Việc quản lí và sử dụng ODA ở nước ta trong thơi gian qua còn bộc lộ nhưng tồn tại làm giảm hiệu quả sử dung nguồn vốn này
- Về mặt nhận thức: Vẫn còn nhiều người nghĩ ODA lag món quà cho không, biếu không. Lại có quan niệm sử dụng ODA vay là được ma không tính đến khả năng trả nợ và hiệu quả sử dụng, gây tình trạng thất thoát, lãng phi, tham nhũng.
- Quá trình lập và duyệt dự án ODA kéo dài từ 1-3 năm, phân bổ nguồn vốn của dự án lại chưa thật sự hợp lí, chua gắn với nhu cấu sử dụng vốn trong thực tế. Quy trình đấu thầu phức tạp, tổ chức long lẻo, xuất hiện tình trạng chạy đua hạ giá bỏ thầu đến mức vượt quá hệ số an toàn về chất lượng công trình; các nguyên tắc và diều kiện đấu thầu theo thông lệ quốc tế chưa được làm quen hoặc chưa công khai nên phần lớn thiết bị phải mua từ nước ngoài với giá cao, chuyển giao kĩ thuật lạc hậu, thanh toán cho chuyen gia nước ngoài rất tốn kém, chịu sự lệ thuộc nhất định vào nước ngoài
Chính sách và công tác đền bù giải phóng mặt bằng, di dân tái định cư chưa hợp lí dẫn tới một số dự án giao thông chậm triể khai. Vốn đối ứng tuy chiếm tỉ trọng thấp nhưng tổng số vốn đầu tư cho dự án ODA lại ảnh hưởng đáng kể đến tiến độ triển khai dự án do việc kế hoạch hoá làm chưa tốt. Các chủ dự án khi lập dự toán chưa phản ánh đủ hoặc kịp thời vốn đối ứng để đua vào kế hoach NSNN hang năm nên thường phải đièu chỉnh bổ sung, gây nhiều khó khăn
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng và giải pháp để huy động và sử dụng có hiệu quả nguồn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nhiều lợi thế
Do thiếu một hệ thống luật pháp và đầu tư hoàn chỉnh. Trong nhiều năm qua, Luật đầu tư nước ngoài của Việt Nam đã được sửa đổi nhiều lần nhằm tạo thuận lợi cho các nhà đầu tư nước ngoài, nhưng hệ thống pháp luật về đầu tư vẫn thiếu sự đồng bộ nhất quán , thiếu tính rõ rang dẫn đến nhiều cách hiểu và vận dụng khác nhau làm cho các nhà đầu tư ngần ngại
Do khâu quy hoạch thu hút đầu tư nước ngoài còn nhiều yếu kém, thiếu sự khoa học và họp lý, dẫn đến việc cấp giấy phép đầu tư cho một số ngành hàng, lĩnh vực vượt quá nhu cầu, gây lãng phí thiệt hại cho đất nước, làm các nhà đầu tư mất niềm tin
Do khâu quản ký của nhà nước đối với đầu tư nước ngoài còn kém hiệu quả. Nhà nước quá buông lỏng trong một số mặt , nhưng lại can thiệp quá sâu vàp một số mặt khác như hoạt động của các doanh nghiệp. Cơ chế một cửa , một đầu mối- dù đã được thống nhất nhưng nhiều nơi vẫn chưa thực hiện tốt
Còn thiếu một đội ngũ cán bộ có đủ tài đủ đức để tham gia quản lý các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài,và một đội nguc công nhân lành nghề để cung cấp cho khu vực đầu tư nước ngoài
Chúng ta xem xét, nhận thức rõ những thuận lợi và khó khăn để từng bước có biện pháp hạn chế khó khăn, phát huy lợi thế, đẩy mạnh công cuộc phát triển của đất nước.
1.2 Thực trạng đầu tư nước ngoài tại Việt Nam
1.2.1 Đánh giá chung
Theo Bộ Kế Hoach Và Đầu Tư, tính đến ngày 15-5-2001 trên cả nước có 2725 dự án Đầu tư nước ngoài còn hiệu lực vơi tổng số vốn dăng ký trên 35,56 tỷ USD, vốn pháp định trên 16.25 tỷ USD. Vốn đầu tư thực hiên từ năm 1988 đến nay đạt khoảng 20 tỷ USD, trong đó bên nước ngoài đưa vào khoảng 17,7 tỷ USD. Tổng doanh thu đạt khoảng 26 tỷ USD( chưa kể liên doanh dầu khí Vietsopetro). xuất khẩu khoảng 12 tỷ USD, nộp ngân sách nhà nước khoảng 1,8 tỷ USD, tạo việc làm cho hơn 350.000 lao động trực tiếp. Bên cạnh những con số có ý nghĩa nêu trên, thì một thành tựu rất đáng ghi nhận của thành phần kinh tế có vốn ĐTNN là hợp tác toàn diện trong lĩnh vực dầu khí từ khâu tìm kiếm, thăm dò, khai thác đếnchế biến ồa cung cấp dịch vụ. Lĩnh vực này đã thu hút được nhiều vốn và công nghẹ hiện đại từ các tập đoàn dầu khí lớn của nhiều quốc gia trên thế giới. Hoạt động ĐTNN cũng đã đưa mạng viễn thong Viẹt Nam đạt trình đọ quốc tế, thúc đẩy khai thác nhanh các dự án công nghiệp điện tử, ô tô, xe máy, hoá chất , dệt may giày dép.. và góp phần thay đổi bộ mặt của đất nước ta. ĐTNN đã góp phần nâng cao năng lực của nền kinh tế với nhiều công nghệ mưói hiện đại, tạo ra một bước ngoặt quan trọng trong một số ngành kinh tế mũi nhọn.
Năm
Số dự án
( Triệu USD)
Vốn đăng ký
(Triệu USD)
Vốn thực hiện
(Triệu USD)
Quy mô dự án
(Triệu USD)
1988
37
366
-
9.9
1989
70
539
-
7.7
1990
106
677
-
6.4
1991
149
1294
213
8.7
1992
195
2036
394
10.4
1993
273
2652
1099
9.7
1994
371
4071
1946
11.0
1995
412
6616
2671
16.1
1996
368
8640
2646
23.5
1997
331
4511
3250
13.6
1998
275
3596
1900
13.1
1999
308
1566
1519
5.1
2000
344
1973
2228
5.7
Tổng
3.239
38540
17886
11.9
Bảng 1: Đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam từ1988-2000
Nguồn: Bộ Kế Hoạch Và Đầu Tư
Từ số liệu bảng trên cho thấy:
Trong 9 năm từ 1988 đến 1996 ĐTTTNN ở VN tăng khá, số dự án đăng ký tăng bình quân 31.5%/ Năm, vốn dăng ký tăng 45%/ năm. Nhưng từ 1997 đến nay tốc độ đầu tư giảm sút rõ rệt. Nguyên nhân do khủng hoảng tài chính trong khu vực và môi trường đầu tư Việt Nam không đủ sức hấp dẫn. Sang năm số dự án cấp phép đã bắt đầu tăng trở lại( tăng 12%/ năm so với năm 1998), nhưng số vốn dăng ký mới chỉ bằng 43% so với năm 1998. Năm 2000 tình hình có phân khả quan hơn, với số dự án đăng ký tăng 11% và vốn đăng ký tăng 26%. Sự phục hồi bước đầu ĐTNN vào Việt Nam là dấu hiệu đáng mừng trong bối cảnh đầu tư vào các nước ASEAN vẫn đang giảm sút. Kết quả này có được là nhờ những tác động tích cực củ các giải pháp cait thiện môi trường ĐTNN của Nhà Nước Việt Nam trong thời gian gần đây, đặc biệt là những cải thiện về môi trường pháp lý kinh doanh cho các nhà ĐTNN
Cũng từ bảng trên cho thấy: việc góp vốn triển khai dự án là khá tích cực. Tính đến ngày 31.12.99, tỷ lệ vốn thực hiện so với vốn đăng ký là 42%. Nếu so với các nước trong khu vực( con số này dao dộng từ 30-40%) thì tỷ lệ góp vốn của Việt Nam la thuộc loại cao.
Xét về quy mô dự án thì quy mô dự án ĐTTTNN ở Việt Nam không lớn, trung bình 12,6 triệu USD/năm. Đặc biệt trong năm 1999 quy mô bình quân
một dự án quá nhỏ:5,1 triệu USD/dự án-thấp nhất trong 12 năm trước đó. Năm 200 có phần khá hơn đạt 5,7 Triệu USD/ Năm
1.2.2Phân tích cơ cấu ĐTNN theo đối tác đầu tư nước ngoài
Cho đến nay Việt Nam đã thu hút được 67 quốc gia đưa vốn vào đầu tư. Nếu căn cứ vào số vốn đăng ký cũng như vốn pháp định theo thứ tự giảm dần thì có thể xếp 10 quốc gia sau đây theo nhóm đã đóng góp đáng kể vào sự phát triển nền kinh tế
Số dự án và vốn phân theo quốc gia
ĐVT 1000 USD
Quốc gia
Số dự án
Vốn đăng ký
Vốn pháp định
Singarpore
251
5.331.304
1.820.679
Đài Loan
646
4.889.125
2.199.799
Nhật Bản
332
3.551.815
1.863.846
Hồng Kông
325
3.257.953
1.471.364
Hàn Quốc
298
3.138.304
1.287.439
Pháp
157
2.176.807
1.254.026
Islands
94
1.779.506
718.135
LB Nga
62
1.319.661
912.726
Mỹ
121
1.341.442
629.853
Anh
41
1.133.716
768.288
Nguồn: Bộ Kế Hoạch Và Đầu tư
Nhìn vào số vốn và số dự án của từng quốc gia có thể thấy quy mô vốn bình quân của từng quốc gia như sau: Anh 27,63 triệu;Singarpore:21,24 triệu; Islands 18,93 triệu;Pháp 13,86 triệu; Mỹ 11,08 triệu; Nhật 10,69 triệu; Hàn quốc 10,53 triệu; Hông Kông 10,02 triệu; Đài Loan7,57 triệu; Nga 21,27 triệu.Như vậy có thể nói rằng các quốc gia đầu tư quan tâm đến nhiều lĩnh vực khác nhau chứ không chú trọng vào một lĩnh vực nào cả. Ngày càng xuất hiện nhiều các công ty xuyên quốc gia, các tập đoàn có năng lực tài chính và tiền tệ, công nghệ. Đạc biệt những chính sách thích hợp để chuyển hướng thu hút đầu tư của Việt Nam trong năm 1998 đã có tác động tích cực nên cơ cấu đối tác nước ngoài trong lĩnh vực đầu tư trực tiếp đã coa sự thay đổi quan trọng. Nếu như giai đoạn đầu các chủ đầu tư lớn đều thuộc các nước láng giềng, thì gần đây ĐTNN từ các nước châu Âu, Mỹ tiếp tục chiếm tỷ lệ cao trong tổng số vốn đầu tư
1.2.3 Phân tích cơ cấu đầu tư theo ngành cho thấy:
Các dự án ĐTTTNN đã có mặt ở hầu khắp mọi ngành của nền kinh tế quốc dan và đang có sự chuyển dich cho phù hợp với yêu cầu của công cuộc công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước. Nếu giai đoạn đầu các dự án đầu tư chủ yếu tập trung vào xây dựng khách sạn, nhà hang, văn phòng cho thuê; thì ngày nay chủ yếu tập trung vào ngành công nghiệp. Cụ thể tính chung cho giai đoan 1988-1999: công nghiệp nặng – 16,7%; công nghiệp dầu khí- 8,3%; công nghiệp nhẹ-10,45%;công nghiệp thực phẩm-5,89%, xây dựng 9,75%, xây dựng đô thị- 9,14%... Cơ cấu đầu tư theo ngành có thể coi là thích hợp. Ta có bảng số liệu phân tích cơ cấu kinh tế theo ngành:
Vốn đầu tư nước ngoài phân theo ngành tính đến 31.10.2000
Ngành
Số
dự án
Vốn đăng ký
Vốn pháp định
Công nghiệp nặng
581
6210350
2535239
Công nghiệp nhẹ
859
4029200
2013763
Xây dựng
274
3574021
1337647
Xây dựng khu đô thị
3
3344237
924452
GTVT- Bưu điện
136
3204428
2276918
Khách sạn- Du lịch
199
3096000
2185534
Công nghiệp dầu khí
63
3086443
2283113
Văn phòng cho thuê
105
3000225
1072107
Công nghiệp thực phẩm
194
2151306
946005
Nông-Lâm nghiệp
272
1029213
497489
Dịch vụ khác
172
845021
473825
Văn hoá-Y tế- Giáo dục
93
526259
243535
Thuỷ sản
95
343819
185141
Xây dựng KCN-KCX
5
302078
102460
Tài chính- Ngân Hàng
35
243322
215752
Các ngành khác
4
27359
11540
Cộng
3216
37138311
17444520
ĐVT 100 USD
Chúng ta tiếp tục phân tích trong 2 năm 1999 và 2000. Trong năm 1999. cơ cấu ĐTTTNN tiếp tục chuyển dịch phù hợp hơn nữa với yêu cầu CNH-HĐH. Trong 308 dự án được cấp phép co 255 dự án đầu tư vào khu vực sản xuất vật chất( chiếm 82,8%) và vốn đăng ký đạt1,049 triệu USD, chiếm 67% vốn đăng ký. Trong năm 2000, ĐTTTNN có sự chuyển biến lớn về chất so với các năm trước; tập trung chủ yếu vào các lĩnh vực sản xuất( chiếm 94% số vốn đăng ký), trong đó lĩnh vực công nghiệp chiếm 90,98%, lĩnh vực nông –lâm –ngư nghiệp chiếm 2,76%. Dịch vụ du lịch chỉ còn chiếm 2,02%. Đã co những dự án khá lớn đầu tư vào lĩnh vực y tế- giáo duc chiếm 3,41%
Phân tích cơ cấu đầu tư theo địa phương
1.2.4. Phân tích theo hình thức đầu tư
Nếu phân tích theo hình thức đầu tư thì bức tranh ĐTNN tại Việt Nam đang chuyển biên theo khuynh hướng ngày càng tăng, hình thức kiên doanh ngày càng giảm. Nếu chia 13 năm thu hút ĐTNN của Việt Nam thành những giai đoạn nhỏ, ta sẽ thấy:
Giai đoan 1988-1992: Hình thức liên doanh đóng vai trò chủ đạo, chiếm trên 70% tổng số dự an ĐTNN, hình thức 100% vốn nước ngoài chỉ chiếm 12%
Giai đoạn 1993-1996: Số dự án 100% vốn nươc ngoài đã tăng lên 38%
Giai đoạn 1996-1999: số dự án 1ô% vốn nước ngoài chiếm 64% tổng số dự an
Riêng năm 2000, số dự án 100% vốn nước ngoài đã lên đến 286gấp 5 lần số dự án lien doanh( 58 dự án)
1.2.5 Phân tích cơ cấu đầu tư theo địa phương
Tính đến hết năm 1999, ĐTTTNN đã có mặt trên 61 tỉnh thành phố trong cả nước, nhưng tập trung chủ yếu ở các trọng điểm ở miềm Nam và miền Bắc
Tính chung cho 12 năm đầu( 1988-1999), bảy tỉnh va thành phố là, TP Hồ Chí Mibg, Hà Nội, Đồng Nai, Bà Rịa- Vũng Tàu, Bình Duong, Hải Phòng và Quảng Ngãi đã tập trung thu hut 75% số dự án và 76% số vốn đầu tư đăng ký trong cả nước. Riêng trong năm 1999 có 36 tỉnh và thành phố có dự án ĐTNN. Trong đó TP Hồ Chí Minh vẫn giữ vị trí dẫn đầu. Tiếp theo đó là các tỉnh Bình Dương, Hà Nội, Bà Rịa –Vũng Tàu, Đồng Nai, Long An và Hải Phòng. So với năm 1998 thì năm 1999 đã có thêm một số địa phương mới ở địa bàn kinh tế-xã hội khó khăn có dự án ĐTNN như Lào Cai,Sơn La, Hoà Bình, Phú Thọ, Bình Phước, Bến Tre..
Năm 2000 thực hiện chủ trương phân cấp trong lĩnh vực cấp giấy phép ĐTNN. Bộ Kế Hoạch Và Đầu tư chỉ cấp 24 giấy phép( với tổng vốn đăng ký gần 1.300 triệu USD) trong khi UBND các tỉnh và thành phố trực thuộc Trung Ương cấp tới 166 giấy phép(197,7 triệu USD), ban quản lý các KCN-KCX cấp 154 giấy phép( 475 triệu USD). Vị trí xếp hạng trong năm vê thu hút ĐTNN giữa các địa phương cũng có sự thay đổi đáng kẻ. Dẫn đầu là Bình Dương, tiếp đó là các tỉnh thành phố Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Bà Rịa- Vũng Tàu, Hà Nội…
1.2.6 Phân tích cơ cấu đầu tư theo vùng kinh tế
a)Chủ trương chính sách đầu tư vùng
Việt Nam là một nước đang phát triển với các nguồn vốn đầu tư còn hạn chế. Trong điều kiện đó Đảng và nhà nước chủ trương thực hiện chiến lược đầu tư có trọng điểm và phát triển kinh tế dựa trên thế mạnh và lợi thế so sánh của từng vùng. Dự thảo” Chiến lược phát triểnkinh tế -xã hội” trình đậi hội Ĩ của Đảng nhấn mạnh ở các nội dung xây dựng và phát triển ở sáu vùng. Đó là ba vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ,miền Trung,phía Nam và ba vun khó khăn hơn là trung du, miền núi Bắc Bộ, Tây Nguyên và Đông Bằng Sông Cửu Long. Việc tạo rat rung tam kinh tế mạnh trong mỡi vùng không chỉ là đọng lực phát triển bản thân vùng kinh tế đó mà còn tạo ra sức hấp dẫn, tác động mạnh mẽ vào sự phát triển của các vùng có liên quan.
Để đạt được mục tiêu chiến lược đó, cần phải có chính sách đầu tư thích hợp và cơ chế tăng cường liên kết quản lý vùng. Đối với các vùng co lợi thế, việc ưu tiên đầu tư vào cơ sở hạ tầng sẽ nhanh chóng tạo ra một môi trường kinh doanh hấp dẫn đầu tư. Đối với các vung khó khăn, việc đầu tư vào cơ sở hạ tầng sẽ rất tốn kém vì vốn đầu tư rất lớn, thời gian thu hồi vốn lâu, do đó hiệu quả đầu tư thường không cao
Trong những năm qua một số chính sách liên quan đến phát triển vùng đã được ban hành dưới nhiều hình thức. Thủ tướngChính Phủ đã phê duyệt kế hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội các vùng.
Đối với các vùng khó khăn, Nhà Nước đã có những luật và chính sách khuyến khích nhằm huy động nhiều nguồn vốn đầu tư khác nhau như luật đầu tư nước ngoài, chương trình 135…)
b)Tình hình trong thời gian vừa qua
Như vậy đầu tư nước ngoài vào các vùng kinh tế trọng điểm chiếm tỉ trọng lớn, các dự án có quy mô lớn và quan trọng hầu hết tập trung vào các vùng kinh tế trọng diểm Nam Bộ và Bắc Bộ, nơi có cơ sở hạ tầng tương đối hoàn chỉnh, sức tiêu thụ lớn, điều kiện phát triển kinh tế hoàn chỉnh, sức tiêu thụ lớn, điều kiện phát triển kinh tế thuận lợi hơn cả. Vốn đầu tư còn hiệulực của ba vùng kinh tế trọng điểm hiẹn chiếm 83.9% vốn còn hiệu lực của cả nước. Trong đó cùng kinh tế trọng điểm Nam ớoj chiếm trên 47% so với cả nước, riêng vùng núi phía Bắc và Tây Bắc tỉ lệ thu hút vốn ĐTTTNN còn quá ít ỏi
Ngòai ra, cơ cấu vốn đầu tư theo ngành cho thấy tình hình đầu tư nước ngoài vào các vùng kinh tế có sự khác biệt nhau rõ rệt
Các vùng kinh tế trọng điểm vốn đầu tư phân bổ không cần tập trung mà dàn trải vào nhiều ngành nghề khác nhau trong khi đó các vùng đầu tư kinh tế khác vốn đầu tư tập trung hơn cho một số ngành nghề chủ yếu chiếm gần 100% tổng số vốn của cùng. Tuy nhiên sự tập trung đó cũng chưa thật hợp lý với điều kiện tự nhiên kinh tế xã hội của vùng, trừ Tây Nguyên đã tập trung 54,6% số vốn đầu tư vào thế mạnh của vùng là nông –lâm nghiệp. Vùng đồng bằng song Cửu Long lại quá chú trọng vào ngành xây dựng chiếm gần 60% tổng số vốn đầu tư. Trong khi nông nghiệp là thế mạnh của vùng chỉ chiếm 10%
Về quy mô vốn bình quân/ tỉnh và vốn thực hiện cũng cho thấy vốn đầu tư nước ngoài chủ yêu tập trung vào các tỉnh Nam bộ và Bắc Bộ
Các khu công nghiệp, các khu chế xuất cũng tập trung chủ yếu ở ba vùng kinh tế trọng điểm. Vùng kinh tế trọng điểm Nam Bộ 33 khu với tổng diện tích 7.110 ha; Vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ 10 khu với tổng diện tich 1.307 ha; Vùng kinh tế trọng điểm Trung Bộ 8 khu với tổng diện tích 14.682 ha
c) Đánh giá tình hình đầu tư nước ngoài
Đầu tư nước ngoài vào các vùng kinh tế có sự chênh lệch khá lớn. Ở các vùng kinh tế trọng điểm mặc dù không được ưu đãi về tiền thuê đất, tiền thuê nhưng lại có điều kiện thuận lợi về thị trường tiêu thụ sản phẩm, lao động và cơ sỏ hạ tầng… nên các dự án đầu tư vào các vùng này vẫn có lợi hơn nhiều so với các vung kinh tế khó khăn do hoạt động có hiệu quả hơn nên thu hồi vốn nhanh hơn. Tuy nhiên vùng trọng điểm Trung Bộ chưa tạo được môi trường đầu tư thuận lợi nên khó thu hút được đầu tư
+ Các vùng chưa phát huy được thế mạnh của mình trong thu hút đầu tư nước ngoài. Vùng kinh tế trọng điểm Bắc và Nam đều có cơ sở hạ tầng thuận lưọi nhưng đầu tư nước ngoài vào vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ chỉ bằng 55% về vốn và 37% số dự án so với vùng kinh tế trọng điểm Nam Bộ
+ Vùng núi Bắc Bộ có 12 tỉnh chỉ thu hút được 264 triệu USD vốn đầu tư nước ngoài trong khi Tây Nguyên chỉ có 3 tỉnh lại thu hút được 898 triệu USD vốn, gấp 3,4 lần
Trong nội bộ từng vùng có sự khác biệt đáng kể. Chẳng hạn vùng núi Bắc Bộ Phú Thọ có 6 dự án còn hiệu lực với vốn đăng kí 119 triệu USD trong khi Hà Giang chỉ có một dự án vốn đăng kí 0,5 triệu USD; Cao Bằng, Bắc Cạn không có dự án nào
+ Vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ: Trong khi Hà Nội hiện có 354 dự án với 8.102 triệu USD thì ở Hưng Yên cách Hà Nội không xa khoang trên dưới 20 km đường quốc lộ chỉ có 9 dự án với số vốn 75 triệu USD
+ Vùng kinh tế trọng diểm Nam Bộ: Nếu như TP Hồ Chí Minh có 815 dự án với 9.763 triệu USD thì Bà Rịa-Vũng Tàu chỉ có 60 dự án1.100 triệu USD. Như vậu mặc dù nằm trong một cùng kinh tế với những điều kiện kinh tế xã hội gần giống nhau nhưng thu hút đầu tư nước ngoài rất khác nhau
Cơ cấu đầu tư theo ngành còn nhiều bất cập vì nhà đầu tư nước ngoài chỉ tập trung đầu tư ngắn hạn vào những ngành có thể mang lai lợi nguận nhiều và nhanh mà ít chú ý khai thác đúng tiềm năng của mỗi địa phương.
Các khu công nghiệp có 60/67 khu công gnhiệp đầu tư cơ sở hạ tầng nhưng mới thực hiện dược khoảng30% vốn đăng kí hoặc dự án đầu tư được duyệt. Số lượng các khu chế xuất-khu công nghiệp đã hoàn thành hoặc cơ bản hoàn thành cơ sở cơ sở hạ tầng còn quá ít ỏi. Đầu tư như vậy nên khai thác gặp khó khăn. Tính đến cuối năm 2000 mới chỉ cho thuê được 2600 ha và chủ yếu là ở vùng trọng điểm phía Nam với tỉ lệ vốn chiếm 70% trong đó đáng kể nhất là TP Hồ Chí Minh 27,5%; Đồng Nai 21%; Bình Duong 11,4%. Các khu công nghiệp ở các vùng kinh tế khác hầu như rơi vào tình trạng ế ẩm. Theo tính toán, muốn lấp đầy các khu công nghiệp,các khu chế xuất thì phải thu hút khoảng 6000 doanh nghiệp với trên 20 tỉ USD trong khi hiện tại chỉ có trên 40 doanh nghiệp với gần 1,6 tỉ USD đầu tư vào các khu công nghiệp- khu chế xuất. Điều này là một thách thức đòi hỏi lớn với các nhà quản lý và các nhà hoạch định chính sách.
1.3 Đánh giá kết quả đầu tư nước ngoài tại Việt Nam trong thơì gian qua.
1.3.1Những thành tựu
Qua nhưng phân tích ở trên cho thấy ĐTNN đã trở thành một bộ phận hữu cơ của nền kinh tế và đã có những đóng góp rất tích cực cho quá trình phát triển kinh tế xã hội của nước nhà. Cụ thể là
Đầu tư nước ngoài đã góp nguồn vốn quan trọng cho công cuộc phát triển kinh tế đất nước
Tổng vốn đầu tư xã hội( Tỷ Đồng)
1995
1996
1997
1998
1999
ước 2000
Tổng số
68.047,8
79.367,4
96.870,4
95.400
103.900
124.000
Vốn nhà nước
26.074,8
35.894,4
46.570,4
51.600
64.000
74.200
Vốn ngoài QD
20.000,0
20.773,0
20.000,0
20.500
21.000
29.000
Vốn FDI
22.000,0
22.700,0
30.300,0
24.300
18.9cc
20.800
Số liệu bảng trên cho thấy vốn đầu tư nước ngoài là một trong ba nguồn vốn đầu tư xã hội và chiếm tỷ trọng lớn trong tổng vốn đầu tư, năm 1995 chiếm 32%; 1996-28%; 1997-31%; 1998-25%; 1999-18%; năm 2000 ước đạt16,8% tổng vốn đầu tư xã hội.
Ngoài ra tỷ lệ đóng góp của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài trong GDP tăng dần qua các năm. Năm 1995 chiếm 6,9%; 1996-7,4%; 1997- 9,2%;1998-10%;1999-11,8%; 2000-12,7%
Khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đã có những đóng góp đáng kể cho ngân sách nhà nước. Từ năm 1988 đến hết năm 2000, kinh tế có vốn ĐTNN đã đóng góp cho ngân sách Nhà Nước khoảng 1,8 tỉ USD
TTTNN chuyển giao các công nghệ hiện đại, tạo môi trườngcạnhtranh, góp phần phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất
Cùng với hoạt động đầu tư trực tiếp, các nhà đầu tư nước ngoài đã tiến hành chuyển giao công nghệ . Nhiều công nghệ mới đã được nhập vào nước ta như : thiết kế, chế tạo máy biến thế, dây chuyền tự động lắp ráp hang điện tử, mạch điện tử, lắp ráp tổng đài điện thoại tự động, kỹ thuật số, công nghệ sản xuất cáp diện, sản xuất ô tô, khai thác dầu khí…Nhờ có ĐTTTNN, Việt Nam đã khai thác được lượng dầu thô ngày càng tăng. Bên cạnh khai thác dầu thô, Việt Nam đã sản xuất được xe máy, máy tính, ti vi, có mạng thông tin viễn thông khá hiện đại… Về chất lượng công nghệ ĐTTTNN đua vào Việt Nam nhìn chung, phần lớn là các trang thiết bị đồng bộ, có trình độ bằng hoặc cao hơn các thiết bị tiên tiến đã có trong nước và thuộc loại phổ cập ở các nước công nghiệp trong khu vực. Một số trang thiết bị đã qua sử dụng được nâng cấp trước khi đưa vào Việt Nam
Để đạt năng suất, chất lượng và hiểu quả cao thì máy móc thiất bị, công nghệ hiện đại không thôi chua đủ, mà phải có những con người có đủ trình độ sử dụng các thiết bị đó. Chính vì vậy ,các nhà đầu tư nước ngoài trong quá trình đầu tư rất quan tâm đến việc tham gia quá trình đào tạo , nâng cao tay nghề trình độ chuyên môn cho người lao động Việt Nam, kể cả lao động trực tiếp lẫn đội ngũ quản lý.
Như vậy thong qua hoạt động chuyển giao công nghệ, đầu tư trực tiếp nước ngoài không chỉ góp phàn tạo ra nhiều sản phẩm mới , kiểu dáng đẹp, chất lượng cao, dạt tiêu chuẩn trong và ngoài nước, mà còn đào tạo nên một đôi ngũ lao động lành nghề và cán bộ quản lí có trình độ cao. Đồng thời, ĐTTTNN còn tạo môi trường cạnh tranh, thúc đẩy các doanh nghiệp trong nước phải tự đổi mới về công nghệ, về quản lí và tổ chức sản xuất để tồn tại. Chính điều này sẽ thúc đẩy mạnh mẽ sự phát triển của lực lượng sản xuất Việt Nam
Đầu tư trực tiếp nước ngoài góp phần giải quyết việc làm cho người lao động, tăng thu nhập cho người dân:
Tính đến hết năm 2000, khu vực đầu tư trực tiếp nước ngoài đã thu hút khoảng 350.000 lao động Việt nam, nếu tính cả lao động gián tiếp( cung ứng dịch vụ, xây dựng..) có thể lên tới 400.000 người, góp phần tạo nên một thị trường lao động. Đồng thời, ĐTTTNN cũng góp phần chuyển dịch cơ cấu lành nghề, cơ cấu lao động, đào tạo đội ngũ công nhân lành nghề có khả năng tiếp thu va sử dụng công nghệ tiên tiến. Với mức lương trung bình 70 USD/ tháng, thu nhập của người lao động trong khu vực này đã lên tới 300 triệu USD/ năm
ĐTTTNN góp phần quan trọng trong việc chuyển dich cơ cấu kinh tế theo hương công nghiệp hoá - hiện đại hoá
Như trên đã phân tích, ĐTTTNN đã và đang có sự chuyển dịch cho phù hợp với yêu cầu của công cuộc công gnhiệp hoá- hiện đại hoá đất nước. Trong năm 2000. 91% vốn đăng ký tập trung trong khu vực công nghiệp và xây dựng. ĐTTTNN đã có những đóng gáp đáng kể vào công cuộc chuyển dịch cơ cấu kinh tế nước ta
ĐTTTNN góp phần mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế thông qua đo góp phân mở rộng thị trường Việt Nam
Nhờ có hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài, các mối quan hệ kinh tế song phương, đa pgương của Việt Nam với các nước, các khu vực trên thế giới đã được thiết lập và củng cố. Từ đó đã mở rộng thị trường cho sản phẩm Việt Nam. thật vậy, một cách trực tiếp hay gián tiếp, qua các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, sản phẩm của Việt Nam đã có điều kiện toả ra tren khắp thị trường thế giới, thúc đẩy tăng trưởng trong nước và ngược lai sản phẩm của nhiều nước trên thế giới cũng được nhập vào Việt Nam để đáp ứng nhu cầu sản xuất và tiêu dung trong nước, đa phương hoá nguồn cung cho thị trường trong nước, do đó bảo đảm nguồn nguyên vật liệu, với giá cả phải chăng. Hay nói cách khác , đầu tư trực tiếp nước ngoài đã giúp Việt Nam nhanh chóng tìm kiếm được bạn hang mới ở thị trường khu vực 2, sau khi Liên Xô( cũ) và các nước Đông Âu tan rã. Hầu hết các nước có nhiều dự án và nhiều vốn đầu tư trực tiêp vào Việt Nam cũng đồng thời là bạn hang lớn trong quan hệ thương mại với Việt Nam như Singarpore, Nhật Bản…Điều đó chứng tỏ rằng đầu tư trực tiếp và ngoại thương có quan hệ hỗ tương. Ngoài ra , ĐTNN đã góp phần phá thế bao vây cấm vận của một ssó thế lực phản động quốc tế, tăng cường thế lực của Việt Nam trong tiến trình hội nhập với kinh tế thế giới. Trong hơn 70 nước và vùng lãnh thổ có dự án ĐTNN tại việt Nam phải kể tới nhiều tập đoàn có tiềm lực mạnh về công nghệ và tài chính như Coca Cola, Conoco, Bristish petroleum, Price Waterhouse, Cooper, Keppei, Mitsubishi, Honda, Huyndai, Samsung...
ĐTTTNN góp phàn đẩy mạnh xuất khẩu, tăng thu ngoại tệ,lành mạnh cán cân thương mại
Trong những năm gần đây, ĐTNN đã góp một phần quan trọng trong tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước. trong 7 năm gần đây, kim ngạch xuất khẩu của khu vực có vốn ĐTNN không ngừng gia tăng và luôn chiếm hơn 20% so với tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước.
ĐTTTNN góp phần làm thay dổi bộ mặt đất nước, đặc biệt là các thành phố như Hà Nội và TP Hồ Chí Minh đã có những bước phát triển vượt bậc.Bên cạnh đó ĐTNN còn góp phần nâng cấp cơ sở hạ tầng.
ĐTTTNN đã cung cấp kinh nghiệm, tạo nên nguồn động lực giúp các doanh nghiệp Việt Nam mạnh dạn đầu tư ra nước ngoài. Cho đến đầu năm2001 đã có 41 dự án Việt Nam đầu tư ra nước ngoài tại 12 nước và vùng lãnh thổ với vốn dăng ký gần 40 triệu USD
Chính nhờ việc không ngừng phải hoàn thiện môi trường đầu tư để tăng cường thu hút ĐTNN nên luật pháp việt Nam được hoàn thiện dần từng bước( với tốc độ nhanh hơn nhiều nếu khong có tác động của đầu tư nước ngoài), phù hợp với thông lệ quốc tế, tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình hội nhập
Những điều còn trăn trở
Nguồn vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài vào Việt Nam trong ba năm gần đây lien tục giảm sút về cả số vốn dăng ký lẫn tỷ trọng trong tổng vốn đầu tư xã hội. Riêng về vốn đăng kí, nếu năm 1996 là 8.640 triệu USD thì năm 1997 cón 4.514 triệu USD; 1998-3.596 triệu USD; năm 1999 chỉ còn 1,566 triệu USD- mức thấp nhất trong vòng 8 năm trở lại đây. Năm 2000 ĐTTNN có dấu hiệu hồi phục( vốn đăng kí đạt 1,9873 triệu USD), nhưng sự tăng trưởng này chưa có căn cứ bảo đảm chắc chắn, vẫn còn nhiều thách thức trong tương lai phải vượt qua
Cơ cấu vốn đầu tư nước ngaòi còn bất hợp lí:
+ Đầu tư mới chỉ hướng vào ngành nghề có khả năng mang lại lợi nhuận nhanh nên các ngành nông – lâm- thuỷ hải sản còn đầu tư quá nhỏ. Số dự án đã đầu tư thì tỉ lệ thành công không nhiều do gặp rủi ro thiên tai, nguồn nguyên liệu không ổn định, hợp đồng dài hạn cùng có lợi cho nông dân chưa được thực hiện tốt
+ Đâu tư nước ngoài chỉ tập trung vào những địa phương có nhiều thuận lợi như thành phố lớn, các trung tam công nghiệp, trong khi các tỉnh miền núi, nông thôn còn quá nhỏ bé không đáng kể. Chẳng hạn thanh phố Hồ Chí Minh chiếm 33,6 % số dự ánvà 28,8 số vốn đầu tư; Hà Nội chiếm 13,8%sô dự án và 20% vốn đầu tư; Đồng nai chime 9,3% số dự án và 8,7% vốn đâu tư; các địa phương khác chưađến 1%số dự án cũng nhu số vốn đầu tư
+ Các khu công nghiệp được thành lập mục đích là để cho địa phương mình cũng co khu công nghiệp chứ không phải xuất phát từ nhu cầu của các nhà đầu tư hoặc có địa phương không thuận tiện trong giao thông vận tải , không gần các trung tâm kinh tế nhưng vẫn đầu tư khu công nghiệp dể chờ các nhà đầu tư nước ngoài mà quên đi các doanh nghiệp trong nước đang gặp khó khăn về mặt bằng hoặc gây ô nhiễm. Tình trạng phổ biến là hình thành khu công nghiệp để chờ nhà đầu tư nước ngoài chứ không tìm hiểu chào mời các nhà đầu tư cả trong và ngoài nước. Chính vì lẽ đó diẹn tích đát cho thuê hiện chiếm một tỉ lệ rất nhỏ, khoảng gần 30%, còn lại để không mặc dù giá thuê đất ViệtNam thấp hơn so với giá thuê đất của các khu công nghiệp mà nhà đầu tư nước ngoài xây dựng cơ sở hạ tầng
+ Vốn đầu tư nứoc ngoài từ các nước châu A chiếm gần 70% trong khi vốn từ các nước Tây Âu , Bắc Mỹ, G7 trừ Nhạt quá thấp. Chính vì thế khi cuộc khủng hoảng kinh tế khu vực xảy ra Việt Nam đã chịu ảnh hưởng không tốt từ cuộc khủng hoảng này, làm cho tốc đọ thu hút vốn đầu tư nước ngoài từ năm 1997 đến năm 2000 bị giảm sút đáng kể
+ Hình thức liên doanh được khuyến khích đầu tư chiếm 50% số dự án và trên 66% tổng số vốn đầu tư đăng kí, nhưng chính doanh nghiệp liên doanh có tỉ lệ lỗ vốn , giải thể nhiều nhất, mâu thuẫn giữa các bên liên doanh khá phổ biến
Hệ thống luật pháp, chính sách đang trong quá trình hoàn thiện thiếu đồng bộ và ổn định, chưa đảm bảo tính rõ ràng. Điều này được thể hiện ở chỗ:
+ Tính ổn định củ chính sách pháp luật chua cao, thay đỏi nhiều. Nhiều văn bản dưới luật ban hành chậm so với quy định. Một số văn bản hướng dẫn của bộ ngành , địa phương có xu hướng xiết lại dẫn đến tình trạng trên thoáng dưới chặt.
+ Việc cấp mới và vốn đầu tư thực hiện có xu hướng suy giảm một phần do tác đọng của cuộc khủng hoảng tài chính khu vực nhưng mặt khác do môi trường đầu tu còn nhiều hạn chê. So với năm trước, năm 1997 giảm 49%, năm 1998 giảm 16%, vốn thực hiện năm 1997 đạt 3,25 tỉ USD tăng 25% nhưng năm 1998 giảm 40%, năm 1999 giảm 25%. Số dự án đã cấp phép xin giãn tiến đọ lên tới6 đén 7 tỉ USD, nhiều doanh nghiệp phải thu hẹp quymô sản xuất.
Công tác quản lí Nhà Nước đối với đầu tư nước ngoài còn yếu kém, vừa buông lỏng, vừa can thiệp sâu vào hoạt đọng của các doanh nghiệp. Việc quản lí quá tập trung vào khâu cấp phép , buuong lỏng qủn lí sau khi cấp giấy phép. Việc thực thi chính sách pháp luật chưa nghiêm. hủ tục hành chính rườm rà, hiện tượng tiêu cực gây phiền hà cho các nhà đầu tư chậm được cait tiến và chặn đứng. Sự phối hợp giữa các cơ quan quản lí nhà nước thiếu chặt chẽ. Tất cả những điều đó làm biến dạng chính sách, môi trường đầu tư ngay càng xấu đi.
Cán bộ làm việc trong các liên doanh hạn chế nhiều mặt: kiến thức chuyên môn yếu, không nắm vững luật pháp và thương trường, khong biêt ngoại ngữ. Một số cán bộ chưa phát huy được vai trò đại diện chủ sở hữu nhà nước trong kinh doanh, đứng nghiêng về lợi ích của nhà đầu tư nước ngoài nên đã xảy ra những tình trnạg đáng tiếc trong quan hệ cư xử giữa nhà đàu tư và người lao đọng Việt Nam. Mặt khác chất lượng lao động của Việt Nam chưa đáp ứng được yêu cầu của nhà đàu tư nên đã làm mất thế mạnh về lao động của Việt Nam với nhà đầu tư nước ngoài
1.4 Các giải pháp nhằm đẩy mạnh thu hút đầu tư nước ngoài
1.4.1Giữ vững sự ổn định chính trị xã hội
Giữ vững sự ổn định chính trị xã hội có ý nghĩa quyết định đến việc thu hút đầu tư, đặc biệt là đàu tư nước ngoài. Đay là yêu cầu rất quan trọng , bởi lẽ mỗi khi tình hình chính tri không ổn định, nhất là thể chế chính tri khong ổn định( và đi liền với nó là luật pháp thay đổi) cũng có nghĩa là mục tiêu có thể sẽ thay đổi, và một khi mục tiêu thay đổi thì phải thay đổi cả phương thức đạt mục tiêu đó . Điều này có nghĩa là những cái ngày hôm qua đã xây dựng được dưới chế độ cũ có thể trở thành lạc hậu thậm chí phải phá bỏ. Hậu quả của sự phá bỏ ấy là thiệt hại về lợi ích, trong đó nhà đầu tư nước ngoài phải gánh chịu một phần và như vậy rõ rang không đáp ứng được mục tiêu lợi nhuận của nhà đầu tư( chưa kể đến những trường hợp con, mất hoặc thất thoát về vốn đàu tư nếu như chính quyền mới thực hiện quốc hữu hoá). Sự mất ổn định chính trị thường biểu hiện dưới nhiều góc độ khác nhau và đi liền với nó là những hậu quả phát sinh khác làm thiệt hại đến lợi ích của đầu tư. Kinh nghiệm của hầu hết các nước cho thấy rằng khi tình hình chính trị mất ổn định thì các nhà đầu tư sẽ không đầu tư hoặc ngừng việc đầu tư của mình. Đối với nước ta, từ khi thực hiện sự nghiệp đổi mới sự ổn định chính tri luôn được bảo đảm. Tuy nhiên đứng trước nguy cơ diễn biến hoà bình và sự phá hoại của các thế lực phản động trong và ngoài nước. Chúng ta phải luôn cảnh giác, đồng thời tiếp tục duy trì và nần cao hơn nữa sự ổn định chính trị
Giải pháp về tư tuởng
Cần thông suốt từ trên xuống dưới, từ vị lãnh đạo trung ương đến người dân ở địa phương: kinh tế có vốn ĐTTTNN là một bộ phận hữu cơ của nến kinh tế. Từ đó phải xây dựng và thực hiện một hệ thống giai pháp đồng bộ, nhằm thu hút và sử dụng có hiệu quả nguồn vón ĐTNN, với yêu cầu phải gắn ĐTNN với kế hoạch phát triển của đất nước; gắn với quy hoạch ; chuyển dịch cơ cấu kinh tế ; phát huy lợi thế so sánh, nâng cao sức cạnh tranh và hiệu quả của nền kinh tế ,không chay theo số lượng; đẩy mạnh thu hút và sử dụng có hiệu quả vốn ĐTNN nhưng phải đảm bảo đọc lập , tự chủ, an ninh quốc gia
1.4.3Tiếp tục cải thiện môi trường kinh doanh, tăng sức hấp dẫn của môi trường đầu tư Việt Nam
Chúng ta biêt răng mục đích chính của nhà đầu tư là tối đa hoá lợi nhuận, ở đâu có thể thu được lợi nhuận cao, ở đó sẽ có các nhà đầu tư. Còn khi có hai nơi coa khả năng thu được lợi nhuận như nhau thì nhà đầu tư sẽ chọn nơi nào an toàn hơn, có thủ tục dễ dàng hơn
Thời gian qua, môi trường đầu tư và nhất là môi trường kinh doanh của Việt Nam tuy là đã được cải thiện, nhưng vẫn chưa có đủ sức hấp dẫn do còn nhiêu rủi ro, một số lơi thế so sánh bị mất đi, cơ sở hạ tầng yếu kém…Do đó chúng ta phải xây dựng một hệ thống chính sách để cải thiện môi trương đầu tư
Áp dụng mặt bằng giá thống nhất cho một số laọi hang hoá dich vụ đối với doanh nghiệp đầu tư trong nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
Xây dựng quy chế quản lí hoạt động tài chính của doanh nghiệp đầu tư nứoc ngoài, ban hành các chuẩn mực kế toán kiểm toán phù hợp với thong lệ quốc tế để một mặt tạo diều kiện thuận lợi cho hoạt đọng của các doanh nghiệp, mặt khác bảo đảm sự quản lí của nhà nước về hoạt động tài chính của doanh nghiệp
Các dụ án đầu tư vế ngành nông-lâm nghiệp và các vùng kinh tế khó khăn nên có chính sách ưu đãi cao hơn các vùng khác.
Khuyến khích doanh nghiệp hướng mạnh vào thị trường xuất khẩu từ sử dụng nguyên liệu trong nước, chế biến thành sản phẩm hoàn chỉnh để xuất khẩu, hạn chế cấp giấy phép cho các dự án xuất khẩu nguyen liệu hoặc sản phẩmchỉ qua sơ chế
Cần linh hoạt hơn trong việc quyết định các hình thức đàu tư xuất phát từ hiệu quả sản xuất kinh doanh. Vì thế cho phép các lien doanh trong một số trường hợp được chuyển đổi hình thức sang 100% vốn nước ngoài hoặc 100% vốn trong nước. Cần có chính sách và tạo điều kiện cho các doanh nghiệp ngoài quốc doanh; thực hiện cổ phần hoá các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài để huy động nhiều nguồn vốn với mọi loại quy mô vốn cho sự phát triển nên kinh tế
Ngoài các khu công nghiệp và các cụm công nghiệp để di rời các nhà máy trong các thành phố lớn cần xem xét chặt chẽ việc thành lập các khu công nghiệp mới. Rà soát lại các khu công nghiệp đã được cấp giấy phép để dừng hoặc giãn tiến đọ xây dựng khi không bảo đảm tính khả thi, và chỉ cấp phép cho khu công nghiệp mới nếu đủ điều kiện và chứng minh đựoc tính khả thi.
Cần thực hiện gấp việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho các doanh nghiệp, khu công nghiệp, bảo đảm các công trình hạ tầng kĩ thuật như giao thông điện nước và thông tin liên lạc , thực hiện chính sách ưu đaic ở mức cao nhất cho các dự án phát triển hạ tầng cơ sở đồng bộ với các khu công nghiệp
1.4.4 Hoàn thiện hệ thống luật đầu tư nước ngoài
Trước mắt cần sửa đổi bổ sung một số điều của luật đầu tư nước ngoài để bảo đẩm môi trường đầu tư có sức hấp dẫn và tính cạnh tranh cao hơn so với các nước trong khu vực. Đó là:
+ Phù hợp với hệ thống pháp luật chung của nước ngoài để tạo mặt bằng ưu đãi cao hơn so với các nước trong khu vực
+ Bảo đảm sự ổn định của pháp luật và chính sách đối với đầu tư nước ngoài nhằm tạo và giữ vững long tin cho các nhà đầu tư nước ngoài
Sửa đổi một số điều khoản trong văn bản pháp luật có liên quan đến đầu tư nước ngoài nhằm tháo gỡ khó khăn cho các doanh nghiệp
+ Cho phép các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài được phép thế chấp tài sản gắn với quyền sử dụng đất tại các ngân hang Việt Nam, ngân hang liên doanh và chi nhánh ngân hang nước ngoài để tạo điiêù kiện thuân lợi cho các doanh nghiệp được vay vốn phát triển sản xuất kinh doanh
+ Điều chỉnh mức phải chịu thuế thu nhập cao hơn cho các lao đọng làm việc tại các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài để khuyến khích người Việt Nam đảm nhận các vị trí quản lí và chuyên môn cao. Đó chính là cơ hội tốt để nâng cao trình độ cho người lao động để có thể tự đảm trách được công việc có hiệu quả khi thuyên chuyển sang doanh nghiệp có vốn đầu tư trong nước dưới mọi hình thức và thành phần kinh tế
+ Quy định chặt chẽ hơn việc kí kết hợp đồng lao động với các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài nhằm bảo đảm quyền lợi cho người lao động Việt Nam tránh xung đột mà thiệt hại về tinh thần và vật chất thuờng nghiêng hẳn về phía người lao động.
1.4.5 Đẩy mạnh công tác đầu tư
Cần thành lập các bộ phận chuyên trách đảm nhận công việc xúc tiến đầu tư ở nước ngoài để chủ động đa phương hoá các đối tác đầu tư nước ngoài . Ngoài các nhà đầu tư o châu Á, cần mạnh dan nghiên cứu các đối tác đầu tư ở Tây Au, Bắc Mĩ nhằm tranh thủ tiềm lực về công nghệ kĩ thuật hiện đại để nâng cao khả năng cạnh tranh. Ưu tiên cho các dự án quy mô vừa và nhỏ nhưng công nghệ hiện đại. Mạnh dạn không khuyến khích đầu tư nước ngoài đối với những sản phẩm dịch vụ mà Việt Nam có thể đảm nhận có hiệu quả để phát huy nội lực
1.4.6 Nâng cao hiêu quả quản lí nhà nước đối với đầu tư nước ngoài
Việc sửa đổi bổ sung luật cùng với các chính sách , chế độ đối với đầu tư nước ngoài thì một vấn đề khác khá quan trọng đó là công tác quản lí của nhà nước. Vì vậy cần sự phối hợp chặt chẽ giữa các bộ tổng hợp, bộ quản lí chuyên ngành và UBND địa phưong theo đúng thẩm quyền và trách nhiệm của mình đối với đầu tư nước ngoài. Tránh tình trang chông chéo hoặc trì trệ trong việc thực hiện các chủ trương chính sách cụ thể đối với đầu tư nước ngoài trong từng vùng , từng giai đoạn và từng ngành nghề. UBND tỉnh thành phố và ban quản lí khu công nghiệp được phân cáp uỷ quyền quản lí hoạt động đầu tư nước ngoài phải bảo đảm nguyên tắc tập trung, thống nhất về quy hoạch ,cơ chế, chính sách đồng thời tăng cường sự hướng dẫn, kiểm tra của các bộ ngành ở trung ương. Nâng cao kỉ cương và kỉ luật để phát huy cao độ tính chủ động sáng tạo của các địa phương và cơ sở nhưng không phá vơc quy hoach chung và tạo ra sự sơ hở trong quản lí
Cần hình thành chế đọ kiểm tra nghiêm túc của các cơ quan quản lí nhà nước để tránh rự tuỳ tiện hoặc hình sự hoá các quan hệ kinh tế của các doanh nghiệp mà vẫn đảm bảo giám sát được những vi phạm của pháp luật doanh nghiệp
1.4.7 Nâng cao chất lương quy hoạch thu hút ĐTNN
Thời gian qua, chất lượng khâu quy hoạch của chúng ta quá kém , dẫn đến việc cấp phép cho một số ngành hàng, lĩnh vực vượt quá nhu cầu, gây lãng phí, thiệt hại cho đất nước, làm các nhà đầu tư mất niềm tin. Sắp tới cần căn cứ vào vào phương hướng , kế hoạch, chiến lược sủa nước ta trong 5-10 năm tới để xây dựng một quy hoạch tổng thể thu hút ĐTNN, trên cơ sở đó các ngành, bộ, địa phương xây dựng quy hoạch chi tiết cho ngành bộ điạ phương mình. Quy hoạch phải khoa học và hợp lí, sao cho phát huy được nội lực và gắn với tiến trình hội nhập, nâng cao sức cạnh tranh và hiệu quả của nền kinh tế, kết hợp giải quýât những vấn đề của an ninh và quốc phòng. Cần sớm công bố các quy hoạch phát triển của từng vùng , ngành , địa phương…
1.4.8 Cải thiện lực lượng lao động
Chú trọng hơn nữa đến việc đào tạo đội ngũ cán bộ giỏi về chuyên môn nghiệp vụ đồng thời trung thành với tổ quốc, đội ngũ kĩ sư lành nghề để cung cấp cho khu vực có vốn đầu tư nước ngoài. Từng bước tổ chức, nghiên cứu một phương thức hoạt động thích hợp và có hiệu quả cho tổ chức Đảng , Công Đoàn trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
Trên đay là một số phương pháp co tĩnh chất tạo môi trường đầu tư hấp dẫn hơn với các nhà đầu tư nước ngoài, nhằm tăng thêm nguồn vốn đầu tư và tạo đièu kiện cho các doanh nghiệp trong nước phát huy nội lực của mình
1.5 Các giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn
1.5.1 Hoàn thiện cơ chế chính sách và pháp luật về đầu tư xây dựng
Để phù hợp với nền kinh tế đa thành phần vận hành theo cơ chế thị trường, theo định hương XHCN, nhà nước đã ban hành nhiều chính sách pháp luật để điều chỉnh các hành vi trong lĩnh vực đầu tư xây dựng. Tuy nhiên quá trinh đổi mới diễn ra nhanh chóng và sâu rộng làm cho hệ thống luật pháp và chính sách không theo kịp. Khi áp dụng vào thực tế quản lí đầu tư xây dựng, chúng bộc lộ các nhược điểm vừa chồng chéo lại vừa sơ hở nên dễ bị lợi dụng làm thất thoát vốn đầu tư.Việc điều chỉnh cần phân định rõ rang và đúng mức chức năng của các bộ, ngành trong đầu tư xây dựng
Thứ nhất, nêngiao chức năng quản lí nhà nước về công tác đấu thầu cho Bộ Xây Dựng quản lí. Vì mục tiêu đấu thầu là lựa chọn các nhà tư vấn, nhà thầu có đủ năng lực về tài chính, công nghệ và nhân lực để thực hiện dự án đầu tư một cách hiệu quả nhất. Chỉ có bộ Xây Dựng mới đủ khả năng xem xét toàn diện các năng lực này, trước hết là công nghệ sau đó là kỹ thuật xây dựng cũng như chất lượng công trình
Thứ hai, nên giao cho Bộ Xây Dựng chức năng quản lí nhà nước trong lĩnh vực xây dựng cơ bản và giảm bớt chức năng trong quản lí các doanh nghiệp nhà nước trực thuộc như hiện nay. Làm như vậy sẽ khắc phục được những bát hợp lí trong việc ban hành và quản lí các tiêu chuẩn, quy phạm và định mức kinh tế kĩ thuẩttong xây dựng
Thứ ba, giao Bộ Xây Dựng và các Sở Xây dựng( trừ các địa phương có sở giao thông công chính)quảnlí thống nhất các công trình xây dựng trong đo thị, đặc biệt là hạ tầng kĩ thuật để tránh tinh trạng không đồng bộ.
Thứ tư, trên cơ sở phân định rõ chức năng của các bộ, ngành trong lĩnh vực đầu tư xây dựng, từng bước thể chế hoá các văn bản pháp luật, đông thời tổ chức lại bộ máy của ngành xây dựng.
Nâng cao chất lượng công tác xây dựng chiến lược đầu tư và kế hoạch hoá đầu tư
Xây dựng chiến lược đầu tư và kế hoạch hoá đầu tư nhằm các mục tiêu: Xoá bỏ tinh trạng ngẫu hứng trong đầu tư. Các quyết định đầu tư vội vàng thiếu quy hoạch, vi phạm các qy trình đầu tư, khắc phục hiện tượng vừa thiết kế vừa thi công để nâng cao chất lượng dự án
Xoá bỏ tình trạng đầu tư dàn trải dẫn đến dự án thiếu vốn phải thi công kéo dài, lãng phí, thất thoát vốn đầu tư..
Xoá bỏ cơ chế xin cho, nguyên nhân phát sinh tiêu cực, làm thất thoát vốn, làm hư hỏng cán bộ, tham nhũng,gây mất lòng tin của nhân dân.
Bản chất của kế hoach hoá đầu tư là dựa trên chiến lược phát triển kinh tế xã hội của đat nước, trên cơ sở đó định ra kế hoạch đầu tư 5 năm và hàng năm, nhà nước có thể dụa trên điều này để kiểm soát và kiểm tra.
1.5.3Đề cao trách nhiệm của cá nhân ra quyết định đầu tư
Từ trước đến nay luật pháp nước ta chưa đặt ra các chế tài cụ thể đối với các tố chức và cá nhân khi gây ra thiệt hại cho đất nước trong lĩnh vực được giao phụ trách( trừ luật hình sự). Vì thế có nhiều dự án không hiệu quả nhưng không ai bị truy cứu trách nhiệm. Để tránh tình trạn này cần tăng trách nhiệm cho các cơ quan và cá nhân trực tiếp quản lí
1.5.4Bổ sung hoàn thiện và quản lí chặt chẽ hệ thông quy phạm, định mức kinh tế-kĩ thuật , đơn giá trong đầu tư xây dựng
1.5.5Chấn chỉnh và nâng cao hiệu lực thanh tra kiêm tra trong đầu tư
Ngoài ra sự chuyển dịch cơ cấu vốn đầu tư theo cùng lãnh thổ, phân bổ vốn đầu tư theo vùng hợp lí sẽ tạo điều kiện khai thác triệt để lợi thế từng vùng. Đầu tư phát triển hợp lí vùng lãnh thổ, sẽ phát huy những ưu việt của từng vùng, đảm bảo tiết kiệm chi phí, phát triển kinh tế, nâng cao khả năng, trinh độ chuyên môn, góp phần tiếp cận và giao lưu văn hoá kinh tế giữa các vùng…
2- Đầu tư gián tiếp( ODA)
2.1 Tình hình huy động,quản lí và sử dụng ODA
ODA được xác định là nguồn lực bên ngoài quan trọng cho phát triển kinh tế xã hội nói chung và cho sự nghiệp CNH-HĐH nói riêng. Chính phủ ta rất quan tâm đến việc thu hút nguồn viện trợ phát triển chính thức này. Việc chúng ta nối lại mối quan hệ với các tổ chức tài chính quốc tế như IMF, WB,ADB, kí hiệp định khung với EU, bình thường hoá quan hệ với Mĩ, gia nhập ASEAN…là những bước tiến trong việc tạo lập môi trường kinh tế quốc tế thuận lợi cho việc vận động và tiếp nhận ODA..
ODA có tác động tích cực đến quá trình phát triển kinh tế xã hội của các địa phương và các vùng lãnh thổ, giảm phân hoá trong phát triển giữa các vùng miền đô thị với nông thôn, vùng sâu , vùng xa, cải thiện điều kiện sinh hoạt và nâng cao chất lượng cuộc song… Từ năm 1993 đến nay thông qua 7 hội nghị nhóm tư vấn các nhà tài trợ dành cho Việt Nam lượng được cam kết đạt trên 16,4 tỉ USD. Tính đến ngày 31/12/1999 chúng ta đã giả đạt khoảng 41,03% tổng số vốn cam kết. Năm 2000 các nhà tài trợ đã cam kết tài trợ cho Việt Nam 2,8 tỉ USD trong đó có 700 triệu hỗ trợ đẩy nhanh quá trình cải cách.
Trong những năm qua Nhà nước ta hướng việc sử dụng nguồn vốn ODA vào những vùng ngành, những lĩnh vực kinh tế có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển kinh tế xã hội chung của cả nước; trước hết là cải tạo, nâng cấp và phất triển cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội. Một số chương trình dự án ODA được triển khai tại các vùng nông thôn miền núi, nhiêud dự án cho phát triển giao thông, điện thuỷ lợi , y tế.. Có thể nêu ra một số chương trình dự án ODA có quy mô lớn: Chương trình tín dụng nông nghiệp cua ADB, chương trinh diều chỉnh cơ cấu( SAC) và chương trình điều chỉnh cơ cấu kinh tế(ESAF) cua WB va IMF, chương trình hỗ trợ hàng hoá của Nhật Bản, Hà Lan…
Những chương trình đó đã mang lại những hiệu quả thiết thực lâu dài.
Trong công nghiêp ODA đã góp phần đáng kể trong việc tăng năng lực sản xuất của một số ngành, đặc biệt là ngành điện. Hầu hết nguồn điện, hệ thống đường dây, trạm biên thế quan trọng đều được đầu tư bằng ODA( nhà máy thủy diện Hoà Bình, Thuỷ điện Trị An 440Kw, nhiệt điện Phả Lại…).
Trong nông nghiệp và phát triển nông thôn, viện trợ không hoàn lại chiếm tới 50,3%, các lĩnh vực như tín dung nông thôn, thuỷ lợi , lâm nghiệp.. đã thu hút đang kể sự quan tâm từ các nguồn viên trợ song phương, đa phương.
Trong GTVT, nhiêu công trình giao thông trọng điểm được các nhà đầu tư cam kết hỗ trợ xây dựng trong thời kì 1996-2000. Các dự án GT nông thôn cũng được đầu tư bang ODA cua các nhà tài trợ lớn như Nhật Bản , WB, ADB.
Trong lĩnh vực giáo dục –đào tạo, khoa học-công nghệ, các cơ quan Việt Nam đã phối hợp tốt, tích cực và chủ động, xây dựng và thực hiện các dự án sử dụng ODA nên đạt tỉ lệ dự án cao so với các ngành khác, đào tạo một số lượng đáng kể cán bộ khoa học kĩ thuật thuộc nhiều lĩnh vực quan trong của nền kinh tế, tăng cường năng lực vật chất và những thiết bị nghiên cứu hiện đại, nhiều công nghệ hiện đại đã được nghiên cứu và đưa vào vận hành có hiệu quả….
Nhưng vấn đề tồn tại
Việc quản lí và sử dụng ODA ở nước ta trong thơi gian qua còn bộc lộ nhưng tồn tại làm giảm hiệu quả sử dung nguồn vốn này
Về mặt nhận thức: Vẫn còn nhiều người nghĩ ODA lag món quà cho không, biếu không. Lại có quan niệm sử dụng ODA vay là được ma không tính đến khả năng trả nợ và hiệu quả sử dụng, gây tình trạng thất thoát, lãng phi, tham nhũng..
Quá trình lập và duyệt dự án ODA kéo dài từ 1-3 năm, phân bổ nguồn vốn của dự án lại chưa thật sự hợp lí, chua gắn với nhu cấu sử dụng vốn trong thực tế. Quy trình đấu thầu phức tạp, tổ chức long lẻo, xuất hiện tình trạng chạy đua hạ giá bỏ thầu đến mức vượt quá hệ số an toàn về chất lượng công trình; các nguyên tắc và diều kiện đấu thầu theo thông lệ quốc tế chưa được làm quen hoặc chưa công khai nên phần lớn thiết bị phải mua từ nước ngoài với giá cao, chuyển giao kĩ thuật lạc hậu, thanh toán cho chuyen gia nước ngoài rất tốn kém, chịu sự lệ thuộc nhất định vào nước ngoài…
Chính sách và công tác đền bù giải phóng mặt bằng, di dân tái định cư chưa hợp lí dẫn tới một số dự án giao thông chậm triể khai. Vốn đối ứng tuy chiếm tỉ trọng thấp nhưng tổng số vốn đầu tư cho dự án ODA lại ảnh hưởng đáng kể đến tiến độ triển khai dự án do việc kế hoạch hoá làm chưa tốt. Các chủ dự án khi lập dự toán chưa phản ánh đủ hoặc kịp thời vốn đối ứng để đua vào kế hoach NSNN hang năm nên thường phải đièu chỉnh bổ sung, gây nhiều khó khăn
Về phía các nhà tài trợ, quy trình thủ tục giả ngân của họ khá phức tạp, đòi hỏi phải có nhiều thời gian chuẩn bị. Hơn nưac, nhiều trường hợp, quy định của họ không rõ ràng, nhất quán, cản trở việc giải ngân có hiệu quả
Về phía Việt Nam, chưa xây dựng quy chế phân định trách nhiệm rõ rang cho cơ quan hay cá nhân chịu trách nhiệm về dự án. Đối với một số dự án của dịa phương, công tác thẩm định còn sơ sài, chưa thực sụ tính toán đến khía cạnh hiệu quả kinh tế của dự án . Nhiều dự án khi làm nghiên cứu khả thi đã không xác định rõ mục tiêu đầu tư, hạng mục đầu tư và tính đồng bộ giữa các khâu dẫn đến việc nhập khẩu thiết bị không đồng bộ, nguyên liệu không đủ, ccong suất thiết kế đạt thấp…điều đó làm hiệu quả kinh tế của dự án thấp, gây khó klhăn cho việc trả nợ. Ngoài ra năng lực cuả ban quản lí dự án về trình độ ngoại ngữ cũng như kinh nghiệm quản lí còn hạn chế, nhất là ban quản lí tiểu dự án ở các địa phương.
Công tác quản lí tài chính ODA của chính phủ chư tập trung vào một đàu mối, do đo dẫn đến việc trách nhiêm không rã rang trong viẹc theo dõi quản lí, tổng hợp…
Nhưãng tôn tại đó khiến việc giải ngân ODA không theo như kế hoạch. Bình quan trong 1996-1999 chỉ giải ngân dược 1,1 tỉ USD , đạt 7-% kế hoạch. Ông chủ tịch WB phát biểu” Việt Nam cần giải ngân nhanh hơn 1,5 tỉ USD trong 3 năm tói mới có thể làm tăng mức tăng trưởng. Hiện tại VN còn 9 tỉ USD chưa giải ngân
2.3Giải pháp quản lí, sử dụng ODA
ODA là quan trọng nhưng nó chỉ là xúc tác giúp các nước đang phát triển khai thác tiềm năng bên trong, gián tiếp tác động đến sức mạnh kinh tế của quốc gia. Và nếu sử sụng không hiệu quả thì việc thu hút quá nhiêu ODA sẽ gây cho nên kinh tế nguy cơ chịu đựng gánh nặng nợ nần rất lớn. Theo xu hướng của thế giới thì việc quant lí , sử dụng ODA ngày càng phải chặt chẽ.
Cần chú ý các giải pháp sau:
Cần chú ý đến công tác đào tạo và nâng cao năng lực cán bộ, bồi dưõgn cho thông thạo chuyên môn nghiệp vụ, pháp luật ngoại ngữđể nâng cao chất lượng đàm phán nhằm đạt được yêu cầu tối thiểu về lãi suất thời hạn vay…trên cơ sở đôi bên cùng có lợi
Tất cả dự án sử dụng ODA đều phải thực hiện tốt các khâu của quy trình dự án, thực hiên đúng các quy định về đầu tư xây dựng trong nước và phù hợp với thông lệ quốc tế, đặc biệt là khâu lựac chọn dự án đấu thầu..
Đơn giản hoá và nâng cao chất lương khâu thẩm định dự an, tổ chức đấu thầu, đàm phán các hợp đồng vay, bảo đảm tuân thủ đúng pháp luật trong nước và thông lệ quốc tế; công khai hoá các quy trinhf thủ tục, thời hạn trách nhiệm trong quá trình triển khai dự án
Phân tích cụ thể các điều kiện vay, các điều kiện ràng buộc để bố trí sử dụng vốn hiệu quả, khắc phục tình trạng sử dụng vốn dàn trải
Nghiên cứu đồng bộ, có khoa học các biẹn pháp chuyển đổi nợ thành đầu tư trong nước, tăng khả năng thanh toan trả nợ..nhằm tạo ra khả năng trả nợ hoặc làm giảm nghĩa vụ trả nợ trong tuơnglai
Các ngành, địa phương cần tính toán hiệu quả và xác đinh đầy đủ nghĩa vụ trả nợ, đặt lợi ích quốc gia lên hàng đầu
Nhà nước thực hiện tốt chức năng định hương trong quản lí kinh tế là điêu kiện tiên quyết để nâng cao chất lượng và hiệu quả sử dụng ODA, đặc biệt chú trọng về chất lượng quy hoach tổng thể các nguồn vôn đầu tư phù hợp..
Công tác vận động ODA cần được đổi mới về cơ bản về nội dung và phương pháp thực hiện. Cân mạnh dan chối bỏ cac nguồn vốn không đáp ứng yêu cầu
Luật hoá các hoạt động đầu tư gián tiếp nước ngoài, trong đó có việc sử dụng và quản lí ODA. Bởi vì hiện tại chúng ta có khá nhiều văn bản dưới luật nhưng hoạt động không hiệu quả, gây nên tình trạng chồng chéo sơ hở
Để có cơ sở phân định rõ trách nhiệm quyền hạn giữa các cơ quan hữu trách cần phải hoàn thiện thể chế để có một cơ quan chịu trách nhiệm toàn diện
Kết Luận
Hiện nay trên thế giới, nguồn vốn đầu tư nước ngoài đang trở thành một phần không thể thiếu, đối với cả các nước phát triển hay những nước đang phát triển, bước vào con đường công nghiệp hoá hiện đại hóa. Cùng với nó, việc thu hút đầu tư nước ngoài cũng trở thành một bộ phận quan trọng trong quan hệ kinh tế thế giới và là nhân tố hàng đầu của nhiều nứơc. Đối với Việt Nam chúng ta cũng vây. Bài viết này đã nghiên cứu một cách tổng quát và logic, thực trạng, thuận lợi cũng như khó khăn về nguồn vốn đầu tư nước ngoài ở Việt Nam. Nó cũng đưa ra một số giải pháp, hy vọng có thể giúp cho sự phát triển của nền kinh tế xã hội nước ta.
MỤC LỤC
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- C0201.doc