Đề tài Thực trạng và giải pháp cơ bản để mở rộng và nâng cao hiệu quả của kinh tế đối ngoại ở nước ta hiện nay

Toàn thế giới đang đứng trước những vấn đề về văn hoá, kinh tế, chính trị vô cùng lớn lao. Trong đó, quá trình Việt Nam tham gia hội nhập vào thế giới để cùng hợp tác và phát triển là một xu thế tất yếu. Chúng ta phải đặt vấn đề hội nhập kinh tế quốc tế lên hàng đầu bởi vì cơ sở vật chất sẽ quyết định ý thức và cơ chế xã hội. Kinh tế đối ngoại giờ đây đã dành được vị trí xứng đáng của mình trong nền kinh tế, đã góp phần hình thành nên các quyết định sản xuất và tiêu dùng trong nước, chứ không còn đơn thuần là việc mở rộng của các quan hệ đối ngoại. Tuy vậy đây mới chỉ là một trong vô vàn công việc Việt Nam phải tiến hành, để có thể hoàn thiện được công cuộc đổi mới định chế và chính sách quốc gia. Chính sách của Việt Nam thực sự đã góp một vai trò không thể thiếu trong giai đoạn đổi mới toàn diện vừa qua. Các chính sách luôn được cải cách, biến chuyển theo hướng tự do hoá và hội nhập hoá, do vậy đã làm thay đổi cơ chế kinh tế đối ngoại của Việt Nam và giải quyết cũng như xúc tiến được mối quan hệ giữa kinh tế đối ngoại và toàn bộ sự phát triển của nước ta. Mọi quyết định trong ngoại giao của chúng ta cần mạnh dạn đấu tranh, tích cực tham gia các hoạt động của các tổ chức quốc tế. Chúng ta không nhân nhượng và ngả theo ý đồ của các nước lớn. Chúng ta kiên trì mối quan hệ với các nước lớn cũng như các nước nhỏ, giữ vững nguyên tắc dân chủ hoá, không ngừng thúc đẩy cơ chế quản lý quốc tế, dân chủ hoá, pháp chế hoá.

doc28 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1549 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng và giải pháp cơ bản để mở rộng và nâng cao hiệu quả của kinh tế đối ngoại ở nước ta hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ĐẶTVẤN ĐỀ Kinh tế đối ngoại là một mặt hoạt động không thể thiếu ở một nước nào đó trong thời kì hội nhập và phân công lao động quốc tế vì vâỵ Việt Nam cũng không phải là ngoại lệ Kinh tế đối ngoại góp phần nối liền sản xuất và trao đổi quốc tế, nối liền thị truờng trong nước và quốc tế, khu vực nó góp phần thực hiện trao đổi khoa học kĩ thuật và công nghệ quản lý giữa các nước với nhau. Hoạt động kinh tế đối ngoại góp phần thu hút vốn đầu tư nước ngoài: như vốn đấu tư trực tiêp FDI vốn viện trợ chính thức từ các tổ chức tiền tệ và các chính phủ ODA. Ngoài ra nó còn thu hút khoa học kĩ thuật và công nghệ khai thác và ứng dụng những kinh nghiệm xây dựng và quản lý nền kinh tế hiện đại vào nước ta. Trong quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá ở nước ta kinh tế đối ngoại còn góp phần tích luỹ vốn, thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế tạo nhiều công ăn việc làm cho nhân dân lao động. Việt Nam có khả năng mở rộng quan hệ buôn bán và hợp tác kinh tế với thị trường lớn và những cường quốc công nghệ lớn trên thế giới, đa phương hoá quan hệ thị trường và đối tượng hợp tác phát triển lĩnh vực kinh tế đối ngoại với tốc độ cao. Vậy vấn đề đặt ra ở đây đối với chúng ta là đã làm được gì trong công cuộc xây dựng đất nước, thực trạng và giải pháp cơ bản để mở rộng và nâng cao hiệu quả của kinh tế đối ngoại ở nước ta hiện nay. Để kinh tế đối ngoại đạt được những thành tựu thì cần phải vượt qua được những thử thách của toàn cầu hóa giữ vững đinh hướng xã hội chủ nghĩa. Là một sinh viên kinh tế quốc tế chúng ta cần thiết phải nắm rõ tình hình kinh tế trong nước và quốc tế vậy đề tài này đã giúp chúng ta hiểu được phần nào về thực trạng kinh tế đối ngoại ở nước ta hiện nay. Để hoàn thành được đề tài này, tôi đã nhận được nhiều sự hướng dẫn của thầy giáo cùng sự giúp đỡ từ các sinh viên khoá trên và bạn bè. Tôi xin chân thành cảm ơn. PHẦN LÝ LUẬN *** I. TÍNH TẤT YẾU KHÁCH QUAN CỦA VIỆC MỞ RỘNG QUAN HỆ KINH TẾ ĐỐI NGOẠI. 1. Mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại là xu thế tất yếu Ngày nay, cùng với sự phát triển của những tiến bộ khoa học công nghệ. Đặc biệt là công nghệ thông tin đã thiết lập mối quan hệ kinh tế xã hội phát triển trên một cơ sở hoàn toàn mới, nó có khả năng vượt qua mọi trở ngại về khoảng cách và biên giới, tạo ra sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất. Điều đó làm cho thị trường ngày càng mở rộng, sự luân chuyển của mọi nhân tố cho sự phát triển đều gia tăng không ngừng cả về số lượng và chất lượng, về quy mô và không gian biên giới. Vì thế đã làm cho các nền kinh tế của các dân tộc trên thế giới cho dù khác nhau về vị trí địa lý, truyền thống lịch sử, trình độ phát triển ngày càng tuỳ thuộc lẫn nhau. Phát triển kinh tế không chỉ đơn thuần là trách nhiệm và nghĩa vụ của một quốc gia, dân tộc nào mà nó còn là vấn đề chung của toàn nhân loại. . Ngoài ra còn rất nhiều quy tắc kỹ thuật, sự chuyển giao công nghệ, nguồn nhân lực và chất xám đã quy định hoạt động sản xuất và tiêu dùng của các nước với một mức độ tương đối lớn. Nội dung của phân công lao động quốc tế có nhiều biến đổi. Phân công quốc tế từ phân công truyền thống lấy các nguồn tự nhiên làm cơ sở phát triển thành phân công lấy công nghệ, kỹ thuật hiện đại làm cơ sở; từ phân công giữa các ngành trong một khu vực phát triển thành phân công giữa các ngành thuộc các khu vực và phân công lấy chuyên môn hoá sản phẩm làm cơ sở; từ phân công diễn ra theo phạm vi sản phẩm phát triển thành phân công diễn ra theo phạm vi các yếu tố sản xuất; từ phân công trong lĩnh vực sản xuất thành phân công trong ngành dịch vụ. Cơ chế hình thành phân công quốc tế cũng đang biến đổi. Tức là, từ phân công do lực lượng tự phát của thị trường quyết định phát triển thành phân công do xí nghiệp, chủ yếu là do các công ty xuyên quốc gia kinh doanh và phân công do thành viên các tập đoàn kinh tế, thương mại khu vực tổ chức, sự phân công có tính hiệp định. Phân công theo chiều ngang trở thành hình thức phân công quốc tế chủ yếu, nội dung của nó là phân công theo sản phẩm, theo linh kiện sản phẩm và theo quy trình công nghệ sản phẩm. Phân công quốc tế đã hình thành mạng lưới sản xuất có tính thế giới, làm cho các nước trở thành bộ phận của nền sản xuất thế giới, trở thành một khâu trong dây chuyền giá trị hàng hoá. Nó có lợi cho các nước trên thế giới phát huy đầy đủ ưu thế, tiết kiệm lao động xã hội, làm cho các yếu tố sản xuất được phân bố một cách hợp lý, nâng cao hiệu quả kinh tế, thúc đẩy kinh tế thế giới phát triển. Thứ tư, kinh tế đối ngoại sẽ làm cho mối quan hệ quốc tế ngày càng tăng cường và phát triển. Đến nay, lợi ích chung của các quốc gia trên thế giới không ngừng mở rộng, các nước phát triển và đang phát triển, các nước lớn và nhỏ ngày càng nâng cao mức độ phụ thuộc dựa vào nhau cùng tồn tại, cùng hợp tác và cùng phát triển. Xét một cách cụ thể, kinh tế quốc tế hoá là xu thế tất yếu biểu hiện sự phát triển nhảy vọt của lực lượng sản xuất do phân công lao động quốc tế ngày càng diễn ra sâu sắc, rộng rãi trên phạm vi toàn thế giới dẫn tới sự hình thành nền kinh tế thế giới thứ nhất. Vấn đề mở rộng kinh tế đối ngoại, vượt khỏi biên giới quốc gia, hướng tới phạm vi toàn cầu là một quá trình mà mọi cơ hội và nguyện vọng của mọi người của các chủng tộc và dân tộc khác nhau ở các khu vực và các nước khác nhau cần tìm ra những điểm chung giữa những nét đặc thù khác biệt để có được một cơ chế mới trong mối quan hệ kinh tế xã hội ngày càng phát triển hơn nữa. Đó là mong muốn của bất kỳ dân tộc nào hiện nay. Chính vì vậy, Việt Nam chúng ta đã theo tinh thần đổi mới của đại hội VI, đại hội VII và VIII, cùng các nghị quyết của hội nghị Trung ương trong các kỳ đại hội đều có chú ý đến vấn đề hội nhập quốc tế. Nếu như đại hội VI Đảng ta nhấn mạnh phải “Gắn thị trường trong nước với thị trường thế giới, giải quyết mối quan hệ tiêu dùng trong nước và xuất khẩu, có chính sách bảo vệ sản xuất nội địa”, thì tại Hội nghị Trung ương lần thứ 3 khoá VII đã có bước tiến trong xác định nội dung cụ thể của hội nhập quốc tế, trong dó khẳng định phải khai thông quan hệ với các tổ chức kinh tế quốc tế. Tư tưởng này được khẳng định lại tại hội nghị Trung ương 7 khóa VII là “từng bước tham gia các hội, các tổ chức kinh tế, thương mại thế giới và khu vực”. Đại hội VIII của Đảng tiếp tục phát triển và khẳng định về sự cần thiết cũng như làm rõ thêm nội dung và tiến trình hội nhập. Nghị quyết Đại hội nhấn mạnh “xây dựng một nền kinh tế mở, hội nhập khu vực vào thế giới, hướng mạnh về xuất khẩu, đồng thời thay thế nhập khẩu bằng sản phẩm trong nước sản xuất có hiệu quả”. Để làm rõ thêm tính tất yếu về vấn đề Việt Nam gia nhập kinh tế quốc tế, chúng ta phải tính đến những tác dụng to lớn mà quá trình hội nhập đem lại cho đất nước. 2. Những tác dụng to lớn mà kinh tế đối ngoại đem lại cho Việt Nam. Ngày nay, quá trình kinh tế quốc tế tạo cơ hội cho chúng ta tiếp cận với nguồn vốn và công nghệ kỹ thuật cũng như công nghệ quản lý. Quan hệ trao đổi buôn bán hàng hóa và dịch vụ giữa nước ta với các nước khác gia tăng mạnh mẽ. Đặc biệt là sự chu chuyển của các dòng vốn: Tính đến tháng 9 năm 1999 chúng ta đã thu hút được 35,9 tỷ USD FDI của hơn 70 quốc gia và lãnh thổ trên thế giới, trong đó đầu tư vào công nghiệp và xây dựng là gần 51%. Cùng với vốn FDI chúng ta còn tiếp nhận một lượng không nhỏ nguồn vốn qua kênh ODA. Nguồn ODA thực sự có ý nghĩa quan trọng trong phát triển cơ sở hạ tầng, cả phần cứng và phần mềm đối với Việt Nam. Tính ra mức vốn nước ngoài hiện nay chiếm khoảng 30% tổng vốn đầu tư nước ngoài. Tỷ lệ đóng góp của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài trong GDP đều tăng lên qua các năm. Năm 1993 đạt ,6% đến năm 1998 đạt 9%, năm 1999 đạt khoảng 10,5%. Nguồn thu ngân sách từ khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 370 USD. Đây còn là môi trường mở ra giúp cho nước chúng ta tìm và thực hiện được các dự án đầu tư từ nước ngoài vào. Nó thực sự có ý nghĩa quan trọng trong phát triển cơ sở hạ tầng, cả phần cứng lẫn phần mềm đối với Việt Nam. Bên cạnh cơ hội tận dụng khả năng sử dụng các nguồn vốn, nước ta còn được thụ hưởng những thành quả tiến bộ của kỹ thuật và công nghệ sản xuất mới. Ngày nay, tốc độ phổ cập tri thức mới, kỹ thuật và công nghệ tiên tiến diễn ra nhanh chóng, đa dạng thông qua nhiều hình thức và các kênh truyền thông khác nhau, mà chuyển giao công nghệ là một đặc trưng, một yêu cầu đối với chúng ta trong sự phát triển. Thông qua tiếp nhận và chuyển giao công nghệ, Việt Nam có thể nhanh chóng tiếp cận, bám đuổi và thu hẹp khoảng cách tụt hậu so với các nước đi trước, nhất là với các ngành công nghệ mới, công nghệ mũi nhọn hay các lĩnh vực thuộc lợi thế của mỗi quốc gia, nhờ đó nâng dần sức sản xuất và năng lực khoa học trong nước. Việt Nam được xếp vào các nước có tốc độ phát triển hạ tầng công nghệ thông tin nhanh nhất thế giới, là bằng chứng cho tốc độ và sự chủ động hội nhập của chúng ta. Bên cạnh đó, quá trình hội nhập kinh tế quốc tế sẽ làm cho quá trình cạnh tranh giữa nước ta và các nước khác trên thế giới thêm gay gắt, thị trường mở rộng không ngừng, do đó thúc đẩy chuyên môn hoá sản xuất, kích thích tăng năng xuất lao động. Nhờ hợp lý hoá sản xuất và áp lực cạnh tranh, chúng ta tạo được sự tiết kiệm trong sản xuất, hạ giá thành, tăng hiệu quả cũng như chất lượng của các mặt hàng. Từ đó sẽ tạo được sức hút hấp dẫn với các sản phẩm của chúng ta. Hiện nay ở nước ta chính phủ cũng như doanh nghiệp đang hết sức nỗ lực chuẩn bị cho sự hội nhập vào AFTA vào năm 2006. Quá trình Việt Nam gia nhập kinh tế đối ngoại sẽ nhanh chóng góp phần nâng cao trình độ dân trí, tạo cơ sở nền tảng cho dân chủ phát triển. Giao lưu kinh tế giữa các nước đưa lại điều kiện hội nhập giữa con người của những nền văn hoá, góp phần nâng cao giá trị văn hoá truyền thống, xoá bỏ hủ tục phi nhân văn, mở ra điều kiện cho con người phát triển và cho sự chung sống hoà bình của các nền văn hoá trong không gian toàn cầu. Đồng thời, nó sẽ giải quyết được những vấn đề về việc làm và gia tăng thu nhập. Sự chuyển dịch lao dộng đang diễn ra theo nhiều phương diện, Việt Nam có cơ hội xuất khẩu lao động sang các nước phát triển để thu được ngoại tệ từ bên ngoài vào. Ngoài ra, lao động có trình độ cao sẽ tập trung vào các ngành, lĩnh vực kinh tế mới, như các hoạt động dịch vụ, thương mại, công nghiệp chế biến… Sự phát triển của các ngành này tạo thêm nhiều việc làm mới, do đó tỷ lệ thất nghiệp sẽ giảm xuống và chất lượng nguồn nhân lực sẽ tăng dần thích ứng với quá trình xã hội hoá lao động. II. NHỮNG NGUYÊN TẮC CƠ BẢN CỦA QUAN HỆ KINH TẾ ĐỐI NGOẠI 1. Nguyên tắc bình đẳng Đây là nguyên tắc làm nền tảng cho việc thiết lập quan hệ giữa các quốc gia nói chung và cho việc thiết lập quan hệ quốc tế giữa các quốc gia cũng như giữa các đối tác kinh tế. Nguyên tắc này bắt nguồn từ yêu cầu phải coi mỗi quốc gia trong cộng đồng quốc tế là một quốc gia độc lập có chủ quyền. Từ yêu cầu này, sự hình thành và phát triển của thị trường thế giới mà mỗi quốc gia là một thành viên, với tư cách là thành viên, mỗi quốc gia có quyền kinh doanh tự do tự chủ như mọi quốc gia khác. Vì thế phải đảm bảo tư cách pháp nhân của mỗi quốc gia trước luật pháp và cộng đồng quốc tế. 2. Nguyên tắc cùng có lợi Đây là cơ sở kinh tế để thiết lập và mở rộng quan hệ kinh tế giữa các quốc gia. Mỗi quốc gia cần biết sử dụng lợi thế của mình trong quan hệ kinh tế cụ thể. Nguyên tắc này được cụ thể hóa thành các điều khoản được ký kết giữa các đối tác kinh tế với nhau. Mỗi một quốc gia, theo lý thuyết của A. Smith, đều có lợi thế tuyệt đối với các quốc gia khác. Điều đó được hiểu rằng, họ có nguồn lực khan hiếm được phân bổ và sử dụng để sản xuất ra một hàng hoá nào đó với ưu thế hơn hẳn các quốc gia khác cùng sản xuất ra mặt hàng đó. Hay theo lý thuyết lợi thế so sánh của Dicardo, mỗi quốc gia có lợi thế để sản xuất sản phẩm với ưu thế tuyệt đối hơn hẳn khi sản xuất các mặt hàng khác… Sử dụng các lợi thế, các quốc gia khi tham gia vào quan hệ đối ngoại sẽ tận dụng được nhiều cơ hội thu về những món lợi lớn cho đất nước. 3. Nguyên tắc tôn trọng chủ quyền và không can thiệp vào công việc nội bộ của mỗi quốc gia Trong đời sống của cộng đồng quốc tế, quốc gia có tính độc lập, có chủ quyền về các mặt kinh tế, chính trị xã hội và địa lý. Nguyên tắc này bắt đầu từ nguyên tắc bình đẳng trong quan hệ đối ngoại giữa các quốc gia với nhau. Nó cũng bắt đầu từ nguyên tắc cùng có lợi, mà xét đến cùng là cùng có lợi về mặt kinh tế với tư cách là cơ sở để cùng có lợi ích khác về chính trị, quân sự, xã hội… Nguyên tắc này đòi hỏi mỗi bên, trong hai hoặc nhiều bên phải thực hiện đúng các vấn đề như : Tôn trọng các điều khoản trong nghị định thư và trong hợp đồng kinh tế đã ký kết. Không đưa ra những điều kiện có phương hại đến lợi ích của hau. Không được dùng các thủ đoạn có tính chất can thiệp vào nội bộ của quốc gia có quan hệ, nhất là dùng thủ đoạn kinh tế kỹ thuật và kích động can thiệp vào đường lối chính trị của quốc gia đó. 4. Mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại phải nhằm thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế và phát triển kinh tế – xã hội Trong cộng đồng quốc tế, đứng về trình độ kinh tế kỹ thuật mà xét, giữa các quốc gia có điểm xuất phát và trình độ phát triển không đều nhau. Có thể phân thành hai loại : nước có nền kinh tế phát triển và nước có nền kinh tế đang phát triển hay kém phát triển. Ở những nước có nền kinh tế đang kém phát triển, nhiều vấn đề gay cấn đặt ra, trong đó mắt xích của cái vòng luẩn quẩn là trình độ kỹ thuật lạc hậu do thiếu vốn. Vì vậy, đối với các nước này, việc mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế, nhằm đưa đất nước nhanh chóng thoát khỏi nghèo nàn lạc hậu, đạt tốc độ tăng trưởng và phát triển kinh tế – xã hội cao, sao cho thu nhập quốc dân tính trên đầu người vượt qua mức của loại nước nghèo nàn trên thế giới, từ đó tạo ra đà phát triển ở giai đoạn sau. Bốn nguyên tắc nói trên có liên quan mật thiết với nhau, đều có vai trò và ý nghĩa quan trọng. Xa rời những nguyên tắc đó sẽ không thực hiện được hoặc làm hạn chế tốc độ và hiệu quả của việc mở rộng quan hệ kinh tế quốc dân của mỗi quốc gia. PHẦN CƠ SỞ THỰC TIỄN *** I. THỰC TRẠNG CHUNG CỦA KINH TẾ VIỆT NAM VÀ QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP KINH TẾ 1. Thực trạng kinh tế Việt Nam Năm 2001, trong tình hình có nhiều khó khăn hơn dự kiến, nền kinh tế Việt Nam vẫn tiếp tục phát triển ổn định với tốc độ tăng trưởng cao 6,8%, cao hơn mức của năm 2000. Cơ cấu kinh tế theo GDP đang chuyển dịch theo chiều hướng tích cực, giảm tỷ trọng nông nghiệp, tăng tỷ trọng công nghiệp trong GDP, tỷ trọng công nghiệp đạt 38%, dịch vụ 39% và nông – lâm – thuỷ – hải – sản chiếm 23% so với các con số tương ứng của năm 2000 là 36,6%; 39,1% và 24,3%. Xét về sự đóng góp của các ngành trong việc thực hiện tốc độ tăng trưởng 6,8% GDP thì khu vực công nghiệp đóng góp quan trọng chiếm 3,7%, khu vực dịch vụ đóng góp 2,5% và nông – lâm – thuỷ – hải – sản đóng góp 0,6%. Sự đóng góp nổi bật của các ngành công nghiệp vào tốc độ tăng trưởng và cơ cấu GDP của nền kinh tế nước ta đánh dấu bước tiến mới về chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong năm 2001. Đối chiếu với các chỉ tiêu đã đề ra trong Nghị quyết của Quốc hội về nhiệm vụ năm 2001, thì còn 4 chỉ tiêu chưa đạt kế hoạch, trong đó có 2 chỉ tiêu quan trọng về kinh tế là mức tăng trưởng GDP đạt 6,8%, cao hơn mức của năm 2000 nhưng thấp hơn so với kế hoạch là 7,5%. Kim ngạch xuất khẩu tuy có tăng về lượng song bị thua thiệt về giá khoảng 1,5 tỷ USD nên chỉ tăng 4,5% ( so với mức đề ra là 16% ). Mặc dù chưa thực hiện được các chỉ tiêu đề ra, song trong bối cảnh kinh tế khu vực và thế giới đang có chiều hướng xấu đi, suy giảm mạnh, có nước tăng trưởng âm thì đạt được kết quả như trên là điều đáng khích lệ. Năm 2001, tình hình kinh tế xã hội tiếp tục ổn định, nước ta được công nhận là nơi có môi trường đầu tư ổn định nhất khu vực sau sự kiện 11/9, đó là những thuận lợi cơ bản mà ta phải tận dụng và phát huy. Công nghiệp nước ta có vốn đầu tư nước ngoài tiếp tục phát triển và tăng trưởng ổn định với tốc độ tăng 13,8%... Những thành tựu của năm 2001 đã tạo ra thế và lực mới để nước ta tiếp tục phát triển, thực hiện các mục tiêu của kế hoạch 5 năm 2001 – 2005. Tuy nhiên điểm nổi bật kinh tế của nước ta nói chung là chất lượng tăng trưởng và sức cạnh tranh của các sản phẩm, của doanh nghiệp còn thấp. Theo đánh giá của tổ chức diễn đàn kinh tế thế giới ( WEF ) chỉ số cạnh tranh của Việt Nam năm 1997 đứng thứ 49/53 quốc gia, năm 1998 cải thiện thêm 10 bậc do các nước trong khu vực bị lâm vào khủng hoảng tài chính tiền tệ, thì đến năm 2001 lại lùi xuống vị trí 62/75 quốc gia xếp hạng. Đánh giá lại tình hình kinh tế trong nước sẽ cho phép chúng ta đưa ra những quyết định đúng đắn trong tiến trình hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế. 2. Tình hình thực tế hội nhập của Việt Nam với các tổ chức kinh tế và các nước trên thế giới. Năm 1992, hệ thống danh mục hàng xuất nhập khẩu chịu thuế tương đối thống nhất và hài hoà, được đưa vào áp dụngnăm 1992. Cũng trong năm này, hiệp định thương mại ưu đãi giữa Việt Nam và EEC ( nay là EU ) đã cung cấp các hạn ngạch xuất khẩu cho hàng dệt và quần áo may sẵn của Việt Nam vào Châu Âu, chúng ta dành các ưu đãi về thuế cho một số mặt hàng nhập từ EEC. Hiệp định thương mại quan trọng với khu vực thị trường cao cấp và rộng lớn này đã giải quyết được phần nào vấn đề thiếu hụt thị trường xuất khẩu của Việt Nam, đồng thời mở ra và thúc đẩy tích cực một số mặt hàng xuất khẩu, tận dụng được ưu thế về nguồn lực nội địa của quốc gia. Cũng trong năm này, Việt Nam có quan hệ với Nhật Bản và Nhật Bản là nguồn cung cấp ODA lớn nhất, là một trong 3 nhà đầu tư hàng đầu ở Việt Nam. Năm 1994, Việt Nam giành được vị trí là người quan sát của hiệp định chung về thuế quan và thương mại ( GATT ) sau đổi thành tổ chức thương mại thế giới WTO. Tuy vậy, tiến trình gia nhập vào tổ chức này còn rất nhiều khó khăn, đòi hỏi nỗ lực toàn diện của Việt Nam trong cải cách kinh tế và pháp lý. Trong quan hệ với Mỹ, Việt Nam luôn tỏ ra thiện chí. Năm 1994 Mỹ đã xoá bỏ lệnh cấm vận đối với Việt Nam. Đây là một điều kiện quan trọng để chúng ta thúc đẩy mối quan hệ kinh tế với một môi trường rộng lớn và đầy sôi động. Năm 1995 là một năm hết sức quan trọng khi Việt Nam gia nhập vào tổ chức ASEAN ( vào ngày 28 tháng 7 năm 1995 ) – một hiệp hội trọng yếu của khu vực. Kim ngạch xuất khẩu tăng nhanh từ năm 1995 đến năm 1996 : kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam vào các nước ASEAN năm 1995 là 23,9% trong tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước, năm 1996 là 33,4%. Kim ngạch xuất khẩu 1996 so với 1995 tăng 129,3%. Kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam với các nước ASEAN từ 1995 đến 1999 tăng bình quân 11,2%. Mặt hàng nhập khẩu chủ yếu từ các nước ASEAN vào Việt Nam là máy móc, thiết bị phụ tùng chiếm khoảng 10 – 12% trong tổng kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam với ASEAN, khoảng 60 – 65% là nguyên vật liệu phục vụ cho sản xuất và công nghệ lắp ráp. Cũng trong năm này Việt Nam trở thành thành viên của AFTA, cũng có nghĩa Việt Nam bắt đầu tham gia vào các cam kết giảm quan thuế cho các hàng nhập khẩu nông – công nghiệp cho các nước ASEAN. Năm 1996, Việt Nam ban hành tiếp danh mục các hàng hoá với các mức thuế quan ưu đãi có hiệu lực chung dành cho AFTA, sẽ được áp dụng rộng rãi vào năm 1997. Nhìn chung mức thuế nhập khẩu tối đa giảm xuống còn 80%. Chính sách nhập khẩu tiếp tục giảm số lượng hàng hoá quản lý bằng hạn ngạch nhập khẩu xuống còn 6. Năm 1998, vào tháng 11 Việt Nam đã trở thành thành viên đầy đủ của Diễn đàn Hợp tác kinh tế Châu Á Thái Bình Dương ( APEC ). Việt Nam đã trình kế hoạch hành động về các lịch trình ngắn, trung và dài hạn cho việc thực thi các biện pháp thuế quan, phi thuế quan, thương mại, dịch vụ, v.v… Năm 1999, chúng ta chứng kiến nhiều thay đổi của Việt Nam theo hướng hội nhập, tự do hoá nền kinh tế. Ngân hàng Trung Ương điều chỉnh linh hoạt lãi xuất trần cho vay của các ngân hàng thương mại. Việc này tiếp tục thúc đẩy việc sử dụng tín dụng trên cơ sở rủi ro có liên quan, phù hợp với yêu cầu của thực tiễn khách quan. Năm 2000, trước hết phải kể đến một thành tựu quan trọng của Việt Nam là Việt Nam đã tiến tới ký kết được Hiệp định thương mại với Mỹ – cường quốc lớn nhất thế giới. Hiệp định khẳng định bước tiến mới trong tiến trình bình thường hoá quan hệ nói chung và thương mại nói riêng giữa hai nước. Sau khi Hiệp định có hiệu lực, Việt Nam sẽ được hưởng và ngược lại, sẽ dành cho Mỹ quy chế tối huệ quốc và đối xử bình đẳng. Như vậy, các bên của Hiệp định thương mại sẽ có nền tảng pháp lý để xúc tiến các hoạt động quốc tế thương mại song phương. Qua đó chúng ta thấy rằng : từ năm 1990 đến 1999 tổng giá trị xuất khẩu của Việt Nam tăng 4,5 lần khi đó, tổng giá trị nhập khẩu tăng hơn 4 lần. Trong thực tế kim ngạch xuất khẩu và nhập khẩu gần như ngang bằng. Trong cơ cấu hàng hoá cũng có chuyển biến tích cực theo hướng đa dạng hoá mặt hàng, tăng dần những hàng hoá qua chế biến như chè, cà phê… Trong những năm qua, Việt Nam cũng gia tăng quan hệ với Liên Hợp Quốc, IMF, WB. Tính cho đến nay, đã hơn 20 năm Việt Nam tham gia Liên Hợp Quốc. Sự tham gia này cho phép Việt Nam nhận được sự giúp đỡ của Liên Hợp Quốc trong nhiều lĩnh vực, đồng thời qua đó Việt Nam cũng đóng góp vào sự phát triển của chính tổ chức này. Ghi nhận vào sự đóng góp đó, năm 1997 lần đầu tiên Việt Nam được bầu vào Hội đồng kinh tế xã hội Liên Hợp Quốc. Đây là điều kiện quan trọng cho phép mở rộng và phát triển quan hệ của Việt Nam với Liên Hợp Quốc cũng như với các quốc gia và các tổ chức quốc tế khác. Ngày nay, chúng ta đã tham gia khá tích cực vào các hoạt động của Liên Hợp Quốc. Các tổ chức thuộc Liên Hợp Quốc như : UNDP, UNFPA, UNICEF, UNHCR, UNDCP… Việt Nam đều có quan hệ chặt chẽ. Nói tóm lại, hơn 10 năm đổi mới vừa qua, nhìn từ góc độ kinh tế đối ngoại thì đúng là thập kỷ hội nhập vào nền kinh tế thế giới và khu vực của Việt Nam. Thời gian đó tuy chưa dài nhưng cùng với những kết quả đạt được, đó là bài học kinh nghiệm cả thành công và thất bại trên bước đường hội nhập, đó là hành trang để chúng ta vững bước đi vào giai đoạn mới - đẩy nhanh hơn nữa hội nhập quốc tế. II. NHỮNG THUẬN LỢI CỦA VIỆT NAM TRONG TIẾN TRÌNH HỘI NHẬP KINH TẾ VÀ KHU VỰC 1. Những yếu tố ổn định về chính trị Chúng ta bắt đầu tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế trong điều kiện đất nước hoà bình, chính trị xã hội ổn định. Đây là một nhân tố quan trọng trong giao lưu hội nhập đảm bảo chúng ta chỉ hoà nhập chứ không hoà tan. Phân tích tình hình thực tế, hội nghị Trung Ương khoá VI đã khẳng định tính tất yếu lịch sử của chủ nghĩa xã hội, khẳng định tính khách quan và phương hướng xã hội chủ nghĩa của qua trình cải cách đổi mới. Đại hội VII cũng khẳng định : “Nhân dân ta quyết không chấp nhận con đường nào khác ngoài con đường xã hội chủ nghĩa”. Trên thực tế gắn liền với sự vận động hiện thực của cuộc sống, Đảng ta đã từng bước hoàn thiện, bổ sung cụ thể hoá thêm đường lối đổi mới, mở cửa hội nhập. Trong quá trình đó, Đảng ta đã được củng cố về chính trị và tổ chức, vai trò lãnh đạo của Đảng trong xã hội được tăng cường. Đảng xác định đường lối ở tầm vĩ mô “xu thế không thể tránh khỏi đối với sự phát triển” của việc tham gia kinh tế đối ngoại. Từ nhận thức này, Việt Nam đã có những bước chuyển lớn trong chính sách phát triển kinh tế nói chung, kinh tế đối ngoại nói riêng. Các chính sách này đều theo hướng tự do hoá, tất nhiên ở các tầng cấp khác nhau, phụ thuộc vào thực lực cụ thể ở mỗi lĩnh vực.. 2. Những yếu tố thuận lợi về kinh tế Một yếu tố thuận lợi là nền kinh tế có trình độ và chất lượng phát triển cao hơn. Thể chế kinh tế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp đã được thay thế hoàn toàn bằng thể chế kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa; tính chất tự cung tự cấp và khép kín trong nền kinh tế, đời sống xã hội được thay thế bằng xu hướng mở cửa và chủ động hội nhập quốc tế, kết hợp nội lực và ngoại lực thành sức mạnh tổng hợp. Cơ chế thị trường là hạt nhân của quỹ đạo phát triển kinh tế mới theo nghĩa nó định hình một phương thức mới gắn kết nền kinh tế nước ta với nền kinh tế thế giới. Cơ chế thị trường cũng tạo ra một lớp chủ thể kinh tế mới về chất. Đó là, các chủ thể kinh doanh độc lập, trình độ bản lĩnh cạnh tranh thị trường ngày càng được nâng cao. Qua đó, sự hiện diện của cơ chế thị trường thực sự tạo ra trạng thái xuất phát mới của nền kinh tế nước ta. Điều mấu chốt là cơ chế phân bổ nguồn lực xuất hiện động lực kinh tế trên cơ sở hệ thức đo mới ( thước đo giá trị ). 3. Những yếu tố về nguồn nhân lực Yếu tố quan trọng hơn nữa mà chúng ta cần phải kể đến là nguồn nhân lực của đất nước. Việt Nam hiện nay tuy là quốc gia đang phát triển, là một trong những nước nghèo nhất của thế giới, song nước ta được đánh giá cao về chỉ số nguồn nhân lực. Với thị trường gần 80 triệu dân, trong đó tỷ lệ người lao động chiếm 35,9 triệu người, số người trong độ tuổi từ 16 – 34 chiếm 60%. Nguồn bổ sung hàng năm là 3%, tức khoảng 1,24 triệu người. Tỷ lệ người lớn biết chữ khá cao 88%. Số năm đi học trung bình của một người dân là 5 năm. Trình độ dân trí được xếp loại trung bình khá trong khu vực. Người Việt Nam có truyền thống cần cù, thông minh, ham học hỏi, cầu tiến bộ, có ý chí và tinh thần tự lực tự cường. Chúng ta là một dân tộc phát triển khá về thể lực và trí lực, có tính động cơ cao để tiếp thu nhanh kiến thức khoa học công nghệ hiện đại. Có thể nói đây là một trong số các lợi thế so sánh của ta trong quá trình hội nhập. Bởi vì ngày nay lợi thế so sánh của sự phát triển nhanh chóng đang chuyển dần từ yếu tố giàu tài nguyên, tiền vốn… sang lợi thế về trình độ trí tuệ tri thức cao của con người. Chất xám trở thành nguồn vốn lớn và quý giá, là nhân tố quyết định sự tăng trưởng và phát triển của mọi quốc gia. Hội nhập kinh tế quốc tế sẽ tạo cơ hội để nguồn nhân lực của nước ta khai thông giao lưu với thế giới bên ngoài. Ta có thể hội hập để xuất khẩu lao động qua các hợp đồng gia công chế biến hàng xuất khẩu. Đồng thời tạo điều kiện nhập khẩu lao động kỹ thuật cao, công nghệ mới mà hiện nay ta đang rất cần. Như vậy với lợi thế nhất định về nguồn lao động cho phép lựa chọn dạng hình phù hợp tham gia hội nhập và chính qua đó, chúng ta có điều kiện để nâng cao chất lượng nguồn lao động Việt Nam. 4. Thuận lợi của nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú Về vị trí địa lý, nước ta là cửa ngõ đi ra Thái Bình Dương của một số quốc gia Đông Nam Á, là điểm tiếp giáp các tuyến đường giao thông quan trọng của thế giới. Đáng chú ý với bờ biển rộng, trải dài từ bắc tới nam với nhiều hải cảng, đặc biệt là cảng Cam Ranh có độ sâu thuận lợi cho sự phát triển giao thông hàng hải cũng như phát triển kinh tế hàng hoá. Ngoài một số khoáng sản như Bôxit có trữ lượng lớn : 5 tỷ tấn, đứng thứ ba thế giới, quặng đất hiếm cũng có trữ lượng đứng thứ hai thế giới... các loại khoáng sản khác của nước ta không có trữ lượng lớn nhưng rất đa dạng và phong phú. Trong thời gian qua việc khai thác và chế biến còn vô cùng hạn chế. Để đẩy mạnh quá trình công nghiệp hiện đại hóa thì việc khai thác sử dụng nguồn lực đó thông qua hợp tác quốc tế là rất cần thiết. Với thực trạng nguồn tài nguyên thiên nhiên, chúng ta cần phát huy năng lực bên trong, đẩy mạnh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế sang xuất khẩu các mặt hàng chế biến. Chúng ta cần tập trung phát triển các ngành vật liệu xây dựng, gốm sứ du lịch kết hợp phát triển các sản phẩm từ cây công nghiệp để tạo sản phẩm xuất khẩu. Đồng thời chú ý phát triển các loại hình xí nghiệp vừa và nhỏ trên cơ sở liên doanh để tận dụng nguồn khoáng sản phong phú, phục vụ nhu cầu phát triển kinh tế của chúng ta. Với những thế mạnh như trên, Việt Nam có rất nhiều cơ hội cần tận dụng để hội nhập quốc tế. Tuy nhiên, chúng ta cũng gặp rất nhiều khó khăn và thách thức trong tiến trình hội nhập. Hiểu rõ về những vấn đề đó, giúp chúng ta có cái nhìn toàn diện hơn về kinh tế đối ngoại của Việt Nam. III. KHÓ KHĂN VÀ THÁCH THỨC CỦA CHÚNG TA KHI THAM GIA QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP KINH TẾ 1. Điều đáng lo ngại của sự tụt hậu kinh tế Ngay từ năm 1994, nhiều nhà kinh tế cũng như lãnh đạo Việt Nam đã nói đến nguy cơ tụt hậu xa về kinh tế. Nước ta phát triển với điểm xuất phát thấp, cơ sở hạ tầng và trình độ quản lý của con người. Nước ta là nước có nền nông nghiệp là chủ yếu. Thêm vào đó, nền công nghiệp lại phân bố không đều, tập trung chủ yếu ở hai đầu của đất nước. Người lao động có trình độ cao chủ yếu tập trung ở các thành phố lớn. Do đó, sự phát triển công nghiệp ở các vùng sâu vùng xa đã khó khăn lại càng khó khăn hơn. Hiện nay, xét trên bình diện chung thì Việt Nam chậm hơn so với các nước NICs khoảng 30 năm, với Thái Lan chừng 2 thập kỷ, với Trung Quốc khoảng 10 năm, tất nhiên còn cách xa các nước phát triển lâu hơn nữa so với các nước phát triển. Mặc dù chúng ta đã có ý thức rõ rệt và đã có những hành động khá tích cực nhằm thu hẹp khoảng cách này, nhưng trên thực tế nguy cơ này không những chậm được cải thiện mà thậm chí diễn ra theo hướng tiêu cực. Nếu xem xét tình hình các nước đông và đông nam Á qua một số chỉ tiêu có thể nhận rõ điều này. Mặc dù khủng hoảng tài chính nổ ra ở Thái Lan và hậu quả lan rộng rất nặng nề tới nhiều nước như Indonesia, Hàn Quốc, Cộng hoà liên bang Nga… nhưng sau khủng hoảng các nước đã phục hồi và có sự bứt phá rất ngoạn mục. Hàn Quốc đạt tốc độ tăng trưởng GDP trên 9%, hoặc trên 8% của Trung Quốc… trong khi Việt Nam mặc dù được đánh giá là đứng ngoài khủng hoảng nhưng tốc độ lại sụt giảm khá mạnh và sự phục hồi xem ra rất chậm với 5,8% năm 1998, 4,7% năm 1999 và 6,7% vào năm 2000 so với khoảng 9% của thời kỳ 1993 – 1997. Dòng FDI vào Việt Nam giai đoạn 1988 – 1997 là khả quan, đã tiếp sức đáng kể cho sự tăng trưởng, nhưng sự kỳ vọng đó thật ngắn ngủi và hiện đang trong thời kỳ tụt dốc kéo dài, trong khi Trung Quốc lại đang có sức hấp dẫn lớn đối với đầu tư nước ngoài. Hiện nay các nước châu Á nói chung và khu vực nói riêng đang cạnh tranh gắt gao với nhau trong việc cải thiện môi trường để gia tăng các hoạt động thương mại, thu hút xuất khẩu thì ở Việt Nam cả mức độ cạnh tranh, dòng FDI và xuất khẩu lại có xu hướng giảm xuống, hoặc tốc độ cải thiện rất chậm chạp, mức độ cạnh tranh của Việt Nam hiện nay được xếp thứ 53/59 quốc gia, vì thế có thể nhận thấy khoảng cách giữa Việt Nam và các nước đang có nguy cơ dãn rộng thêm. 2. Sự yếu kém trong quản lý kinh tế của Nhà nước Kinh tế đối ngoại lấy tự do hoá kinh tế làm động lực, do đó khu vực kinh tế tư nhận ở đa số các nước tỏ ra rất năng động và là lực lượng chủ lực, đối với chúng ta thì khu vực tư nhân tuy đã có sự quan tâm khuyến khích, có sự tăng trưởng đáng kể liên tục trong vòng 10 năm qua, tuy nhiên khu vực này còn nhỏ bé, manh mún và thiếu vững chắc, khu vực này hiện chiếm chưa đầy đủ 23% GDP. Trong khi khu vực nhà nước là chủ đạo nhưng lại hoạt động kém hiệu quả và được sự bảo trợ quá lớn. Riêng ngành công nghiệp thì kinh tế nhà nước chiếm khoảng 60% giá trị. Mặc dù sở hữu tới 3/4 giá trị tài sản quốc gia nhưng chỉ góp phần tạo ra khoảng 42% GDP. Hơn nữa số doanh nghiệp bị thua lỗ lại có xu hướng tăng lên : 16% năm 1995, 25% năm 1997, 35% năm 2000, thậm chí theo ADB và WB con số đó có thể lên đến 50%. Do được bảo hộ lớn nên khả năng cạnh tranh rất yếu vì giá thành sản phẩm cùng loại cao nhiều so với các nước trong khu vực và thế giới, trong khi chất lượng hàng hoá lại thấp. Hiện nay chi phí đầu vào sản xuất của các doanh nghiệp còn lớn, đang làm giảm sức cạnh tranh của các sản phẩm và doanh nghiệp. Theo số liệu thống kê mới đây cho thấy : chi phí đầu vào bình quân tăng 32,43% từ năm 1996 đến nay, trong đó xăng dầu tăng 42,8%, nước tăng 130%, điện tăng 37,5%, trong khi đó giá dầu chỉ tăng 22% làm cho tỷ suất lợi nhuận bình quân của các doanh nghiệp giảm từ 16,8% năm 1996 còn 6,2% năm 2000, thấp hơn hai lần so với các nước trong khu vực và thấp hơn ba lần so với châu Âu. Các doanh nghiệp chỉ có thể giảm chi phí đầu vào bằng cách đầu tư công nghệ mới, thay đổi phương thức quản lý, triệt để tiết kiệm. Song họ không thể nào ngăn chặn được sự gia tăng chi phí đầu vào do sự leo thang giá cả của không ít loại vật tư nguyên liệu, điện nước, cước phí giao thông, viễn thông, nhất là cước phí của các ngành có tính độc quyền. Ví dụ : giá thuê cổng vào truy cập Internet trực tiếp có mức cước cao hơn so với các nước trong khu vực 139%, cước thuê điện thoại gọi đi quốc tế gần 200%... thêm vào đó hầu hết các sản phẩm của ta dù để xuất khẩu hay tiêu dùng đều phải nhập ngoại nguyên phụ liệu, chi phí đầu vào cao. Đã vậy, hàng nhập khẩu ngoài việc phải chịu thuế nhập khẩu còn phải chịu thuế VAT dù chưa hề có giá trị tăng thêm, trong khi đó thời gian hoàn thuế giá trị gia tăng lại chậm, do vậy làm khó khăn cho các doanh nghiệp về vòng quay vốn và lãi xuất ngân hàng. Ngoài 20 loại phí và 35 loại lệ phí chính thức thuộc ngân sách nhà nước theo Nghị định 04/NĐ - CP ngày 30/4/1999, các doanh nghiệp đang phải chịu những chi phí do sự sách nhiễu của các cán bộ cửa quyền biến chất. Hơn nữa sự rườm rà của thủ tục hành chính, thanh tra kiểm tra chồng chéo, giải phóng mặt bằng… cũng làm gia tăng chi phí đầu vào của các doanh nghiệp. Hậu quả của tình trạng này là giá thành của sản phẩm của khu vực và thế giới, dẫn đến ứ đọng, khó tiêu thụ sản phẩm, năng lực sản xuất không khai thác hết, làm cho nhiều doanh nghiệp thua lỗ. Chẳng hạn : trong khi giá thành sản xuất đường trắng trên thế giới từ 200 đến 250 USD/tấn thì của Việt Nam từ 290 đến 350 USD/tấn, giá thành xi măng của Việt Nam từ 42 đến 65 USD/tấn, giá xi măng nhập khẩu CIF từ 35 đến 40 USD/tấn. Giá thép xây dựng trên thế giới từ 280 đến 300 USD/tấn thì giá bán tại Việt Nam từ 290 đến 350 USD/tấn; giá thành sản xuất xe máy chưa có thuế trong nước trên 1250 USD, trong khi đó giá bán trên thế giới chỉ khoảng 1000 USD… 3. Vấn đề về hàng xuất khẩu Điều đáng chú ý là tỷ lệ hàng chế biến xuất khẩu có xu hướng tăng dần lên nhưng tỷ lệ hàng xuất khẩu thô, sơ là chủ yếu, chiếm tới 60% tổng kim ngạch xuất khẩu. Tỷ lệ còn cao này cho thấy trình độ công nghệ của các doanh nghiệp, của ngành kinh tế còn thấp kém. Bên cạnh đó, hình thức xuất khẩu của các mặt hàng công nghiệp chủ yếu là gia công lắp ráp cho nước ngoài. Hàm lượng hàng nội địa còn thấp, chưa tạo được sự liên kết từ khâu cung cấp nguyên liệu đến khâu sản xuất ra thành phẩm và xuất khẩu. Điều này cho thấy xuất khẩu chưa thực sự trở thành một đầu tàu mạnh mẽ kéo nền kinh tế tăng trưởng và phát triển. Năm 2001 kinh tế tăng trưởng 6,8% trong khi xuất khẩu chỉ tăng 4,5%, theo kế hoạch thì tốc độ tăng của xuất khẩu phải gấp đôi GDP để tăng trưởng kinh tế đạt 7,5%. 4. Mất dần xu thế về lao động Ngoài ra, lợi thế về lao động rẻ có xu hướng đang mất dần. Do trước mắt giá nhân công còn rẻ và đang có thị trường phát triển, nên ngành may mặc và giày da là hai ngành có lợi thế cạnh tranh cao nhất trong nhóm năm ngành sản phẩm công nghiệp có khả năng cạnh tranh. Tuy nhiên, lợi thế về nhân công đang mất dần vì giá nhân công của các ngành này theo điều tra, hiện đang bằng và cao hơn so với một số nước trong khu vực. Cơ cấu lao động của chúng ta thể hiện sự lạc hậu non yếu về trình độ. Tỷ lệ giữa cán bộ cao đẳng, đại học – trung học – công nhân hiện là 1 – 1,6 – 3,0. Trong khi ở các nước kinh tế phát triển tỷ lệ này là 1 – 4 – 10. Chứng tỏ đội ngũ công nhân kỹ thuật của ta thiếu nghiêm trọng. Số công nhân và kỹ thuật viên nước ta chỉ bằng 1/6 hoặc 1/7 so với các nước công nghiệp. Trình độ của lao động kỹ thuật nước ta vừa yếu, vừa thiếu, vừa bất hợp lý, vừa phân bố không đều giữa các ngành, các vùng, các thành phần kinh tế. Trong quan hệ kinh tế quốc tế, trình độ năng lực của các cán bộ đối tác, sự sắc sảo, mềm dẻo, nhạy bén trong ngoại giao của cán bộ ảnh hưởng rất lớn đến lợi ích của quốc gia. Để giảm được bớt sự cạnh tranh thì người Việt Nam phải được trang bị các kiến thức chuyên môn, tác phong lao động, nhận thức đúng đắn mối quan hệ giữa chủ và thợ trong kinh tế thị trường. 5. Tư tưởng của các doanh nghiệp còn chưa được khai thông Theo điều tra của phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam mới có 84% doanh nghiệp trả lời nhận được thông tin về hội nhập, 16% doanh nghiệp chưa có hiểu biết về quá trình hội nhập. Trong số 16% kể trên có 24% không biết thông tin về lịch trình giảm thuế của AFTA, APEC, 34% không có thông tin về hội nhập WTO, 50% không có thông tin về Hiệp định thương mại Việt – Mỹ. Một điều tra của viện nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương cho thấy các doanh nghiệp sản xuất hàng công nghiệp xuất khẩu chỉ có 23,8%, 13,7% doanh nghiệp có triển vọng xuất khẩu, 62% doanh nghiệp hoàn toàn không có khả năng xuất khẩu. Môi trường kinh doanh đầu tư ở Việt Nam mặc dù đang được cải thiện song nhìn chung còn chưa thuận lợi, còn nhiều khó khăn như : khuôn khổ pháp lý chưa đảm bảo cho cạnh tranh bình đẳng giữa các thành phần kinh tế, sự độc quyền trong một số lĩnh vực của một số tổng công ty nhà nước, hệ thống tài chính ngân hàng còn yếu kém, sự thiếu minh bạch về cơ chế chính sách, chế độ thương mại còn nặng về bảo hộ, thủ tục hành chính còn rườm rà, chưa thông thoáng. Các thể chế thị trường như : thị trường vốn ( bao gồm cả chứng khoán ), thị trường sức lao động, thị trường công nghệ, thị trường bất động sản ( kể cả quyền sử dụng đất )… còn sơ khai. Những khó khăn nói trên không chỉ hoàn toàn là những thách thức mà nó còn chứa đựng các yếu tố tích cực, bởi vì thông qua việc phải đối mặt với những thách thức, đương đầu với cạnh tranh, chúng ta sẽ tìm ra được những giải pháp hữu hiệu nâng cao sức cạnh tranh của hàng hoá dịch vụ, đồng thời các doanh nghiệp Việt Nam sẽ trở nên năng động hơn, và hoạt động hiệu quả hơn trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế. IV. GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ CỦA KINH TẾ ĐỐI NGOẠI: 1. Kinh tế Việt Nam chủ yếu phải dựa vào chất lượng Nền kinh tế không chỉ dựa vào tăng trưởng về số lượng mà phải hết sức coi trọng chất lượng thì mới có thể phát triển nhanh và bền vững. Muốn vậy, phải đẩy nhanh sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế phù hợp với nhu cầu thị trường và khai thác các lợi thế so sánh, lợi thế cạnh tranh của đất nước, nâng cao trình độ công nghệ và quản lý để tăng sức cạnh tranh của các sản phẩm, của các doanh nghiệp và nền kinh tế, đảm bảo sự phát triển hiệu quả, bền vững. Theo hướng này cần khẩn trương xây dựng chiến lược tổng thể về hội nhập kinh tế quốc dân với một lộ trình cụ thể để các doanh nghiệp, các địa phương khẩn trương sắp xếp lại và nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, nâng cao khả năng cạnh tranh, đảm bảo hội nhập hiệu quả, thắng lợi. Trên cơ sở này, cần tiến hành đánh giá, phân loại khả năng cạnh tranh của các sản phẩm hàng hoá và dịch vụ của các loại hình doanh nghiệp thuộc mọi loại hình kinh tế nhằm xây dựng các giải pháp đồng bộ để nâng cao sức cạnh tranh như : chú trọng chất lượng, hạ giá thành sản phẩm, mẫu mã đa dạng hấp dẫn, điều kiện thanh toán, giao hàng và dịch vụ sau bán hàng thuận lợi, bắt kịp những thay đổi trên thị trường thế giới. Đồng thời cần thực hiện chính sách bảo hộ có lựa chọn, có điều kiện và có thời gian, đi đôi với việc công bố lộ trình cắt giảm thuế nhập khẩu, dần thực hiện thuế hoá các biện pháp phi thuế phù hợp với thực hiện các cam kết quốc tế của nước ta. 2. Những thay đổi trong chính sách kinh tế và pháp luật của Việt Nam Phải tiếp tục đẩy mạnh công cuộc đổi mới đi vào chiều sâu và toàn diện, trọng tâm là xây dựng đồng bộ thể chế kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Cải thiện mạnh mẽ môi trường đầu tư, kinh doanh theo hướng cạnh tranh bình đẳng, tạo thuận lợi cho sự phát triển của các loại hình doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế nhằm thu hút và sử dụng hiệu quả các nguồn vốn đầu tư trong và ngoài nước, coi đó là động lực quan trọng để giải phóng và phát huy mọi nguồn lực còn tiềm tàng của đất nước. Theo hướng này, Nhà nước cần đưa ra một chương trình tổng thể xây dựng môi trường cạnh tranh ở Việt Nam. Chương trình này cần đề cập trên nhiều phương diện : chính sách tiếp cận các nguồn vốn, chính sách sử dụng đất, cải cách khu vực doanh nghiệp nhà nước, phát triển khu vực tư nhân, cải cách chính sách tài chính – tiền tệ ( chính sách thuế, cơ cấu lại và đổi mới phương thức hoạt động của hệ thống ngân hàng, phát triển thị trường chứng khoán. Các chính sách của Việt Nam không những cần phải bảo vệ hữu hiệu môi trường sinh thái và loại trừ việc khai thác cạn kiệt nguồn tài nguyên thiên nhiên mà còn thúc đẩy và tạo điều kiện cho kinh tế phát triển, đáp ứng được yêu cầu bảo vệ môi trường ở các nước nhập khẩu. Cần nỗ lực để có thể tạo ra một khuôn khổ pháp lý nhằm điều chỉnh các hoạt động kinh tế trong nước nhằm thúc đẩy sự phát triển kinh tế và bảo vệ môi trường trong nước, trong khu vực và toàn cầu; thúc đẩy và hỗ trợ các doanh nghiệp trong nước xâm nhập vào các thị trường tiềm năng. Vì vậy, chính sách thương mại và môi trường cần phải được hoàn thiện trên cơ sở đáp ứng các yêu cầu sau : - Chính sách thương mại, môi trường phải khuyến khích các nhà sản xuất trong nước và nước ngoài đầu tư và phát triển theo hướng bền vững hay thân thiện với môi trường. Thông qua chính sách pháp luật, các nhà đầu tư và sản xuất phải quan tâm đến nâng cao sức cạnh tranh của hàng hoá thông qua tạo ra những “sản phẩm xanh”, hạn chế tối đa những tác hại của hoạt động sản xuất và kinh doanh đến môi trường trong nước cũng như quốc tế. - Chính sách thương mại, môi trường phải phù hợp với luật pháp quốc tế và các quy định pháp lý của các tổ chức thương mại và kinh tế quốc tế, các hiệp định môi trường đa phương, các khối kinh tế mà Việt Nam đã và sẽ tham gia. Cần thúc đẩy và tạo điều kiện lồng ghép những vấn đề môi trường vào các chương trình và hiệp định song phương và đa phương mà Việt Nam tham gia. - Chính sách thương mại và môi trường phải góp phần nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng hoá, dịch vụ trên cả hai phương diện : chất lượng hàng hoá và hình ảnh bảo vệ môi trường có liên quan đến hoạt động sản xuất, góp phần thúc đẩy hàng hoá và dịch vụ đó xâm nhập được các thị trường nước ngoài đặc biệt là những thị trường khó tính và nhạy cảm về vấn đề môi trường, đồng thời ngăn chặn dòng nhập khẩu sản phẩm và công nghệ không thân thiện với môi trường hoặc những đầu tư có thể huỷ hoại hoặc sử dụng không hợp lý nguồn tài nguyên môi trường của quốc gia. Cần ngăn ngừa hữu hiệu việc khai thác các nguồn tài nguyên môi trường và tài nguyên sinh thái của quốc gia, quy trách nhiệm cụ thể trong việc tái tạo những tài nguyên đã bị sử dụng, ngăn chặn triệt để sự du nhập các sản phẩm độc hại, không thân thiện với môi trường. - Chính sách thương mại, môi trường cũng cần phải định hướng và giáo dục người tiêu dùng Việt Nam quan tâm hơn tới vấn đề môi trường, chuyển dần sang lựa chọn và tiêu dùng những sản phẩm thân thiện với môi trường, hướng tới xây dựng ý thức bảo vệ môi trường trong xã hội gắn với các lợi ích kinh tế của người tiêu dùng. - Cần hướng vào việc hỗ trợ doanh nghiệp nhập các dây chuyền công nghệ, thiết bị máy móc đáp ứng các tiêu chuẩn liên quan đến phương pháp sản xuất chế biến không gây hại đến môi trường và tạo ra các sản phẩm xanh theo yêu cầu của các nước nhập khẩu. Khuyến khích và ưu tiên cho các doanh nghiệp áp dụng bộ tiêu chuẩn ISO 14000, áp dụng HACCP, SA 8000 nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh và hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp trong thương mại quốc tế. 3. Các chính sách về nguồn nhân lực Thứ nhất phải khẩn trương điều chỉnh lại cơ cấu nguồn nhân lực với đào tạo đại học, cao đẳng. Giảm ngay chỉ tiêu tuyển sinh ở những trường mà quy mô đào tạo hiện đang quá tải so với điều kiện cho phép và ở những ngành học có quy mô đào tạo đang vượt quá nhu cầu, như báo chí, luật, kinh tế. Tăng chỉ tiêu tuyển sinh ở các trường sư phạm, kỹ thuật, nông nghiệp, nhất là các trường này nằm ở đồng bằng sông Cửu Long và trung du miền núi phía bắc. Để làm tốt điều này, cần rà soát lại chiến lược đào tạo nguồn nhân lực để kịp thời điều chỉnh chỉ tiêu tuyển sinh hàng năm cho các trường, các ngành học. Các cơ sở đào tạo, một mặt, phải thực hiện đúng chỉ tiêu tuyển sinh, khắc phục tình trạng tuỳ tiện tăng chỉ tiêu; mặt khác, phải tiến hành khâu tuyển sinh chặt chẽ, nghiêm túc, đảm bảo chất lượng đầu vào cho các trường và ngành học. Nhanh chóng mở rộng quy mô đào tạo trung học chuyên nghiệp và công nhân kỹ thuật. Trong mấy năm qua, quy mô đào tạo nghề tuy đã tăng, nhưng vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu. Cần nâng cao nhận thức của toàn xã hội, của các cấp, các ngành về vị trí, vai trò của công tác dạy nghề và lao động được đào tạo nghề. Dấy lên phong trào học nghề trong toàn xã hội. Phải quy hoạch lại hệ thống dạy nghề theo hướng đồng bộ cả về cơ cấu ngành nghề, cơ cấu vùng kinh tế và ở từng địa phương. Đội ngũ giáo viên dạy nghề cần được tăng cường cả về số lượng và chất lượng. Đổi mới nội dung, chương trình và hiện đại hoá cơ sở nghiên cứu, nhà học, trang thiết bị cho dạy nghề. Xã hội hoá công tác đào tạo nghề, qua đó tăng nguồn tài chính cho đào tạo, mở rộng hình thức, phương thức đào tạo và xây dựng một số trường dạy nghề đạt tiêu chuẩn khu vực và thế giới. PHẦN KẾT LUẬN *** Toàn thế giới đang đứng trước những vấn đề về văn hoá, kinh tế, chính trị… vô cùng lớn lao. Trong đó, quá trình Việt Nam tham gia hội nhập vào thế giới để cùng hợp tác và phát triển là một xu thế tất yếu. Chúng ta phải đặt vấn đề hội nhập kinh tế quốc tế lên hàng đầu bởi vì cơ sở vật chất sẽ quyết định ý thức và cơ chế xã hội. Kinh tế đối ngoại giờ đây đã dành được vị trí xứng đáng của mình trong nền kinh tế, đã góp phần hình thành nên các quyết định sản xuất và tiêu dùng trong nước, chứ không còn đơn thuần là việc mở rộng của các quan hệ đối ngoại. Tuy vậy đây mới chỉ là một trong vô vàn công việc Việt Nam phải tiến hành, để có thể hoàn thiện được công cuộc đổi mới định chế và chính sách quốc gia. Chính sách của Việt Nam thực sự đã góp một vai trò không thể thiếu trong giai đoạn đổi mới toàn diện vừa qua. Các chính sách luôn được cải cách, biến chuyển theo hướng tự do hoá và hội nhập hoá, do vậy đã làm thay đổi cơ chế kinh tế đối ngoại của Việt Nam và giải quyết cũng như xúc tiến được mối quan hệ giữa kinh tế đối ngoại và toàn bộ sự phát triển của nước ta. Mọi quyết định trong ngoại giao của chúng ta cần mạnh dạn đấu tranh, tích cực tham gia các hoạt động của các tổ chức quốc tế. Chúng ta không nhân nhượng và ngả theo ý đồ của các nước lớn. Chúng ta kiên trì mối quan hệ với các nước lớn cũng như các nước nhỏ, giữ vững nguyên tắc dân chủ hoá, không ngừng thúc đẩy cơ chế quản lý quốc tế, dân chủ hoá, pháp chế hoá. MỤC LỤC *** Trang *Phần đặt vấn đề 1 *Phần lý luận 2 I. Tính tất yếu khách quan của việc mở rộng 2 quan hệ kinh tế đối ngoại 1. Mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại là xu thế 2 tất yếu 2. Những tác dụng to lớn mà kinh tế đối ngoại 4 đem lại cho Việt Nam II. Những nguyên tắc cơ bản của kinh tế đối ngoại 6 1. nguyên tắc bình đẳng 6 2. nguyên tắc cùng có lợi 6 3. nguyên tắc tôn trọng chủ quyền và không can thiệp vào công việc nội bộ của mỗi quốc gia 7 4. mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại nhằm thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế và phát triển khoa học xã hội 7 *Phần cơ sở thực tiễn 9 I. Thực trạng chung của kinh tế Việt Nam và quá trình hội nhập kinh tế 9 1. Thực trạng kinh tế Việt Nam 9 2. Tình hình thực tế hội nhập của Việt Nam với tổ chức kinh tế và các nước trên thế giới 10 II. Những thuận lợi của Việt Nam trong tiến trình 13 hội nhập kinh tế thế giới và khu vực 1. Những yếu tố ổn định về chính trị 13 2. Những yếu tố thuận lợi về kinh tế 13 3. Những yếu tố về nguồn nhân lực 14 4. Thuận lợi về nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú 15 III. Khó khăn và thách thức của chúng ta khi 15 tham gia quá trình hội nhập kinh tế quốc tế 1. Điều đáng lo ngại của sự tụt hậu kinh tế 16 2. Sự yếu kém trong quản lý kinh tế của Nhà nước 17 3. Vấn đề hàng xuất khẩu 18 4. Mất dần ưu thế về lao động 19 5. Tư tưởng của các doanh nghiệp còn chưa được 19 khai thông IV. Giải pháp nâng cao hiệu quả của kinh tế đối ngoại 20 1. Kinh tế Việt Nam phải chủ yếu dựa vào chất 20 lượng 2. Những thay đổi trong chính sách kinh tế và pháp luật 21 Việt Nam 3. Các chính sách về nguồn nhân lực 22 *Phần kết luận 25 ` DANH MỤC CÁC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1, Giáo trình kinh tế chính trị học 2,Bàn về cái gọi là vấn đề thị trường 3,Các văn kiện đại hội Đảng 6,7,8,9 phần nói về kinh tế đối ngoại 4,Lê nin toàn tập 5,Lênin chủ nghĩa đế quốc giai đoạn phát triển tột cùng của chủ nghĩa đế quốc

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc14074.doc
Tài liệu liên quan