doanh hoặc sản xuất. Do đó, việc xác định rõ ràng đối với đất đai và các công trình xây dựng và quyền thích đáng đối với đất đai trở thành một yếu tố quan trọng trong việc thúc đẩy các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Việc hoàn thiện có thể đi theo các hướng: thống nhất và hiện đại hóa việc đăng ký đối với đất đai và các công trình xây dựng và hợp lý hóa các thủ tục đăng ky đất đai và các công trình xây dựng; làm rõ và đẩy nhanh các thủ tục cấp quyền sử dụng đất đai và nhà cửa; khuyến khích nhân dân đăng ký bằng cách loại bỏ những biện pháp tài chính nặng nề đối với việc đăng ký đất đai và các công trình xây dựng (tức là mức lệ phí và thuế vượt quá 25% mức giá trị tài sản). Quy định các thủ tục rõ ràng, đơn giản và hợp lý để giải quyết các tranh chấp và kiện tụng nhằm giải quyết vấn đề quyền sở hữu và quyền sử dụng, thậm chí trong trường hợp những tài liệu cần thiết không có. 1.5. Chính sách về công nghệ Khi doanh nghiệp nhỏ và vừa bắt đầu nhận thức được chất lượng là vấn đề cốt lõi để xuất khẩu thành công, họ ngày càng quan tâm nhiều hơn đến công nghệ và quản lý chất lượng. Tuy nhiên, hiện nay họ gặp phải rất nhiều trở ngại như khó khăn trong việc thu thập thông tin kỹ thuật và đảm bảo vốn cho việc nghiên cứu và phát triển công nghệ. Các chương trình của Chính phủ trợ giúp tiếp cận công nghệ một cách cho doanh nghiệp nhỏ và vừa là cần thiết. 1.6. Khuyến khích thành lập các hiệp hội ngành công nghiệp Những nỗ lực trong việc tổ chức các hiệp hội ngành hàng đã bắt đầu ở một số ngành như dệt may và nhựa. Tuy nhiên, những hiệp hội này vẫn chưa năng động để đáp ứng được yêu cầu của doanh nghiệp nhỏ và vừa. Các hoạt động của họ cần được khuyến khích hơn nữa nhằm hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa. 1.7. Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực Để phát triển nguồn nhân lực trước hết cần đào tạo nguồn lao động. Tổ chức hệ thống dạy nghề hợp lý, phù hợp với điều kiện thực tế của nước ta. Hệ thống dạy nghề cần được tổ chức phân cấp theo cơ cấu ngành gắn liền với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội theo lãnh thổ và phát huy tính xã hội hóa trong công tác đào tạo dạy nghề. Cơ quan trung ương quản lý chung về công tác dạy nghề chịu trách nhiệm phối hợp với các ngành, các địa phương nghiên cứu hoạch định, quy hoạch, kế hoạch trình chính phủ về công tác dạy nghề cho các giai đoạn và những bước tiếp theo. Nội dung không chỉ về hoạch định về quy mô, chất lượng, ngành nghề đào tạo mà cần chỉ rõ phương án bố trí hệ thống các trường dạy nghề. Đồng thời với các trường, các cơ sở do nhà nước quản lý cần khuyến khích đầu tư cho các hình thức tổ chức dạy nghề đa dạng, phong phú khác do các địa phương, do dân tự tổ chức để đào tạo và truyền nghề kịp thời nhằm đáp ứng yêu cầu thiết thực, cấp bách đang đặt ra. Nhà nước cần tăng cường ưu tiên đầu tư cho công tác dạy nghề, tổ chức tốt khâu quản lý công tác dạy nghề. Mặt khác chúng ta cần có hình thức tổ chức mới về dạy nghề để đáp ứng được yêu cầu thực tế của phát triển kinh tế - xã hội trong giai đoạn sắp tới. Song song với công tác đào tạo nguồn lao động, cần đào tạo chủ doanh nghiệp, cán bộ quản lý điều hành doanh nghiệp. Cần đa dạng hóa loại hình đào tạo, bồi dưỡng theo nhiều hình thức khác nhau để phù hợp với nhu cầu học tập đa dạng của chủ doanh nghiệp và cán bộ quản lý, điều hành của các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Để đáp ứng yêu cầu của đông đảo chủ doanh nghiệp nước ta, cần xây dựng mới hệ thống đào tạo bồi dưỡng bao gồm nhiều loại trình độ, thời gian khác nhau và phù hợp với yêu cầu đa dạng về học tập của các doanh nghiệp. Dù phương thức đào tạo có khác nhau nhưng mục đích của hoạt động đào tạo phải có sự thống nhất ở tầm vĩ mô. Việc đào tạo, bồi dưỡng cho chủ doanh nghiệp vừa và nhỏ phải đáp ứng yếu cầu trình độ, kỹ thuật quản lý sản xuất - kinh doanh hiện đại, gắn với thực tiễn của điều kiện Việt Nam. Chương trình, nội dung phải phù hợp với quản lý - kinh doanh trong cơ chế thị trường. 1.8. Nhanh chóng thực hiện luật doanh nghiệp mới Luật doanh nghiệp mới thay thế cho luật doanh nghiệp tư nhân và luật công ty năm 1990 phải thỏa mãn các điều kiện như: hợp lý hóa và đơn giản hóa các thủ tục thành lập doanh nghiệp và công ty, giúp các doanh nghiệp vừa và nhỏ dễ dàng huy động vốn hơn, quy định cơ cấu vốn mềm dẻo hơn, bảo vệ tốt hơn các cổ đông thiểu số, có quy tắc rõ ràng về trách nhiệm pháp lý của giám đốc và các giao dịch quan trọng của công ty như sát nhập và chuyển đổi hình thức công ty, quy định những điều khoản rõ ràng và toàn diện hơn đối với việc quản lý công ty nhằm cải thiện việc quản lý các công ty và kiểm soát tốt hơn những nhà quản lý của các cổ đông. Nhà nước phải ban hành các văn bản pháp luật cần thiết để tạo ra một cơ sở dữ liệu để tập trung thông tin các doanh nghiệp và công ty đã đăng ký và công khai các thông tin đó ra công chúng. Điều này cho phép các cơ quan nhà nước và các doanh nghiệp khác có được những thông tin cơ bản về bất kỳ doanh nghiệp nào có trên thị trường như tên, địa chỉ, hoạt động kinh doanh và hình thức pháp lý của doanh nghiệp đó. 2. Giải pháp từ phía khu vực doanh nghiệp nhỏ và vừa 2.1. Lựa chọn phương án kinh doanh hiệu quả Đây là vấn đề hết sức quan trọng hiện nay bởi vì nhiều doanh nghiệp không có phương án kinh doanh hoặc phương án kinh doanh tính toán không được chặt chẽ nên bị lỗ vốn, thậm chí phá sản. Phương án kinh doanh cần xuất phát từ định hướng chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Tập trung vào những ngành, lĩnh vực, khu vực mà Nhà nước khuyến khích đầu tư để tận dụng tối đa những lợi thế ưu đãi, chiếm lĩnh thị trường. Phương án kinh doanh cũng phải dựa vào lợi thế cạnh tranh của doanh nghiệp, dựa vào năng lực hiện có của doanh nghiệp. Chính vì vậy, yêu cầu chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp cần có tầm nhìn dài, đón xu hướng của thị trường trong nước và thế giới. 2.2. Thu hút vốn cho hoạt động đầu tư phát triển Có được phương án kinh doanh có hiệu quả đã là một thuận lợi lớn cho doanh nghiệp trong việc thu hút vốn đầu tư phát triển. Vấn đề đặt ra là doanh nghiệp cần có kế hoạch thu hút vốn như thế nào cho phù hợp với khả năng của doanh nghiệp trong vấn đề sản xuất cũng như trong vấn để trả nợ vốn vay. Trước hết, các doanh nghiệp phải đa dạng hóa nguồn vốn: kết hợp các nguồn vốn hiện có như vốn vay ngân hàng, vốn tự có, vốn liên doanh liên kết... cùng với các nguồn vốn khác như vốn phát hành cổ phiếu, trái phiếu. Thực hiện đổi mới cơ cấu nguồn vốn theo hướng tăng vốn tự có, vốn liên doanh, liên kết, huy động từ dân. Lựa chọn cơ cấu vốn phù hợp với điều kiện của doanh nghiệp; lên kế hoạch sử dụng vốn, trả nợ vốn vay. Áp dụng các biện pháp làm tăng vốn tự có như: thanh lý, chuyển nhượng những thiết bị không sử dụng để giải phóng vốn, rút ngắn thời gian khấu hao máy móc thiết bị bằng cách sử dụng hết công suất; tăng vòng quay của vốn lưu động; tiến hành phát hành cổ phiếu, trái phiếu trong nội bộ doanh nghiệp, khuyến khích bán cổ phiếu cho người lao động. 2.3. Tăng hiệu quả sử dụng vốn đầu tư Xác định được phương án kinh doanh hiệu quả tức là xác định được cách thức sử dụng đồng vốn đầu tư có hiệu quả. Cụ thể, doanh nghiệp phải lựa chọn hình thức công nghệ phù hợp với nhu cầu của thị trường, mục tiêu, nhiệm vụ của đổi mới công nghệ đồng thời căn cứ vào khả năng, điều kiện về nguồn lực và tính toán hiệu quả kinh tế - xã hội về trước mắt cũng như lâu dài. Từ đó, doanh nghiệp mới tận dụng được ưu đãi, đồng thời đảm bảo doanh nghiệp đi đúng hướng, tiết kiệm nguồn lực, tránh được rủi ro không đáng có. Doanh nghiệp cũng cần quan tâm đến vấn đề chuyển giao công nghệ, đào tạo phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu sản xuất kinh doanh hiện nay. Tổ chức lại doanh nghiệp theo hướng tinh gọn, năng động, hiệu quả, triệt để tiết kiệm, giảm chi phí hành chính (ví dụ như chi phí quản lý doanh nghiệp theo tiêu chuẩn ISO 9002). Mở rộng thị trường trong nước, hướng tới xuất khẩu. Đặc biệt, trong thời đại hiện nay, các doanh nghiệp cần quan tâm hơn nữa tới việc khuyếch trương tài sản vô hình, nâng cao thanh thế và uy tín của doanh nghiệp trên thị trường. 2.4. Tăng sức cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường Tiêu thụ được sản phẩm hay không là vấn đề sống còn của mỗi doanh nghiệp. Sản phẩm được chấp nhận trên thị trường tức là sản phẩm có sức cạnh tranh, có thể đánh bại các sản phẩm cùng loại khác. Nói cách khác, vấn đề sống còn của doanh nghiệp hiện nay là nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm. Trước hết, doanh nghiệp cần có chiến lược sản phẩm lâu dài, phù hợp với năng lực sản xuất của doanh nghiệp. Sau đó, doanh nghiệp cần có nhiều biện pháp (hay nhiều phương án đầu tư) cho tất cả các lĩnh vực sản xuất và có liên quan đến sản xuất như quản lý, nhân lực... để có thể giảm chi phí sản xuất xuống mức thấp nhất có thể. Các giải pháp này đã được trình bày ở các mục trên. Doanh nghiệp cũng nên có quan hệ hợp tác, liên kết trong sản xuất kinh doanh, chú trọng đào tạo nguồn nhân lực. Hiện nay, khi hàng hóa ngày càng phong phú, doanh nghiệp cần quan tâm nhiều hơn đến vấn đề “hậu mãi” và marketing. KẾT LUẬN Doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam đã được hình thành và phát triển ngay từ khi đất nước tiến hành công cuộc đổi mới kinh tế. Bằng sự phát triển của mình, các doanh nghiệp vừa và nhỏ đã có nhiều đóng góp cho sự tăng trưởng, phát triển chung của toàn bộ nền kinh tế. Có thể coi đây là những đặc điểm lớn cho sự phát triển kinh tế nước ta. Phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ là nhiệm vụ mang tính sống còn của đất nước, phải hoàn thành và hoàn thành một cách khẩn trương với chất lượng và hiệu quả thì nước ta mới mong vượt qua được những thách thức lớn lao trong hội nhập và cạnh tranh kinh tế quốc tế. Để đạt được mục tiêu trên, chúng ta phải phát huy mọi tiềm năng của các thành phần kinh tế, đặc biệt là khu vực doanh nghiệp vừa và nhỏ, tập trung tháo gỡ mọi vướng mắc, xóa bỏ mọi trở ngại để khơi dậy nguồn lực trong dân, cổ vũ các nhà kinh doanh và người dân ra sức làm giàu cho bản thân và cho đất nước. Chính vì vậy mà việc đánh giá đúng vai trò quan trọng của các doanh nghiệp vừa và nhỏ, tháo gỡ một số khó khăn trên con đường hoạt động kinh doanh của chúng sẽ là một giải pháp góp phần nâng cao hiệu suất và tính linh hoạt của nền kinh tế. Trên cơ sở đó, đề tài mạnh dạn đưa ra một số quan điểm định hướng và một số giải pháp để có thể thực sự phát huy hơn nữa vai trò của doanh nghiệp vừa và nhỏ trong công cuộc phát triển kinh tế ở Việt Nam. Do trình độ còn hạn chế nên chắc chắn đề tài còn nhiều thiếu sót, rất mong nhân được những ý kiến đóng góp từ phía các thầy cô giáo cũng như từ toàn thể bạn đọc để đề tài được hoàn thiện hơn. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Giáo trình Kinh tế đầu tư do TS. NGUYỄN BẠCH NGUYỆT chủ biên 2. Văn kiện đại hội Đảng lần IX 3. Báo cáo nghiên cứu doanh nghiệp nhỏ và vừa 4. Chuyên đề nghiên cứu kinh tế tư nhân 5. Giải pháp phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam 6. Doanh nghiệp nhỏ và vừa, thực trạng và giải pháp 7. Niên giám thống kê 1999,2000 Môc lôc LỜI MỞ ĐẦU PHẦN 1 LÝ LUẬN CHUNG I. Đầu tư và đầu tư phát triển 1. Khái niệm 2. Đặc điểm của hoạt động đầu tư 3. Vai trò của đầu tư 3.1. Đầu tư tác động đến tổng cung và tổng cầu của nền kinh tế 3.2. Đầu tư tác động đến sự ổn định về kinh tế 3.3. Đầu tư tác động đến tốc độ tăng trưởng và phát triển của nền kinh tế 3.4. Đầu tư tác động đến sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế 3.5. Đầu tư quyết định sự ra đời, tồn tại và phát triển của doanh nghiệp 3.6. Đầu tư tác động tới khoa học và công nghệ II. Doanh nghiệp nhỏ và vừa 1. Khái niệm doanh nghiệp 2. Đặc điểm của doanh nghiệp nhỏ và vừa 3. Các tiêu chí phân loại doanh nghiệp áp dụng ở Việt Nam 4. Vai trò của doanh nghiệp nhỏ và vừa 4.1. Doanh nghiệp nhỏ và vừa chiếm tỷ trọng lớn trong tổng số các doanh nghiệp 4.2. Doanh nghiệp nhỏ và vừa là nơi tạo ra việclàm chủ yếu ở Việt Nam 4.3. Hình thành và phát triển đội ngũ các nhà kinh doanh năng động 4.4. Khai thác và phát huy tốt các nguồn lực tại chỗ 4.5. Đóng góp vào việc tăng trưởng kinh tế 4.6. Góp phần thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa III. Sự cần thiết đầu tư phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa ở nước ta PHẦN 2 THỰC TRẠNG ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA I. Tình hình phát triển của các doanh nghiệp nhỏ và vừa 1. Quá trình phát triển 1.1. Xu thế phát triển về số lượng 1.2. Xu thế phát triển về vốn 2. Cơ cấu doanh nghiệp nhỏ và vừa 2.1. Phân chia theo ngành công nghiệp 2.2. Phân loại theo tỉnh và thành phố 2.3. Phân chia theo số nhân công 2.4. Phân loại theo số vốn 2.5. Phân theo loại hình kinh doanh 3. Lao động của doanh nghiệp nhỏ và vừa II. Thực trạng đầu tư phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa 1. Tình hình thực hiện vốn đầu tư phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam 2. Nguồn vốn đầu tư phát triển các doanh nghiệp nhỏ và vừa 1.1. Vốn tự có 1.2. Các nguồn tài chính chính thức và phi chính thức 1.3. Nghiệp vụ thu mua tài chính 3. Vốn đầu tư phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa phân phối theo ngành III. Đánh giá tình hình thực hiện đầu tư phát triển của doanh nghiệp nhỏ và vừa ở nước ta 1. Những kết quả đạt được 1.1. Đóng góp trong GDP 1.2. Tạo việc làm 1.3. Xuất khẩu 2. Những khó khăn còn tồn tại 2.1. Môi trường chính sách vĩ mô và thủ tục hành chính 2.2. Thái độ của xã hội 2.3. Khó khăn về vốn 2.4. Khó khăn về mặt bằng sản xuất 2.5. Khó khăn về thị trường, xuất khẩu 2.6. Khó khăn về quản lý, nguồn nhân lực PHẦN 3 PHƯƠNG HƯỚNG PHÁT TRIỂN DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA Ở VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN TỚI I. Phương hướng phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam trong thời đại ngày nay 1. Quan điểm phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam trong thời gian tới 2. Phương hướng phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa 2.1. Đẩy mạnh phát triển ngành sản xuất hàng gia công xuất khẩu bằng cách tận dụng hết các lợi thế của Việt Nam 2.2. Phát triển ngành công nghiệp bổ trợ cho xuất khẩu 2.3. Hướng các ngành sản xuất nông thôn vào xuất khẩu 2.4. Khuyến khích doanh nghiệp nhỏ và vừa kiểu thành thị 3. Triển vọng về sự phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam II. Một số giải pháp cụ thể 1. Giải pháp từ phía Nhà nước 1.1. Hỗ trợ huy động vốn 1.2. Cải thiện mô hình kinh doanh cho xuất khẩu 1.3. Cải tiến môi trường kinh doanh 1.4. Tiếp tục hoàn thiện chính sách đất đai 1.5. Chính sách về công nghệ 1.6. Khuyến khích thành lập các hiệp hội ngành công nghiệp 1.7. Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực 1.8. Nhanh chóng thực hiện luật doanh nghiệp mới 2. Giải pháp từ phía khu vực doanh nghiệp nhỏ và vừa 2.1. Lựa chọn phương án kinh doanh hiệu quả 2.2. Thu hút vốn cho hoạt động đầu tư phát triển 2.3. Tăng hiệu quả sử dụng vốn đầu tư 2.4. Tăng sức cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường KẾT LUẬN DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docB0035.doc
Tài liệu liên quan