Mặt khác cũng từ bảng số liệu trên, ta thấy tổng nguồn vốn huy động của ngân hàng liên tục tăng qua các năm. Xét về mặt tuyệt đối, tổng nguồn vốn huy động tăng từ 1.221,5 tỷ năm 2002 lên ở mức 5.228,2 tỷ vào năm 2005, tức là tăng 4.006,7 tỷ trong vòng 4 năm. Tuy nhiên nếu xét về giá trị tương đối, mặc dù nguồn vốn huy động có tăng nhưng tốc độ tăng năm sau lại có xu hướng giảm so với năm trước, cụ thể là tốc độ gia tăng vốn đã giảm từ 82,6% năm 2003 xuống còn 34,5% vào năm 2005. Nguyên nhân chủ yếu là trong thời gian qua, ngân hàng phải đương đầu với nhiều khó khăn gây ra do sự cạnh tranh găy gắt giữa các ngân hàng thương mại trong việc thu hút các nguồn tiền gửi dân cư. Tuy nhiên, để đạt được những kết quả như trên, ngân hàng đã không ngừng chú trọng các biện pháp tăng cường huy động vốn nhằm tăng tăng tài sản có, cải thiện chất lượng dịch vụ nhằm nâng cao uy tín với khách hàng, liên tục mở rộng hệ thống mạng lưới chi nhánh trong toàn quốc, duy trì tốt quan hệ trên thị trường liên ngân hàng, nghiên cứu phát triển các sản phẩm, dịch vụ bán lẻ đáp ứng nhu cầu ngày càng đa dạng của khách hàng Đặc biệt ngân hàng đã tích cực đưa ra những hình thức huy động mới như tiết kiệm có bốc thăm trúng thưởng hay tiết kiệm VND được bù trượt giá USD, sản phẩm này đã đáp ứng được tâm lý của khách hàng e ngại sự mất giá của VND so với USD nhưng lại muốn hưởng lãi cao. Nhờ những nỗ lực trên mà công tác huy động vốn đã đạt được nhiều kết quả đáng khích lệ, tổng nguồn vốn huy động liên tục qua các năm tạo tiền đề cho sự tăng trưởng của ngân hàng trong những năm tới.
94 trang |
Chia sẻ: Dung Lona | Lượt xem: 1173 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng và giải pháp hoàn thiện công tác thẩm định dự án đầu tư của ngân hàng thương mại cổ phần các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g tính thuyết phục cho dự án, doanh nghiệp trong quá trình lập báo cáo khả thi có xu hướng tìm mọi cách làm giảm chi phí hoạt động của dự án xuống mức thấp nhất
Các báo cáo tài chính được sử dụng để phân tích, thẩm định khách hàng vay vốn cũng không thực sự đủ độ tin cậy bởi có nhiều doanh nghiệp chưa thực hiện chế độ kiểm toán bắt buộc. Thêm vào đó các báo cáo tài chính, kết quả kinh doanh thường kỳ của doanh nghiệp nộp cho ngân hàng có nhiều loại khác nhau dẫn đến khó hệ thống chuẩn hoá thông tin
Sự phối hợp về mặt thông tin giữa các thành viên cũng chưa chặt chẽ, thường xuyên. Khối lượng công việc của phòng khá lớn nên các cá nhân làm việc một cách độc lập, dự án phân công cho ai thì người đó tự tìm kiếm thông tin, tự thẩm định dựa vào năng lực của bản thân, ít có sự hợp tác, hỗ trợ qua lại lẫn nhau về mặt thông tin trong quá trình thẩm định. Điều này có ảnh hưởng không nhỏ đến thời gian cũng như chất lượng thẩm định
Trong quá trình thẩm định, tuy cán bộ thẩm định có tham khảo các thông tin từ hệ thống thông tin tín dụng ngân hàng (CIC), tuy nhiên hệ thống này mới đi vào hoạt động, thông tin chưa có nhiều, các thông tin về khách hàng nếu có cũng chỉ mới được cập nhật trong vòng 2 đến 3 năm gần đây. Điều này chắc chắn sẽ gây khó khăn cho cán bộ thẩm định trong việc nắm bắt được một cái nhìn tổng quan về tình hình tài chính doanh nghiệp cũng như độ lành mạnh của chính doanh nghiệp đó. Mặt khác các thông tin trên hệ thống này chủ yếu được cung cấp bởi các tổ chức tín dụng, do vậy nếu các tổ chức này chậm hoặc không gửi thông tin lên thì sẽ khiến cho các thông tin về doanh nghiệp bị phản ánh không đầy đủ, thiếu khách quan. Việc thu thập thông tin từ các đối tác, bạn hàng của doanh nghiệp, từ các tổ chức tín dụng khác là rất hạn chế. Trong khi đó, việc khai thác thông tin từ phía các cơ quan nhà nước (như toà án, thuế, uỷ ban nhân dân, kiểm toán, kế hoạch đầu tư) còn khá khó khăn, lí do là bởi vì hiện nay chưa có một cơ chế phối hợp rõ ràng giữa các tổ chức cho vay và cơ quan nhà nước
Hiện nay VPBank đã yêu cầu khách hàng thanh toán qua ngân hàng để ngân hàng dễ dàng kiểm tra tình hình tài chính doanh nghiệp, phát hiện ra các vấn đề rủi ro tín dụng. Tuy nhiên điều này rất khó thực hiện bởi việc thanh toán qua hệ thống ngân hàng chưa phổ biến, hơn nữa chẳng có doanh nghiệp nào muốn bị giám sát nguồn thu chi của mình
*Về cán bộ thẩm định:
Đa số cán bộ thẩm định cũng như đội ngũ nhân viên trong ngân hàng đều có trình độ từ đại học trở lên, tuy nhiên đa số họ là đội ngũ trẻ, thiếu kinh nghiệm thực tế về dự án, về thương trường. Số cán bộ có kỹ thuật còn hạn chế trong khi số cán bộ có chuyên môn về cả nghiệp vụ lẫn kỹ thuật lại càng ít. Điều này có ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng công tác thẩm định
Đội ngũ cán bộ thẩm định chưa được phân công chuyên môn hoá trong công tác thẩm định, ở nhiều chi nhánh chưa có cán bộ chuyên trách về thẩm định dự án. Nhiều cán bộ không được đào tạo chuyên sâu về nghiệp vụ thẩm định dự án mà chủ yếu tự nghiên cứu tài liệu thẩm định nên trình độ còn nhiều hạn chế
Mặt khác ngân hàng cũng chưa có chương trình đào tạo tổng thể về thẩm định dự án, việc đào tạo mới chỉ dựa vào những chương trình tập huấn và bồi dưỡng trong ngắn hạn hoặc tự đào tạo
* Các hạn chế khác
Việc thẩm định dự án đôi khi còn mang tính chủ quan, kết quả thẩm định còn ít nhiều phụ thuộc vào mối quan hệ giữa ngân hàng và khách hàng. Thực tế chúng ta gặp nhiều trường hợp mà việc ngân hàng có quyết định cho vay hay không không chỉ phụ thuộc vào kết quả thẩm định mà còn phụ thuộc vào "tài sản vô hình đem ra thế chấp với ngân hàng"- đó là mối quan hệ giữa VPBank và khách hàng, do đó việc thẩm định trên thực tế chỉ mang tính thủ tục, hình thức. Vì thế mà có những dự án kết quả thẩm định cho thấy có thể cho vay thì chưa chắc đã được chấp thuận cho vay, trong khi có dự án mà kết quả thẩm định cho thấy không thể cho vay hoặc còn nhiều điều bất ổn thì lại được ngân hàng sẵn sàng cấp vốn. Đây chính là nguy cơ chủ yếu dẫn đến những rủi ro tín dụng cho ngân hàng trong thời gian qua
3.3. Nguyên nhân của những tồn tại trong công tác thẩm định của ngân hàng
Những tồn tại trong công tác thẩm định của ngân hàng thời gian qua là do ảnh hưởng của nhiều nguyên nhân khác nhau, trong đó có cả nguyên nhân chủ quan lẫn khách quan
3.3.1. Nguyên nhân chủ quan
* Nội dung và quy trình thẩm định của ngân hàng đang trong quá trình hoàn thiện.
Quy trình thẩm định đã được xây dựng là áp dụng chung cho mọi loại dự án, chưa có văn bản hướng dẫn riêng cho từng loại dự án thuộc các lĩnh vực khác nhau. Các nội dung trong quy trình chưa được quy định chi tiết, tỉ mỉ làm cơ sở cho cán bộ thẩm định có căn cứ tham chiếu, khiến họ lúng túng khi thẩm định, đặc biệt đối với những dự án thuộc các lĩnh vực kinh doanh mới. Đó cũng là nguyên nhân dẫn đến tình trạng bỏ qua hoặc tuỳ tiện trong một số trường hợp
Mặc dù quy trình tín dụng của ngân hàng có quy định khá đầy đủ các nội dung cần tiến hành trong quá trình thẩm định một dự án đầu tư, song trên thực tế việc thẩm định mới chỉ tập trung vào phương diện tài chính và phân tích thị trường. Điều này cũng hoàn toàn dễ hiểu, bởi trên thực tế ngân hàng là một đơn vị kinh doanh và cũng không có đủ nguồn lực để thẩm định hết các yếu tố, dó đó các khía cạnh còn lại chưa được nghiên cứu quan tâm đầy đủ, nhất là khía cạnh kinh tế- xã hội của dự án. Đây cũng là một thực tế chung ở hầu hết các ngân hàng thương mại Việt Nam
Trong thời gian qua mặc dù các trang thiết bị phục vụ cho công tác thẩm định đã được ngân hàng chú trọng đầu tư, tuy nhiên do đặc thù của ngành ngân hàng đòi hỏi hệ thống trang thiết bị phải được thường xuyên đổi mới, cập nhật, nên sự đầu tư đó vẫn chưa đáp ứng kịp nhu cầu. Bên cạnh đó, hệ thống trang thiết bị này chưa được khai thác một cách triệt để, mới chủ yếu dùng để soạn thảo văn bản và tính toán đơn thuần trên Excell. Ở đây cũng phải kể đến năng lực thành thạo máy tính của một bộ phận cán bộ thẩm định còn chưa ổn
Tuy nhiên nguyên nhân chủ yếu nhất dẫn đến hạn chế trên chính là do ngân hàng chưa nghiên cứu và áp dụng các phần mềm hiện đại trong thẩm định và quản lý dự án. Điều này trái ngược với xu hướng hiện nay, khi mà công tác thẩm định ngày càng đòi hỏi phải được chuẩn hoá thông qua việc áp dụng hệ thống các phần mềm trong phân tích chuyên ngành, quản lý và dự báo. Trong tương lai, ngân hàng nên chú ý áp dụng hơn nữa ứng dụng của khoa học công nghệ trong công tác thẩm định dự án
* Công tác thu thập, quản lý, lưu trữ thông tin của ngân hàng vẫn chưa đáp ứng yêu cầu
Việc thu thập thông tin của ngân hàng còn nhiều hạn chế như: ngân hàng vẫn chưa khai thác triệt để các nguồn thông tin đa dạng từ trung tâm thông tin tín dụng Ngân hàng Nhà nước, từ các Bộ ngành liên quan, từ đối tác, khách hàng, bạn hàng của VPBank. Ngân hàng chưa có bộ phận chuyên trách phục vụ việc thu thập thông tin về các văn bản pháp quy mới, các thông số, quy chuẩn, tiêu chuẩn kinh tế- kỹ thuật được áp dụng trong từng lĩnh vực dự án khác nhau, về các đối tác đã, đang và sẽ có quan hệ tín dụng với mình. Phòng khách hàng mới chỉ làm nhiệm vụ tìm kiếm, duy trì và triển mối quan hệ khách hàng mà chưa có sự hỗ trợ thông tin về khách hàng cho công tác thẩm định. Mặt khác, ngân hàng cũng ít khi chủ động thu thập thông tin, đánh giá lại các dự án đã và đang thực hiện làm tài liệu tham khảo để thẩm định các dự án tương tự về sau, việc thu thập thông tin thường chỉ được phát sinh ở một dự án nào đó cần được thẩm định
Bên cạnh đó, các thông tin về dự án đã thực hiện được lưu trữ dưới dạng thô sơ, chưa có hệ thống, chưa tận dụng được hết hiệu quả của máy tính và mạng máy tính trong việc lưu trữ và tra cứu khi cần. Sự phối hợp trao đổi thông tin, tư vấn giữa VPbank với các đơn vị khác trong ngành hầu như chưa có
Tóm lại, ngân hàng chưa xây dựng cho mình một hệ thống cơ sở dữ liệu, thông tin hoàn chỉnh, cũng như chưa tận dụng các thành tựu của khoa học kỹ thuật trong việc xử lý và sử dụng những dữ liệu ấy
3.3.2. Nguyên nhân khách quan
Chất lượng thẩmđịnh dự án không chỉ phụ thuộc vào bản thân ngân hàng mà còn phụ thuộc vào các nhân tố khách quan khác (như: môi trường luật pháp, kinh tế, xã hội và phụ thuộc vào chính chủ đầu tư )
* Nguyên nhân từ môi trường vĩ mô
+ Pháp luật : hệ thống luật pháp của chúng ta chưa đồng bộ, còn đang trong quá trình xây dựng và hoàn thiện. Pháp lệnh về kế toán thống kê vẫn chưa được thực hiện một cách nghiêm minh. Hiện nay chưa có chế độ kiểm toán bắt buộc, các số liệu về khả năng tiêu thụ, về thu nhập, chi phí hoạt động, của doanh nghiệp chỉ mang tính ước tính mà chưa có sự kiểm chứng của bất kỳ một tổ chức kiểm toán nào. Do đó cán bộ tín dụng trong quá trình thẩm định rất khó xác định tình hình tài chính, tình tình thanh toán, kết quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
+ Kinh tế : môi trường kinh tế trong và ngoài nước có nhiều biến động gây khó khăn cho công tác dự báo
Hệ thống các ngân hàng hiện nay chưa hoàn thiện, thị trường chứng khoán chưa phát triển mạnh mẽ dẫn đến khó xác định mức lãi suất chiết khấu. Tỷ giá không thống nhất cũng gây bất lợi cho việc tính toán các chỉ tiêu tài chính
Sự cạnh tranh trên thương trường diễn ra ngày càng găy gắt khiến cho nhiều doanh nghiệp bị thua lỗ, phá sản
Phân cấp quản lý dự án của nhà nước không rõ ràng khiến cho ngân hàng nhiều khi không xác định được chính xác thẩm quyền quyết định các dự án. Quản lý dự án đầu tư đôi khi còn chồng chéo giữa địa phương và các Bộ ngành liên quan
+ Môi trường xã hội : hệ thống các cơ quan tư vấn về thẩm định dự án, đặc biệt là phương diện kỹ thuật, thị trường chưa phát triển
* Nguyên nhân từ phía chủ đầu tư
Trước hết phải kể đến trình độ lập dự án của các doanh nghiệp còn yếu, các dự án được lập còn thiếu chính xác và thiếu căn cứ khoa học Khi trình hồ sơ tài liệu lên ngân hàng, các chủ đầu tư không cung cấp đầy đủ các thông tin, tài liệu cần thiết cho qua trình thẩm định, khiến cho công tác thẩm định thường bị kéo dài. Các chủ đầu tư cũng thường cung cấp những thông tin thiếu chính xác về doanh nghiệp và dự án, làm ảnh hưởng tới chất lượng của công tác thẩm định
Mặt khác trình độ quản lý của các doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay còn thấp, dẫn đến hiệu quả của các dự án không cao. Trong quá trình dự án đi vào hoạt động, các cán bộ thẩm định cũng không thể kiểm soát được mọi hoạt động của doanh nghiệp, từ đó khiến cho nhiều dự án bị chậm tiến độ thi công do lựa chọn không đúng nhà thầu, triển khai vốn không đúng tiến độ hay sử dụng vốn sai mục đích làm ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng
Bên cạnh đó còn phải kể đến một số những nguyên nhân khác như: thị trường máy móc thiết bị cung cấp cho các doanh nghiệp hiện nay rất phong phú và đa dạng. Có nhiều loại máy móc hiện đại nên các cán bộ thẩm định rất khó đánh giá được khả năng sử dụng vận hành công nghệ, đội ngũ công nhân vận hành của doanh nghiệp
Trước thực trạng công tác thẩm định của ngân hàng trong thời gian qua, có thể thấy, bên cạnh những thành tựu đã đạt được, hoạt động thẩm định dự án đầu tư của VPbank vẫn tồn tại nhiều hạn chế. Chính vì vậy, trong thời gian tới ngân hàng cần phát huy những thành tựu đã đạt được, mặt khác tìm ra các giải pháp nhằm khắc phục những tồn tại để không ngừng nâng cao chất lượng công tác thẩm định dự án, từ đó nâng cao chất lượng hoạt động. Trong khuôn khổ luận văn, em xin đưa ra một số giải pháp như sau
CHƯƠNG II
MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN CÔNG TÁC THẨM ĐỊNH DỰ ÁN ĐẦU TƯ TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN CÁC DOANH NGHIỆP NGOÀI QUỐC DOANH
2.1. Định hướng cho công tác thẩm định của ngân hàng trong thời gian tới
2.1.1. Nhu cầu thẩm định dự án tại ngân hàng
Với tư cách là một thành viên trong hệ thống ngân hàng Việt Nam, ngân hàng VPBank luôn coi việc xác định chiến lược phát triển có ý nghĩa vô cùng quan trọng, một mặt nhằm thực thi các chiến lược phát triển chung của đất nước, mặt khác đảm bảo cho ngân hàng luôn phát triển đúng hướng, tăng trưởng tín dụng phải đi đôi với an toàn, hiệu quả
Mục tiêu của ngân hàng trong tương lai là không ngừng đẩy mạnh các hoạt động kinh doanh, phấn đấu trở thành một "ngân hàng bán lẻ hàng đầu của miền Bắc và của cả nước". Để thực hiện mục tiêu này, trong những năm qua ngân hàng đã nỗ lực thực thi nhiều biện pháp, cải tổ bộ máy tổ chức, cơ cấu lại các phòng ban chi nhánh, mở rộng mạng lưới hoạt động và các loại hình cung cấp dịch vụ, nâng cao chất lượng phục vụ khách hàng, thu hút và đào tạo đội ngũ cán bộ trẻ có trình độ cao
Cũng chính nhờ việc kiên định chiến lược phát triển trên mà trong thời gian qua, mặc dù trong bối cảnh nền kinh tế trong và ngoài nước có nhiều biến động bất lợi và môi trường cạnh tranh găy gắt giữa các ngân hàng ( các ngân hàng đua nhau tăng lãi suất huy động, áp dụng các chương trình khuyến mãi có giá trị lên tới hàng tỷ đồng, mở rộng mạng lưới hoạt động). Tuy vậy ngân hàng vẫn đứng vững và đạt được nhiều thành công ngoài dự kiến. Kết quả hoạt động kinh doanh tăng trưởng khá cao, tổng nguồn vốn huy động đạt 5.228 tỷ đồng tăng trên 35% so với thực hiện năm 2004, doanh số cho vay của toàn hệ thống đạt trên 2.761tỷ tăng 28.1% so với năm 2004, tỉ lệ nợ quá hạn giảm đáng kể. Chất lượng dịch vụ được cải thiện, các sản phẩm mới được đưa vào ứng dụng đã phát huy hiệu quả, mạng lưới hoạt động mở rộng trên toàn quốc, công tác đào tạo cán bộ được quan tâm đặc biệt
Qua hoạt động của VPBank cho thấy, ngân hàng đã không ngừng đổi mới thích ứng với nền kinh tế thị trường để đạt được thành công như ngày hôm nay. Từ những thành công đã có cũng như những khó khăn đã trải qua, trên cơ sở tổng kết các bài học kinh nghiệm và đánh giá tình hình kinh tế- xã hội của đất nước trong thời gian tới, ngân hàng đã đề ra định hướng hoạt động cho năm 2006 như sau:
- Đa dạng hoá loại hình cho vay, mở rộng cho vay đối với các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, từng bước tiếp cận tín dụng đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Việc mở rộng cho vay phải đi đôi với nâng cao chất lượng tín dụng, giảm thiểu rủi ro trên từng khách hàng, giảm thiểu hệ số rủi ro, quá hạn vốn vay
- Phấn đấu đạt mức huy động vốn tiết kiệm tăng 35%, dư nợ tín dụng tăng 30% so với năm 2005, nợ quá hạn phát sinh mới không quá 2% trong tổng dư nợ tăng thêm. Đảm bảo tốc độ cho vay trung dài hạn bình quân đạt 15% trong giai đoạn 2006-2010
- Chủ động tìm kiếm khách hàng để lựa chọn được khách hàng tốt, dự án đầu tư có hiệu quả kinh tế cao, thu hồi vốn tốt. Lấy hiệu quả, an toàn làm tiêu chí hàng đầu để xét duyệt vốn vay. Đồng thời việc chủ động tìm kiếm khách hàng, dự án đầu tư nhằm làm giảmviệc khách hàng đưa thông tin không đúng sự thật
- Thực hiện nghiêm túc luật các tổ chức tín dụng và quy trình cho vay nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động cho vay
Để thực hiện được những định hướng đã đề ra thì việc hoàn thiện công tác thẩm định dự án cho vay vốn đóng một vai trò hết sức quan trọng. Đặc biệt trong bối cảnh cạnh tranh giữa các ngân hàng và các doanh nghiệp đẩy nhanh tốc độ đầu tư như hiện nay. Vì vậy trước hết ngân hàng cần tập trung đề ra các giải pháp nhằm khắc phục những tồn tại trong công tác thẩm định, nâng cao chất lượng thẩm định dự án là cơ sở để nâng cao chất lượng hoạt động của ngân hàng trong giai đoạn tiếp theo
2.1.2.Định hướng cho công tác thẩm định dự án đầu tư
Hoạt động thẩm định dự án đầu tư phải xuất phát từ tình hình kinh tế- xã hội của đất nước trong từng thời kỳ và từ thực tiễn cho vay của chính ngân hàng. Công tác thẩm định dự án cần phải phù hợp với những chủ trương, chính sách chung của các Bộ ngành trong từng giai đoạn phát triển, đồng thời phát huy tối đa những thế mạnh của ngân hàng. Thẩm định dự án phải tuân thủ theo đúng các quy định của ngân hàng với tất cả dự án xin vay, mặt khác quá trình này phải được tiến hành thường xuyên, liên tục, không chỉ diễn ra trước mà cả trong và sau cho vay. Trong tương lai ngân hàng sẽ phấn đấu hoàn thiện để thẩm định trở thành một hoạt động dịch vụ của ngân hàng, ngân hàng không chỉ là nơi tư vấn cho khách hàng mà còn có thể thu phí từ hoạt động này
2.2. Các giải pháp nhằm hoàn thiện công tác thẩm định dự án đầu tư tại ngân hàng
2.2.1. Tăng cường nhận thức về vị trí, vai trò của công tác thẩm định
Thẩm định dự án là công việc phức tạp và có vị trí vai trò rất quan trọng trong mỗi quyết định cho vay, do đó để thực hiện tốt công tác thẩm định, trước hết cần có sự thống nhất về mặt nhận thức trong mỗi cán bộ nhân viên của ngân hàng. Cụ thể là:
- Hoạt động thẩm định không chỉ là công việc riêng của các cán bộ thẩm định mà còn phải được phổ cập ở một mức độ nhất định tới các bộ phận nghiệp vụ khác để họ hiểu được vị trí và tầm quan trọng của công tác thẩm định, từ đó hình thành sự phối hợp, trợ giúp cho cán bộ thẩm định trong quá trình ra quyết định
- Thẩm định dự án không chỉ hướng tới phục vụ cho các mục tiêu kinh doanh cục bộ của ngân hàng mà còn phải góp phần thực hiện những mục tiêu phát triển kinh tế chung của ngành, của địa phương và của đất nước trong mỗi thời kỳ
- Hoạt động thẩm định phải đứng trên góc độ người cho vay vốn để xem xét, ra quyết định, nhằm tránh xảy ra tình trạng thất thoát lãng phí, dẫn đến những tổn thất cho xã hội
- Thẩm định dự án phải được tiến hành thường xuyên, liên tục, không chỉ diễn ra trước mà cả trong và sau cho vay, nhằm đảm bảo tính hiệu quả và an toàn cho nguồn vốn vay
- Thẩm định dự án là một công việc có liên quan đến nhiều ngành nghề lĩnh vực khác nhau, đòi hỏi người thẩm định phải có sự chủ động, sáng tạo, linh hoạt, có khả năng phân tích, tổng hợp, đúc rút thực tiễn và thường xuyên trau dồi các kiến thức chuyên môn cũng như các kiến thức về đời sống kinh tế-xã hội
2.2.2. Không ngừng hoàn thiện nội dung và phương pháp thẩm định
* Đối với nội dung thẩm định khách hàng vay vốn
Việc đánh giá các thông tin về khách hàng vay vốn là một việc không đơn giản, bởi không phải lúc nào tình hình tài chính của các doanh nghiệp cũng được công khai. Do vậy trước mắt ngân hàng cần yêu cầu các báo cáo tài chính của doanh nghiệp nộp lên phải được kiểm toán. Bên cạnh đó ngân hàng cũng nên tăng cường thiết lập mối quan hệ với các cơ quan chức năng nhằm có những đánh gía đầy đủ hơn về doanh nghiệp
Để đưa ra những kết luận chính xác hơn về tình hình của doanh nghiệp, ngân hàng cũng nên áp dụng các phương pháp khác nhau trong phân tích tài chính doanh nghiệp như: phương pháp phân tích tỷ lệ, phương pháp đối chiếu logic vì thực tế hiện naysố lượng các chỉ tiêu dùng để đánh giá chưa nhiều
* Đối với nội thẩm định phương diện kỹ thuật
Cán bộ thẩm định cần quan tâm hơn đến phân tích khía cạnh kỹ thuật của dự án. Thực chất họ rất khó có thể làm tốt được điều này, bởi lẽ ngân hàng hiện nay chưa có nhiều cán bộ có chuyên môn cả về nghiệp vụ lẫn kỹ thuật, đa số họ đều tốt nghiệp từ các trường khối kinh tế, trình độ nhận biết cũng như khả năng thu thập thông tin là có hạn. Các chỉ tiêu của Chính phủ, của Bộ ngành liên quan chưa đầy đủ, chưa phù hợp với tình hình hiện tại của nền kinh tế, còn ngân hàng cũng chưa có một hệ thống chỉ tiêu về kinh tê- kỹ thuật chuẩn phục vụ cho công tác thẩm định dự án. Do đó để trợ giúp cho cán bộ thẩm định đánh giá kỹ thuật, ngân hàng cần sớm nghiên cứu ban hành những chỉ tiêu kỹ thuật cơ bản phù hợp với từng ngành, từng lĩnh vực cụ thể (như các tiêu chuẩn về công nghệ, máy móc, thiết bị được sử dụng,) làm cơ sở để cán bộ thẩm định tham chiếu
Trong trường hợp những dự án quá phức tạp, ngân hàng nên thuê các chuyên gia có chuyên môn phù hợp thẩm định nội dung kỹ thuật nhằm rút ngắn thời gian thẩm định
* Đối với nội dung phân tích thị trường
Cán bộ thẩm định cần phân tích sâu hơn về phương diện thị trường của dự án, những đánh giá về tình hình cung- cầu thị trường, về khả năng tiêu thụ của sản phẩm cần được định tính toán, định lượng một cách cụ thể, chứ không nên đánh giá chung chung theo cảm tính. Ngân hàng cũng cần áp dụng các phương pháp hiện đại trong phân tích và dự báo cung- cầu sản phẩm. Hiện có nhiều phương pháp dự báo cung- cầu đã được nghiên cứu áp dụng trong thực tế, như phương pháp ngoại suy thống kê, phương pháp định mức, phương pháp hệ số co giãn cán bộ thẩm định có thể căn cứ vào số lượng và chất lượng thông tin thu thập được mà lựa chọn phương pháp tính cho phù hợp, hoặc kết hợp sử dụng nhiều phương pháp nhằm làm tăng tính chính xác cho các kết quả dự báo
Ngoài ra trong quá trình thẩm định cần lưu ý tới các yếu tố khác như: khả năng thay đổi thị hiếu tiêu dùng, những thay đổi trong chính sách kinh tế vĩ mô của Nhà nước, của nước xuất khẩuvì chúng có thể ảnh hưởng đến đầu ra của dự án
* Đối với nội dung thẩm định phương diện tài chính
Thứ nhất, khi thẩm định tổng vốn đầu tư, ngân hàng cần có quy định cụ thể về các nội dung trong tổng vốn đầu tư của một dự án như: vốn đầu tư cố định, vốn đầu tư lưu động, vốn đầu tư dự phòng, vốn đầu tư bù đắp các chi phí bởi theo ý kiến của nhiều cán bộ thẩm định có kinh nghiệm thì tổng vốn đầu tư của dự án khi trình lên ngân hàng thường thấp hơn thực tế. Lý do là vì dự án khi đi vào thực hiện có thể phát sinh nhiều hạng mục chi phí mới hoặc do chủ đầu tư cố tình làm giảm tổng vốn đầu tư để dễ xin vay vốn hơn
Mặt khác nếu dự án đầu tư được tài trợ từ nhiều nguồn khác nhau, cán bộ thẩm định nên kiểm tra kỹ tính xác thực của từng nguồn vốn, nhất là các cam kết bỏ vốn của các cơ quan tài trợ cả về mặt số lượng và tiến độ, tránh để xảy ra tình trạng thiếu vốn dẫn đến làm chậm tiến độ thi công của công trình
Thứ hai, khi thẩm định các yếu tố chi phí sản xuất kinh doanh của dự án như: lãi vay vốn lưu động, chi phí quản lý doanh nghiệp, chi phí thuê đất, thuê chuyên gia ngân hàng cần có sự tham khảo các quy trình của Bộ tài chính, của cơ quan chủ quản của doanh nghiệp, so sánh với chi phí sản xuất của sản phẩm tương tự trên thị trường, không nên chấp thuận hay mặc nhiên theo sự tính toán của chủ đầu tư hoặc tuỳ ý. Nếu là dự án mở rộng hoặc dự án mới của doanh nghiệp đã hoạt động trong ngành đó, cán bộ thẩm định có thể lấy các chỉ tiêu cũ làm cơ sở. Nếu là các dự án mới hoàn toàn thì các chỉ tiêu của những dự án tương tự cũng là những tham khảo tốt.
Đối với chi phí khấu hao, ngân hàng cần kiểm tra đối chiếu với các văn bản quản lý kinh tế mới nhất của Nhà nước nhằm đảm bảo tính, hợp pháp, chính xác trong tính toán. Ngân hàng cần xem xét mức khấu hao cho phù hợp với từng lĩnh vực hoạt động của dự án, của từng loại hình doanh nghiệp, tránh tình trạng các doanh nghiệp áp dụng mức khấu hao nhanh để giảm nghĩa vụ nộp thuế với Nhà nước. Nếu doanh nghiệp tính sai quy định của Bộ tài chính thì VPBank cần tính toán lại và có ý kiến với doanh nghiệp. Đồng thời ngân hàng phải đặt chi phí này trong mối quan hệ với khả năng tiêu thụ của sản phẩm, với tính khả thi của dự án vì khấu hao là một nguồn trả nợ cho ngân hàng, nó không phải nguồn có sẵn hiển nhiên, do đó nó có thể là con số vô nghĩa nếu dự án không khả thi, sản phẩm của dự án không tiêu thụ được
Thứ ba, cần chú ý đến các khoản thu hồi khi xác định dòng tiền của dự án
Khi xác định dòng tiền của dự án, cán bộ thẩm định cần chú ý các khoản hoàn trả vốn lưu động và thu hồi các giá trị thanh lý khi dự án chấm dứt hoạt động. Bởi lẽ phần lớn các dự án khi kết thúc thì các máy móc thiết bị, nhà xưởng còn một giá trị thị trường nhất định. Khi bán chúng sẽ xuất hiện dòng thu từ dự án, tuỳ theo quy định chế độ kế toán hiện hành mà dòng thu này có thể sẽ phải chịu thuế thu nhập doanh nghiệp hay không
Ngoài ra khi dự án kết thúc doanh nghiệp sẽ thu hồi vốn lưu động ròng, do đó khoản thu này phải được cộng vào dòng tiền cuối cùng của dự án
Như trong dự án xây dựng nhà máy sản xuất đá xẻ trên, mặc dù các tài sản cố định của dự án được khấu hao trong vòng 14 năm và vòng đời của dự án chỉ là 10 năm, nhưng cán bộ thẩm định đã không đưa phần giá trị thanh lý tài sản cố định cũng như khoản thu hồi vốn lưu động vào dòng thu cuối cùng của dự án. Mặc dù dự án có hiệu quả ngay cả khi không có các khoản thu hồi trên, nhưng việc tính toán các dòng thu thiếu cơ sở khoa học như vậy sẽ làm giảm tính chính xác của các chỉ tiêu hiệu quả tài chính
Thứ tư, các chỉ tiêu NPV, IRR, T là các chỉ tiêu thường gặp trong các dự án đầu tư của ngân hàng, tuy nhiên khi sử dụng chúng phải quan tâm đến giá trị thời gian của tiền, nếu không chúng sẽ không phản ánh đầy đủ ý nghĩa. Mặt khác, cùng với các chỉ tiêu NPV, IRR, T, ngân hàng cũng nên đưa các chỉ tiêu khác vào tính toán như chỉ tiêu điểm hoà vốn, lợi ích- chi phí, năng lực hoà vốn những chỉ tiêu này sẽ bổ xung cho nhau giúp cán bộ thẩm định có một cái nhìn toàn diện hơn về dự án
Thứ năm, ngân hàng nên đưa ra một phương pháp tính tỷ suất chiết khấu thích hợp. Các chỉ tiêu hiệu quả tài chính trên là cơ sở quan trọng để đánh giá tính khả thi của mỗi dự án đầu tư và là căn cứ cho các quyết định tài trợ vốn của ngân hàng. Tuy nhiên, để các chỉ tiêu này phản ánh đầy đủ bản chất của chúng thì việc lựa chọn một tỷ suất chiết khấu thích hợp có ý nghĩa hết sức quan trọng. Một dự án có thể được tài trợ vốn từ nhiều nguồn khác nhau, ở những thời điểm khác nhau và với mức lãi suất khác nhau. Do đó tỷ suất chiết khấu phải phản ánh được tổng chi phí cơ hội của tất cả các nguồn vốn đó
Hiện có nhiều phương pháp tính tỷ suất chiết khấu khác nhau, cán bộ thẩm định nên lựa chọn áp dụng sao cho phù hợp với từng loại dự án, chứ không nên chỉ sử dụng lãi suất ngân hàng làm lãi suất chiết khấu như hiện nay. Trong ví dụ trên, nếu tính theo phương pháp đơn giản nhất là phương pháp bình quân gia quyền, tỷ suất chiết khấu dùng để tính chuyển dòng tiền của dự án sẽ là :
r
=
2.600 * 12% + 8.600 * 9,5%
------------------------------------
11.200
=
10,08%
Tại thời điểm hiện tại lãi suất cho vay của ngân hàng là 12%/năm
Lãi suất tiền gửi tiết kiệm tối đa trên thị trường tiền gửi là 9,5%/năm )
Bên cạnh đó ngân hàng cũng nên áp dụng mức lãi suất chiết khấu được điều chỉnh theo các năm để phản ánh các tác động của môi trường tới dự án như lạm phát, trượt giá
Thứ sáu, phân tích độ nhạy chưa được quan tâm đúng mức khi xem xét các dự án
Bảng 17: Bảng phân tích độ nhạy 1 chiều của dự án
Các yếu tố thay đổi
Mức thay đổi
NPV
% Thay đổi
NPV
Mức biến động của NPV khi yếu tố thay đổi 1%
Sản lượng SP :
+Đá
+Gạch block
Giảm 5%
Giảm 5%
Giảm 5%
-1.625.726
574.572
-432.623
-192.1
-67.44
-124.5
-38.48
-13.58
-24.9
Chi phí nguyên vật liệu
Tăng 5%
-342.958,9
-119.43
-23.89
Giá bán sản phẩm :
+Gạch block
+Đá
Giảm 5%
Giảm 5%
Giảm 5%
-1.496.473
-303.370
571.572
-184.8
-117.19
-67.61
-36.96
-23.44
-13.52
Qua bảng phân tích độ nhạy trên ta thấy trong các yếu tố tác động nhiều đến chỉ tiêu NPV thì sản lượng gạch Block là yếu tố có tác động mạnh nhất ( khi sản lượng gạch giảm 1% thì NPV giảm 24.9%), sở dĩ đó là bởi vì gạch block chiếm đa số trong tổng cơ cấu sản phẩm của dự án. Thứ 2 là nhân tố chi phí nguyên vật liệu (chi phí nguyên vật liệu tăng 1%, NPV giảm 23.89%). Do vậy trong quá trình thẩm định, cán bộ thẩm định cần lưu ý tới sự thay đổi của các yếu tố là sản lượng gạch Block và chi phí nguyên vật liệu trước khi ra quyết định cho vay, vì chúng có thể tác động mạnh đến hiệu quả tài chính của dựa án
* Về xác định thời hạn trả nợ, phương thức trả nợ
Cách xác định thời hạn trả nợ, mức thu nợ, cách thức thu nợ cả gốc và lãi phải phù hợp với năng lực sản xuất của khách hàng và tiến độ thực hiện của dự án. Hiện nay ngân hàng thường tiến hành thu đều từng kỳ hay thu luỹ thoái với mong muốn thu công nợ càng nhanh càng tốt. Tuy nhiên trong thời gian đầu các máy móc thiết bị chạy chưa hết công suất, sản phẩm sản xuất ra ở giai đoạn thăm dò thị trường Do đó nếu ngân hàng yêu cầu mức trả nợ cao từ đầu sẽ làm cho dự án chưa đủ khả năng trả, ảnh hưởng đến sản xuất
Ngân hàng không nên chia đều khoản thu gốc cho các kỳ luỹ thoái mà nên căn cứ vào dòng tiền của dự án đồng thời tiến hành thu nợ gốc tăng dần theo thời gian, như vậy sẽ phù hợp với quá trình vận hành kết quả đầu tư. Việc thu lãi cũng cần được tính toán sao cho phù hợp với chu kỳ sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, tránh tình trạng các doanh nghiệp phải vay vốn ngắn hạn để trả lãi ngân hàng
* Đối với nội dung phân tích độ an toàn của dự án thông qua phân tích rủi ro
Nội dung này cho đến nay hầu như vẫn chưa được cán bộ thẩm định đề cập đến trong các báo cáo thẩm định của ngân hàng, đây là một khiếm khuyết rất lớn mà ngân hàng cần sớm khắc phục. Bởi phân tích rủi ro có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong công tác thẩm định dự án. Nó giúp cho cán bộ thẩm định có cái nhìn tổng quan hơn, đầy đủ hơn và đặt dự án vào trong một sự vận động thực tế của nó, từ đó giúp ngân hàng giảm thiểu những tổn thất có thể dự báo trước
Do vậy trong thời gian tới ngân hàng nên coi việc phân tích và quản lý rủi ro là điều kiện cần thiết khi xem xét thẩm định dự án. Trước mắt ngân hàng có thể nghiên cứu áp dụng ngay phương pháp phân tích độ nhạy và phân tích theo kịch bản. Còn trong tương lai, khi ngân hàng đã có hệ cơ sở dữ liệu phong phú, các máy tính và phần mềm hiện đại, có thể áp dụng thêm phương pháp phân tích theo kịch bản
2.2.3. Hoàn thiện công tác tổ chức điều hành
Một trong những nguyên nhân dẫn đến hạn chế trong công tác thẩm định dự án của ngân hàng thời gian qua là chưa có sự chuyên môn hoá trong khâu tổ chức thẩm định. Do đó trong thời gian tới ngân hàng cần có phòng thẩm định riêng, có nhiệm vụ chuyên trách thẩm định các dự án trung và dài hạn, có sự độc lập với phòng tín dụng và quản lý nợ vay. Việc tổ chức bố trí như vậy sẽ giúp cho mỗi cán bộ thẩm định giảm bớt khối lượng công việc, tạo điều kiện cho họ chuyên tâm hơn vào công việc, đồng thời có thời gian để trau dồi thêm nghiệp vụ cho bản thân. Ngân hàng cũng lưu ý tuyển chọn thêm các cán bộ có kinh nghiệm về thẩm định kinh tế-kỹ thuật dự án
Mặt khác ngân hàng nên quy định chi tiết hơn về trách nhiệm cũng như quyền lợi của cá nhân các cán bộ thẩm định. Đồng thời cần thường xuyên rà soát, sắp xếp lại đội ngũ cán bộ, bổ sung cán bộ còn thiếu cho các chi nhánh, thuyên chuyển các cán bộ không đủ khả năng đi làm việc khác
Ngân hàng nên tạo lập một cơ chế phối hợp chặt chẽ hơn trong quá trình thẩm định giữa các bộ phận trong ngân hàng nhằm nâng hiệu quả công việc. Phòng thẩm định cần phối hợp chặt chẽ với phòng khách hàng, phòng thu hồi nợ, phòng tài sảnđể thu thập được các thông tin chính xác về khách hàng, về dự án vay vốn
2.2.4.Chú trọng công tác tuyển chọn, đào tạo đội ngũ cán bộ
Thực tế đã cho thấy con người luôn là yếu tố trung tâm, có ảnh hưởng quyết định đến chất lượng thẩm định dự án đầu tư. Chính con người quyết định sự thu thập thông tin, sử dụng các phương pháp để xử lý và đưa ra quyết định cuối cùng. Do đó để nâng cao chất lượng thẩm định dự án thì trước tiên ngân hàng cần phải nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ về mọi mặt: nhận thức, trình độ chuyên môn, kinh nghiệm công tác, đạo đức nghề nghiệp
* Tuyển chọn nhân sự đầu vào có chất lượng cao
Trong thời gian qua, đa số đội ngũ nhân viên được tuyển chọn vào VPbank đều có trình độ chuyên môn tương đối cao, tuy nhiên trong thời gian tới ngân hàng nên chú ý tiếp tục thực hiện công tác bổ sung, tuyển mới những người có năng lực thực sự vào làm việc. Cán bộ được tuyển chọn cần có sự kết hợp hài hoà giữa năng lực chuyên và tư cách đạo đức. Sau khi tuyển dụng, ngân hàng cần phổ biến để mỗi cán bộ đều nắm bắt được các mục tiêu, các quy định của ngân hàng cũng như các quy định của luật pháp có liên quan, đồng thời cần được hướng dẫn, đào tạo chuyên sâu cho họ về công việc sẽ được giao
Ngân hàng cũng cần có các chính sách thu hút nhân tài vào làm việc lâu dài hoặc mời làm cố vấn hoặc làm cộng tác viên cho các hoạt động của mình
* Đào tạo, trao đổi chuyên môn
Trong qua trình thẩm định dự án, cán bộ thẩm định luôn có xu hướng coi trọng phương diện tài chính hơn các phương diện khác. Điều này phần lớn là do những kiến thức mà họ được trang bị ở trường Đại học còn hạn chế, thông thường họ mới chỉ biết về mặt tài chính dự án, còn việc nghiên cứu thị trường, đánh giá thị trường, đánh giá hiệu quả dự án, các vấn đề liên quan đến kỹ thuật thì ít được đề cập, do đó việc họ lựa chọn phương án tài chính là căn cứ chủ yếu để thẩm định cũng là điều có thể hiểu được.
Tuy nhiên đòi hỏi về mặt chất lượng thẩm định đã dẫn đến sự khập khiễng giữa lý thuyết và thực tế. Bởi vì trong thực tế, quá trình thẩm định đòi hỏi mỗi cán bộ thẩm định phải có kiến thức tổng hợp tương đối cao về: pháp luật, kinh tế, công nghệ- kỹ thuật, thông tin thị trường, thanh toán quốc tế do đó hoàn thiện công tác thẩm định dự án trước hết ngân hàng cần từng bước nâng cao trình độ của các cán bộ thẩm định
Ngân hàng nên mở các lớp đào tạo, tổ chức các buổi hội thảo, mời các chuyên gia về nói chuyện, trao đổi kinh nghiệm với các ngân hàng bạn, tìm nguồn tài liệu cho cán bộ tham khảo Bên cạnh khuyến khích động viên cán bộ tự trau dồi kiến thức, ngân hàng có thể cử những nhân viên có đủ năng lực đi đào tạo ở nước ngoài trong những khoảng thời gian nhất định, từ đó giúp cán bộ có điều kiện học hỏi, bồi dưỡng nâng cao trình độ nghiệp vụ. Lưu ý là để công tác đào tạo đạt được kết quả cao thì quá trình đào tạo này phải được diễn ra thường xuyên và có hệ thống
* Giáo dục về nhận thức, tư cách đạo đức
VPbank cần thường xuyên giáo dục về ý thức, đạo đức và kỷ luật nghề nghiệp cho các cán bộ của mình để họ nhận thức được vai trò và ý nghĩa to lớn của công tác thẩm định dự án, đồng thời có ý thức tự giác, trung thực và tinh thần trách nhiệm cao hơn
Ngân hàng cũng nên có chế độ đãi ngộ xứng đáng đối với nhân viên, kịp thời khen thưởng về vật chất lẫn tinh thần đối với các cán bộ hoàn thành tốt nhiệm vụ, đồng thời phát hiện ra những biểu hiện sa sút về đạo đức để kịp thời uốn nắn. Xử lý nghiêm minh đối với các cán bộ có hành vi tiêu cực, vô tình hay cố ý làm trái các quy định chung dẫn đến những thiệt hại cho ngân hàng
Việc làm tốt công tác thẩm định không chỉ phụ thuộc vào bản thân mỗi cán bộ thẩm định mà còn phải có sự kiểm tra, giám sát thường xuyên của ngân hàng. Do vậy ngân hàng cũng phải tăng cường công tác thanh tra, kiểm soát, lựa chọn và đào tạo các cán bộ thanh tra có năng lực, có phẩm chất tốt và có chuyên môn nghiệp vụ vững vàng
2.2.5. Nâng cao chất lượng hoạt động của hệ thống thông tin
Thông tin là căn cứ quan trọng để thẩm định dự án, do đó nâng cao chất lượng công tác thu thập và xử lý thông tin sẽ góp phần hoàn thiện nghiệp vụ thẩm định. Nguồn thông tin càng chính xác và phong phú thì kết quả thẩm định càng có độ chính xác cao. Do đó VPBank một mặt cần gia tăng các nguồn cung cấp thông tin, mặt khác cần tìm cách thu thập và xử lý thông tin một cách có hiệu quả
Đối với những thông tin liên quan dự án của doanh nghiệp, cán bộ thẩm định không chỉ căn cứ vào các tài liệu khách hàng gửi đến, mà phải trực tiếp phỏng vấn người đại diện giao dịch của doanh nghiệp để chất vấn các thông tin không chính xác. Đồng thời kết hợp với việc tham quan khảo sát cơ sở sản xuất, văn phòng, nhà xưởng nhằm điều tra năng lực sản xuất và quản lý của doanh nghiệp. Cán bộ thẩm định có thể tham khảo các thông tin từ bạn hàng, đối tác, các nhà cung cấp của doanh nghiệp để đánh giá được tình hình sản xuất kinh doanh, tình hình thanh toán cũng như khả năng cung cấp đầu vào và tiêu thụ đầu ra của dự án. Ngoài ra các nguồn thông tin cần thiết có thể được thu thập từ trung tâm phòng ngừa rủi ro thuộc NHNN, từ các tổ chức tín dụng mà ngân hàng có quan hệ, từ các cơ quan quản lý kinh tế, các chuyên gia kinh tế kỹ thuật, các thông tin đa dạng từ sách báo, tài liệu chuyên ngành có liên quan
Tuy nhiên việc thu thập các nguồn thông tin trên nhiều khi khá khó khăn do phạm vi thu thập rộng, đòi hỏi tốn kém về thời gian và chi phí, các kênh cung cấp thông tin không đầy đủ và khó tiếp cận, trong khi cán bộ thẩm định bị giới hạn về thời gian. Do đó các cán bộ thẩm định cần lưu ý thường xuyên thu thập và lưu trữ thông tin một cách khoa học. Cán bộ thẩm định cần cập nhật các quy định của nhà nước liên quan đến lĩnh vực đầu tư ( như : quy chế đấu thầu, quy định về tổng dự toán vốn đầu tư xây dựng cơ bản, về chế độ tài chính đối với từng loại hình doanh nghiệp), các thông tin về thị trường giá cả Đồng thời tiến hành lưu trữ toàn bộ các thông tin vào máy tính để dễ dàng quản lý thay vì lưu trữ dưới dạng văn bản như hiện nay
Mặt khác, để hoàn thiện hệ thống thu thập và xử lý thông tin nhằm phục vụ cho công tác thẩm định có hiệu quả hơn, ngân hàng nên thiết lập một trung tâm thông tin riêng. Trung tâm này có nhiệm vụ chuyên nghiên cứu thu thập, lưu trữ và cung cấp thông tin cho phòng thẩm định, hỗ trợ cho các cán bộ thẩm định trong việc tìm kiếm các thông tin cần thiết, giảm bớt thời gian ra quyết định. Ngân hàng cũng cần sớm xây dựng một hệ cơ sở dữ liệu riêng cho mình
2.2.6. Tăng cường đầu tư cho hệ thống trang thiết bị
Để đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của nền kinh tế hiện đại nói chung và đòi hỏi của ngành ngân hàng nói riêng, VPBank cần tăng cường đầu tư đổi mới trang thiết bị phục vụ cho công tác thẩm định sao cho mỗi cán bộ đều được trang bị một máy vi tính và toàn bộ hệ thống được nối mạng LAN cũng như mạng ADSL
Có thể nói thẩm định dự án là một công việc khá phức tạp, khối lượng công việc lớn đòi hỏi nhiều thời gian và công sức của cán bộ thẩm định. Bởi vậy việc ứng dụng khoa học kỹ thuật, công nghệ hiện đại trong công tác thẩm định là rất cần thiết, có thể giúp cho mỗi cán bộ thẩm định tiết kiệm được nhiều thời gian và sức lực. Do đó trong tương lai ngân hàng cần đẩy mạnh ứng dụng các phần mềm trong phân tích, dự báo như Crustal Ball kết hợp với Excell hoặc đặt thiết kế một chương trình hỗ trợ nghiệp vụ thẩm định từ các công ty trong và ngoài nước
2.2.7.Các giải pháp khác
Ngân hàng nên lập ra quỹ thẩm định, bởi thẩm định dự án là một công việc phức tạp, không phải một sớm một chiều mà giải quyết được. Để công tác thẩm định đạt được hiệu quả cao, ngân hàng phải tổ chức gặp gỡ khách hàng, thường xuyên xuống cơ sở để kiểm tra. Thẩm định không chỉ khống chế ở một số giai đoạn kiểm tra trước mà cả trong và sau cho vay. Như vậy quá trình này diễn ra liên tục, gắn liền với quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Từ thực tế này, VPbank nên có một quỹ thẩm định riêng nhằm giảm bớt những khó khăn về chi phí cho các cán bộ thẩm định, đồng thời nó cũng góp phần đào tạo cán bộ, tăng cường trang bị cơ sở vật chất, ứng dụng tin học trong quá trình thẩm định
2.3. Một số kiến nghị
2.3.1.Với nhà nước và các Bộ ngành có liên quan
Thứ nhất, Nhà nước cần công bố rộng rãi quy hoạch tổng thể về phát triển kinh tế xã hội theo ngành, vùng lãnh thổ và theo từng thời kỳ. Quy hoạch này sẽ giúp cho các ngân hàng thương mại có cơ sở để bố trí kế hoạch tín dụng để vừa đảm bảo được nhu cầu vốn đầu tư của doanh nghiệp phục vụ mục tiêu phát triển kinh tế, vừa đảm bảo về mặt lợi ích cho các ngân hàng
Thứ hai, Nhà nước cần không ngừng hoàn thiện hệ thống pháp luật và các cơ chế chính sách
Nhà nước cần đưa ra các chính sách phát triển kinh tế hợp lý, tránh những đột biến xuất hiện làm ảnh hưởng xấu đến hoạt động kinh doanh của các tổ chức tín dụng nói chung và các ngân hàng nói riêng, gây thiệt hại cho ngân hàng, chủ đầu tư và toàn thể nền kinh tế
Hoàn thiện hệ thống pháp luật cho hoạt động của ngân hàng nói chung và quy chế thẩm định dự án đầu tư nói riêng. Nhà nước cần khẩn trương hoàn thiện cơ chế chính sách và hệ thống các văn bản pháp chế nhằm có đủ các điều kiện cần thiết cho việc thực hiện luật ngân hàng, đảm bảo cho các ngân hàng hoạt động hiệu quả, năng động và an toàn
Chính phủ cũng cần sửa đổi pháp lệnh hợp đồng kinh tế, điều chỉnh một số vấn đề liên quan đến hoạt động tíndụng ngân hàng và những vấn đề phát sinh do chưa có quy định cụ thể
Chính phủ cũng cần có văn bản hướng dẫn cụ thể trách nhiệm của các bên vớikết quả thẩm định trong nội dung dự án, quy định từng bước về từng bước mở rộng quyền và trách nhiệm thẩm định đối với những đối tượng thường xuyên liên quan đến lập và thẩm định dự án như Ngân hàng, Bộ thương mại, Bộ Kế hoạch đầu tư
Thứ ba, Nhà nước cần có quy định buộc các doanh nghiệp phải thực hiện nghiêm túc chế độ hạch toán kế toán, tạo điều kiện cho các ngân hàng trong việc kiểm tra, giám sát tình hình của doanh nghiệp, qua đó có thể phòng ngừa rủi ro. Mặt khác cần đẩy mạnh hoạt động của kiểm toán nhà nước và kiểm tóan độc lập trong nền kinh tế, đặc biệt là kiểm toán độc lập vì đây là nơi cung cấp thông tin cho công tác thẩm định tương đối chính xác. Để nâng cao hoạt động của kiểm toán trước hết cần có sự thống nhất giữa các công ty kiểm toán Việt Nam, tiêu chuẩn hoá các chuẩn mực kiểm toán sao cho phù hợp với những chuẩn mực quốc tế. Đặc biệt quốc hội nên có quy định các báo cáo tài chính phải được xác nhận bởi của cơ quan kiểm toán
Thứ tư, Nhà nước cần đẩy mạnh các doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả và thực sự cần thiết, tạo điều kiện cho đầu tư có trọng điểm và đem lại hiệu quả cao. Cần đẩy mạnh tiến trình cổ phần hoá cá doanh nghiệp Nhà nước để nâng cao tính trách nhiệm, tự chủ và chất lượng quản lý các doanh nghiệp Nhà nước
Thứ năm, các Bộ chủ quản như Bộ công nghiệp, nông nghiệp, tài chính, tổng cục thống kêcần phối hợp trong việc thẩm định và phê duyệt các dự án. Bên cạnh đó, các Bộ cần hệ thống hoá thông tin liên quan đến lĩnh vực mà mình quản lý, đồng thời hàng năm công bố công khai các thông tin này để các ngân hàng thương mại cũng như chủ đầu tư dễ dàng thu thập thông tin
2.3.2. Với ngân hàng nhà nước và các ngân hàng thương mại khác
Hệ thống ngân hàng đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế và đặc biệt trước sự phát triển của nền kinh tế thị trường. Để đẩy mạnh việc sắp xếp, kiện và củng cố lại các ngân hàng này theo hướng phát triển, an toàn và ổn định thì vai trò chủ đạo của ngân hàng nhà nước là rất cần thiết. Do đó ngân hàng nhà nước cần có những chính sách phù hợp nhằm thúc đẩy hoạt động của các ngân hàng nói chung và nâng cao chất lượng thẩm định dự án đầu tư nói riêng
Ngân hàng nhà nước cần ban hành nội dung quy trình thẩm định dự án thống nhất trên cơ sở thẩm định dự án của các cơ quan khoa học, Bộ kế hoạch đầu tư, Bộ xây dựng, Bộ khoa học môi trường, của các ngân hàn sao cho phù hợp với điều kiện nước ta, đồng thời hoà nhập với thông lệ quốc tế
Ngân hàng nhà nước cần tăng cường hỗ trợ về chuyên môn nghiệp vụ cho các ngân hàng bằng cách tổ chức các lớp huấn luyện đào tạo nghiệp vụ cho các cán bộ ngành, cần chú trọng kỹ năng thực hành bằng phầm mềm thẩm định trên máy tính với các ví dụ thực tiễn. Hàng năm Ngân hàng nhà nước nên tổ chức các hội nghị tổng kết đầu tư của các ngân hàng thương mại vào từng lĩnh vực, ngành nghề của nền kinh tế, từ đó rút ra bài học kinh nghiệm và góp phần định hướng đầu tư trong thời gian tới
Nâng cao hiệu quả hoạt động của trung tâm phòng ngừa rủi ro và trung tâm tín dụng ngân hàng để cung cấp các nguồn thông tin hữu ích, đồng thời đảm bảo an toàn cho hoạt động của hệ thống ngân hàng. Ngân hàng nhà nước nên mở rộng phạm vi cung cấp thông tin của trung tâm tín dụng (CIC), đồng thời cung cấp thêm các thông tin kinh tế- kỹ thuật có liên quan cho công tác thẩm định
Công tác thanh tra giám sát cần được đẩy mạnh nhằm kịp thời phát hiện những sai sót trong công tác tín dụng nhất là công tác thẩm định để hạn chế những rủi ro
Ngoài ra các ngân hàng thương mại cũng cần tăng cường sự hợp tác trong việc thu thập và xử lý thông tin, trao đổi kinh nghiệm để phục vụ cho công tác thẩm định dự án. Bởi vì mỗi ngân hàng đều có những thế mạnh riêng nên sự hợp tác này rất có ý nghĩa, nhất là đối với các dự án đồng tài trợ
2.3.3. Kiến nghị với chủ đầu tư
Để tạo điều kiện thuận lợi cho ngân hàng trong việc thẩm định dự án, trước hết các doanh nghiệp nên chọn lĩnh vực, ngành nghề kinh doanh phù hợp với khả năng tài chính và năng lực quản lý của mình
Các dự án đầu tư xin vay vốn cần đáp ứng đầy đủ các yêu cầu về tính hợp pháp, phù hợp với quy hoạch phát triển của từng ngành từng vùng để ngân hàng không phải mất thời gian và chi phí để thẩm định những dự án không được phép hoạt độn. Khi xem xét để đi đến quyết định đầu tư cần nghiên cứu kỹ về các khía cạnh thị trường, kỹ thuật, tài chính Các chủ đầu tư cần nhận thức đúng vai trò của công tác thẩm định dự án trước khi ra quyết định đầu tư để có những dự án thực sự có hiệu quả, tránh coi việc lập dự án chỉ là hình thức để xin vay
Các luận chứng kinh tế kỹ thuật, các báo cáo tài chính và hồ sơ tài liệu có liên quan được gửi lên ngân hàng cần đảm bảo tính trung thực, chính xác để kết quả thẩm định được chính xác. Muốn vậy các chủ đầu tư cần có sự hợp tác cao với ngân hàng. Các chủ doanh nghiệp cần biết rằng, khi công tác thẩm định được tiến hành tốt, ngân hàng ra được những quyết định đúng đắn thì sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho công cuộc đầu tư của doanh nghiệp, đồng thời đảm bảo khả năng thu hồi vốn của ngân hàng. Như vậy cả ngân hàng và doanh nghiệp đều có lợi
2.3.1. Kiến nghị với VPBank
Ngân hàng nên thường xuyên điều các đoàn kiểm tra giám sát hỗ trợ hoạt động thẩm định tại ngân hàng, cử các cán bộ thẩm định có kinh nghiệm và lâu năm, các chuyên gia thuộc trung tâm đào tạo của VPBank đến tham tán và đóng góp xây dựng ý kiến cho công tác thẩm định tại ngân hàng. Mặt khác ngân hàng cũng cần có chính sách khen thưởng đãi ngộ xứng đáng với các cán bộ thẩm định
Bên cạnh đó ngân hàng cần tích cực tổ chức các hội nghị tổng kết kinh nghiệm thẩm định, các hội thi cán bộ thẩm định giỏi nghiệp vụ toàn ngân hàng nhằm tăng cường sự hiểu biết và phối hợp giữa các chi nhánh và các đơn vị trực thuộc
Ngân hàng không nên ngồi một chỗ mà nên chủ động tìm kiếm các dự án đầu tư có hiệu quả để cho vay, chủ động tiếp cận tìm hiểu nhu cầu đầu tư của doanh nghiệp, từ đó tư vấn cho doanh nghiệp có phương hướng đầu tư có hiệu quả căn cứ vào định hướng của nhà nước và kế hoạch cho vay của ngân hàng. Mặt kh c ngân hàng sẽ thẩm định luôn tư cách pháp lý và tình hình tài chính doanh nghiệp. Việc cải tiến như vậy sẽ tiết kiệm thời gian và chi phí cho cả ngân hàng và doanh nghiệp trong việc thẩm định
KẾT LUẬN
Công tác thẩm định dự án đầu tư đóng vai trò rất quan trọng đối với mỗi công cuộc đầu tư nói chung và với hoạt động cho vay của mỗi ngân hàng nói riêng. Nó tạo ra tiền đề để cho các quyết định đầu tư hay cho vay chính xác và có hiệu quả. Vì vậy việc thẩm định dự án cần được thực hiện một cách nghiêm túc và phải tiến hành liên tục ở tất cả các khâu của qúa trình đầu tư hay ở các giai đoạn trước, trong và sau cho vay nhằm hạn chế tối đa các rủi ro có thể xảy ra và đem lại các dự án thực sự có hiệu quả cho xã hội
Qua thời gian thực tập và tìm hiểu tại ngân hàngthương mại cổ phần các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, em đã hoàn thành luận văn tốt nghiệp của mình. Song do khả năng và kinh nghiệm còn hạn chế nên trong nội dung phân tích cũng như các kiến nghị, giải pháp còn nhiều thiếu sót. Vì vậy em rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của các thầy cô và các bạn để luận văn của em được hoàn thiện hơn
Một lần nữa em xin cảm ơn cô Nguyễn Thị Ái Liên- Giáo viên hướng dẫn trực tiếp và tập thể các cán bộ của ngân hàng VPBank đã tận tình giúp đỡ em trong qúa trình thực tập và giúp em hoàn thành luận văn này.
MỤC LỤC
CHƯƠNG I: THỰC TRẠNG VỀ CÔNG TÁC THẨM ĐỊNH DỰ ÁN ĐẦU TƯ TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN CÁC DOANH NGHIỆP NGOÀI QUỐC DOANH 1
I.KHÁI QUÁT CHUNG VỀ NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN CÁC DOANH NGHIỆP NGOÀI QUỐC DOANH 1
1.1. Quá trình hình thành và phát triển của ngân hàng 1
1.2. Sơ đồ tổ chức, cơ cấu chức năng các phòng ban 3
1.3. Kết quả hoạt động kinh doanh của ngân hàng trong một số năm gần đây 6
II.THỰC TRẠNG CÔNG TÁC THẨM ĐỊNH DỰ ÁN ĐẦU TƯ TẠI NGÂN HÀNG 10
2.1. Quy trình thẩm định dự án 10
2.2. Phương pháp thẩm định dự án đầu tư tại ngân hàng 12
2.3. Nội dung thẩm định dự án tại ngân hàng 13
2.2.1.Thẩm định hồ sơ vay vốn 13
2.2.2. Thẩm định khách hàng vay vốn 16
2.2.3. Thẩm định dự án đầu tư : 19
2.2.3.1. Thẩm định phương diện thị trường của dự án 19
2.2.3.3. Thẩm định về phương diện kỹ thuật 22
2.2.3.4. Thẩm định về phương diện tài chính 23
2.2.3.5. Thẩm định về phương diện tổ chức quản lý, vận hành công trình 31
2.2.3.6. Thẩm định về phương diện môi trường 31
2.2.3.7. Thẩm định về phương diện rủi ro của dự án 31
2.2.4. Thẩm định các biện pháp bảo đảm tiền vay 32
2.4. Tình hình thẩm định dự án đầu tư của ngân hàng thương mại cổ phần các doanh nghiệp ngoài quốc doanh thời gian qua 34
III. VÍ DỤ MINH HỌA CHO CÔNG TÁC THẨM ĐỊNH DỰ ÁN TẠI NGÂN HÀNG: " DỰ ÁN ĐẦU TƯ XÂY DỰNG NHÀ MÁY SẢN XUẤT ĐÁ XẺ VÀ ĐÁ TRANG TRÍ NỘI THẤT " 35
3.1. Ví dụ 35
3.2. Đánh giá công tác thẩm định của ngân hàng trong " dự án xây dựng nhà máy sản xuất đá xẻ và đá granite" 52
3.2.1. Những mặt đạt được 52
3.2.2. Những mặt còn hạn chế 53
IV. Đánh giá công tác thẩm định dự án đầu tư của ngân hàng 54
4.1. Những mặt đạt được: 54
4.2. Những mặt còn hạn chế 58
4.3. Nguyên nhân của những tồn tại trong công tác thẩm định của ngân hàng 66
4.3.1. Nguyên nhân chủ quan 66
4.3.2. Nguyên nhân khách quan 68
CHƯƠNG II: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN CÔNG TÁC THẨM ĐỊNH DỰ ÁN ĐẦU TƯ TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN CÁC DOANH NGHIỆP NGOÀI QUỐC DOANH 71
2.1. Định hướng cho công tác thẩm định của ngân hàng trong thời gian tới 71
2.1.1. Nhu cầu thẩm định dự án tại ngân hàng 71
2.1.2.Định hướng cho công tác thẩm định dự án đầu tư 73
2.2. Các giải pháp nhằm hoàn thiện công tác thẩm định dự án đầu tư tại ngân hàng 73
2.2.1. Tăng cường nhận thức về vị trí, vai trò của công tác thẩm định 73
2.2.2. Không ngừng hoàn thiện nội dung và phương pháp thẩm định 74
2.2.3. Hoàn thiện công tác tổ chức điều hành 80
2.2.4.Chú trọng công tác tuyển chọn, đào tạo đội ngũ cán bộ 80
2.2.5. Nâng cao chất lượng hoạt động của hệ thống thông tin 82
2.2.6. Tăng cường đầu tư cho hệ thống trang thiết bị 84
2.2.7.Các giải pháp khác 84
2.3. Một số kiến nghị 85
2.3.1.Với nhà nước và các Bộ ngành có liên quan 85
2.3.2. Với ngân hàng nhà nước và các ngân hàng thương mại khác 86
2.3.3. Kiến nghị với chủ đầu tư 87
2.3.4. Kiến nghị với VPBank 88
KẾT LUẬN 89
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 4909.doc