Ngân hàng thương mại cổ phần Sài Gòn – Hà Nội (SHB) tiền thân là ngân hàng TMCP Nông Thôn Nhơn Aí được thành lập theo giấy phép số 0041/NH/GP ngày 13/11/1993 do Thống đốc ngân hàng Nhà Nước Viêt Nam cấp và chính thức đi vào hoạt động ngày 12/12/1993. Ra đời trong bối cảnh nền kinh tế đất nước chuyếna từ kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà Nước và theo chủ trương của chính phủ, đây là giai đoạn đổi mới và thự hiện pháp lênh ngân hàng, hợp tác xã và Công ty tài chính, vốn điều lệ đăng ký ban đầu là 400 triệu đồng, thời gian đầu mới và thành lập mạng lưới hoạt động của ngân hàng chỉ có một trụ sở đặt tại số 341 - Âp Nhơn Lộc 2 – Thị tứ Phong Điền – Huyện Chau Thành Tỉnh Cần Thơ (Cũ) nay là huyện Phong Điền Thành Phố Cần Thơ với địa bàn họat động bao gồm vài xã thuộc Huyện Châu Thành.
64 trang |
Chia sẻ: Dung Lona | Lượt xem: 1005 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng và giải pháp hoàn thiện công tác phân tích Báo cáo tài chính doanh nghiệp vay vốn tại ngân hàng thương mại cổ phần Sài Gòn - Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n vay ngân hàng.
_ Mức độ đáp ứng các điều kiện tín dụng : không đáp ứng đủ các điều kiện vay vốn không có tài sản đảm bảo , thiếu điều kiện Hệ số tự tài trợ > 20% . Hệ số này của doanh nghiệp năm 2006 là 6,15%
=>>> Tóm lại : Công ty CP XNK và hợp tác đầu tư Vilexim đang kinh doanh ổn định , có lãI và đang có sự tăng trưởng , quan hệ tín dụng có uy tín , đề nghị xem xét cấp tín dụng và bảo lãnh.
Đánh giá chung về công tác phân tích báo cáo tài chính các doanh nghiệp vay vốn tai chi nhánh ngân hàng TMCP SHB.
Từ khi thành lập mặc dù ngân hàng phải đối mặt với rất nhiều khó khăn chung của nền kinh tế , sự cạnh tranh gay gắt của các ngân hàng trong cùng địa bàn cũng như những khó khăn trong nội bộ ngân hàng , nhưng chi nhánh ngân hàng TMCP SHB không những duy trì mà còn đẩy mạnh hoạt động tín dụng. Dư nợ cho vay tính đến 31/12/2006 đạt 2360 tỷ đạt 93,35% so với kế hoạch dự kiến . Với đặc thù hoạt động tín dụng tập trung vào nhiều dự án lớn , khách hàng lớn truyền thống nên công tác phân tích báo cáo tài chính DN ngày càng trở nên quan trọng hơn. Vì vậy để đẩy mạnh hoạt động tín dụng an toàn hơn , hiệu quả hơn, chi nhánh TMCP SH Bank đã không ngừng củng cố và nâng cao vai trò đI đầu trong việc hoàn thiện công tác phân tích báo cáo tài chính DN.
Ưu điểm
_ Thứ nhất :
Khi phân tích báo cáo tài chính DN vay vốn tại chi nhánh , các chỉ tiêu đem ra đánh giá và phân tích đều là những chỉ tiêu phản ánh tình hình sản xuất kinh doanh nói chung và khả năng thanh toán nói riêng của DN, sau khi tính toán xong , các cán bộ tín dụng phân tích tương đối cụ thể mặt tốt , mặt tồn tại của tài chính và đôi chút có sự tổng hợp , liên kết phân tích giữa các mặt và số liệu. Vì vậy hầu hết các DN quan hệ với ngân hàng có hoạt động sản xuất kinh doanh hiệu quả, tình hình tài chính lành mạnh. Trong năm 2006 không để phát sinh nợ xấu. Các khoản nợ quá hạn , gia hạn đều được đôn đốc thu hồi nợ kịp thời.
_ Thứ hai : Báo cáo tài chính của DN vay vốn thường xuyên được đánh giá lại tại thời điểm xin vay hoặc trong quá trình vay vốn
Tại chi nhánh hiện nay đang áp dụng rất nhiều phương thức cho vay: cho vay từng lần , cho vay hạn mức tín dụng, cho vay theo dự án đầu tư, cho vay trả góp Tóm lại đối với bất kì loại hình cho vay nào , chi nhánh cũng đề nghị DN cung cấp báo cáo tài chính tại thời điểm vay vốn hoặc định kì trong thời hạn vay. Tại thời điểm xin vay tiếp , cán bộ tín dụng của chi nhánh tiến hành xem xét , tính toán , phân tích và đánh giá lại các số liệu trên bảng cân đối kế toán, bảng báo cáo kết quả kinh doanh và các tài liệu khác. Thông qua hoạt động này, cán bộ tín dụng có thể theo dõi được tình hình tài chính của DN vay vốn tại thời điểm hiện tại , thấy được xu hướng tốt hoặc xấu, hoặc những biến động trong tình hình sản xuất kinh doanh của DN. Từ đó tìm hiểu nguyên nhân của những biến động, một phần có thể tư vấn cho DN , một phần có thể tiếp tục cho vay , vay một phần hoặc không cho vay , tránh rủi ro cho ngân hàng. Ngoài ra với việc theo dõi thường xuyên như vậy đối với toàn bộ các DN vay vốn tại ngân hàng sẽ thấy được xu hướng phát triển của nền kinh tế ở nhiều khía cạnh và góc độ khác nhau.
_ Thứ ba : thực hiện phân tích kế hoạch kinh doanh trong những kì kinh doanh tiếp theo của kế hoạch vay vốn
Một yêu cầu bắt buộc trong bộ hồ sơ kinh tế mà ngân hàng tiếp nhận là kế hoạch sản xuất kinh doanh của DN trong những kì kinh doanh tiếp. Tất nhiên kế hoạch sản xuất kinh doanh chỉ là những con số mà các DN đưa ra dựa trên những điều kiện hiện có và dự báo trong tương lai nhưng nó lại có cơ sở của nó , nếu kế hoạch kinh doanh phản ánh tình hình sản xuất kinh doanh trong tương lai là khả quan và tốt đẹp, đó là một cơ sở thuyết phục để ngân hàng cho vay vốn . Đây không phải là yếu tố quan trọng trong quá trình phân tích báo cáo tài chính của DN nhưng nó cung cấp thêm những thông tin bổ sung cho hoạt động phân tích báo cáo tài chính DN ban đầu, bởi vì hoạt động sản xuất kinh doanh là hoạt động lâu dài chứ không phảI diễn ra trong thời gian ngắn.
_ Thứ tư : công nghệ hiện đại được áp dụng trong công tác phân tích báo cáo tài chính DN vay vốn trong hoạt động tín dụng ngân hàng.
Một thực trạng tại các ngân hàng Việt Nam hiện nay là mặc dù trên thế giới hệ thống máy tính các phần mềm được sử dụng rộng rãi đặc biệt trong hoạt động ngân hàng nhưng ở Việt Nam thì còn mới mẻ, các phần mềm vi tính chưa được áp dụng nhiều. Hiện nay chi nhánh đang trong quá trình hiện đại hóa ngân hàng nên hệ thống máy tính đã được trang bị với số lượng máy tính nhất định để đáp ứng nhu cầu làm việc tại ngân hàng.,các máy tính nối mạng với nhau trong nội bộ ngân hàng để mọi cán bộ trong các phòng ban khác nhau có thể tìm kiếm , sử dụng các thông tin cần thiết trong nội bộ, điều này góp phần nâng cao hiệu suất lao động , hiệu quả làm việc của chi nhánh , rút ngăn thời gian làm việc với độ chính xác cao.
Hơn thế nữa ngân hàng đã bắt đầu thực hiện việc thu thập thông tin trực tuyến qua chương trình hiện đại hóa ngân hàng của công ty Siverlake- Malaisia . Nhờ đó đối với những doanh nghiệp đã từng có quan hệ với ngân hàng thì thời gian thu thập thông tin về DN được rút ngắn rất nhiều à đảm bảo sự chính xác thông tin về DN .Đây cũng chính là một ưu việt rất lớn của chi nhánh so với các ngân hàng khác vì thông tin đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong quá trình phân tích báo cáo tài chính DN vay vốn.
Những tồn tại và nguyên nhân
Những tồn tại trong công tác phân tích báo cáo tài chính của DN vay vốn tại chi nhánh TMCP SHB
Hoạt động tín dụng là hoạt động tiềm ẩn nhiều rủi ro nhất . Để mở rộng cho vay một cách an toàn và hiệu quả thì ngân hàng phảI coi trọng công tác phân tích báo cáo tài chính DN vay vốn vì đây là một minh chứng về thực tế hoạt động sản xuất kinh doanh và tình hình tài chính của DN vay vốn. Bên cạnh những kết quả đã đạt được , trong quá trình phân tích báo cáo tài chính DN vay vốn tại chi nhánh còn nổi cộm lên rất nhiều những hạn chế
_ Thứ nhất : hệ thống thu thập và xử lí thông tin của ngân hàng vừa yếu vừa thiếu , không đáp ứng được yêu cầu của công tác phân tích báo cáo tài chính của DN vay vốn.
Các cán bộ tín dụng chủ yếu vẫn dụa vào các nguồn do bản thân DN cung cấp , nguồn do NH điều tra mới chỉ dừng lại ở việc xem xét DN và tìm trong sổ sách giao dịch hoặc ở trung tâm CIC của NHNN. Các thông tin trên báo chí như báo đầu tư, thời báo ngân hàng, tài chính, thông tin từ các ngân hàng khác ngoài hệ thống, trên mạng internet vẫn chưa được sử dụng một cách triệt để.Tất nhiên là mức độ tin cậy của những thông tin này còn thấp, song chi nhánh và các cán bộ tín dụng phải biết cách khai thác , cập nhật theo khía cạnh phục vụ tốt nhất cho hoạt động của chi nhánh cũng như của bản thân.Việc chưa khai thác một cách triệt để các nguồn này một phần do thói quen làm việc từ xưa là rất ít khai thác các nguồn thông tin bên ngoài , chỉ chú trọng việc khai thác trong cùng hệ thống và bản thân DN vay vốn.
Hơn nữa cũng xuất phát từ thực tế ngày nay, khi cơ chế thị trường bung ra các thông tin ngày càng trở nên cập nhật, chính xác, tuy nhiên nguồn thông tin chính yếu dùng để khai thác còn nhiều hạn chế, gây nên tình trạng loãng thông tin. Hiện nay chất lượng thông tin do CIC cung cấp có độ tin cậy chưa cao, nguyên nhân là thông tin của CIC phần lớn do các DN, các tổ chức tín dụng cung cấp, thông tin thường bị phản ánh sai lệch do các DN hầu như chưa chấp hành tốt pháp lệnh về kế toán – thống kê, cung cấp thông tin chưa đầy đủ kịp thời làm cho các thông tin có xu hướng lạc hậu so với thời điểm cung cấp. Về phía các tổ chức tín dụng chưa tuân thủ đúng các quy định về cung cấp thông tin, thiếu tinh thần trách nhiệm hợp tác với nhau để cho vay một khách hàng, thông tin quan trọng về khách hàng để đảm bảo quyền lợi riêng hoặc vì mục đích không lành mạnh. Mặt khác do CIC mới đi vào hoạt động nên bản thân còn nhiều hạn chế về công nghệ, phương pháp thu thập và xử lí thông tin, trình độ cán bộ.
_ Thứ hai : nội dung phân tích chưa đầy đủ, một số chỉ tiêu ngân hàng đưa ra còn chưa chính xác.
Trong phân tích chỉ tiêu tài chính, ngân hàng hầu như không có sự phân tích báo cáo lưu chuyển tiền tệ. Đây cũng là nội dung hết sức quan trọng trong quá trình phân tích báo cáo tài chính DN vay vốn tại ngân hàng. Bởi vì thông qua báo cáo lưu chuyển tiền tệ ta biết được các thông tin về luồng tiền vào , luồng tiền ra của DN , tình hình tài trợ đầu tư bằng tiền của DN trong các thời kì. Các thông tin này sẽ giúp đỡ đắc lực cho cán bộ phân tích đánh giá về khả năng tạo ra các luồng tiền trong tương lai , khả năng chi trả tiền lãi cổ phầnĐồng thời còn xem xét được sự khác nhau giữa lãI thu được và các khoản chi bằng tiền.
_ Thứ ba : việc phân tích báo cáo tài chính DN còn mang tính hình thức.
Trong việc phân tích các chỉ tiêu tài chính , nhiều khi chỉ mang tính hình thức , thiếu cơ sở do không có định mức ngành để so sánh . Với những cán bộ tín dụng có kinh nghiệm thì có thể đem ra so sánh đối chiếu với những dự án khác , DN khác mà đánh giá được tình hình tài chính là tốt hay xấu , độ tin cậy có thể chấp nhận được. Nhưng đối với những cán bộ tín dụng mới , ít có kinh nghiệm thì đây là một vấn đề khó khăn , đôI khi ảnh hưởng xấu nghiêm trọng đến quyết định đầu tư.
Hơn nữa cần có một nhận xét đánh giá tổng quát về tình hình tài chính DN thông qua việc phân tích báo cáo tài chính để nêu bật được thế mạnh và điểm yếu của DN , thế mạnh và điểm yếu đó có thể đáp ứng đủ điều kiện cho vay của ngân hàng không? Nhưng qua thực tế cho thấy , mặc dù trong báo cáo thẩm định tài chính DN vay vốn đã đánh giá tổng quát nhưng về nội dung thì chưa mang tính tổng quát toàn cục , chưa nêu bật được điểm mạnh tài chính DN để có sức thuyết phục thực sự đối với công tác cho vay vốn .
_ Thứ tư : chi nhánh chưa có sự phân công rõ ràng theo hướng chuyên môn hóa đối với từng cán bộ tín dụng.
Từ thực tế hiện nay đòi hỏi công tác phân tích tình hình tài chính DN cần được chuyên môn hóa , tức là mỗi cán bộ tín dụng chịu trách nhiệm phụ trách việc phân tích tài chính đối với một hoặc một số loại hình DN , một số loại hình ngành nghề kinh doanh vì không phải cán bộ tín dụng nào cũng có khả năng hiểu biết sâu sắc về tất cả các lĩnh vực sản xuất kinh doanh hoặc hoạt động tài chính của tất cả các loại hình DN. Mỗi ngành nghề đều có những thuận lợi và khó khăn riêng, mang những đặc thù riêng.
Điều đó sẽ giúp cho những cán bộ tại chi nhánh có điều kiện tìm hiểu sâu hơn về từng ngành nghề lĩnh vực hoặc loại hình DN mà mình phụ trách. Như vậy thì không chỉ riêng công tác đánh giá báo cáo tài chính DN vay vốn tại ngân hàng sẽ được nâng cao chất lượng mà cả quá trình thẩm định cho vay, theo dõi trong quá trình cho vay và việc mở rộng quan hệ với khách hàng cũng dễ dàng và thuận lợi hơn.
Nguyên nhân của những tồn tại
Những tồn tại trên đây của công tác phân tích báo cáo tài chính DN vay vốn tại chi nhánh ngân hàng TMCP SHB xuất phát từ những nguyên nhân cụ thể, có thể từ phía ngân hàng, có thể từ phía DN, và những nguyên nhân khách quan khác .
_ Khó khăn vướng mắc từ bản thân chi nhánh.
+ Thứ nhất : việc thu thập và nắm bắt thông tin về DN có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong quá trình đánh giá DN. Tuy nhiên ,cơ sở vật chất phục vụ cho cán bộ tín dụng tim hiểu thông tin còn thiếu thốn như điều kiện đi lại của cán bộ tín dụng đến các DN còn khó khăn, thông thường cán bộ tín dụng phải tự lo về phương tiện đi lại khi đến cơ sở của DN để tiến hành đánh giá thực tiễn. Hoặc những điều kiện cần thiết để cán bộ tín dụng có thể tiếp cận được các nguồn thông tin còn có nhiều khó khăn như : chưa có những thiết bị thông tin trực tuyến về khách hàng giữa các ngân hàng trong cùng hệ thống , chưa có thiết bị để cập nhật các dữ liệu từ trung tâm thông tin thương mại , trung tâm phòng ngừa rủi ro
+ Thứ hai : muốn đánh giá như thế nào là một DN có tình hình tài chính lành mạnh hay yếu kém, có hoạt động sản xuất kinh doanh hiệu quả thì chi nhánh chưa có các chỉ tiêu định mức hoặc tiêu chuẩn (số liệu phân tích ngành) để so sánh . Hiện nay mới chỉ dựa trên cảm tính, kinh nghiệm , hoặc dựa trên bảng xếp hạng khách hàng DN, mà những tiêu chuẩn xếp hạng này có khi còn chưa được cập nhật liên tục.
+ Thứ ba: năng lực cán bộ tín dụng trong công tác phân tích báo cáo tài chính DN chưa cao.
Mặc dù chất lượng phân tích báo cáo tài chính DN vay vốn phụ thuộc vào nhiều yếu tố khách quan khác nhau nhưng yếu tố về bản thân năng lực đánh giá của mỗi cán bộ tín dụng là rất quan trọng, mang tính quyết định. Bên cạnh một số cán bộ tín dụng lâu năm , đội ngũ cán bộ tín dụng ngân hàng vẫn còn một số người được sắp xếp không phù hợp đã làm giảm hiệu quả phân tích báo cáo tài chính DN vay vốn tại ngân hàng. Ngoài ra vẫn còn một số cán bộ tín dụng trình độ cao đẳng, trung cấp, chưa được đào tại lên đại học và một số không được đào tạo đúng chuyên ngành tín dụng. Vì thế trình độ chuyên môn trong công tác phân tích báo cáo tài chính còn bộc lộ nhiều hạn chế. Từ những khó khăn trên cho thấy cần có sự đoàn kết đồng lòng và sức mạnh tập thể rất lớn trong phòng nói riêng và trong toàn ngân hàng nói chung, có sự bổ sung hỗ trợ lẫn nhau trong kiến thức và kinh nghiệm. Hơn thế nữa việc không ngừng nâng cao trình độ nghiệp vụ, cũng như kiến thức thực tế về thị trường, các ngành nghề, các lĩnh vực sản xuất kinh doanh cho đội ngũ cán bộ tín dụng là vô cùng quan trọng với sự phát triển lâu dài của ngành ngân hàng. Bởi lẽ công tác phân tích báo cáo tài chính của DN vay vốn tại ngân hàng không chỉ đơn thuần là việc tính toán các chỉ tiêu bằng những công thức toán học có sẵn mà điều quan trọng hơn cả là các cán bộ tín dụng cần phải nhìn thấy được, phải đọc thấy được những điều mà công thức ấy, con số ấy phản ánh. Chính vì thế, ngân hàng cần phải có những biện pháp hiệu quả, kịp thời để khắc phục những hạn chế từ bản thân cán bộ tín dụng.
+ Thứ tư: các cán bộ tín dụng thường bám sát nội dung qui trình hướng dẫn đánh giá khách hàng do ngân hàng TMCP SHB ban hành nhưng chưa có nhiều sáng tạo cho phù hợp với thực tế hoặc để khắc phục những hạn chế của văn bản đó.
_ Nguyên nhân từ phía DN vay vốn.
+ Thứ nhất : tính trung thực của các báo cáo tài chính DN chưa cao.
Thực tế hiện nay cho thấy, các tài liệu quan trọng để các cán bộ tín dụng đánh giá DN là các báo cáo tài chính do DN đệ trình . Và trong thời buổi kinh tế thị trường cạnh tranh gay gắt như hiện nay, không phải tất cả các báo cáo tài chính đều được kiểm tra kiểm toán đầy đủ trước khi mang tới ngân hàng, không phảI tất cả các số liệu đều đảm bảo tính trung thực. Thực tế chỉ có các báo cáo tài chính của những DN nhà nước là có độ tin cậy cao hơn, nội dung đầy đủ chi tiết, do hoạt động của loại hình này được quản lí khá chặt chẽ bởi một hệ thông các quy chế quản lí tài chính của nhà nước. Hơn nữa các DN này thực hiện tương đối đầy đủ các quy định về kế toán tài chính nhà nước. Tuy nhiên đối với các DN thuộc thành phần ngoài quốc doanh , do cơ chế tài chính hiện nay đối với loại hình này còn khá lỏng lẻo , việc thực hiện các quy định về hạch toán, kế toán của DN chưa đầy đủ chính xác. Hầu hết họ thường nộp cho ngân hàng các báo cáo tài chính phản ánh một cách có lợi nhất cho mục đích tín dụng và giao dịch với ngân hàng. Vấn đề này trước tiên là gây ra cho công tác quản lí ở các cơ quan quản lí , sau đó là gây ra ảnh hưởng rất lớn đén công tác phân tích báo cáo tài chính DN tại ngân hàng vì không phảI tất cả các cán bộ tín dụng đều nhận ra vấn đề này . Hơn thế nữa chi nhánh ngân hàng TMCP SHB chủ yếu cho vay đối với các DN nhà nước, vì vậy các cán bộ tín dụng trong chi nhánh không có những kinh nghiệm sắc bén trong việc phát hiện những nghi ngờ trong các báo cáo tài chính của các DN ngoài quốc doanh.
+ Thứ hai : mâu thuẫn về mặt thời gian giữa doanh nghiệp vay vốn và ngân hàng cho vay .
Các DN vay vốn thường muốn đánh giá càng nhanh càng tốt, thời gian để được giải ngân càng sớm càng tốt. Trong khi đó các chi nhánh lại muốn phân tích báo cáo tài chính của DN vay vốn thật kĩ để đảm bảo an toàn, hạn chế tối đa rủi ro cho ngân hàng, và điều này đòi hỏi mất thời gian rất nhiều. Sự mâu thuẫn này thường buộc chi nhánh phảI thỏa mãn yêu cầu của người vay để giữ khách hàng, nhất là trong diều kiện cạnh tranh hiện nay giữa các ngân hàng ngày cành gay gắt, mà số lượng khách hàng DN vay vốn tại chi nhánh lại chưa có nhiều và chưa đa dạng. Điều này đồng nghĩa với việc chi nhánh phảI chấp nhận nhiều rủi ro hơn.
_ Những nguyên nhân khách quan khác .
+ Thứ nhất : Những quyết định và văn bản hướng dẫn về công tác phân tích báo cáo tài chính DN vay vốn trong hoạt động tín dụng là tương đối đầy đủ , nhưng việc áp dụng và thực tế ngân hàng gặp nhiều khó khăn. Trong điều kiện nền kinh tế luôn luôn vận động, thay đổi theo xu hướng phát triển đI lên, đòi hỏi ngân hàng cũng phảI luôn vận động, sửa đổi, bổ sung và quy định lại đối với từng văn bản cụ thể sao cho phù hợp với từng hoàn cảnh.
Ngoài ra còn nhiều quy định của nhà nước đối với các DN còn chưa được thực hiện đầy đủ, cụ thể là những quy định về chế độ kiểm toán bắt buộc, về thống nhất chuẩn mực chế độ kế toán DN chưa được các DN thực hiện một cách nghiêm túc đã gây khó khăn cho công tác phân tích báo cáo tài chính doanh nghiệp.
Hiện nay chế độ kế toán tài chính ở nước ta cũng đang từng bước thay đổi cho phù hợp với nhịp điệu phát triển của đất nước , tuy nhiên vẫn chưa có một văn bản quy định cụ thể nào thống nhất trong hoạt động phân tích tài chính khách hàng và DN nói riêng.
+ Thứ hai : quan hệ giữa các NHTM chưa chặt chẽ , chưa có sự phối hợp chặt chẽ hỗ trợ nhau trong hoạt động đánh giá DN nói chung và phân tích báo cáo tài chính DN nói riêng , chia sẻ thông tin tín dụng.Các NHTM hiện nay quá coi trọng việc cạnh tranh mà quên mất sự an toàn của hệ thống ngân hàng, trong khi rủi ro của ngân hàng bạn cũng có ảnh hưởng ít hay nhiều đến ngân hàng mình.
Kết luận chương 1
Chi nhánh ngân hàng TMCP SHB là một tổ chức kinh tế đã phát triển vững vàng, phục vụ đắc lực cho sự hưng thịnh của hệ thống ngân hàng TMCP SHB nói riêng và toàn ngành ngân hàng nói chung. Chi nhánh đã luôn cố gắng dành được nhiều kết quả cao trong hoạt động tín dụng bởi đây là mục đích tồn tại của bất kì ngân hàng nào.
Với mục đích đi sâu nghiên cứu công tác phân tích báo cáo tài chính DN vay vốn trong hoạt động tín dụng ngân hàng , chương 1 của chuyên đề đã tập trung phân tích thực tế nghiệp vụ này để thấy những thành công lớn đã đang và sẽ là động lực phát triển của ngân hàng. Đồng thời chuyên đề cũng chỉ ra những khó khăn hạn chế của ngân hàng và việc khắc phục chúng là nhiệm vụ của ngân hàng để vững vàng tiến lên trong môI trường kinh doanh đầy cạnh tranh như hiện nay.
Chương II
Giải pháp hoàn thiện công tác
phân tích báo cáo tài chính doanh nghiệp vay vốn
tại chi nhánh ngân hàng TMCP SHB.
Quán triệt chỉ đạo của ban lãnh đạo ngân hàng TMCP SHB,tại hội nghị triển khai nhiệm vụ kinh doanh năm 2006,Chi nhánh ngân hàng TMCP SHB dự kiến chỉ tiêu phấn đấu gắn với chương trình hành động cụ thể như sau:
2.1. Định hướng hoạt động tín dụng DN của chi nhánh ngân hàngTMCP SHB.
2.1.1. Mục Tiêu năm 2008
*Tổng nguồn vốn huy động đến 31/12/2008 : 5340 tỷ đồng
Trong đó : Huy động vốn VND là 3740 tỷ đồng
Huy động vốn ngoại tệ quy VND là 1600 tỷ
*Tổng dư nợ cho vay đến 31/12/2008 : 3404 tỷ đồng
Dư nợ VND là 1804 tỷ đồng
Dư nợ ngoại tệ 1600 tỷ đồng
* Tỉ lệ nợ xấu: < 1,5% Tổng dư nợ
* Cơ cấu dư nợ tại thời điểm cuối năm :
Tỷ lệ cho vay không cần TSĐB: 50%
Cho vay DNNN tối đa : 45%
* Thu nợ ngoại bảng tối thiểu là 44 tỷ đồng
* Phát hành tối thiểu 12700 thẻ thanh toán điện tử.
* Thu dịch vụ : 30 tỉ đồng
* Lợi nhuận sau trích dự phòng rủi ro là : 140 tỷ đồng
2.1.2 Chương trình hành động
* Chú trọng công tác tiếp thị nhằm mở rộng và đa dạng hoá mạng lưới khách hàng trên cơ sở nghiên cứu và triển khai đồng bộ các chính sách khách hàng của chi nhánh.
* Đặc biệt chú trọng công tác huy động vốn. Nghiên cứu và triển khai thực hiện các biện pháp mạnh để tăng cường tiếp thị, giữ vững được nguồn tiền gửi của DN. Nghiên cứu đơn giản hoá thủ tục,đa dạng các hình thức huy động nhằm thu hút vốn nhàn rỗi trong dân cư.
* Về lâu dài,chi nhánh chủ trương phát triển dịch vụ,chuyển dịch cơ cấu thu nhập sang thu từ dịch vụ chiếm tỉ trọng lớn.Đây cũng là quy luật phát triển của các NHTM bán lẻ lớn trên thế giới. Tuy nhiên,trước mắt thu từ tín dụng vẫn là nguồn thu nhập chủ yếu. Đặc biệt trong cơ chế điều hoà vốn “một giá” của ngân hàng TMCP SHB thì việc mở rộng tín dụng có ý nghĩa quan trọng,giúp chi nhánh có thể sử dụng có hiệu quả nguồn vốn huy động.Tuy nhiên việc mở rộng tín dụng phải dựa trên cơ sở khả năng quản lý của cán bộ tín dụng,của các phòng khách hàng và chi nhánh, đảm bảo chất lượng an toàn hiệu quả,bền vững, tích cực chuyển đổi cơ cấu tín dụng theo định hướng của ngân hàng TMCP SHB
* Tiếp tục nghiên cứu sắp xếp phân công lại nhân sự của các phòng ban một cách hợp lý theo yêu cầu mới: thực hiện sắp xếp luân chuyển cán bộ để khai thác sử dụng nguồn lao động của chi nhánh cố hiệu quả cao hơn.
* Tăng cường công tác quản trị điều hành tập trung nhằm đảm bảo tính kỉ cương và nâng cao hiệu quả kinh doanh.
Tóm lại,định hướng phát triển của chi nhánh ngân hàng TMCP SHB trong năm 2008 về hoạt động tín dụng nói riêng và công tác phân tích báo cáo tài chính DN nói riêng là rất rõ ràng,đúng đắn và đang được ngân hàng nhanh chóng bước vào giai đoạn phát triển đầy thử thách mới mà còn giúp ngân hàng rút ngắn giai đoạn khẳng định vị thế của mình trong toàn bộ hệ thống.
2.2 . Giải Pháp hoàn thiện công tác phân tích báo cáo tài chính DN
vay vốn tại chi nhánh ngân hàng TMCP SHB
2.2.1. Nâng cao chất lượng công tác thu thập và xử lý thông tin
Như chúng ta đã biết, nguồn thông tin có ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng của công tác phân tích tài chính DN trong hoạt động tín dụng DN. Thông tin là nguồn nguyên liệu đầu vào để qua xử lý NH có được đầu ra-những quyết định tín dụng. Thu thập thông tin đầy đủ,chính xác mang tính chất quyết định tới công tác phân tích báo cáo tài chính DN vay vốn. Ngoài ra,nguồn thông tin đầy đủ cũng giúp NH nắm bắt đựơc diễn biến của thị trường trong nước và quốc tế,những biến động kinh tế và những thay đổi trong chủ trương,chính sách phát triển kinh tế của nhà nước,từ đó NH đề ra những chính sách,biện pháp kip thời,nhằm điều chỉnh các hoạt động trách những rủi ro, thiệt hại và ổn định để phát triển vì vậy NH cần phải có những giải pháp để nâng cao hơn nữa chất lượng công tác thu thập,nhất là thông tin liên quan đến các báo cáo tài chính DN.
Trước mắt chi nhánh nên thành lập một bộ phận tổng hợp,lưu trữ thông tin có hệ thống về các DN đă từng có hoặc đang có quan hệ tín dụng vói chi nhánh được phân theo ngành nghề hoặc lĩnh vực hoạt động để dễ tra cúư.ngoài ra còn có các thông tin tổng hợp chung được cập nhật về đặc điểm lĩnh vực kinh doanh và những khó khăn thuận lợi đang diễn ra trong lĩnh vực kinh doanh đó mà cán bộ tín dụng cần lưu ý phân tích,Các nguồn thông tin này được NH lưu trữ dưới dạng các NH dữ liệu bằng vi tính và được nối mạng nội bộ,mạng này được nối với hội sở chính và nối mạng internet để thuận lợi trong việc khai thác thông tin cho cả hệ thống NH,
Để có những thông tin chất lượng cao, ngoài những hồ sơ tài liệu mà NH nhận được từ khách hàng vay vốn, NH cần phỏng vấn trực tiếp một số người chủ chốt liên quan đến DN: giám đốc,Kế toán trưởngKết hợp với phỏng vấn là đi quan sát thực tế tình hình sản xuất kinh doanh của DN một các nghiêm túc, kĩ lưỡngchứ không phải mang tính hình thức như hiện nay để nắm rõ tình hình quá khứ và hiện tại. Nó cho phép ước lượng được phần nào độ chính xác của một số các con số trong báo cáo tài chính của DN. Tuy nhiên hiệu quả của công việc này phụ thuộc rát nhiều vào kinh nghiệm “nghệ thuật” của mỗi cán bộ NH,nó yêu cầu năng lực tư duy, năng lực quan sát đánh giá của con người-điều mà tự mỗi cán bộ tín dụng rèn luyện cho mình trong thời gian làm việc chứ không theo sách vở nào chỉ dẫn cụ thể.
Khai thác triệt để nguồn thông tin do trung tâm phòng ngừa rủi ro tín dụng của ngân hàng TMCP SHB và trung tâm tín dụng CIC của NH nhà nước, chương trình quản lí tín dụng và nguồn thông tin khác qua nhiều kênh (cấp chủ quản,các DN sản xuất kinh doanh cùng ngành nghề,các khách hàng chuyên tiêu thụ sản phẩm) Đây là nơi lưu trữ những thông tin cần thiết,cơ bản về DN. Nó cho phép đánh giá sơ bộ về tình hình tài chính,tình hình công nợ và uy tín khả năng thanh toán của DN trên thị trường.
Với những báo cáo tài chính,ngân hàng phải yêu cầu DN cung cấp số liệu của ít nhất là 3 năm gần nhất. Hiện nay các DN thường chỉ bị yêu cầu cung cấp số liệu trong 2 năm,nhưng số liệu trong 2 năm ko thể nói lên xu hướng phát triển(điều này mang ý nghĩa thống kê). Hơn nữa với các DN không phải khách hàng quen,cần kiểm toán các báo cáo này. NH có thể yêu cầu DN phải có xác nhận của kiểm toán vào những báo cáo quyết toán đệ trình ngân hàng.
Hợp tác chặt chẽ với trung tâm phòng ngừa rủi ro để sẵn sàng cung cấp thông tin cho họ để phục vụ các đơn vị khác.Từ mối quan hệ này ngân hàng mới có thể dễ dàng khai thác thông tin tại đây hoặc từ các NH khác. Hay nói cách khác, việc xây dựng quan hệ trao đổi thông tin với các ngân hàng trong cùng địa bàn và trong cùng hệ thống là rất cần thiết đối với chi nhánh.
2.2.2 . Hoàn quy trình công tác phân tích báo cáo tài chính DN vay vốn.
Công tác phân tích báo cáo tài chính DN vay vốn là vấn đề mà tất cả các NHTM luôn tìm các biện pháp để hoàn thiện chứ không riêng đối với chi nhánh ngân hàng TMCP SHB. Các phương pháp kĩ thuật,chỉ tiêu,chỉ số định mức của công tác phân tích báo cáo tài chính khách hàng DN thường xuyên thay đổi của hệ thống quản lí tài chính.Các NH ko có sự quan tâm đúng mức thì khó có thể cập nhật được những thay đổi này
Về hệ thống các chỉ số:khi đánh giá tình hình tài chính của DN vay vốn, phân tích các chỉ số tài chính đóng vai trò quan trọng.Tuy nhiên,việc tính toán một số hệ số quan trọng nhát định: hệ số khả năng thanh toán,hệ số cơ cấu vốn, hệ số phản ánh tình hình hoạt động và hệ số sinh lời để việc đánh giá DN một cách khách quan,chính xác.
Hiện nay, chi nhánh ngân hàng SHB chưa có các chỉ tiêu định mức, các số liệu trung bình ngành để so sánh trong phân tích báo cáo tài chính. Để khắc phục điều này chi nhánh có thể tự tổng hợp số liệu ngành của riêng mình làm cơ sở cho cán bộ tín dụng so sánh đối chiếu khi phân tích.để có dược số liệu này chi nhánh có thể giao cho một bộ phận riêng chuyên thống kê số liệu các chỉ tiêu tài chính của DN đã và đang có quan hệ tín dụng với NH trong các ngành nghề theo định kì để thấy được xu huóng chấp nhận chung của từng thời kì,từ đó đặt ra tiêu chuẩn cho riêng mình. Có thể nói đây là giải pháp rất khó thực hiện,thường phải dựa vào kinh nghiệm của một só cán bộ tín dụng giỏi,tuy nhiên làm được sẽ đem lại lợi ích rất lớn.
Còn một vấn đề nữa được đặt ra trong quá trình phân tích các báo cáo tài chính DN vay vốn là cần phải dựa vào sự biến động lên xuống của hệ số,chỉ tiêu để tìm ra nguyên nhân và đánh giá từng khảon mục tài chính của DN chứ không phảI chỉ là việc tính toán các hệ số đơn thuần như hiện nay.Việc phân tích nguyên nhân này có ý nghĩa to lớn trong việc đánh giá DN. Nếu một DN vì một lí do khách quan nào đó mà có khoản mục tài chính chưa đạt yêu cầu thì vẫn có thể xem xét cho vay. Nếu không phân tích cụ thể nguyên nhân thì rất có thể NH sẽ bỏ qua cơ hội cho vay một DN có tình hình tài chính tót mà đi cho vay đối với một DN có tình hình tài chính thực sự không tốt,từ đó sẽ làm giảm hiệu quả tín dụng,tăng rủi ro cho NH.
Phân tích báo cáo lưu chuyển tiền tệ là bước đặc biệt cần thiết trong quá trình phân tích báo cáo tài chính DN. NH cần yêu cầu các cán bộ tín dụng phải thực hiện đầy đủ bước này. Mặc dù SHB đã có nhữnng qui định cụ thể về phân tích báo cáo lưu chuyển tiền tệ nhưng hầu như các cán bộ tín dụng đều bỏ qua bước này.
Về phương pháp xếp loại khách hàng DN: chi nhánh sử dụng các tỉ số tài chính cùng phương pháp cho điểm phân loại tín dụng để làm căn cứ đánh giá khách hàng trong cả cho vay ngắn hạn và trung, dài hạn. Việc cho điểm như nhau đối với các chỉ tiêu tài chính trong ngắn hạn và trung,dài hạn là chưa thực sự hợp lý . Tuỳ vào tính chất của mỗi khoản tín dụng mà NH sẽ chú trọng về chỉ tiêu nào.Việc xây dựng mô hình điểm tín dụng riêng cho từng loại hình cho vay như vậy sẽ giúp cán bộ rất nhiều trong phân tích chứ không phải chỉ dựa trên cảm tính và kinh nghiệm của bản thân.
2.2.3 Hoàn thiện công tác tổ chức điều hành công tác phân tích báo cáo tài chính DN vay vốn
Là một vấn đề quan trọng đối với bất kỳ một NHTM nào. Công tác đánh giá DN được tổ chức tốt sẽ tạo điều kiên thuận lợi làm giảm thiểu rủi ro của NH lẫn DN đồng thời giúp cho khâu phân tích báo cáo tài chính DN được diễn ra nhanh chóng,chính xác làm cho DN nắm bắt đúng thời cơ kinh doanh. Vì vậy NH cần đưa ra những giảI pháp hữu hiệu để từng bước đạt được sự tối ưu nhát về mặt tổ chức.
Khâu tổ chúc phân công cán bộ tín dụng trong từng phòng khách hàng sao cho phù hợp cũng được coi là rất quan trọng. Cách phân công cán bộ tín dụng được coi là hiệu quả hiện nay là thực hiện phân công trong từng phòng khách hàng theo hướng chuyên môn hoá dựa trên các căn cứ: theo lĩnh vực hoạt động của DN hoặc loại hình DN, theo thời gian khoản vay, theo qui mô khoản vay.
Phân công cán bộ tín dụng theo lĩnh vực hoạt động của DN
Theo cách phân công này thì toàn bộ các cán bộ tín dụng trong phòng khách hàng 1 và 2 sẽ được chia theocác nhóm nhỏ, mỗi nhóm này sẽ chịu trách nhiệm về một mảng hoạt động của nền kinh tế:nông nghiệp ,công nghiệp, xây dựng ,dịch vụ, thương mại. Nếu thực hiện theo qui mô này, các cán bộ tín dụng sẽ am hiểu hơn về hoạt động của DN, biết được rõ hơn các qui dịnh của nhà nước cũng như của địa phương về chuyên ngành này. Như vậy,công tác phân tích báo cáo tài chính DN sẽ đảm bảo chất lượng cũng như thời gian qui định.
Phân công theo loại hình DN: từ khi Luật DN ra đời và có hiệu lực, có rất nhiều các loài hình DN ra đời với các qui mô hoạt động khác nhau nên mức độ phức tạp trong báo cáo tài chính cũng khác nhau. Thực tế cho thấy, các DN nhà nước thường có vốn chủ sở hữu lớn hơn hoặc lớn hơn rất nhiều các DN tư nhân,công ty trách nhiệm hữu hạn, do đó các DN nhà nứơc sẽ tiến hành sản xuất kinh doanh tất cả các ngành nghề kinh doanh được xét duyệt trong giấy đăng kí kinh doanh , hơn thế còn kinh doanh với số lượng lớn. Trong khi đó các công ty trách nhiệm hưũ hạn,công ty tư nhân có hiện tượng là ngành nghề đăng kí kinh doanh rất rộng nhưng vì thiếu vốn hoặc mới thành lập hoặc vì một lí do nào đó mà chưa kinh doanh hết được ngành nghề đã đăng kí hoặc nếu kinh doanh thì cũng với qui mô nhỏ lẻ,manh mún. Do đó nếu phân loại chuyên môn hoá quản lí cho các cán bộ tín dụng theo ngành nghề như đã nói ở trên thì sẽ không mang lại hiệu quả cao nhưng việc quản lý theo loại hình DN lại chứng tỏ thế mạnh của nó. Để phân loại theo tiêu chí này,chi nhánh cần phân loại theo từng loại hình DN,cụ thể: DN nhà nước, DN tư nhân, DN liên doanh, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty có 100% vốn nước ngoài. Sau đó chi nhánh xem xét khả năng của từng người để cán bộ tín dụng không bị lệch lạc về một lĩnh vực mà mình phụ trách thì chi nhánh có thể thực hiện việc hoán đổi giữa các cán bộ hoặc các nhóm.Như vậy tgrong suốt quá trình công tác,các cán bộ tín dụng có điều kiện tìm hiểu nhiều mặt hoặc nhiều lĩnh vực khác nhau trong nền kinh tế,trau dồi kiến thức cũng như kinh nghiệm để có thể giảI quyết bất kì một công việc nào thuộc lĩnh vực nào
Tuy nhiên,cần đặc biệt chú ý với các khách hàng truyền thống và có uy tín cao bởi vì bất kì sự thay đổi nào của mỗi bên đều gây ra các ảnh hưởng tốt hoặc xấu. Nếu sự thay đổi do phân công lại công việc như đã nói ở trên sẽ làm mất thói quen giao dịch cũ đã gây dựng được từ trước,một chút sơ sẩy có thể làm mất khách hàng. Vì vậy thuận lợi nhất vẫn là phân công lại đối với các khách hàng mới.
Trong từng phòng khách hàng, cán bộ lãnh đạo sẽ phân công cán bộ tín dụng thành 2 hoặc 3 nhóm phụ trách phân tích DN theo từng thời gian khoản vay: ngắn hạn hay trung và dài hạn. Các cán bộ tín dụng có trình độ chuyên môn và giàu kinh nghiệm sẽ được phân công chịu trách nhiệm để lường trước mọi khả năng bất lợi có thể xảy ra trong tương lai cũng nhưnhưng biến động bất thường của nềnkinh tế để giảm thiểu rủi ro đối với chi nhánh. Với giải pháp này, NH sẽ tận dụng được tối đa chất xám của cán bộ tín dụng trong khi các cán bộ trẻ lại có cơ hội tiếp cận với các khoản vay nhỏ để dần nâng cao trình độ chuyên môn của mình
2.2.4. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực
Trong hoạt động NH,đặc biệt là trong hoạt động tín dụng,tính phức tạp và rủi ro rất cao nên nhân tố con người đóng vai trò đặc biệt quan trọng.
Công tác phân tích báo cáo tài chính nói riêng cũng như công tác đánh giá khách hàng nói chung là nghiệp vụ quan trọng của hoạt động tín dụng ,nó quyết định sự thành công hay thất bại của các món cho vay, nên càng đòi hỏi cán bộ NH thực hiện công việc này phải có trình độ cao hơn các nghiệp vụ khác
Yêu cầu của công tác này đòi hỏi lãnh đạo cũng như cán bộ trực tiếp làm công việc tín dụng không chỉ có trình độ,năng lực chuyên môn nghiệp vụ tót mà còn phải có phẩm chất đạo đức, tinh thần trách nhiệm cao và có kinh nghiệm trong công tác. Họ phải có kĩ năng phân tích, phải am hiểu tường tận nhiều lĩnh vực kinh tế, nắm được luật pháp
- Thực hiện phân công công việc theo năng lực, kinh nghiệm của mỗi người, phân quyền đề nghị cấp tín dụng theo trình độ, kinh nghiệm. Những cán bộ tín dụng giỏi nghiệp vụ, có kinh nghiệm lâu năm được phân công quản lí các món vay có giá trị lớn hoặc có tính rủi ro cao. Còn các cán bộ trẻ thì được đảm nhận những món vay giá trị nhỏ, tính rủi ro thấp.
- Ngân hàng cần có chế độ khen thưởng, trợ cấp cho phù hợp với từng cá nhân cán bộ tín dụng. Mục đích của chính sách này nhằm gắn kết trách nhiệm của cán bộ tín dụng với công tác thẩm định báo cáo tài chính DN vay vốn nói riêng và công tác đánh giá khách hàng nói chung. Vì vậy, hàng năm chi nhánh nên tổ chức các cuộc thi cán bộ tín dụng giỏi để giúp cán bộ có điều kiện học hỏi kinh nghiệm lẫn nhau và tự nâng cao trình độ của mình. Đồng thời có chính sách thưởng phạt công bằng nhiêm minh dựa vào các kết quả thẩm định của cán bộ tín dụng.
- Công tác tuyển dụng cán bộ làm công tác tín dụng cũng là một trong những vấn đề mà ngân hàng cần quan tâm đặc biệt. Ngân hàng cần đặt ra các yêu cầu tối thiểu về trình độ và kinh nghiệm trong công tác tuyển dụng. Nếu thực hiện tốt vấn đề tuyển dụng này đảm bảo ngân hàng có quyền yên tâm để thực hiện các mục tiêu phát triển của mình đồng thời nguồn nhân lực có chất lượng tốt sẽ tạo lợi thế cạnh tranh của chi nhánh so với các ngân hàng khác trong quá trình hoạt động.
- Ngân hàng cần có chính sách ưu đãi đối với các chuyên gia giỏi để thu hút những đội ngũ này về làm việc cho ngân hàng, hoặc mời làm cố vấn, cộng tác viên cho ngân hàng.
- Ngân hàng cần qui định nhiệm vụ, trách nhiệm, quyền hạn rõ ràng đối với từng cán bộ nhân viên ngân hàng, thường xuyên kiểm tra, giám sát hoạt động của họ, tránh tình trạng làm sai làm hỏng nhưng không xác định được trách nhiệm thuộc về ai. Cán bộ cố tình vi phạm hoặc có hành vi gian trá cần phải cương quyết xử lí.
- Phân công cán bộ giỏi, có nhiều kinh nghiệm kèm cặp, hướng dẫn những cán bộ trẻ, kinh nghiệm còn non yếu. Đây là cách thiết thực nhất để nâng cao trình độ của mỗi cán bộ tín dụng vì nó cho phép kết hợp giữa thực tiễn với cơ sở lí luận.
- Ngoài ra, chi nhánh cần tạo điều kiện cho cán bộ tín dụng phát huy năng lực tiềm ẩn của mình. Nguồn năng lực này rất lớn có thể đem lại những kết quả bất ngờ. Đồng thời khuyến khích tính chủ động của các cán bộ tín dụng trong các hoạt động như: tích cực tìm kiếm các dự án khả thi, tìm hiểu nắm bắt tâm lí yêu cầu khách hàng và có biện pháp thu hút họ. Mỗi cán bộ được phát huy hết năng lực sáng tạo của họ sẽ góp phần vào công cuộc phát triển chung của toàn Chi nhánh ngân hàng TMCP SHB.
2.2.5. Nâng cao trình độ công nghệ phục vụ công tác đánh giá khách hàng.
Hiện tại, điều kiện về công nghệ, trang thiết bị và phương tiện tại Chi nhánh ngân hàng TMCP SHB chưa phải là hiện đại và đầy đủ. Có thể lấy ví dụ về số lượng máy tính tại phòng khách hàng số 1 không đáp ứng đủ nhu cầu sử dụng và làm việc của các cán bộ tín dụng hoặc số lượng xe ô tô quá ít, không đủ để phục vụ công việc kiểm tra thường xuyên tại DN của các cán bộ tín dụng... Vì vậy trong thời gian tới, ngân hàng cần phải thực hiện các giải pháp nâng cao chất lượng về công nghệ, trang thiết bị để phục vụ tốt hơn cho công tác phân tích báo cáo tài chính DN nói riêng và công tác đánh giá khách hàng nói chung. Các giải pháp bao gồm:
+ Đầu tư chiều sâu vào các trang thiết bị thuộc hệ thống thu thập thông tin của ngân hàng: máy tính kết nối mạng internet, kết nối mạng nội bộ với các phòng và với các ngân hàng khác trong cùng hệ thống, nối mạng cục bộ với các phòng giao dịch, trung tâm thông tin thương mại, trung tâm phòng ngừa rủi ro và các ngân hàng khác ngoài hệ thống.
+ Tìm hiểu, khai thác những phần mềm mới, công nghệ mới: phần mềm quản lí thông tin, phần mềm hỗ trợ thẩm định, hỗ trợ công tác phân tích báo cáo tài chính DN... nhằm giúp giảm bớt các công đoạn trong quá trình thực hiện công việc.
+ Tuy nhiên trong quá trình thực hiện giải pháp đầu tư vào công nghệ, trang thiết bị và phương tiện, cần có sự cân nhắc kĩ lưỡng, đảm bảo không gây nên lãng phí và phù hợp với từng giai đoạn phát triển của chi nhánh ngân hàng SHB.
2.3. Một số kiến nghị
2.3.1. Kiến nghị với ngân hàng TMCP SHB.
* Mở rộng công tác đào tạo.
Trong giai đoạn đất nước đang chuyển mình trong xu thế phát triển như vũ bão của khu vực và quốc tế hiện nay, không chỉ riêng cán bộ ngân hàng mà tất cả mọi người, những ai muốn theo kịp sự phát triển ấy, không muốn mình bị loại khỏi vòng cuốn ấy và làm việc có hiệu quả đều phải không ngừng trau dồi và trang bị kiến thức mới.
Nhận thức được vấn đề này, Bân lãnh đạo ngân hàng SHB luôn xem xét và thực hiện chương trình cử cán bộ đi học nâng cao trình độ và trang bị những kiến thức mới. Tuy nhiên, các chỉ tiêu nằm trong chương trình vẫn còn rất nhỏ so với nhu cầu hiện tại. Do đó, kiến nghị với ngân hàng SHB tăng thêm nhiều chỉ tiêu cử cán bộ đi học nói chung, và riêng đối với chi nhánh ngân hàng SHB. Vì ở chi nhánh số lượng cán bộ trẻ rất nhiều, trình độ và kinh nghiệm của cán bộ là không đồng đều cho nên rất cần thiết được cử đi học để tạo thêm mặt bằng cơ bản cho phòng nói chung. Ngoài ra kiến thức ngoại ngữ và tin học không phải là yếu tố quyết định nhưng trong xu thế hiện đại hóa và toàn cầu hóa hiện nay thì nó lại rất cần thiết cho công việc, nó nâng cao hiệu quả làm việc và là một trong những phương pháp cạnh tranh lành mạnh. Tuy nhiên để việc đi học không ảnh hưởng đến công việc nói chung, đề nghị ban lãnh đạo xem xét thời gian đi học và số lượng cán bộ đi từng đợt cho lợp lí, số cán bộ ở lại trong mỗi đợt có thể đảm đương được số lượng công việc trong phòng. Ví dụ như: thời gian đào tạo dành vào quý I đầu năm, lúc ấy là dịp Tết Nguyên Đán, mới đầu năm ra nên công việc vẫn chưa nhiều.
Cần chú trọng tới vấn đề tuyển nhân viên mới. Trong công tác phân tích đánh giá báo cáo tài chính DN vay vốn, đòi hỏi các cán bộ tín dụng phải có kiến thức cao về tài chính ngân hàng và tích lũy kinh nghiệm trong quá trình làm việc. Vì thế, trong việc tuyển dụng cần áp dụng những biện pháp tiên tiến đã thực hiện ở một số ngân hàng lớn trên thế giới là đánh giá nhân viên trên cơ sở năng lực trí tuệ của bản thân nhân viên đó. Nghĩa là cần coi trọng khả năng làm việc của họ trong tương lai (khi họ đã có kinh nghiệm) chứ không phải nhân viên đó biết được cái gì trong hiện tại.
Hoàn chỉnh các văn bản hướng dẫn cụ thể về phân tích báo cáo tài chính DN vay vốn.
Do đó, kiến nghị với ngân hàng TMCP SHB sớm có văn bản qui định cụ thể về qui trình, cách thức phân tích báo cáo tài chính DN vay vốn tại ngân hàng. Trên cơ sở văn bản ấy, trong quá trình thẩm định cho vay, các cán bộ tín dụng có một qui trình thống nhất, bắt buộc đối với công tác phân tích báo cáo tài chính DN vay vốn. Từ đó có thể vận dụng linh hoạt, sáng tạo kiến thức của bản thân cùng với những kinh nghiệm đúc kết được vào công việc, tạo điều kiện cho chất lượng công tác phân tích báo cáo tài chình DN vay vốn được chính xác, cụ thể, rõ ràng, thống nhất.
Hỗ trợ các chi nhánh trong đó có chi nhánh SHB trong việc thu thập thông tin bằng cách tăng cường hơn nữa hiệu quả hoạt động của trung tâm thông tin phòng ngừa rủi ro (TPR) của hệ thống. Cần đẩy mạnh việc liên kiết với các chi nhánh để nâng cao hiệu quả thu thập thông tin, dữ liệu từ các cơ sở tại chi nhánh, cơ cấu tổ chức rõ ràng.
2.3.2. Kiến nghị với Ngân hàng Nhà nước.
* Nâng cao chất lượng hoạt động của trung tâm thông tin tín dung CIC
Trung tâm thông tin tín dụng CIC được thành lập theo nghị định 88/CP và quyết định 68/1999/QĐ_NH ngày 27/2/1999. Sự hoạt động của CIC đã bổ sung thêm một kênh thông tin, phần nào cải thiện được tình trạng thiếu thông tin của các NHTM và các tổ chức tín dụng. Tuy nhiên sản phẩm của CIC vẫn không đáp ứng được nhu cầu về số lượng và chất lượng. Để nâng cao hơn nữa chất lượng hoạt động của CIC, có thể xem xét thực hiện một số biện pháp như sau:
- Từng bước hoàn thiện mô hình tổ chức, hoạt động.
- Tuyển chọn và nâng cao trình độ của cán bộ và thực hiện công tác đào tạo cán bộ của CIC.
- Xây dựng hành lang pháp lí cho hoạt động thông tin tín dụng: ngoài qui chế về tổ chức và hoạt động của trung tâm thông tin tín dụng đã có (dựa trên quyết định số 162/1999-QĐ-NHNN 9 ban hành ngày 8/5/1999) cần tìm ra, ban hành thực hiện qui chế và hướng dẫn về tổ chức và hoạt động nghiệp vụ thông tin tín dụng của các NHTM và tổ chức tín dụng.
Xây dựng các văn bản đủ hiệu lực, qui định cụ thể về tác nghiệp như nguồn cung cấp thông tin, nguồn sử dụng thông tin, người sử dụng thông tin, các chỉ tiêu thu thập, qui trình thu thập, các tiêu thức phân tích đánh giá...
Yêu cầu các NHTM và các tổ chức tín dụng ngoài việc khai thác thông tin từ CIC thì phải cung cấp thông tin cho CIC, coi đó là quyền lợi và nghĩa vụ của tổ chức mình.
- Xây dựng các chỉ tiêu trung bình ngành
Giải pháp có thể là:
+ Ngân hàng Nhà nước cùng các cơ quan hữu quan phối hợp để đưa ra các chỉ tiêu trung bình ngành.
Trong trường hợp chưa đủ điều kiện để có các chỉ tiêu trung bình ngành áp dụng cho toàn quốc thì bản thân Ngân hàng nhà nước có thể tự nghiên cứu với sự đóng góp của các NHTM để đưa ra hệ thống chỉ tiêu trung bình ngành.
* Tăng cường sự hỗ trợ của NHNN đối với công tác đánh giá khách hàng nói chung và công tác phân tích báo cáo tài chính DN vay vốn nói riêng.
NHNN là cơ quan điều hành trực tiếp các NHTM thì nhất thiết phải có sự hỗ trợ đối với công tác đánh giá khách hàng nói chung và công tác phân tích báo cao tài chính DN vay vốn nói riêng. Đây là công việc dễ gây ra rủi ro cho các NHTM nhất. Trong khi rủi ro của nhiều ngân hàng có thế gây ra những rủi ro đối với toàn bộ hệ thống nhân hàng Việt Nam. Vì vậy, NHNN có thể lập phòng hỗ trợ cho công tác đánh giá khách hàng nói chung và công tác phân tích tài chính DN vay vốn nói riêng. Phòng này có nhiệm vụ giúp đỡ các NHTM, đặc biệt là các ngân hàng mới thành lập trong công tác đánh giá khách hàng, tổng hợp những khinh nghiệm và bài học của các ngân hàng trong và ngoài nước về công tác này.
* NHNN nên đứng ra tổ chức hàng năm một hội nghị toàn ngành về công tác đánh giá khách hàng nói chung và đặc biệt là công tác phân tích báo cáo tài chính DN vay vốn nói riêng nhằm tổ chức đánh giá, báo cáo kinh nghiệm, trao đổi thị trường giữa các ngân hàng với nhau, đặc biệt là 4 NHTM quốc doanh lớn.
2.3.3. Kiến nghị đối với chính phủ, các bộ, ngành và chính quyền địa phương.
* Tăng cường vai trò quản lí của nhà nước đối với hoạt động tín dụng
Đây là một chính sách hết sức quan trọng trong lĩnh vực quản lí tài chính – ngân hàng của nhà nước, nó tác động đến hoạt động tín dụng nói chung và cũng có ảnh hưởng ít nhiều đến công tác phân tích, đánh giá báo cáo tài chính DN vay vốn tại ngân hàng. Nhà nước cần bổ sung, và hoàn thiện các văn bản, cơ chế, chính sách nhằm quản lí tốt hơn đối với hoạt động tín dụng để hoạt động này thực sự lành mạnh và hiệu quả.
Đồng thời với việc ban hành các văn bản, cơ chế về hoạt động tín dụng, nhà nước cũng cần tăng cường các biện pháp thanh tra, giám sát đối với hoạt động này và đặc biệt là đối với công tác phân tích báo cáo tài chính DN trước, trong và sau khi ngân hàng cho vay. Nhà nước ủy quyền cho NHNN có trách nhiệm trong việc lập các tổ chức thanh tra thường xuyên kiểm tra định kì các NHTM và các tổ chức tín dụng để theo dõi và có biện pháp xử lí kịp thời các vi phạm trong hoạt động tín dụng.
Tuy nhiên, Nhà nước không nên can thiệp quá sâu vào hoạt động tín dụng của ngân hàng, phải để các ngân hàng được tự chủ trong vấn đề phát triển nghiệp vụ, nâng cao chất lượng kinh doanh. Mỗi quyết định đầu tư của ngân hàng phải dựa trên đánh giá của chính họ chứ không phải vì một sức ép phi kinh tế nào đó. Ngoài ra phải tách biệt giữa các khoản tín dụng chỉ định, ủy thác đầu tư do Nhà nước yêu cầu với các khoản tín dụng kinh doanh của ngân hàng.
* Qui định một hệ thống kế toán thống nhất và đồng bộ, thực hiện kiểm toán bắt buộc đối với tất cả các DN.
Hiện nay, công tác quản lí Nhà nước về pháp lệnh kế toán thống kê đối với các DN chưa được chú ý đúng mức, nhất là đối với các DN phi nhà nước. Trong khi đó công ty kiểm toán của nhà nước còn rất non trẻ, đội ngũ cán bộ còn ít kinh nghiệm. Vì vậy, Nhà nước cần ban hành những sắc lệnh đi kèm với các chế tài bắt buộc để mọi DN phải áp dụng một cách thống nhất, đồng bộ chế độ kế toán thống kê và thông tin báo cáo, chế độ kế toán phải trung thực đầy đủ. Bên cạnh đó, Nhà nước cần phải ban hành qui chế bắt buộc kiểm toán và công khai quyết toán của DN.
Việc thực hiện kiểm toán phải được tiến hành thường xuyên, những tài liệu cân đối kế toán và kết quả kinh doanh của DN phải được kiểm toán trước, trong và sau quá trình phân tích, đánh giá báo cáo tài chính DN trong hoạt động tín dụng của ngân hàng. Nhà nước cũng cần qui định rõ những biện pháp chế tài, biện pháp xử lí nghiêm minh trong các trường hợp DN cung cấp thông tin giả, sử dụng đồng thời hai loại cân đối... để nhằm mục đích đưa các DN này vào khuôn khổ hoạt động và cạnh tranh lành mạnh. Có như vậy các cán bộ tín dụng mới có được các thông tin trung thực, cần thiết cho việc đánh giá, phòng ngừa rủi ro do thiếu thông tin trong quá trình giải ngân vốn cho DN. Qua đó nâng cao hiệu quả của công tác phân tích báo cáo tài chính DN trong hoạt động tín dụng của ngân hàng.
Để tạo điều kiện cho DN thực hiện kiểm toán, Nhà nước cần củng cố và mở rộng mạng lưới các cơ quan kiểm toán hơn nữa. Hiện nay, số lượng các DN lớn nhỏ ở nước ta rất nhiều song số lượng các công ty kiểm toán còn rất ít, chưa đáp ứng được nhu cầu thực hiện kiểm toán của các DN. Vì vậy việc mở rộng kiểm toán là một việc hết sức cần thiết cho một sự phát triển lành mạnh và an toàn lâu dài của các thành phần kinh tế.
Kết luận chương 2:
Trên đây là những giải pháp và những kiến nghị nhỏ với các cơ quan chức năng, các Bộ ngành liên quan mà khóa luận xin đưa ra nhằm hoàn thiện hơn nữa công tác phân tích báo cáo tài chính DN vay vốn tại Chi nhánh ngân hàng SHB. Công tác phân tích này là một bước quan trọng trong qui trình thẩm định tín dụng và cũng chính là một biện pháp tối ưu để nâng cao chất lượng tín dụng và giảm thiểu rủi ro cho Chi nhánh ngân hàng SHB nói riêng và toàn bộ hệ thống SHB nói chung.
Kết luận
Hiện nay, với sự phát triển của một nền kinh tế mở, môi trường cạnh tranh càng gay gắt, để tồn tại và phát triển, các ngân hàng buộc phải vừa tăng cường hoạt động cho vay, vừa phải hạn chế được rủi ro. Để giải quyết vấn đề này, ngân hàng phải thực hiện một trong những biện pháp được coi là quan trọng nhất, đó là phân tích báo cáo tài chính DN trong hoạt động tín dụng của ngân hàng. Dựa trên cơ sở tìm hiểu thực tế tại Chi nhánh ngân hàng SHB cùng với việc kế thừa những nghiên cứu có trước, nội dung chuyên đề đã tập trung giải quyết được những vấn đề cơ bản sau:
Thứ nhất, chuyên đề đã phân tích thực trạng công tác phân tích báo cáo tài chính DN trong hoạt động tín dụng của Chi nhánh ngân hàng SHB, từ đó chỉ ra những thành công và những tồn tại của hoạt động làm cơ sở để đưa ra những giải pháp thực tiễn.
Thứ hai , chuyên đề nêu rõ quan điểm định hướng phát triển hoạt động tín dụng nói chung và công tác phân tích báo cáo tài chính DN vay vốn nói riêng của Chi nhánh ngân hàng SHB, đồng thời chuyên đề cũng đề xuất các giải pháp hoàn thiện công tác phân tích báo cáo tài chính DN trong hoạt động tín dụng và các kiến nghị đối với Chính phủ, các Bộ, ngành, chính quyền địa phương, Ngân hàng Nhà nước và SHB.
Do tài liệu thu thập và sự hiểu biết còn nhiều hạn chế nên chuyên đề không thể tránh khỏi những thiếu sót. Vì vậy, em rất mong nhận được sự góp ý và chỉ bảo thêm của các cán bộ tín dụng Chi nhánh SHB cùng các thầy cô và các bạn.
Một lần nữa, em xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành tới co giáo – NGƯT.TS. Lê Thị Xuân và các thầy cô trong khoa Tài chính – Học viện Ngân hàng cùng tập thể phòng Khách hàng lớn của chi nhánh ngân hàng SHB đã giúp đỡ em hoàn thành chuyên đề tốt nghiệp này.
Mục lục
Bảng những từ viết tắt
NHNN Ngân hàng nhà nước
NHTM Ngân hàng thương mại
DN Doanh nghiệp
TSCĐ Tài sản cố định
TS Tài sản
LN Lợi nhuận
BQ Bình quân
Vốn CSH Vốn chủ sở hữu
LĐTX Lưu động thường xuyên
ĐTDH Đầu tư dài hạn
ĐTNH Đầu tư ngắn hạn
VLĐ Vốn lưu động
TSKD Tài sản kinh doanh
ĐTTC Đầu tư tài chính
KD Kinh Doanh
NHCT Ngân hàng công thương
HTK Hàng tồn kho
TSNH Tài sản ngắn hạn
TSDH Tài sản dài hạn
KH Khấu hao
CBCNV Cán bộ công nhân viên
TCT Tổng công ty
Danh mục các bảng
Bảng 1.1 Kết quả kinh doanh năm 2007 ............................................5
Bảng 1.2 Các tiêu chuẩn kiểm tra.16
Bảng 1.3 Các chỉ tiêu tài chính.18
Bảng 1.4 Xếp hạng khách hàng19
Bảng 1.5 Tình hình sản xuất kinh doanh và tài chính của
Công ty XNK Khoáng sản...................19
Bảng 1.6 Cơ cấu nguồn vốn.24
Bảng 1.7 Phối hợp các chỉ tiêu để đánh giá tài chính
doanh nghiệp.26
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 7840.doc