Đề tài Thực trạng và giải pháp đổi mới công nghệ ngành Dệt may Việt Nam

Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài là nguồn vốn đầu tư của tư nhân nước ngoài để đầu tư cho sản xuất, kinh doanh, dịch vụ nhằm mục đích nhằm mục đích lợi nhuận với ba hình thức: hợp đồng hợp tác kinh doanh, doanh nghiệp liên doanh, doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài. Nếu chính phủ kêu gọi và khuyến khích đầu tư FDI đúng hướng phục vụ cho phát triển kinh tế xã hội nước ta, phát huy được lợi thế so sánh của nước ta và tạo điều kiện giúp chúng ta có thể tiếp thu những công nghệ kỹ thuật sản xuất tiên tiến, kinh nghiệm quản lý hiện đại của thế giới. Hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) là khoản viện trợ hoàn lại hoặc vay với các điều kiện ưu đãi về lãi suất, thời hạn cho vay dài, khối lượng vay lớn của các chính phủ, tổ chức tài chính tiền tệ thế giới. ODA cho ngành dệt may thời gian qua chủ yếu là dành cho xây dựng, cải tạo cơ sở hạ tầng cho ngành và hỗ trợ công tác xuất khẩu.

doc30 trang | Chia sẻ: Dung Lona | Lượt xem: 988 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng và giải pháp đổi mới công nghệ ngành Dệt may Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g công nghệ được lan truyền từ nơi đầu tiên mà nó được sáng tạo và triển khai sang các nơi khác. Nói tóm lại, đổi mới công nghệ là những tiến bộ về công nghệ, tiến bộ đó dưới dạng máy móc thiết bị hay phương pháp mới về sản xuất hay kỹ thuật, tổ chức, quản lý hay marketing mà nhờ đó việc sản xuất ra sản phẩm sẽ đạt năng suất cao hơn, chi phí thấp hơn, chất lượng cao hơn. 1.2. Các nguồn đổi mới công nghệ Công nghệ được đổi mới nhờ các nguồn sau: -Sử dụng công nghệ truyền thống hiện có ở trong nước, cải tiến, hiện đại hóa công nghệ truyền thống đó. -Tự nghiên cứu, phát triển, ứng dụng công nghệ mới. -Nhập công nghệ tiên tiến từ nước ngoài thông qua chuyển giao công nghệ Đối với các nước đang phát triển, chuyển giao công nghệ từ nước ngoài là nguồn chủ yếu, chuyển giao công nghệ bao gồm chuyển giao dọc và chuyển giao ngang ngoài ra có chuyển giao công nghệ có kèm đầu tư tư bản 1.3. Vai trò của đổi mới công nghệ +là một yếu tố cấu thành cơ sở vật chất và là phương pháp của sản xuất công nghiệp. Nó tác động đến tăng trưởng, phát triển và cơ cấu ngành công nghiệp, làm thúc đẩy các ngành có hàm lượng khoa học - công nghệ cao sẽ phát triển nhanh hơn các ngành công nghiệp truyền thống + là nhân tố ảnh hưởng tới năng cao hiệu quả sản xuất – kinh doanh. Sử dụng tiết kiệm, có hiệu quả hơn các nguồn lực cho sản xuất như: nguyên liệu rẻ tiền, dễ thay thế + là nhân tố ảnh hưởng trực tiếp đến nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Nhờ đó mà tạo ra những sản phẩm có tính năng vượt trội hơn cả, công dụng, giá cả do đó mở rộng thị trường tiêu thụ, chi phí tiết kiệm, xây dựng thương hiệu cho doanh nghiệp. + Góp phần giải quyết được bảo vệ môi trường, cải thiện điều kiện làm việc, giảm lao động nặng nhọc, độc hại, nâng cao tỷ lệ lao động có chất xám, kỹ thuật cao, giảm lao động phổ thông CHƯƠNG II. THỰC TRẠNG ĐỔI MỚI CÔNG NGHỆ NGÀNH DỆT MAY 2.1. Khái quát ngành dệt may Việt Nam. Ngành dệt may là một ngành có truyền thống lâu đời, từ thời phong kiến đã hình thành các làng nghề thủ công và các tổ chức thủ công nghiệp. Nhìn chung tổ chức thủ công nghiệp thời kỳ này bao gồm 2 dạng: dạng quan doanh do nhà nước phong kiến quản lý, dạng dân gian tập trung ở các phường phố nội thị và các phường xã ven đô. Ngoài ra còn có nghề thủ công trong các gia đình nông dân làng xã với tính chất là nghề phụ trong gia đình. Vào thời kỳ đó, ngành dệt đã phôi phai hình thành từ thế kỷ thứ XII ở vùng châu thổ sông Hồng. Tại đây đã hình thành các làng dệt ven Hồ Tây, các vùng nuôi tằm tại Hưng Yên, Thái Bình, các vùng trồng bông tại Ninh Thuận, Đồng NaiSong phải đến năm 1889 mới đánh dấu sự phát triển chính thức của ngành công nghiệp dệt tại Việt Nam kể từ khi người Pháp tiến hành xây dựng khu công nghiệp dệt Nam Định. Và kể từ đó sau nhiều năm ngành dệt may đã phát triển cao hơn với máy móc thiết bị hiện đại được nhập từ các nước như Trung Quốc, Liên Xô, Châu Âu. Đến nay, ngành dệt may càng khẳng định được vị trí quan trọng của mình trong cơ cấu phát triển của các ngành sản xuất công nghiệp Việt Nam với số lượng sản phẩm xuất sang thị trường nước ngoài lớn đặc biệt là thị trường của các nước phát triển như Nhật Bản, EU, Mỹ. Ngành dệt may là ngành có nhiều điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của mình, thứ nhất đó là do nước ta nằm gần trung tâm Đông Nam Á và ở trong khu vực Châu Á Thái Bình Dương, vì thế có lợi thế về đường biển dễ dàng giao lưu kinh tế với các nước khác trên thế giới. Điều kiện này rất thuận lợi cho việc vận chuyển hàng hóa bằng đường biển, giảm chi phí. Thứ hai, nước ta có nguồn nhân lực dồi dào và rẻ do dân số đông và trẻ trong khu vực và thế giới. Trung bình hàng năm có khoảng 1.5 triệu bước vào độ tuổi lao động tạo thành đội ngũ dự bị hùng hậu bổ sung cho lực lượng vốn đã đông đảo.Thứ ba, ngành công nghiệp dệt may phù hợp với tổ chức quy mô vừa và nhỏ ở Việt Nam. Thứ tư, xu hướng dịch chuyển ngành công nghiệp dệt may, là nước đi sau nên Việt Nam có điều kiện thuận lợi cho việc kế thừa các thành tựu của các nước công nghiệp phát triển, sự dịch chuyển này giúp cho Việt Nam có nhiều cơ hội phát triển hơn. Thứ năm, Việt Nam có truyền thống văn hóa đa dạng và lâu đời, vì thế có thể tạo ra nhiều sản phẩm có hàm lượng trí tuệ và yếu tố văn hóa cao, giúp cho các doanh nghiệp có thể cạnh tranh với các doanh nghiệp khác trên thế giới. Thứ sáu, mối quan hệ giữa phát triển dệt may và phát triển nông nghiệp, vì hầu hết các nguyên vật liệu của ngành dệt may như bông, sợi tổng hợp,hóa chất thuốc nhuộmđều là nhập khẩu làm giảm sức cạnh tranh của hàng xuất khẩu Việt Nam và hạn chế tính chủ động trong sản xuất của ngành. Trong khi đó, Việt Nam hoàn toàn có cơ sở để xây dựng và phát triển các vùng nguyên vật liệu bông, trồng dâu nuôi tằm do khí hậu, đất đai khá thuận lợi cũng như các loại nguyên liêu xơ PE và tơ PE . 2.2. Sự cần thiết phải đổi mới công nghệ ngành dệt may. *Góp phần chuyển dich cơ cấu kinh tế Đầu tư đổi mới công nghệ ngành Dệt may gúp thúc đẩy cho ngành phát triển hơn, từ đó làm biến đổi cơ cấu cây trồng ở vùng trồng nguyên liệu (như cây đay, cây bông, cây dâu), khuyến khích nông nghiệp phát triển theo quy mô rộng hơn khi trước kia chỉ trồng cây lương thực, hoa màu sang trồng cây công nghiệp. Mặt khác, ngành Dệt may phát triển còn kéo theo sự phát triển các ngành nghề sản xuất nguyên phụ liệu cho ngành Dệt may, ngành hoá chất cung cấp thuốc nhuộm cho ngành Dệt may, ngành cơ khí cung cấp máy móc thiết bị. Ngoài ra còn tác động đến sự phát triển những ngành sử dụng sản phẩm của ngành Dệt may như: giày da, nội thấttừ đó làm tăng tỷ trọng ngành công nghiệp trong cơ cấu kinh tế. *Góp phần giải quyết việc làm Ngành dệt may không chỉ đóng góp lớn vào kim ngạch xuất khẩu, góp phần thúc đẩy nền kinh tế phát triển mà nó còn giải quyết việc làm của 2 triệu lao động mỗi năm. Nó thu hút hàng ngàn lao động vào làm vìệc tại các ngành công nghiệp phụ trợ như: trồng dâu nuôi tằm, trồng bông, thêu đanvà một số lao động dich vụ khác. Ngành dệt may giúp cho tỷ lệ thất nghiệp hàng năm của Việt Nam giảm xuống đáng kể, gián tiếp làm giảm tỷ lệ tệ nạn xã hội do những người thất nghiệp gây ra. Tuy nhiên, khi doanh nghiệp phá sản thì sẽ kéo theo hàng vạn người bi mất việc làm, ảnh hưởng đến vấn đề xã hội rất to lớn. *Đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước. Xã hội hóa ngày càng cao làm cho nhu cầu tiêu dùng của người dân không còn mang ý nghĩa chỉ là đủ thôi. Mà cái họ muốn được thỏa mãn đó là sản phẩm đủ tiêu chuẩn, chất lượng, mẫu mã đẹp, vì vậy mà luôn đặt ra cho các doanh nghiệp dệt may đó là làm sao để nâng cao chất lượng sản phẩm để cạnh tranh với sản phẩm của các nước khác trên thế giới như Trung Quốc, Đài Loan,họ hơn hẳn về chất lượng cũng như máy móc thiết bị hiện đại hơn nhiều so với nước ta, vì thế các doanh nghiệp ngành dệt may phải đổi mới công nghệ để thúc đẩy cho ngành phát triển hơn để từ đó mới đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng trong nước. *Trình độ công nghệ còn lạc hậu và thiếu đồng bộ Mặc dù luôn được coi là ngành xuất khẩu quan trọng, kim ngạch xuất khẩu luôn đứng thứ 2 sau xuất khẩu dầu mỏ nhưng hiện nay ngành dệt may vẫn được xem là một ngành chậm đổi mới thiết bị công nghệ. Theo kết quả khảo sát đánh giá thì hầu hết các máy móc thiết bị đều của những thập kỷ 60-70 ở miền Bắc, thập kỷ 70 ở miền Nam. Thậm chí vẫn còn máy móc thiết bị mang mác từ những năm 30-40. Mặc dù vậy, trên thực tế có một khó khăn rất lớn là hầu hết các công ty đều có vốn nhỏ, hạn hẹp. Điều này là trở ngại lớn cho việc đầu tư thay thế máy móc thiết bị. Theo báo cáo này, ngành dệt hiện có tốc độ đổi mới công nghệ rất chậm, đến nay mới đổi mới được 30-35%. Nhiều thiết bị kéo sợi của Trung Quốc, Ấn Độ từ những năm 1970-1975 vẫn còn tồn tại, chưa kể có những máy dệt đã có từ cách đây 100 năm hiện vẫn được sử dụng. Các thiết bị hiện đại của Đức, Thụy Sỹ, Italia, Pháp... mới chiếm khoảng 30-35%. Thực tế này dẫn đến năng suất dệt vải của Việt Nam rất thấp, chỉ bằng 30% Trung Quốc . . Trong ngành dệt may có rất nhiều công đoạn: kéo sợi, dệt, in, nhuộm, hoàn tất, may, công đoạn phụ. Các công đoạn này mang tính liên tục,sản phẩm của công đoạn trước là đầu vào của công đoạn sau. Vì thế chỉ cần một trong các sản phẩm tồi sẽ dẫn đến sản phẩm cuối là phế phẩm. Điều này đòi hỏi công nghệ ngành Dệt may phải đồng bộ *Góp phần thúc đẩy nền kinh tế phát triển theo hướng CNH – HĐH. Trong những năm qua, ngành dệt may đã có nhiều chuyển biến sâu sắc, từ một ngành đứng vị trí thứ 2 với giá trị sản xuất khoảng 9% toàn ngành sản xuất công nghiệp, kim ngạch xuất khẩu chiếm khoảng 12 – 15 % kim ngạch cả nước sau xuất khẩu dầu thô ( từ năm 2005 trở về trước ). Thì hiện nay ngành đã vươn lên vượt mặt anh cả dầu thô với kim ngạch ước tính đạt 7.7 tỷ USD năm 2007 tăng 32% so với năm 2006, dự định mục tiêu đến năm 2008 là 9.5 tỷ USD. Tạo nên một nguồn lớn cho sự phát triển kinh tế của đất nước. Đổi mới công nghệ là xu hướng tất yếu của ngành Dệt may Việt Nam để tìm được chỗ đứng vững chắc cho mình trên thị trường trong và ngoài nước.Nhìn vào kết quả điều tra trên có thể thấy rằng các doanh nghiệp đã đánh giá cao vai trò của việc đầu tư đổi mới công nghệ. Đây là một dấu hiệu đáng mừng hứa hẹn việc đầu tư trong tương lai sẽ được các doanh nghiệp xúc tiến. 2.3 Thực trạng công nghệ và đổi mới công nghệ ngành Dệt May 2.3.1.Nguồn vốn đổi mới công nghệ Trong những năm qua, ngành dệt may đã huy động được rất nhiều các nguồn để đầu tư cho đổi mới công nghệ, trung bình mỗi năm đầu tư khoảng 40-50% tổng cơ cấu vốn đầu tư. Bảng 3: Khối lượng vốn đầu tư cho đổi mới công nghệ Tổng công ty Dệt may Việt Nam qua một số năm: Năm Tổng mức đầu tư (tỷ đồng) Vốn đầu tư đổi mới công nghệ (tỷ đồng) Tỷ trọng (%) 2002 2.066,8 1.126,0 54,48 2003 3.157,0 1.774,0 56,19 2004 2.111,8 1.036,0 48,89 2005 1.243,5 598,0 48,02 2006 1.514,6 709,6 46,85 2007 1.863,4 808,9 43,41 Tổng 10.956,1 6.052,5 TB:50,65 Nguồn: Tổng công ty Dệt may Việt Nam (Vinatex) Nhìn qua bảng trên ta có thể thấy được mức vốn đầu tư của các doanh nghiệp cho công nghệ cũng thay đổi khá nhiều qua các năm. Từ năm 2002 – 2003 mức đầu tư tăng do ở đây một số doanh nghiệp mới thành lập và họ có nhu cầu đầu tư cho công nghệ và sau đó nó giảm dần qua các năm do ở đây doanh nghiệp dừng lại không đầu tư cho đổi mới công nghệ nữa, mà chỉ chú trọng sản xuất kinh doanh. Trung bình mỗi doanh nghiệp dệt may giành 3% doanh thu để đầu tư để cho đổi mới công nghệ. Có khoảng 12 doanh nghiệp điển hình có tỷ lệ vốn đầu tư cho đổi mới công nghệ trên tổng doanh thu lớn hơn 5%: Công ty dệt kim Đông Xuân (25%); Công ty Dệt nhuộm vải Phước Thịnh (24,61%); Công ty dệt 8/3 (11,2%); Công ty dệt may Hà Nội (9%). Có thể thấy quy mô vốn đầu tư toàn ngành cũng như từng doanh nghiệp đều tăng lên. Ngành dệt may có thể huy động vồn từ 2 nguồn đó là nguồn vốn trong nước gồm có vốn từ ngân sách nhà nước, vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước, vốn tự có và khấu hao của doanh nghiệp. Nguồn vốn nước ngoài gồm có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), Hỗ trợ phát triển chính thức (ODA), vốn tín dụng từ các ngân hàng thương mại. * Nguồn vốn trong nước + Nguồn vốn ngân sách nhà nước Nguồn vốn ngân sách nhà nước là nguồn chi của ngân sách nhà nước cho những dự án đầu tư quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội quốc gia. Trong lĩnh vực dệt may nó bao gồm:Vốn cấp cho doanh nghiệp nhà nước dệt may để đầu tư chiều sâu, mở rộng các cơ sở sản xuất; vốn nhà nước đầu tư mới các cơ sở dệt may; vốn nhà nước liên doanh với các doanh nghiệp nước ngoài Tuy nhiên ở nước ta do vốn ngân sách còn hạn hẹp mà có rất nhiều khoản phải chi do đó đây chưa phải là nguồn chính để giúp các doanh nghiệp dệt may đầu tư đổi mới công nghệ. Theo Bộ Công Nghiệp thì tổng nhu cầu vốn đầu tư toàn ngành đến năm 2007 cần 900 nghìn tỷ đồng nhưng huy động ngân sách chỉ chiếm 9%, còn lại phải do các doanh nghiệp tự tìm kiếm. Như vậy, mặc dù dệt may Việt Nam nằm trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội nhưng vốn đầu tư từ ngân sách còn quá ít ỏi. Dù có tăng theo các năm nhưng xét về mặt tỷ trọng thì tỷ trọng hiện nay không vượt quá 0,6% lượng vốn đầu tư cho đổi mới công nghệ. + Nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước Cùng với quá trình đổi mới và mở cửa, nguồn vốn này ngày càng khẳng định vị trí trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội và chính sách đầu tư của chính phủ. Đây là hình thức cho vay vốn với lãi suất ưu đãi, được áp dụng cho các dự án trong lĩnh vực ưu tiên của kế hoạch ngân sách nhà nước. Do đặc điểm lãi suất thấp, thời gian vay dài nên đây cũng là nguồn vốn nhiều thuận lợi cho các doanh nghiệp dệt may đổi mới công nghệ Trên thực tế nguồn vốn này biến động mạnh và không theo chiều hướng nhất định. Giai đoạn 1991-1997 là 236 tỷ đồng, trung bình là 26,2 tỷ/năm. Đến năm 2003 nguồn vốn này tăng đột biến từ 81,2 tỷ đồng lên 224,0 tỷ đồng trong năm 2002 và 2003. Trong hai năm tiếp theo nguồn vốn này chững lại và giảm xuống còn 155,4 tỷ đồng vào năm 2006; 178,6 tỷ đồng vào năm 2007. Bảng 4: Vốn trong nước đầu tư đổi mới công nghệ của Vinatex Đơn vị: Tỷ đồng Chỉ tiêu 2002 2003 2004 2005 2006 2007 Tín dụng nhà nước 81,2 224,0 224,5 220,2 155,4 178,6 Ngân sách nhà nước 4,9 9,3 4.0 4,5 4,9 6,0 Nguồn khác 68,1 75,3 70,7 96 73,5 74,6 Nguồn: Tổng công ty dệt may Việt Nam + Nguồn vốn tự có và khấu hao của doanh nghiệp Nguồn vốn tự có là nguồn từ tiết kiệm dân cư và tĩch lũy của doanh nghiệp đưa vào sản xuất. Vốn khấu hao là toàn bộ số tiền trích khấu hao được tích lũy lại. Vốn khấu hao không thuộc sản xuất kinh doanh mà là nguồn vốn để tái sản xuất giản đơn tài sản cố định. Ở Việt Nam, đối với mỗi doanh nghịêp thì tỷ lệ vốn khấu hao được quy định khác nhau và luôn được đề cao nhằm phát huy đổi mới tính tự chủ của doanh nghiệp trong ngành và nâng cao hiệu quả đầu tư. Thường thì các doanh nghiệp nhà nước được sự đầu tư ban đầu của nhà nước sẽ có tiềm lực vốn khá hơn doanh nghiệp tư nhân. Để huy động vốn trong nước phục vụ cho đầu tư đổi mới công nghệ, các doanh nghiệp phải có sự lựa chọn cho riêng mình: dựa vào tiềm lực của mình là vốn tự có và khấu hao, vay tín dụng nhà nước hay ngân sách nhà nước. Đây là câu hỏi lớn đối với các doanh nghiệp trong quá trình đầu tư đổi mới công nghệ. Tuy nhiên, các doanh nghiệp vẫn có thể hy vọng vào nguồn khác triển vọng hơn là nguồn vốn từ nước ngoài. . * Nguồn vốn nước ngoài Đây là nguồn vốn đóng vai trò hết sức quan trọng đối với các nước đang phát triển. Một mặt nó giải quyết tình trạng thiếu vốn cản trở quá trình đổi mới công nghệ, mặt khác nước nhận đầu tư sẽ thu được lợi ích từ việc chuyển giao công nghệ. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài là nguồn vốn đầu tư của tư nhân nước ngoài để đầu tư cho sản xuất, kinh doanh, dịch vụ nhằm mục đích nhằm mục đích lợi nhuận với ba hình thức: hợp đồng hợp tác kinh doanh, doanh nghiệp liên doanh, doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài. Nếu chính phủ kêu gọi và khuyến khích đầu tư FDI đúng hướng phục vụ cho phát triển kinh tế xã hội nước ta, phát huy được lợi thế so sánh của nước ta và tạo điều kiện giúp chúng ta có thể tiếp thu những công nghệ kỹ thuật sản xuất tiên tiến, kinh nghiệm quản lý hiện đại của thế giới. Hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) là khoản viện trợ hoàn lại hoặc vay với các điều kiện ưu đãi về lãi suất, thời hạn cho vay dài, khối lượng vay lớn của các chính phủ, tổ chức tài chính tiền tệ thế giới. ODA cho ngành dệt may thời gian qua chủ yếu là dành cho xây dựng, cải tạo cơ sở hạ tầng cho ngành và hỗ trợ công tác xuất khẩu. Nguồn vốn tín dụng từ các ngân hàng thương mại là nguồn vốn các doanh nghiệp vay từ các tổ chức tài chính, ngân hàng nước ngoài lãi suất cao, thời hạn trả nợ nhanh đáp ứng mục tiêu đầu tư ngắn hạn như: hỗ trợ nhập khẩu hàng hoá, nguyên liệu nước ngoài, thâm nhập thị trường, nhập khẩu máy móc thiết bị Giai đoạn 1991-1996, đầu tư nước ngoài đạt 975,76 triệu USD; trong đó hình thức liên doanh liên kết có tổng vốn đầu tư là 124,67 triệu USD chiếm 87,14%. Đầu tư nước ngoài vào ngành dệt may có 92 dự án với tổng vốn đầu tư là 254,46 triệu USD; hình thức liên doanh liên kết chiếm 35,13%, loại hình doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài chiếm 64,87%. Theo hiệp hội Dệt may Việt Nam (Vitas), Tập đoàn Pamatex Berhad (Malaixia) với vốn đầu tư hơn 100 triệu USD đã được cấp phép đầu tư vào khu kinh tế mở Chu Lai (Quảng Nam), Công ty Daewon (Hàn Quốc) quyết định đầu tư xây dựng 1 nhà máy may xuất khẩu trị giá 8 triệu USD tại khu công nghiệp Hòa Khánh (Đà Nẵng) sau khi đã đầu tư 1 nhà máy may tại khu công nghiệp Vĩnh Lộc ( thành phố Hồ Chí Minh) và một nhà máy dệt tại khu công nghiệp Nhơn Trạch I (Đồng Nai). Qua các sự kiện trên cho thấy triển vọng huy động vốn cho ngành từ đầu tư nước ngoài là rất lớn. Hiện nay, trong tất cả các nguồn vốn trong và ngoài nước thì vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước chiếm tỷ trọng cao nhất, vốn tín dụng thương mại chiếm 30%, ODA là 20%, vốn tự có và ngân sách là thấp nhất. 2.3.2. Phương thức đổi mới công nghệ Đa số các doanh nghiệp sử dụng kết hợp nhiều phương thức, rất ít doanh nghiệp chỉ sử dụng một phương thức đổi mới công nghệ. Trong đó, tự tổ chức nghiên cứu được tiến hành song song với việc mua công nghệ mới nhằm mục đích tăng hiệu quả ứng dụng và vận hành công nghệ.Dưới đây là một số phương thức đổi mới công nghệ Phương thức đổi mới công nghệ Tỷ lệ (%) Tổ chức cải tiến công nghệ truyền thống hiện có ở trong nước 35 Hợp tác với cơ quan khoa học nước ngoài 27 Hợp tác với cơ quan khoa học trong nước 6 Bắt chước thiết kế lại theo mẫu 55 Mua công nghệ từ trong nước 21 Mua công nghệ từ nước ngoài 55 Nguồn: báo cáo khảo sát đổi mới công nghệ của các doanh nghiệp dệt may Qua kết quả trên thấy rằng đa số các doanh nghiệp lựa chọn hình thức khép kín, ít có sự giao lưu hợp tác với nước ngoài. Phương thức được áp dụng nhiều nhất là mua công nghệ từ nước ngoài và bắt chước thiết kế lại theo mẫu đều được 55% doanh nghiệp áp dụng. Hai phương thức này có chung một ưu điểm là đều tiết kiệm được thời gian và chi phí nghiên cứu. Đặc biệt với phương thức mua công nghệ từ nước ngoài thì có thêm một số ưu điểm như: Tận dụng được sự tiến bộ đáng kể về thương mại và kỹ thuật thông qua việc mua công nghệ từ nước ngoài: Khi mua công nghệ thì các doanh nghiệp sẽ có có cơ hội nhận được sự cung cấp tài liệu và huấn luyện đầy đủ để nâng cao kiến thức trong vận hành và sử dụng công nghệ, từ đó tăng khả năng sản xuất của máy móc thiết bị và áp dụng quy trình công nghệ sản xuất sản phẩm một cách thành công. Đôi khi sự giúp đỡ thêm về tài chính, tìm thị trường và tiêu thụ sản phẩm của bên cung cấp còn mở ra một khả năng thương mại cho các doanh nghiệp của chúng ta. Được tiếp xúc, trao đổi thông tin và kinh nghiệm với bên cung cấp công nghệ nhằm phục vụ cho lợi ích của doanh nghiệp. Ngoài khả năng có những tiến bộ trực tiếp về thương mại và công nghệ, sự hợp tác này còn đem lại cho các doanh nghiệp dệt may sự tiếp xúc và đối thoại thường xuyên với nhà cung cấp nước ngoài. Các doanh nghiệp sẽ có địa chỉ của nhà cung cấp để giải đáp những thắc mắc và có nguồn thông tin để giải quyết những vấn đề khác, được phổ biến tình hình thực tế về những cải tiến và sáng kiến, các thị trường và xu hướng phát triển, đây là những thông tin rất giá trị cho doanh nghiệp. Ngoài ra bên nhận công nghệ còn có thể sử dụng kinh nghiệm của bên cung cấp để sử dụng công nghệ có hiệu quả. Tuy nhiên,việc chuyển giao công nghệ từ nước ngoài cũng có nhiều hạn chế, có thể gây cho các doanh nghiệp dệt may nhiều rủi ro: Thứ nhất: bên nhận công nghệ sẽ trở nên thụ động, bị lệ thuộc vào cơ quan, doanh nghiệp nước ngoài đến khi nào có thể nắm vững và sử dụng công nghệ một cách thành thạo. Mua công nghệ đồng nghĩa với việc doanh nghiệp không tự nghiên cứu trong nội bộ và như vậy thì doanh nghiệp sẽ đánh mất sự chủ động sáng tạo, công tác tổ chức nghiên cứu sẽ không thể phát triển được. Nhiều khi doanh nghiệp còn phải thay đổi toàn bộ điều kiện của mình để tiếp nhận công nghệ Thứ hai, có thể có rủi ro, thất bại về kỹ thuật khi được chuyển giao: Với trường hợp mua công nghệ đã qua sử dụng thì rủi ro mua phải công nghệ đã quá lạc hậu là rất lớn. Còn đối với công nghệ mới thì mặc dù đã được xem xét cẩn thận vẫn còn có những rủi ro do những thiếu sót trong công nghệ. Các doanh nghiệp phải hết sức thận trọng khi đánh giá năng lực sở tại hiện có và khả năng của mình để tiếp nhận và làm chủ công nghệ được chuyển giao. Chỉ có sự đánh giá đầy đủ ưu, nhược điểm của công nghệ và bên cung cấp kỹ thuật mới có thể giúp đỡ để hạn chế thấp nhất rủi ro. Thứ ba là rủi ro xuất phát từ bản thân bên cung cấp công nghệ về kiến thức, kinh nghiệm Thứ tư là rủi ro do các điều khoản bất lợi trong hợp đồng: Trước khi đi đến kết luận cuối cùng, bên nhận phải nhận định xem các điều khoản đàm phán có lợi cho mình không. Việc giữ bí mật về các vấn đề đã thảo luận này thường cản trở các nhà kinh doanh nhận công nghệ tham khảo ý kiến của luật sư, cố vấn. 2.3.3. Nội dung đổi mới công nghệ Nói đến đầu tư đổi mới công nghệ luôn bao gồm cả phần cứng và phần mềm. Phần cứng là các máy móc thiết bị ngành dệt may còn phần mềm là nguồn nhân lực để vận hành máy móc đó. Các doanh nghiệp nên chú trọng cả hai vấn đề này thì việc đầu tư đổi mới công nghệ mới có kết quả. Nhưng hầu hết các doanh nghiệp dệt may chưa làm hết được những điều đó, thu được nhiều kết quả tốt song cũng còn nhiều hạn chế và thiếu sót. a.Về máy móc thiết bị Ngành dệt may Việt Nam trong những năm qua đã có sự chuyển biến lớn trong việc đầu tư các thiết bị công nghệ máy móc phục vụ việc hoạt động sản xuất kinh doanh. * Về thiết bị kéo sợi Trải qua nhiều năm tình hình đổi mới công nghệ cho thiết bị kéo sợi cũng có nhiều biến động khác nhau. Cụ thể trong giai đoạn 1991-1995, ngành dệt đầu tư 39,96 triệu USD để thay mới, thay thế đồng bộ và cục bộ các máy cũ của Tây Âu và nâng cấp cải tạo các cọc sợi bên cạnh việc mua mới 201.906 cọc sợi. Do đó sợi dệt công nghệ mới đạt chất lượng cao. Đến giai đoạn 1996-2004 thiết bị kéo sợi tiếp tục được đầu tư đổi mới đáp ứng yêu cầu của ngành gồm nhiều chủng loại, xuất xứ từ Tây Âu, Nhật Bản20,2% thiết bị từ Italy; 19,97% từ Thụy Sỹ; 18,25% từ Trung Quốc; 16,65% từ Đức với tổng vốn đầu tư là 1.976,5 triệu USD. Và cho đến nay , ngành dệt có 4.287.000 cọc sợi (27.870 rôto) trong đó đầu tư mới 802.000 cọc sợi, sản xuất 360.000 tấn sợi một năm. Tuy đã có đổi mới và nâng cấp nhưng thiết bị cũ vẫn chiếm tỷ trọng đáng kể trong tổng số thiết bị kéo sợi hiện nay. Theo đánh giá của Hiệp hội Dệt May Việt Nam, hiện tại trong ngành dệt số thiết bị kéo sợi ở mức trung bình và dưới trung bình chiếm tỷ lệ 70%. Có thể nói công nghệ kéo sợi hiện nay vẫn còn trong tình trạng lạc hậu, trình độ tự động hóa thấp, sản phẩm sản xuất ra đạt chất lượng thấp, công nghệ kéo sợi thô chiếm phần lớn. Hiện nay, đã mua dây chuyền mới, sử dụng bông chải tự động liên hợp cao, sử dụng các máy ghép tự động khống chế chất lượng, ứng dụng rộng rãi thành tựu về vi mạch điện tử vào điều khiển tự động và khống chế chất lượng sợi * Về thiết bị công nghệ dệt thoi Theo số liệu của Hiệp hội Dệt May Việt Nam, hiện tại ngành dệt thoi có khoảng 28.500 máy dệt thoi các loại sản xuất được vốn đầu tư cho thiết bị dệt thoi là 14,09 triệu USD chủ yếu thay mới các thiết bị đã quá cũ và lạc hậu so với khu vực và thế giới, đầu tư nâng cấp những thiết bị đã qua sử dụng nhưng năng lực thực tế vẫn chấp nhận được.Thiết bị chủ yếu có xuất xứ từ Hàn Quốc, Nhật BảnTừ năm 1996 đến nay toàn ngành có 6000 thiết bị mới được đầu tư với lượng vốn đầu tư là 78,5 triệu USD. Hiện nay có 17.437 máy dệt sản xuất 900 triệu m vải, 42.000 tấn khăn bông nhưng chất lượng vải còn hạn chế. Vải dệt thoi xuất khẩu và cung cấp cho may xuất khẩu chỉ khoảng 13-14%. Nguyên nhân là do trình độ công nghệ ở mức trung bình không đáp ứng được yêu cầu vải xuất khẩu. Vì vậy, tăng đầu tư cho thiết bị dệt thoi sẽ góp phần tăng giá trị xuất khẩu. * Thiết bị, công nghệ dệt kim Trước năm 1988, các doanh nghiệp dệt may Việt Nam thường nhập công nghệ dệt kim từ Trung Quốc, Tiệp Khắc, CHLB Đức, trình độ công nghệ lạc hậu so với trình độ chung của thế giới, và sau đó các thiết bị này được nhập mới từ Châu Âu, Nhật Bản với 1.540 thiết bị dệt kim bao gồm cả kim tròn và kim phẳng, nên các doanh nghiệp đã đạt được công suất 70.000 tấn sản phẩm mỗi năm, tính năng cao hơn và chất lượng cao hơn. Đến nay, toàn ngành có tới 6.972 máy dệt kim và được đánh giá là trình độ công nghệ trung bình khá và đã cải thiện được một số vấn đề về công nghệ như giảm tỷ lệ tiêu hao nguyên liệu, thay đổi mặt hàng, sản xuất các loại vải mật độ cao, ổn định kích thước, ít lỗiví dụ các mặt hàng bit tất, Polo- shirt, T- shirt *Thiết bị, công nghệ ở khâu in nhuộm, hoàn tất Theo đánh giá của một số chuyên gia ngành dệt, trình độ kỹ thuật của thiết bị in nhuộm được chia làm 3 loại: loại tốt: có khoảng 800 máy chiếm khoảng 35%, các thiết bị này được đầu tư trong giai đoạn hiện nay; loại cần khôi phục chiếm khoảng 30% loại thiết bị này được sử dụng 20 năm, chất lượng sản phẩm làm ra không cao; loại cần loại bỏ: khoảng 35% loại này được sử dụng trên 30 năm, rất lạc hậu và cũ kỹ Trong những năm gần đây, các doanh nghiệp dệt may cũng đã đầu tư khoảng 1.208,67 tỷ đồng cho việc thay mới và bổ sung, nâng cấp thiết bị công nghệ in, nhuộm, hoàn tất. Trong đó, đa số thiết bị được nhập từ các nước Tây Âu với tổng giá trị 321,5 tỷ đồng, chiếm 56% tổng giá trị; tiếp đó là máy móc Đài Loan với tổng giá trị 102,4 tỷ đồng, chiếm 16% và Nhật Bản với tổng vốn đầu tư khoảng 68,2 tỷ đồng, chiếm 14% ... Các thiết bị công nghệ mua ở thị trường trong nước rất ít, chỉ khoảng 1,984 tỷ đồng chiếm 0,3% tổng vốn đầu tư mới. * Thiết bị, công nghệ ngành may Trước kia các doanh nghiệp chủ yếu sử dụng công nghệ may nhập khẩu từ các nước CHDC Đức, CHLB Đức, Nhật, với mức đầu tư là 267.5 tỷ USD với 19.673 máy may hiện nay các doanh nghiệp may liên tục đầu tư mở rộng sản xuất và đổi mới thiết bị để đáp ứng nhu cầu chất lượng thị trường thế giới. Trong đó phải kể đến việc đổi mới công nghệ trong giai đoạn may và hoàn tất sản phẩm: các may may hầu hết là máy may hiện đại có tốc độ cao, bơm dầu tự động, đảm bảo vệ sinh công nghiệp. Trong giai đoạn này, Vinatex đã đầu tư 356,8 tỷ đồng cho thiết bị công nghệ ngành may, chiếm 28,7% tổng vốn đầu tư của Tổng công ty; trong đó, tổng đầu tư của các doanh nghiệp may là 260,2 tỷ đồng, chiếm 87% tổng vốn đầu tư cho thiết bị công nghệ may mặc và các doanh nghiệp dệt đầu tư cho may là 50,3 tỷ đồng, chiếm 13%. Đầu tư máy móc thiết bị ngành may hiện nay dịch chuyển theo hướng tăng cường các sản phẩm cao cấp, hướng vào các thị trường mục tiêu. Trong thời gian qua, những doanh nghiệp đi đầu trong việc đầu tư đổi mới công nghệ phải kể đến doanh nghiệp may Việt Tiến, May 10, may Nhà Bè Nhìn vào các con số thống kê có thể thấy rằng, các doanh nghiệp dệt may đã tập trung một lượng vốn lớn cho đầu tư hiện đại hoá và đổi mới trang thiết bị công nghệ của ngành. Những nỗ lực đó đã mang lại nhiều kết quả khả quan như năng lực sản xuất tăng lên, công nghệ và thiết bị được hiện đại hóa, cải thiện kim ngạch xuất khẩu và tăng khả năng cạnh tranh của sản phẩm dệt may trên thị trường quốc tế. b. Về nguồn nhân lực Ngành Dệt may Việt Nam hiện đang sử dụng gần 2 triệu lao động trong các dây chuyền công nghệ (riêng ngành may là trên 900.000 người). Ngoài ra còn khoảng 1 triệu lao động đang tham gia trong các hộ gia đình và hợp tác xã chưa kể đến số lao động trong ngành trồng bông và dâu tơ tằm. Tuy nhiên, chất lượng lao động lại đặt ra nhiều vấn đề đối với doanh nghiệp dệt may, nguồn nhân lực hiện đại trình độ chưa cao song khả năng đào tạo lại rất hạn chế. Do đặc trưng của ngành là lao động cần cù, khéo léo và tỉ mỉ nên lao động nữ chiếm số đông. Trong toàn ngành dệt may, lao động nam ngành dệt chiếm 6,72%, lao động nam ngành may chiếm 18,3%; lao động nữ ngành dệt chiếm 13,28% ,lao động nữ ngành may chiếm 65,7%. Tỷ lệ lao động nữ ngành dệt gấp đôi nam; ngành may thì sự chênh lệch này còn lớn hơn là gấp 3 lần. Điều này đặt ra một nhu cầu đối với các doanh nghiệp phải tổ chức làm việc hợp lý, phù hợp với sức khỏe nữ giới. Một thực tế nữa là mặc dù ngành thu hút nhiều lao động nhưng chất lượng lao động là quá thấp. Trong ngành dệt, lượng lao động qua đào tạo chỉ chiếm 27.1%, lượng lao đông chưa qua đào tạo chiếm 78.2%, đại học và trên đại học chiếm 7.9%. Bảng 7: Trình độ lao động trong các doanh nghiệp Dệt may Việt Nam. Trình độ lao động Tỷ lệ trong các doanh nghiệp dệt (%) Tỷ lệ trong các doanh nghiệp may (%) Lao động phổ thông 78.2 81,76 Công nhân 19,2 6,53 Kỹ thuật viên 3,3 3,92 Trung cấp 4,6 3,63 Đại học và cao đẳng 7.4 4,15 Trên đại học 0.5 0,01 Đối với lao động trực tiếp sản xuất, phần lớn là người ngoại tỉnh lao động phổ thông (trên 60%), trình độ văn hóa thấp, trình độ khi vào doanh nghiệp là dưới cơ bản. Hầu hết các doanh nghiệp đều phải tự đào tạo công nhân trước khi đưa vào dây chuyền sản xuất. Do đó, doanh nghiệp gặp rất nhiều khó khăn trong quản lý và tổ chức sản xuất: - Nhận thức về pháp luật, chính sách lao động, nội quy kỉ luật, đặc biệt là kỹ thuật công nghệ hiện đại của người lao động rất hạn chế - Thời gian eo hẹp nên việc tổ chức học tập văn hóa, nâng cao tay nghề cũng như tổ chức một cuộc sống cân đối giữa lao động và nghỉ ngơi, tái sản xuất sức lao động cho người lao động hầu như không thể thực hiện được. Với đặc điểm nguồn lao động như vậy là một cản trở lớn cho quá trình đầu tư đổi mới công nghệ. Chúng ta có một thế mạnh là lao động tuổi đời còn rất trẻ, có sức khoẻ tốt, dễ tiếp thu kiến thức mới. Theo điều tra, trong ngành may, lao động dưới 30 tuổi chiếm 64,2% còn trong ngành dệt thì số lao động này thấp hơn là 38,3%. Tuy nhiên, những lao động này lại thiếu kinh nghiệm, rất cần sự hướng dẫn của những thế hệ đi trước, đặc biệt trong tình trạng đa số các doanh nghiệp vẫn lựa chọn hình thức tự đào tạo. Một điều đáng quan tâm ở đây là các cán bộ kỹ thuật có tay nghề cao, họ là một trong những nhân tố quan trọng không những quyết định sự thành công trong hoạt động sản xuất kinh doanh mà còn là hạt nhân của quá trình đổi mới công nghệ của doanh nghiệp. Nhưng thực tế lại cho thấy lực lương này còn quá ít ỏi, trình độ thấp chưa đủ khả năng, điều đó cũng có thể do lương thấp khiến cho lao động giỏi chuyển về các công ty liên doanh nước ngoài hoặc chuyển sang các ngành nghề khác mang lại nhiều thu nhập hơn. Điều đó đã khiến nhiều doanh nghiệp, xí nghiệp, công ty Dệt May thiếu lao động có tay nghề cao trầm trọng. Theo tính toán của hiệp hội Dệt May Việt Nam, hiện nay các doanh nghiệp Dệt May cả nước thiếu khoảng 900 lao động thiểt kế, 1700 lao động marketing và xúc tiến xuất khẩu, hàng trăm kỹ sư công nghệ dệt – nhuộm – hóa chưa có nguồn cung ứng. 2.4. Đánh giá chung 2.4.1.Thuận lợi ( điểm mạnh ) Qua phân tích về thực trạng đổi mới công nghệ ngành dệt may, chúng ta có thể thấy được các lợi thế của ngành dệt may, những điểm thuận lợi ngành dệt may Việt Nam. Đây là một ngành cung cấp các mặt hàng thiết yếu cho xã hội, giải quyết việc làm cho một lực lượng lớn lao động, đồng thời mang lại nguồn ngoại tệ lớn từ xuất khẩu và đóng góp một phần nguồn thu trong ngân sách Nhà nước. Công nghiệp dệt may hiện nay có tiềm lực phát triển khá mạnh được coi là một trong những trọng điểm phát triển của công nghiệp Việt Nam trong thời kỳ công nghiệp hóa.Giá trị sản xuất công nghiệp của ngành chiếm 12% của toàn ngành công nghiệp, kim ngạch xuất khẩu chiếm 7.7 tỷ USD năm 2007 tăng 32% so với năm 2006, mục tiêu đến năm 2008 là 9.5 tỷ USD. Để luôn giữ được vị trí quan trọng trong toàn ngành, ngành dệt may đã có nhiều sự chuyển biến lớn trong việc đầu tư đổi mới công nghệ, tạo nhiều sản phẩm có chất lượng tốt, thỏa mãn nhu cầu của người tiêu dùng ngày càng cao. Việc nước ta đổi mới công nghệ sau các nước khác sẽ giúp cho các doanh nghiệp dệt may giảm được tỷ lệ sai sót trong quá trình sử dụng máy móc thiết bị, chúng ta sẽ kế thừa được nhiều máy móc thiết bị tốt đồng thời có thể học hỏi được nhiều kinh nghiệm, được cung cấp thêm các tư liệu bổ ích từ bên phía đối tác nước ngoài, để từ đó trau dồi khả năng và tính sáng tạo của bản thân mỗi doanh nghiệp dệt may. Đồng thời việc hợp tác với các doanh nghiệp nước ngoài về đầu tư đổi mới công nghệ còn giúp cho mối quan hệ giao lưu hợp tác giữa các nước trở nên tốt đẹp hơn. Thúc đẩy nền kinh tế phát triển bền vững gắn với bảo vệ môi trường 2.4.2. Khó khăn ( điểm yếu ) Bên cạnh những thuận lợi thì việc đổi mới công nghệ cũng gặp phải nhiều khó khăn, điều đáng nói ở đây ngay cả bản thân mỗi doanh nghiệp cũng chưa nhận thức đúng về tầm quan trọng của đổi mới công nghệ. Họ cho rằng việc đổi mới công nghệ là tốn kém và không hiệu quả, khảo sát 100 DN thì trong đó có 50% DN cho rằng rất cần thiết, 39% DN cho rằng cần thiết, còn lại 11 % DNcho rằng không cần thiết. Cũng có một số DN đã chú ý hơn đến đầu tư cho đổi mới công nghệ, tuy nhiên, qua kết quả điều tra, đầu tư của doanh nghiệp cho đổi mới công nghệ tập trung chủ yếu để mua sắm, cải tiến máy móc thiết bị phần cứng( thông qua nhập khẩu thiết bị trong nước ) hơn là đầu tư cho phần mềm như đầu tư cho nghiên cứu cải tiến quy trình sản xuất hay sản phẩm hiện có hoặc các sản phẩm mới. Nếu các doanh nghiệp Việt Nam không sớm nhận ra điều này và có chiến lược dài hạn đầu tư cho phần mềm công nghệ thì rồi đây sản phẩm của chúng ta khó thâm nhập thị trường quốc tế khi Việt Nam hội nhâp sâu hơn vào nền kinh tế khu vực. Một điều nữa đó là các Dn Việt Nam còn thiếu vốn, thiếu thông tin về công nghệ và những hạn chế trong pháp luật về quyền sở hữu trí tuệ, Việc đi sau áp dụng các công nghệ làm cho các DN dệt may dễ gặp phải các công nghệ lạc hậu cũ kỹ, gặp nhiều rủi ro trong quá trình chuyển giao công nghệ. CHƯƠNG III. GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY ĐẦU TƯ ĐỔI MỚI CÔNG NGHỆ NGÀNH DỆT MAY VIỆT NAM 3.1. Định hướng ngành Dệt May đến năm 2020 *Định hướng Theo chiến lược “tăng tốc” phát triển ngành dệt may Việt Nam đến 2010 nhằm giải quyết việc làm và nâng cao kim ngạch xuất khẩu của Tổng công ty dệt may Việt Nam, các doanh nghiệp nên chú trọng đầu tư các công nghệ mới nhất với thiết bị hiện đại nhằm tạo ra một bước nhảy vọt về chất lượng và số lượng. Mặt khác, các doanh nghiệp cần coi trọng tận dụng các thiết bị đã qua sử dụng với các công nghệ tiên tiến từ các nước phát triển, thế hệ từ những năm 90 trở lại đây. Chiến lược cũng chỉ rõ rằng các doanh nghiệp nên đầu tư phát triển dệt may theo hướng chuyên môn hóa cao theo từng loại công nghệ.Có như vậy mới tạo ra bước nhảy vọt về chất lượng sản phẩm. Mỗi doanh nghiệp cần thiết phải làm chủ một vài loại công nghệ để tạo ra những mặt hàng tạo ra những mặt hàng mới chất lượng cao, xây dựng mối cung cầu giữa các doanh nghiệp trên cơ sở hợp tác thương mại. * Mục tiêu - Mục tiêu tổng quát Đảng và nhà nước ta đặt ra mục tiêu chiến lược phát triển ngành dệt may tới 2015 là “phát triển ngành dệt may trở thành một trong những ngành công nghiệp trọng điểm, mũi nhọn về xuất khẩu, thỏa mãn ngày càng cao nhu cầu tiêu dùng trong nước, nâng cao khả năng cạnh tranh, hội nhập vững chắc kinh tế khu vực và thế giới”. - Mục tiêu cụ thể Tốc độ tăng trưởng Giai đoạn 2008-2010 Giai đoạn 2011-2020 - Tăng trưởng sản xuất hàng năm 16- 18% 12- 14% -Tăng trưởng xuất khẩu hàng năm 20% 15% Quan điểm phát triển Phát triển ngành Dệt May theo hướng chuyên môn hoá, hiện đại hoá nhằm tạo ra bước nhảy vọt về chất và lượng sản phẩm. Tạo điều kiện cho ngành Dệt May tăng trưởng nhanh, ổn định, bền vững và hiệu quả. Khắc phục những điểm yếu của ngành Dệt May là thương hiệu còn yếu, mẫu mã thời trang chưa được quan tâm, công nghiệp phụ trợ chưa phát triển, cung cấp nguyên phụ liệu vừa thiếu, vừa không kịp thời.   Lấy xuất khẩu làm mục tiêu cho phát triển của ngành, mở rộng thị trường xuất khẩu, đồng thời phát triển tối đa thị trường nội địa. Tập trung phát triển mạnh các sản phẩm công nghiệp hỗ trợ, sản xuất nguyên phụ liệu, giảm nhập siêu, nâng cao giá trị gia tăng của các sản phẩm trong ngành.   Phát triển ngành Dệt May phải gắn với bảo vệ môi trường và xu thế dịch chuyển lao động nông nghiệp nông thôn. Di chuyển các cơ sở gây ô nhiễm môi trường vào các Khu, Cụm Công nghiệp tập trung để tạo điều kiện xử lý môi trường. Chuyển các doanh nghiệp Dệt May sử dụng nhiều lao động về các vùng nông thôn, đồng thời phát triển thị trường thời trang Dệt May Việt Nam tại các đô thị và thành phố lớn   Đa dạng hoá sở hữu và loại hình doanh nghiệp trong ngành Dệt May huy động mọi nguồn lực trong và ngoài nước để đầu tư phát triển ngành Dệt May Việt Nam. Trong đó chủ động kêu gọi những nhà đầu tư nước ngoài tham gia đầu tư vào những lĩnh vực mà các các nhà đầu tư trong nước còn yếu và thiếu kinh nghiệm   Phát triển nguồn nhân lực cả về số lượng và chất lượng cho sự phát triển bền vững của ngành Dệt May Việt Nam; Trong đó, chú trọng đào tạo cán bộ quản lý, cán bộ kỹ thuật, công nhân lành nghề nhằm tạo ra đội ngũ doanh nhân giỏi, cán bộ, công nhân lành nghề. Sơ đồ Các chỉ tiêu chủ yếu trong chiến lược phát triển ngành Dệt May Việt Nam đến năm 2015, định hướng dến năm 2020 Chỉ tiêu Đơn vị tính Thực hiện năm 2006 Mục tiêu toàn ngành đến 2010 2015 2020 1.      Doanh thu Triệu USD 7.800 14.800 22.500 1.000 2.      Xuất khẩu Triệu USD 5.834 12.000 18.000 25.000 3.      Sử dụng lao động Nghìn người 2.150 2.500 2.750 3.000 4.      Tỷ lệ nội địa hoá % 32 50 60 70 5.      Sản phẩm chính: - Bông xơ - Xơ, sợi tổng hợp - Sợi các loại - Vải - Sản phẩm may 1.000 tấn 1000 tấn 1000 tấn Triệu m2 Triệu SP 8 - 265 575 1.212 20 120 350 1.000 1.800 40 210 500 1.500 2.850 60 300 650 2.000 4.000 3.2. Giải pháp 3.2.1. Giải pháp huy động vốn Nhu cầu vốn đầu tư cho dệt may là rất lớn, đây không phải là nguồn vốn nhỏ nên để có thể huy động được cần phải thực hiện nhiều giải pháp. Thứ nhất, nhà nước và các doanh nghiệp cần khuyến khích kêu gọi đầu tư cả trong và ngoài nước. Muốn làm được điều này đòi hỏi phải có sự kết hợp từ cả hai phía.Về phía nhà nước, cần hoàn thiện hành lang pháp lý, tạo môi trường đầu tư thuận lợi cả về hạ tầng cứng và hạ tầng mềm.Về phía các doanh nghiệp, cần phát triển uy tín, thương hiệu, chất lượng để việc huy động vốn từ các ngân hàng thương mại, tổ chức tài chính... Thứ hai, đẩy mạnh kênh huy động vốn là thị trường chứng khoán. Trên thực tế thì ở nước ta thị trường chứng khoán tuy đã có nhiều thay đổi nhưng nhìn chung quy mô còn nhỏ bé, hoạt động chưa sôi động và hiệu quả.Vì vậy để phát triển kênh huy động vốn này thì cần có thời gian và thực hiện đồng thời nhiều biện pháp. Tuy nhiên trong thời gian tới đây sẽ là kênh huy động vốn có hiệu quả và là giải pháp quan trọng với tất cả các doanh nghiệp nói chung và các doanh nghiệp dệt may nói riêng. Do đó, các doanh nghiệp cần tiến hành ngay việc nghiên cứu và áp dụng các hình thức phát hành trái phiếu, cổ phiếu để huy động vốn cho đầu tư đổi mới công nghệ. Thứ ba, phát huy hiệu quả hoạt động của công ty tài chính dệt may,tăng vốn pháp định để tăng khả năng cho các doanh nghiệp dệt may vay trung và dài hạn, đa dạng hoá khách hàng, điều chỉnh lãi suất phù hợp để huy động vốn. Thứ tư, đẩy mạnh hoạt động thuê tài chính. Đây là giải pháp cần thiết và rất hiệu quả cho các doanh nghiệp thiếu vốn. Thuê tài chính là hình thức đầu tư tín dụng trung và dài hạn bằng hiện vật đối với các doanh nghiệp thiếu vốn trên cơ sở lựa chọn các máy móc thiết bị phù hợp với yêu cầu sử dụng của doanh nghiệp mình. Kết thúc thời gian thuê, bên thuê có thể mua lại máy móc thiết bị theo giá thoả thuận. 3.2.2. Giải pháp đổi mới công nghệ a.Về máy móc thiết bị +/ Công nghệ nhập từ nước ngoài Để có được các mặt hàng chất lượng cao, tăng kim ngạch xuất khẩu, tăng sức cạnh tranh cho sản phẩm thì khi nhập những công nghệ, trang thiết bị tiến tiến, ngành phải chú ý xem xét các vấn đề sau: +Công nghệ nhập có phù hợp với tình hình đất nước và chính sách khoa học công nghệ không. +Công nghệ nhập có lợi ích cho việc nâng cao trình độ khoa học công nghệ và trinh độ phát triển sản xuất hay không, có kết hợp được với việc nghiên cứu khoa học, sản xuất, và nâng cao khả năng tự mình khai thác phát triển ở trong nước hay không. +Về tiêu chuẩn của công nghệ nhập, có thể trực tiếp sử dụng tiêu chuẩn quốc tế, hoặc tiêu chuẩn thông dụng quốc tế hay không; có thể xây dựng, kiện toàn hoặc hoàn thiện hệ thống tiêu chuẩn công nghệ nhập trong nước hay không. +Về lợi ích kinh tế xã hội của công nghệ nhập, công nghệ đó phải phát huy được lợi thế tài nguyên của nước ta, là công nghệ sạch không gây ô nhiễm môi trường. Vấn đề ở đây là chúng ta phải chọn đúng công nghệ mà ta đang cần và có thể đẩy mạnh được sản xuất phát triển, đồng thời tiếp thu và làm chủ được công nghệ nhập. Các doanh nghiệp cũng phải chuẩn bị đầy đủ các điều kiện và tiền đề để sẵn sàng đón nhận công nghệ mới và nhanh chóng đưa vào hoạt động khai thác có hiệu quả. Đồng thời cần cải tiến và thích ứng công nghệ với điều kiện của nước sở tại. Mỗi công nghệ sinh ra trong một môi trường và ít nhiều phụ thuộc vào môi trường đó. Vì vậy phải có những cải tiến để công nghệ đó thích nghi với điều kiện địa phương. Sự cần thiết và tính hợp lý của hoạt động này được giải quyết tốt nhất bằng cách thử nghiệm và thí nghiệm trong nước. Các doanh nghiệp cần phải thu thập thông tin, cung cấp tài liệu thích hợp và cộng tác với cơ quan nghiên cứu và triển khai của nhà cung cấp để tìm ra những giải pháp thích hợp. Một kinh nghiệm cho thấy các doanh nghiệp không nên nhập những công nghệ quá tối tân nhưng lại có khoảng cách khá xa với trình độ của công nhân ở doanh nghiệp mình vì như thế sẽ không làm chủ được công nghệ và cản trở quá trình vận hành. Ngoài ra, cũng cần phải tổ chức tốt khâu thẩm định, kiểm tra khi nhập công nghệ, tránh tình trạng nhập công nghệ đã cũ và lạc hậu. Bên cạnh đó còn phải chú ý việc tổ chức tốt đội ngũ cán bộ, công nhân để có thể tiếp thu tốt các công nghệ nhập, đưa công nghệ vào sản xuất ổn định. Khi đã nhập công nghệ mới thì doanh nghiệp cũng nên tự sản xuất một số phụ tùng thay thế để phát huy hết công suất của thiết bị và khả năng của công nghệ, tạo sản phẩm giá trị cao. +/ Công nghệ trong nước Để phát huy tính chủ động và nâng cao khả năng sáng tạo của doanh nghiệp, đồng thời với công nghệ nhập doanh nghiệp cũng nên đẩy mạnh các hoạt động sáng kiến, sáng chế để tạo ra các giải pháp công nghệ, bí quyết sản xuất nâng cao năng suất, chất lượng, tạo mặt hàng có giá trị cạnh tranh cao. Muốn vậy, các doanh nghiệp phải: +Đẩy mạnh hoạt động khoa học của các viện nghiên cứu, trường đào tạo, phòng thí nghiệm, trung tâm thông tin, tư vấn để nâng cao hay bổ sung kiến thức, thông tin khoa học công nghệ cho cán bộ quản lý, cán bộ kỹ thuật. + Nghiên cứu những thiết bị công nghệ cần mở rộng cải tiến mà Việt Nam có thể tự giải quyết được. + Phục hồi, nâng cao các kỹ thuật, công nghệ cổ truyền, mặt hàng truyền thống để tạo ra sản phẩm đặc thù của Việt Nam. +Nâng cao trình độ, công nghệ quản lý. +Đẩy mạnh hoạt động của lĩnh vực thiết kế thời trang và mẫu mốt, sớm hòa nhập với khu vực và thế giới. Ngoài các giải pháp trên, việc chuyển giao công nghệ không nên chỉ dừng lại ở các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài mà nên mở rộng ra mọi thành phần kinh tế. Đồng thời, thực hiện việc chuyển giao công nghệ từ doanh nghiệp có vốn lớn sang doanh nghiệp có vốn nhỏ để tiết kiệm chi phí tạo thị trường chuyển giao công nghệ sôi động và liên tục trong nội bộ ngành. b. Về đào tạo nguồn nhân lực Trong bất cứ quá trình chuyển giao công nghệ nào thì việc đào tạo một đội ngũ kỹ thuật đủ sức tiếp cận công nghệ, từ công nhân lành nghề đến kỹ thuật viên, kỹ sư, kỹ sư có trình độ cao để làm chủ công nghệ mới đều không thể thiếu được bởi vì: Thứ nhất, công nghệ là do con người tạo ra nên dù công nghệ có hiện đại đến mức nào đi chăng nữa thì cũng cần phải có sự điều khiển của con người. Thứ hai, khi doanh nghiệp nhập công nghệ mới thì chắc chắn sẽ phải nhập các công nghệ tiên tiến, hiện đại hơn công nghệ vốn có của mình nên các cán bộ công nhân viên của doanh nghiệp phải nâng cao trình độ để thích ứng kịp với công nghệ đó, tránh tình trạng công nghệ đã nhập về mà không thể hoạt động hoặc hoạt động không thông suốt. Thứ ba, doanh nghiệp cần có một đội ngũ chuyên gia có trình độ để thẩm tra máy móc thiết bị trước khi đi đến quyết định mua công nghệ và các kỹ sư làm chủ công nghệ trong quá trình hoạt động, giảm tối thiểu sự phụ thuộc vào bên cung cấp. Thứ tư, với sự phát triển như vũ bão của nền công nghệ thế giới, muốn nâng cao trình độ khoa học công nghệ chung của ngành cũng như của đất nước thì điều tất yếu là phải nâng cao trình độ của chính con người, nếu không chúng ta sẽ nhanh chóng bị tụt hậu. Nhưng trên thực tế, lượng các trường đào tạo công nghệ kỹ thuật đến cán bộ trung học, đại học, cao học chuyên ngành dệt may còn thiếu cả về số lượng lẫn chất lượng, không đáp ứng được yêu cầu về nhân lực của ngành, khi về doanh nghiệp phải tự đào tạo lại. Vì vậy, các doanh nghiệp chủ yếu lựa chọn phương thức tự đào tạo tại đơn vị, đào tạo không có bài bản nên số lao động thay thế hàng năm chất lượng thấp. Số lượng các cán bộ quản lý, cán bộ kỹ thuật được đào tạo đáp ứng được nhu cầu thực tiễn còn ít hơn. Bởi vậy, cần phải có sự kết hợp giữa doanh nghiệp và nhà trường để đào tạo đồng bộ nguồn nhân lực; từng bước đào tạo lại cán bộ, công nhân cho phù hợp với công nghệ mới, khuyến khích các cơ sở địa phương tự đào tạo trên cơ sở các tiêu chuẩn thống nhất, cụ thể: -Xây dựng các cơ sở nghiên cứu, đào tạo cán bộ và công nhân kỹ thuật trên phạm vi cả nước nhằm phục vụ cho nhu cầu về nhân lực tại chỗ của các doanh nghiệp trên địa bàn hoạt động. Nhà nước cũng cần giao nhiệm vụ và chỉ tiêu cụ thể cho các cơ sở để phát huy tính chủ động sáng tạo. - Mở rộng hệ thống đào tạo chuyên ngành dệt may: Xây dựng mới trường đào tạo cán bộ quản lý kinh tế- kỹ thuật chuyên ngành dệt may với các nội dung tập trung cho quản lý sản xuất, quản lý chất lượng, phát triển sản phẩm, thương hiệu và kỹ năng bán hàngĐào tạo hệ cao đẳng, đại học, trung học chuyên nghiệp và kỹ thuật viên các ngành: kỹ thuật công nghệ ngành may, kỹ thuật thiết kế thời trang, sửa chữa khai thác thiết bị cơ khí, điện công nghiệp và dân dụng, tin học ứng dụng, quản trị ngành may Ngoài ra, phải thường xuyên mở lớp bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn cho cán bộ, công nhân, tổ trưởng, chuyền trưởng ngành, chánh phó quản đốc của các doanh nghiệp. Thường xuyên cử giảng viên đi học tập và nghiên cứu ở nước ngoài. Xây dựng đội ngũ cán bộ quản lý có trình độ, có tinh thần trách nhiệm, đủ điều kiện để quản lý. Xây dựng, phát triển các trường theo hướng chuẩn hóa, đảm bảo đủ cơ sở vật chất cho công tác học tập và nghiên cứu bằng việc trang bị đủ các thiết bị tiên tiến, hiện đại; xây dựng chương trình, giáo trình dựa trên cơ sở chương trình khung của Bộ Giáo dục và đào tạo. Tích cực khai thác và học hỏi các giáo trình, chương trình mới của các viện, trường quốc tế thuộc cùng lĩnh vực để bổ sung các môn học có cùng nội dung. Cử cán bộ đi thực tế, học hỏi kinh nghiệm giảng dạy tại các viện, trường và doanh nghiệp trong và ngoài nước. - Hợp tác, liên kết đào tạo với thị trường trong và ngoài nước. Một thực tế là các học viên của tất cả các loại hình đào tạo dệt may ở nước ta đều đang ở trong tình trạng học lý thuyết nhiều hơn thực hành. Vì thế khi ra ngoài thực tế sẽ rất khó khăn để làm quen với công nghệ, hạn chế tính sáng tạo. Do đó, các cơ sở đào tạo cần thiết lập các mối quan hệ mật thiết với thị trường để tìm kiếm sự hỗ trợ về kinh phí đào tạo và trang bị kiến thức thực tế cho sinh viên và các học viên nhiều hơn nữa. Ngoài ra, biện pháp này còn có thể đem lại cho sinh viên những cơ hội việc làm lớn khi đã tốt nghiệp. Về phía doanh nghiệp sẽ thu được rất nhiều lợi ích như tận dụng được chất xám trong nước, phát hiện và nuôi dưỡng nhân tài từ khi họ còn ở trên ghế nhà trường, tiết kiệm chi phí tuyển dụng và đào tạo, có được chương trình đào tạo phù hợp với điều kiện doanh nghiệp mình Các doanh nghiệp và nhà trường cũng nên có những chính sách khuyến khích sinh viên theo học các ngành thuộc lĩnh vực dệt may (công nghiệp dệt, sợi, nhuộm, hoá) và chú trọng phát triển đội ngũ thiết kế thời trang. - Ngoài các hình thức đào tạo chính quy nên mở thêm các loại hình đào tạo khác thường xuyên để nâng cao trình độ cho cán bộ đương chức, cập nhật kiến thức, thông tin mới nhất trong và ngoài nước. Việc bổ túc theo chuyên đề nhằm bồi dưỡng cán bộ về kỹ thuật công nghệ cần thiết cho công tác hiện tại hoặc để giải Kết luận Có thể nói rằng để đạt được các kết quả như hiện nay của ngành Dệt May với tổng kim ngạch xuất khẩu năm 2007 la 7.7 tỷ USD, tăng 32% so với năm 2006 và tăng tốc đạt mục tiêu đến năm 2008 là 9.5 tỷ và năm 2009 là trên 10 tỷ. Tốc độ phảt triển hàng năm trên 20%/ Năm, thu hút hàng triệu lao động giảm tỷ lệ thất nghiệp, tăng nguồn thu ngoại tệ, tăng nguồn ngân sách nhà nước, thúc đẩy đất nước theo hướng CNH – HĐH phát triển bền vững gắn với phúc lợi xã hội. Có được những kết quả khả quan như trên không thể không kể đến vai trò của công tác đầu tư đổi mới công nghệ trong ngành Dệt may. Các doanh nghiệp không chỉ tập trung đầu tư máy móc thiết bị hiện đại mà còn phải quan tâm đến đào tạo nguồn nhân lực công nghệ, nhất là lao động quản lý giúp họ làm chủ công nghệ và tiến tới sáng tạo công nghệ mới. Với sự nỗ lực của các doanh nghiệp Dệt may và sự hỗ trợ thích đáng của Nhà nước, chúng ta có thể hoàn toàn có thể tin tưởng rằng, trong tương lai ngành sẽ tiếp tục giữ vững vai trò nòng cốt của mình và tạo được những bước đột phá lớn trong kim ngạch xuất khẩu trong các năm tới. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Giáo trình Kinh tế đầu tư - NXB Thống kê - ĐHKTQD - 2005. 2. Giáo trình kinh tế phát triển - NXB Lao động xã hội - ĐHKTQD - 2004. 3. Giáo trình kinh tế và quản lý công nghiêp – NXB ĐHKTQD 4. Quy hoạch tổng thể phát triển ngành Dệt may Việt Nam đến năm 2010. 5. Báo cáo kết quả khảo sát đổi mới công nghệ tại các doanh nghiệp công nghiệp Việt Nam 2004. 6. Website tham khảo www.vnexpress.com.vn www.gso.gov.vn www.nxbthongke.com.vn www.vinatex.com.ViÖt Nam MỤC LỤC

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc6011.doc
Tài liệu liên quan