Cơ quan quyền lực cao nhất của VDB là Hội đồng quản lý do Thủ tướng Chính phủ thành lập và bổ nhiệm, bao gồm: thành viên của Bộ Tài chính; thành viên Bộ Kế hoạch & Đầu tư; thành viên Ngân hàng Nhà nước và thành viên của Ngân hàng phát triển.
Hoạt động dưới Hội đồng quản lý là Bộ máy điều hành và Ban kiểm soát. Giúp việc cho Bộ máy điều hành là các Ban như: Ban Kế hoạch Tổng hợp; Ban Tín dụng Đầu tư; Ban Hỗ trợ sau đầu tư và Bảo lãnh; Ban Quản lý vốn ủy thác; Ban Tín dụng xuất khẩu; Ban Quản lý vốn nước ngoài; Ban Quan hệ quốc tế; Ban Thẩm định; Ban Tài chính kế toán, kho quỹ; Ban Tổ chức cán bộ; Ban pháp chế; Văn phòng đại diện; Sở giao dịch I; Sở giao dịch II; Văn phòng đại diện tại Tp Hồ Chí Minh.Ngoài ra, còn có các Trung tâm Đào tạo và nghiên cứu; Trung tâm Công nghệ thông tin; Trung tâm xử lý nợ và Tạp chí Hỗ trợ phát triển.
56 trang |
Chia sẻ: Dung Lona | Lượt xem: 1124 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng và giải pháp hoàn thiện phân tích tài chính doanh nghiệp để phục vụ hoạt động cho vay tại Ngân hàng phát triển Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Quan hệ, vị thế trong đàm phán với khách hàng: Gắn bó, có khả năng đàm phán các điều khoản và điều kiện: 2 điểm; Ít có khả năng đàm phán các điều khoản, điều kiện: 1 điểm; Chịu áp lực của khách hàng về các điều khoản mua hàng: 0 điểm.
3. Uy tín với nhà nhập khẩu nước ngoài
3.1 Doanh thu từ hoạt động xuất khẩu: Chiếm hơn 70% tổng doanh thu: 3 điểm; Từ 50% - 70%: 2 điểm; Từ 20 - 50%: 1 điểm; Dưới 20%: 0 điểm
3.2. Việc giao hàng cho khách hàng: Luôn đầy đủ, đúng hạn: 2 điểm; Có lần giao hàng muộn nhưng do nguyên nhân khách quan: 1 điểm; Có lần giao hàng muộn do cố tình: 0 điểm
3.3. Quan hệ, vị thế trong đàm phán với khách hàng: Gắn bó, có khả năng đàm phán các điều khoản và điều kiện: 2 điểm; Ít có khả năng đàm phán các điều khoản, điều kiện: 1 điểm; Chịu áp lực của khách hàng về các điều khoản mua hàng: 0 điểm.
Căn cứ tổng số điểm của từng khách hàng, việc xếp hạng nội bộ khách hàng được thực hiện như sau:
Tổng điểm
Xếp hạng
Từ 90 đến 100
A
Từ 75 đến dưới 90
B
Từ 60 đến dưới 75
C
Từ 50 đến dưới 60
D
Dưới 50
E
1.2.3.2 Các chỉ tiêu phân tích
* Nhóm chỉ tiêu về khả năng thanh toán
Nhiều doanh nghiệp bị rơi vào tình trạng phá sản vì thiếu vốn, vì vậy cần phải kiểm tra khả năng của doanh nghiệp có thể hoàn trả được các khoản nợ thương mại và hoàn trả được vốn vay hay không là một trong những cơ sở đánh giá sự ổn định, vững vàng về tài chính của doanh nghiệp, thông qua các chỉ tiêu:
- Khả năng thanh toán tổng quát
Khả năng thanh toán tổng quát
=
Tổng tài sản
Nợ phải trả
Hệ số này cho biết khả năng thanh toán các khoản nợ của doanh nghiệp. Hệ số này càng lớn thì khả năng thanh toán của doanh nghiệp càng tốt. Hệ số thanh toán nhỏ hơn giới hạn cho phép cho thấy sự thiếu hụt trong khả năng thanh toán, sẽ ảnh hưởng lớn đến kế hoạch trả nợ của đơn vị.
- Khả năng thanh toán nợ ngắn hạn
Khả năng thanh toán nợ ngắn hạn
=
TSLĐ & ĐTNH
Nợ ngắn hạn
Hệ số này cho biết khả năng hoàn trả các khoản nợ ngắn hạn của doanh nghiệp bằng tài sản lưu động và đầu tư ngắn hạn hiện có. Hệ số này càng lớn thì khả năng hoàn trả các khoản nợ ngắn hạn càng tốt. Ngược lại, khi hệ số này ở mức thấp sẽ cảnh báo khả năng thanh toán các khoản nợ ngắn hạn của doanh nghiệp gặp khó khăn, tiềm ẩn rủi ro không trả được nợ đúng hạn.
- Khả năng thanh toán nhanh
Khả năng thanh toán nhanh
=
Vốn bằng tiền, các khoản tương đương tiền và các khoản đầu tư ngắn hạn
Nợ ngắn hạn
Hệ số này phản ánh khả năng thanh toán các khoản nợ ngắn hạn của doanh nghiệp bằng tiền (tiền mặt, tiền gửi ngân hàng, tiền đang chuyển) và các chứng khoán ngắn hạn có thể chuyển đổi nhanh thành tiền mặt. Hệ số này cho biết khả năng huy động nguồn vốn bằng tiền để trả nợ vay ngắn hạn trong khoảng thời gian gần như tức thời. Hệ số càng lớn thì khả năng thanh toán nhanh các khoản nợ ngắn hạn càng tốt. Hệ số thấp khẳng định trong trường hợp rủi ro bất ngờ thì khả năng thanh toán các khoản nợ vay ngắn hạn thấp và không có khả năng trả nợ ngay các khoản nợ vay ngắn hạn.
* Nhóm chỉ tiêu về tính ổn định và khả năng tự tài trợ
- Hệ số thích ứng dài hạn của TSCĐ
Hệ số thích ứng dài hạn của TSCĐ
=
Tài sản dài hạn
Vốn chủ sở hữu + Nợ dài hạn
Hệ số này phản ánh việc sử dụng vốn hợp lý của doanh nghiệp, hệ số này không được vượt quá 100%. Nếu hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp vẫn đang ổn định, hệ số này càng nhỏ càng an toàn, nếu hệ số này lớn hơn 100% cho thấy doanh nghiệp đã đầu tư tài sản dài hạn bằng những nguồn vốn có kỳ hạn ngắn, ví dụ như vay ngắn hạn, dòng tiền sẽ trở nên không ổn định, tiềm ẩn sự bất ổn định trong điều hành tài chính của doanh nghiệp
- Hệ số tài sản dài hạn trên vốn chủ sở hữu
Hệ số tài sản dài hạn trên vốn chủ sở hữu
=
Tài sản dài hạn
Vốn chủ sở hữu
Hệ số này cho thấy mức độ ổn định của việc đầu tư tài sản bằng nguồn vốn chủ sở hữu, những khoản đầu tư vào TSCĐ có thể được tái tạo như mong muốn từ vốn chủ sở hữu vì những khoản đầu tư như vậy thường cần một khoảng thời gian dài để tái tạo, hệ số này càng nhỏ càng an toàn, phản ánh sự chủ động định đoạt về tài sản của doanh nghiệp.
- Hệ số nợ
Hệ số nợ
=
Nợ phải trả
Vốn chủ sở hữu
Hệ số này cho thấy khả năng thanh toán nợ bằng nguồn vốn chủ sở hữu, hệ số này càng nhỏ thì giá trị của vốn chủ sở hữu càng lớn vì nguồn vốn chủ sở hữu là nguồn vốn không phải hoàn trả, cho thấy khả năng tự chủ về tài chính của doanh nghiệp càng tốt. Tuy nhiên nếu hệ số này càng cao thì có một khả năng lớn là doanh nghiệp đang không thể hoàn trả các khoản nợ theo điều kiện tài chính thắt chặt hoặc có sự kém cỏi trong quản lý. Trong trường hợp giải thể doanh nghiệp, hệ số này cho biết mức độ được bảo vệ của chủ nợ.
- Hệ số vốn chủ sở hữu
Hệ số vốn chủ sở hữu
=
Vốn chủ sở hữu
Tổng nguồn vốn
Hệ số này phản ánh khả năng tự chủ về tài chính của doanh nghiệp trong hoạt động SXKD. Hệ số này cao thể hiện năng lực tự chủ tài chính cao và ngược lại.
- Đánh giá sự hợp lý trong việc bố trí cơ cấu tài sản, nguồn vốn của khách hàng:
+ Tỷ suất đầu tư vào TSCĐ = TSCĐ/Tổng tài sản (%)
+ Tỷ suất đầu tư vào TSLĐ = TSLĐ/Tổng tài sản (%)
Các chỉ số này cho biết tỷ trọng đầu tư vào các loại tài sản của doanh nghiệp, xu hướng biến động tổng tài sản qua các kỳ báo cáo, tính hợp lý trong việc bố trí về cơ cấu tài sản của doanh nghiệp tùy theo đặc điểm hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
Bên cạnh đó cán bộ tín dụng cần phải so sánh đánh giá việc tăng giảm nợ ngắn hạn, nợ dài hạn có tương ứng với việc tăng giảm tài sản cố định, tài sản lưu động hay không, từ đó đánh giá việc bố trí cơ cấu nguồn vốn dài hạn và ngắn hạn có hợp lý không.
* Nhóm chỉ tiêu về hiệu quả sử dụng vốn và khả năng sinh lời
- Hiệu quả sử dụng tài sản
Hiệu quả sử dụng tài sản
=
Doanh thu
Tổng tài sản
Hệ số này phản ánh tính năng động của doanh nghiệp, cho biết tổng vốn đầu tư vào tài sản được chuyển đổi bao nhiêu lần thành doanh thu. Nếu hệ số này thấp, có nghĩa là vốn đang không được sử dụng hiệu quả, có khả năng doanh nghiệp đang thừa hàng tồn kho, sản phẩm hàng hóa không tiêu thụ được hoặc tài sản nhàn rỗi hoặc vay tiền quá nhiều so với nhu cầu vốn thực sự.
- Vòng quay hàng tồn kho (vòng/năm)
Vòng quay hàng tồn kho
=
Giá vốn hàng bán
Hàng tồn kho bình quân
Vòng quay hàng tồn kho càng lớn khẳng định doanh nghiệp sử dụng vốn lưu động có hiệu quả, góp phần nâng cao tính năng động trong SXKD của doanh nghiệp. Vòng quay thấp là do doanh nghiệp lưu giữ quá nhiều hàng tồn kho, dòng tiền sẽ giảm đi do vốn kém hoạt động và gánh nặng trả lãi tăng lên, tốn kém chi phí lưu giữ và rủi ro khó tiêu thụ do không phù hợp với nhu cầu tiêu dùng hoặc thị trường kém đi.
Vòng quay hàng tồn kho của các doanh nghiệp có quy mô lớn có xu hướng cao hơn doanh nghiệp có quy mô nhỏ. Riêng các doanh nghiệp thuộc lĩnh vực thương mại dịch vụ thì vòng quay hàng tồn kho có xu hướng càng lớn khi doanh nghiệp có quy mô hoạt động càng nhỏ.
- Kỳ thu tiền bình quân
Kỳ thu tiền bình quân
=
Các khoản phải thu ngắn hạn bình quân
x
360
Doanh thu thuần
Kỳ thu tiền bình quân đánh giá thời gian bình quân thực hiện các khoản phải thu của doanh nghiệp. Kỳ thu tiền bình quân phụ thuộc vào quy mô của doanh nghiệp và đặc thù của từng ngành nghề SXKD. Kỳ thu tiền bình quân của các doanh nghiệp lớn sẽ có xu hướng nhỏ hơn. Kỳ thu tiền bình quân càng nhỏ thì vòng quay của các khoản phải thu càng nhanh và càng khẳng định hiệu quả sử dụng nguồn vốn của doanh nghiệp càng cao.
- Nhu cầu vốn lưu động thường xuyên = Tồn kho + Các khoản phải thu - Nợ ngắn hạn
Chỉ tiêu này cho thấy nhu cầu về vốn lưu động thường xuyên của doanh nghiệp trong năm. Chỉ tiêu càng lớn cho thấy nhu cầu về vốn lưu động của doanh nghiệp càng lớn và ngược lại.
- Vòng quay vốn lưu động
Vòng quay vốn lưu động
=
Doanh thu thuần
TSLĐ và ĐTNH bình quân
Tỷ lệ này cho biết vốn lưu động được chuyển bao nhiều lần thành doanh thu. Tỷ lệ này càng cao chứng tỏ đồng vốn được sử dụng càng hiệu quả. Ngược lại tỷ lệ này thấp đi có thể là doanh nghiệp sử dụng vốn kém hiệu quả (tài sản nhàn rỗi, thừa hàng tồn kho, vay quá nhiều tiền so với nhu cầu thực sự)
- Lợi nhuận trước thuế
Ngân hàng phát triển Việt Nam có thể từ chối cho vay khi doanh nghiệp bị thua lỗ trong nhiều năm.
- Tỷ suất lợi nhuận trên tổng vốn sử dụng
Tỷ suất lợi nhuận trên tổng vốn sử dụng
=
Tổng lợi nhuận trước thuế
Tổng nguồn vốn bình quân
- Tỷ suất lợi nhuận thuần từ hoạt động kinh doanh trên tổng vốn sử dụng
Tỷ suất lợi nhuận thuần từ hoạt động kinh doanh trên tổng vốn sử dụng
=
Tổng lợi nhuận thuần
Tổng nguồn vốn bình quân
- Tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu
Tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu
=
Tổng lợi nhuận trước thuế
Vốn chủ sở hữu
- Tỷ suất lợi nhuận thuần từ hoạt động kinh doanh trên vốn chủ sở hữu
Tỷ suất lợi nhuận thuần từ hoạt động kinh doanh trên vốn chủ sở hữu
=
Tổng lợi nhuận thuần
Vốn chủ sở hữu
- Tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu
Tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu
=
Tổng lợi nhuận trước thuế
Doanh thu
Các chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận trên là những chỉ tiêu đánh giá tổng quát về tình hình tài chính và hiệu quả hoạt động SXKD của doanh nghiệp.
Các tỷ suất này càng lớn thì doanh nghiệp SXKD càng có hiệu quả, ngược lại, cho thấy doanh nghiệp đang gặp khó khăn trong hoạt động SXKD, cảnh báo tiềm ẩn rủi ro, đòi hỏi doanh nghiệp phải có biện pháp khắc phục.
* Nhóm chỉ tiêu về sức tăng trưởng
- Tỷ lệ tăng trưởng doanh thu
Tỷ lệ tăng trưởng doanh thu
=
Doanh thu năm sau
-
1
Doanh thu năm trước
- Tỷ lệ tăng trưởng doanh thu từ hoạt động kinh doanh chính
Tỷ lệ tăng trưởng doanh thu từ hoạt động kinh doanh chính
=
Doanh thu từ hoạt động kinh doanh chính năm sau
-
1
Doanh thu từ hoạt động kinh doanh chính năm trước
Đây là các tỷ số quan trọng phản ánh mức độ tăng trưởng về doanh thu của doanh nghiệp. Nếu so với chỉ tiêu lạm phát mà chỉ tiêu tăng trưởng doanh thu tăng mà lạm phát giảm hoặc không tăng thì mức độ tăng trưởng theo chiều hướng tốt, số lượng sản phẩm hàng hóa tiêu thụ tăng và ngược lại. Nếu so với mức độ tăng trưởng thị trường mà chỉ tiêu tăng trưởng doanh thu nhỏ hơn thì có nghĩa doanh nghiệp đang gặp khó khăn về khả năng cạnh tranh và thị phần trên thị trường.
- Tỷ lệ tăng trưởng lợi nhuận
Tỷ lệ tăng trưởng lợi nhuận
=
Tổng lợi nhuận năm sau
-
1
Tổng lợi nhuận năm trước
- Tỷ lệ tăng trưởng lợi nhuận thuần từ hoạt động kinh doanh chính
Tỷ lệ tăng trưởng lợi nhuận thuần từ hoạt động kinh doanh chính
=
Tổng lợi nhuận thuần năm sau
-
1
Tổng lợi nhuận thuần năm trước
Đây là chỉ số quan trọng để xem xét mức độ tăng trưởng về lợi nhuận của doanh nghiệp. Nếu sức tăng trưởng của doanh thu đánh giá được mức tăng trưởng về mặt số lượng thì tỷ lệ này đánh giá mức độ mở rộng về mặt chất lượng.
1.2.4 Ví dụ minh họa
Một doanh nghiệp có nhu cầu vay ngắn hạn 10.000.000.000, đồng (Mười tỷ đồng) để thu mua sắn lát xuất khẩu, doanh nghiệp được áp dụng hình thức cho vay không có tài sản đảm bảo.
Tên doanh nghiệp: Công ty TNHH B
Lĩnh vực kinh doanh: Chế biến mua bán hàng lương thực, nông, lâm thủy sản. Mua bán, đại lý hàng công nghệ phẩm, thực phẩm tiêu dùng. Mua bán bao bì, thức ăn gia súc, vật liệu xây dựng, xăng dầu, khí đốt hóa lỏng, mủ cao su, xe máy, thiết bị, phụ tùng máy, phân bón, vật tư phục vụ sản xuất nông nghiệp.
Căn cứ phân tích tài chính doanh nghiệp: Báo cáo quyết toán tài chính năm 2007 và năm 2008.
Các bước tiến hành phân tích tài chính Công ty TNHH B như sau:
Bước 1: Cán bộ tín dụng thẩm định độ tin cậy, sự hợp lý, hợp lệ của các số liệu trên báo cáo tài chính do Công ty cung cấp.
Bước 2: Lập các báo cáo phân tích: Cán bộ tín dụng nhập số liệu vào phần mềm tài chính Excell và cho ra bảng các chỉ số tài chính sau:
TT
Tên các chỉ số tài chính
Năm 2007
Năm 2008
I
Nhóm chỉ tiêu về khả năng thanh toán
1
Khả năng thanh toán tổng quát
1,76
1,52
2
Khả năng thanh toán nợ ngắn hạn
1,27
1,24
3
Khả năng thanh toán nhanh
0,16
0,11
II
Nhóm chỉ tiêu về tính ổn định và khả năng tự tài trợ
1
Hệ số thích ứng tài sản dài hạn của TSCĐ
0,65
0,63
2
Hệ số tài sản dài hạn trên vốn chủ sở hữu
0,65
0,74
3
Hệ số nợ
1,31
1,91
4
Hệ số vốn chủ sở hữu
0,43
0,34
5
Tỷ suất đầu tư vào TSCĐ (%)
28,07
25,04
6
Tỷ suất đầu tư vào TSLĐ (%)
71,93
74,60
III
Nhóm chỉ tiêu về hiệu quả sử dụng vốn và khả năng sinh lới
1
Hiệu quả sử dụng tài sản
9,18
7,99
2
Vòng quay hàng tồn kho
23,79
16,24
3
Kỳ thu tiền bình quân
7,28
4,91
4
Nhu cầu vốn lưu động thường xuyên
1.165.450.428
3.454.725.674
TT
Tên các chỉ số tài chính
Năm 2007
Năm 2008
5
Vòng quay vốn lưu động
13,64
12,74
6
Tỷ suất lợi nhuận trên tổng vốn sử dụng
0,12
0,11
7
Tỷ suất lợi nhuận thuần từ hoạt động kinh doanh trên tổng vốn sử dụng
0,08
0,12
8
Tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu
0,26
0,27
9
Tỷ suất lợi nhuận thuần từ hoạt động kinh doanh trên vốn chủ sở hữu
0,18
0,30
10
Tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu
0,01
0,01
IV
Nhóm chỉ tiêu về sức tăng trưởng
1
Tỷ lệ tăng trưởng doanh thu
0,25
0,23
2
Tỷ lệ tăng trưởng doanh thu từ hoạt động kinh doanh chính
0,25
0,24
3
Tỷ lệ tăng trưởng lợi nhuận
1,64
0,16
4
Tỷ lệ tăng trưởng lợi nhuận thuần từ hoạt động kinh doanh chính
-0,02
0,09
Bước 3: Phân tích và lập báo cáo phân tích
Sau khi phân tích tình hình tài chính của Công ty, cán bộ tín dụng đưa ra kết luận như sau:
- Các chỉ số về khả năng thanh toán: khả năng thanh toán tổng quát và khả năng thanh toán nợ ngắn hạn qua 2 năm đều lớn 1 khẳng định Công ty có khả năng thanh toán đối với các khoản nợ bên ngoài, cụ thể là khả năng thanh toán đối với các khoản nợ ngắn hạn của Công ty được bảo đảm. Trong khi đó, khả năng thanh toán nhanh của Công ty còn thấp, nguyên nhân là do Công ty để hàng tồn kho và các khoản phải thu ngắn hạn chiếm tỷ lệ quá cao so với tổng giá trị tài sản ngắn hạn (năm 2007: hàng tồn kho chiếm tỷ lệ 58,39% tổng giá tài sản ngắn hạn, các khoản phải thu ngắn hạn chiếm tỷ lệ 23,66% tổng giá trị tài sản ngắn hạn; năm 2007: hàng tồn kho chiếm tỷ lệ 73,89% tổng giá tài sản ngắn hạn, các khoản phải thu ngắn hạn chiếm tỷ lệ 13,08% tổng giá trị tài sản ngắn hạn).
- Các chỉ số về tính ổn định và khả năng tự tài trợ:
Hệ số thích ứng dài hạn của TSCĐ qua 2 năm đều nhỏ hơn 100% cho thấy hoạt động SXKD của Công ty đang ổn định, Công ty sử dụng vốn hợp lý đó là đầu tư tài sản dài hạn bằng những nguồn vốn có kỳ hạn dài như vốn chủ sở hữu, vay dài hạn.
Hệ số tài sản dài hạn trên vốn chủ sở hữu qua 2 năm ở mức trung bình, phản ánh Công ty có sự chủ động định đoạt về tài sản.
Hệ số nợ năm 2007 là 131%, năm 2008 tăng lên 191%. Hệ số này cao cho thấy khả năng tự chủ về tài chính của Công ty chưa tốt, chứng tỏ khả năng thanh toán nợ bằng nguồn vốn chủ sở hữu chưa được đảm bảo, Công ty sử dụng chủ yếu vốn vay ngắn hạn để phục vụ cho hoạt động SXKD: năm 2007 vốn vay ngắn hạn chiếm tỷ lệ 48,34% tổng nguồn vốn, năm 2008 vốn vay ngắn hạn chiếm tỷ lệ 48,32% tổng nguồn vốn.
Hệ số vốn chủ sở hữu ở mức trung bình, năm 2008 lại giảm xuống so với năm 2007, chứng tỏ mức độ độc lập về tài chính của Công ty trong hoạt động SXKD chỉ ở mức trung bình, hoạt động của Công ty phụ thuộc vào các nguồn huy động mà chủ yếu là vốn vay ngắn hạn.
Tài sản lưu động của Công ty chiếm tỷ lệ tương đối lớn so với tổng giá trị tài sản, điều này tương đối hợp lý vì Công ty hoạt động chủ yếu trong lĩnh vực kinh doanh thương mại.
- Các chỉ số về hiệu quả sử dụng vốn và khả năng sinh lời:
Hiệu quả sử dụng tài sản của Công ty năm 2008 có giảm sút so với năm 2007 nhưng khá tốt tuy. Bởi vì trong năm 2007 cứ 1 đồng vốn đầu tư vào tài sản sẽ chuyển đổi thành 9,18 đồng doanh thu, năm 2008 cứ 1 đồng vốn đầu tư vào tài sản sẽ chuyển đổi thành 7,99 đồng doanh thu. Điều này cho thấy Công ty đang sử dụng vốn đạt hiệu quả khá cao.
Vòng quay hàng tồn kho qua 2 năm khá cao, cho thấy Công ty sử dụng có hiệu quả nguồn vốn lưu động.
Số ngày cần thiết để chuyển các khoản phải thu thành tiền mặt năm 2007 là 7,28 ngày, năm 2008 giảm xuống chỉ còn 4,91 ngày, cho thấy hiệu quả sử dụng nguồn vốn của Công ty khá cao.
Nhu cầu vốn lưu động thường xuyên năm 2008 tăng cao so với năm 2007 cho thấy nguồn vốn vay ngắn hạn chưa đáp ứng đủ nhu cầu cho hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty.
Vòng quay vốn lưu động qua 2 năm tương đối cao, cho thấy Công ty sử dụng vốn rất hiệu quả vì 1 đồng vốn lưu động năm 2007 được chuyển thành 13,64 đồng doanh thu, 1 đồng vốn lưu động năm 2008 được chuyển thành 12,74 đồng doanh thu.
Các chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận qua 2 năm đều thấp cho thấy Công ty SXKD chưa đạt hiệu quả cao, điều này thể hiện ở chỗ năm 2007: 1 đồng vốn sử dụng chỉ tạo ra 0,12 đồng lợi nhuận trước thuế, 1 đồng vốn chủ sở hữu chỉ tạo ra 0,26 đồng lợi nhuận trước thuế, 1 đồng doanh thu chỉ tạo ra được 0,01 đồng lợi nhuận trước thuế; năm 2008: 1 đồng vốn sử dụng chỉ tạo ra 0,11 đồng lợi nhuận trước thuế, 1 đồng vốn chủ sở hữu chỉ tạo ra 0,27 đồng lợi nhuận trước thuế, 1 đồng doanh thu chỉ tạo ra được 0,01 đồng lợi nhuận trước thuế.
- Các chỉ số về sức tăng trưởng:
Năm 2008 tổng doanh thu của Công ty có tỷ lệ tăng trưởng là 0,23 lần so với năm 2007, doanh thu từ hoạt động SXKD chính có tỷ lệ tăng trưởng 0,24 lần so với năm 2007, điều này cho thấy Công ty đã có sự tăng trưởng tuy chưa ở mức cao, doanh thu năm sau cao hơn năm trước.
Lợi nhuận năm 2008 tăng hơn so với năm 2007, tỷ lệ tăng trưởng lợi nhuận từ hoạt động SXKD chính tăng cao hơn so với tỷ lệ tăng trưởng doanh thu từ hoạt động SXKD chính (0,90 lần/0,24 lần).
Tóm lại Công ty có nhiều kinh nghiệm trong hoạt động xuất khẩu, quy mô hoạt động của Công ty rộng khắp trên tòan tỉnh và một số tỉnh khác, Công ty hoạt động ổn định, có hiệu quả, tình hình tài chính lành mạnh, hoạt động có lãi qua nhiều năm liên tục, doanh thu năm sau cao hơn năm trước, các chỉ số về khả năng thanh toán, về tính ổn định và khả năng tự tài trợ khá tốt. Đây là khách hàng tiềm năng, có nhu cầu về lưu động khá cao.
1.3 Đánh giá chất lượng phân tích tài chính doanh nghiệp để phục vụ hoạt động cho vay tại Ngân hàng phát triển Việt Nam
1.3.1 Những kết quả đạt được
Công tác phân tích tài chính doanh nghiệp để phục vụ hoạt động cho vay tại Ngân hàng phát triển Việt Nam đã đạt được những kết quả chủ yếu sau đây:
- Phân tích tài chính doanh nghiệp đã được thực hiện theo một quy trình thống nhất từ khi nhận được hồ sơ vay vốn của khách hàng đến khi Giám đốc quyết định cho vay. Đây chính là một quy trình khép kín, các bước công việc đều đáp ứng cho một yêu cầu cụ thể. Nếu cán bộ tín dụng bỏ qua bất kỳ một bước nào trong quy trình sẽ ảnh hưởng đến hiệu quả của việc thẩm định khoản vay. Tuy nhiên mỗi bước của quy trình đều phải dựa kết quả của bước trước và cơ sở cho bước sau. Mỗi bước của quy trình phân tích tài chính doanh nghiệp đều áp dụng những phương pháp phân tích khác nhau hoặc tổng hợp các phương pháp khác nhau.
- Trong quá trình phân tích tài chính doanh nghiệp các yếu tố tài chính, phi tài chính được xem xét và đề cập đến một cách tổng hợp qua các biểu mẫu đơn giản và cụ thể đã giúp cán bộ tín dụng tiến hành thẩm định khoản vay một cách nhanh chóng.
- Nguồn thông tin được sử dụng trong phân tích tài chính doanh nghiệp tại Ngân hàng phát triển Việt Nam rất đa dạng, phong phú do thuận lợi là Hội sở chính của Ngân hàng phát triển Việt Nam đóng trên địa bàn Thủ đô Hà Nội, là nơi tập trung nhiều cơ quan Trung ương, các Bộ, ngành. Bên cạnh việc thu thập thông tin từ bên ngoài, cán bộ tín dụng còn có thể cập nhập thông tin từ Trung tâm thông tin tín dụng của Ngân hàng Nhà nước, từ các đơn vị bạn và từ chính mạng lưới các Chi nhánh rộng khắp trên cả nước của mình.
- Ngân hàng phát triển Việt Nam đã có quy trình chấm điểm và xếp hạng khách hàng nhằm đưa ra các chính sách khác nhau đối với từng đối tượng khách hàng cụ thể. Phân tích tài chính doanh nghiệp được cán bộ tín dụng của Ngân hàng phát triển Việt Nam tiến hành bằng những phương pháp như: phương pháp tỷ số, phương pháp so sánh và phương pháp chấm điểm. Tại thời điểm hiện nay, đó chính là các phương pháp thông dụng và hiệu quả nhất trong phân tích tài chính nói chung, nó cho phép cán bộ tín dụng sử dụng được những số liệu lịch sử, đánh giá được tình hình hoạt động của khách hàng, xác định được xu hướng phát triển trong tương lai. Thông qua quá trình phân tích các yếu tố phi tài chính còn cho phép cán bộ tín dụng đánh giá được khả năng lãnh đạo, tổ chức, uy tín của đội ngũ lãnh đạo trong công ty.
1.3.2 Hạn chế và nguyên nhân
1.3.2.1 Hạn chế
Bên cạnh những thành tựu đạt được từ công tác phân tích tài chính doanh nghiệp để phục vụ hoạt động cho vay tại Ngân hàng phát triển Việt Nam kể trên, dựa vào những chỉ tiêu đã phân tích, ta thấy công tác phân tích tài chính doanh nghiệp để phục vụ hoạt động cho vay tại Ngân hàng phát triển Việt Nam vẫn còn những hạn chế, thể hiện qua các điểm sau:
- Nội dung phân tích tài chính doanh nghiệp chưa được đầy đủ, mới chỉ tập trung chủ yếu vào các yếu tố định lượng, chưa chú ý đến các yếu tố định tính; mới chỉ đưa ra các chỉ tiêu mà chưa đi sâu phân tích, đánh giá các chỉ tiêu.
- Quy trình phân tích tài chính doanh nghiệp quy định đầy đủ các công việc phải làm, tuy vậy hiệu quả của mỗi công việc vẫn chưa cao dẫn đến chất lượng phân tích tài chính doanh nghiệp còn nhiều hạn chế thể hiện ở tỷ lệ nợ quá hạn không giảm.
- Chưa có phương pháp khai thác thông tin từ khách hàng một cách có hiệu quả, đôi khi làm cho khách hàng cảm thấy việc thẩm định hồ sơ quá phức tạp và mất thời gian.
- Vẫn còn xảy ra hiện tượng thiếu thông tin, thông tin chưa chính xác, kịp thời.
1.3.2.2 Nguyên nhân
Với những hạn chế nêu trên trong công tác phân tích tài chính doanh nghiệp để phục vụ hoạt động cho vay tại Ngân hàng phát triển Việt Nam, nguyên nhân gây ra hạn chế đó có rất nhiều, bao gồm những nguyên nhân từ phía Ngân hàng phát triển Việt Nam và nguyên nhân từ môi trường bên ngoài.
- Năng lực, phẩm chất và trình độ phân tích của cán bộ tín dụng còn nhiều hạn chế đặc biệt là trình độ phân tích các báo cáo tài chính, về kiến thức hạch toán kế toán và kiến thức tổng hợp về thị trường. Việc tuyển dụng đội ngũ nhân viên mới đã góp phần tạo ra một hình ảnh trẻ trung, năng động cho Ngân hàng phát triển Việt Nam nhưng những kiến thức, kỹ năng lấy thông tin từ khách hàng chưa được chú trọng và được đào tạo đã dẫn đến tình trạng các cán bộ tín dụng trẻ này trong quá trình làm tờ trình phân tích tài chính doanh nghiệp rất sơ xài, đôi khi gặp lúng túng, khó khăn trong kỹ năng phân tích.
- Phương pháp phân tích được áp dụng hiện nay trong hệ thống Ngân hàng phát triển Việt Nam là các phương pháp thông dụng và phổ biến nhất nhưng khi thực hiện các phương pháp này, cán bộ tín dụng gặp phải một số khó khăn trong việc chọn chỉ tiêu, định mức so sánh, đó là các ngành chưa có những định mức thống nhất cho từng loại công trình. Bên cạnh đó tuy phương pháp chấm điểm đối với khách hàng đã được áp dụng nhưng các chỉ tiêu chấm điểm đưa ra vẫn chưa được chuẩn xác. Các yếu tố định lượng đã được đề cập khá cụ thể nhưng các yếu tố định tính vẫn còn chưa được xem xét kỹ lưỡng. Khi xem xét các yếu tố định tính mới chỉ quan tâm đến lĩnh vực kinh doanh mà chưa đi sâu tìm hiểu cụ thể về thị trường tiêu thụ của sản phẩm đó, các quy định của pháp luật có liên quan đến việc sản xuất kinh doanh mặt hàng đó.
- Khi tiến hành phân tích tài chính doanh nghiệp cán bộ tín dụng phải tiến hành đầy đủ các bước trong quy định nhưng trong thực tế vẫn có một số bước không được thực hiện đầy đủ hoặc có thực hiện nhưng còn sơ sài, mang tính hình thức. Hiện nay, Ngân hàng phát triển Việt Nam chưa có quy định mục tiêu cụ thể cho từng bước của quy trình phân tích dẫn đến trong thực tế có một số khoản vay số liệu chưa được tìm hiểu kỹ, đưa ra kết luận chung chung hoặc không đưa ra kết luận cụ thể về tình trạng tài chính của khách hàng.
- Nguồn thông tin tín dụng mà Ngân hàng phát triển Việt Nam thu thập được chưa thật hiệu quả. Những thông tin mà cán bộ tín dụng thu thập được hoặc được thông báo đến còn chậm, chưa thuận tiện. Hiện nay Ngân hàng phát triển Việt Nam chưa có một bộ phận chuyên trách hoặc một hệ thống thông tin chuyên biệt để cung cấp các thông tin liên quan đến khách hàng vay vốn như khách hàng đã vay ở Chi nhánh nào và đã được duyệt hồ sơ hay đã bị từ chối, lý do từ chối, như thế mới đạt được sự thống nhất trong toàn hệ thống về chính sách cho vay, cũng như lý do từ chối cho vay.
CHƯƠNG 2: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ CÁC GIẢI PHÁP
HOÀN THIỆN PHÂN TÍCH TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP ĐỂ PHỤC VỤ HOẠT ĐỘNG CHO VAY TẠI
NGÂN HÀNG PHÁT TRIỂN VIỆT NAM
2.1 Định hướng phát triển của Ngân hàng phát triển Việt Nam
2.1.1 Cơ hội và thách thức
2.1.1.1 Những cơ hội
Phương châm chiến lược trong hoạt động của VDB là “An toàn hiệu quả - hội nhập quốc tế - phát triển bền vững”. Chính vì thế mục tiêu tổng quát của VDB đến năm 2010, định hướng đến năm 2020 là VDB phải trở thành một ngân hàng chuyên nghiệp của Chính phủ trong lĩnh vực đầu tư phát triển và xuất khẩu; bộ máy tinh gọn và hiệu quả; năng lực quản lý tiên tiến trên nền tảng công nghệ hiện đại; tình hình tài chính lành mạnh, công khai minh bạch; hướng tới thị trường và hội nhập quốc tế.
Để đạt được điều đó, VDB đang đứng trước nhiều cơ hội:
- Hội nhập kinh tế quốc tế đã tạo điều kiện thuận lợi cho các ngân hàng trong việc thâm nhập vào thị trường quốc tế, mở ra cơ hội cho việc thực hiện các trao đổi, quan hệ quốc tế trong lĩnh vực hoạch định các chính sách tiền tệ, quản lý ngoại hối, thanh tra, giám sát, phòng ngừa rủi ro và trong lĩnh vực thanh toán kế toán.
Trong bối cảnh đó, VDB sẽ có nhiều cơ hội để hợp tác trong các lĩnh vực có lợi thế, tranh thủ tối đa các nguồn lực bên ngoài như: huy động vốn, phát hành trái phiếu ra thị trường quốc tế, tranh thủ hợp tác công nghệ, đào tạo nguồn nhân lực, nâng cao trình độ quản trị ngân hàng đáp ứng chuẩn mực của khu vực và quốc tế.
- Giá trị hội nhập quốc tế vào nền kinh tế thế giới của Việt Nam là có thể nâng cao khả năng phân bổ các nguồn lực và tiếp cận các dịch vụ với chi phí thấp hơn và chất lượng tốt hơn. Những lợi thế so sánh và cạnh tranh của Việt Nam sẽ bảo đảm các lợi ích khi Việt Nam hội nhập. Khả năng của nền kinh tế và các doanh nghiệp khi cạnh tranh trên thị trường quốc tế sẽ được nâng cao nếu Việt Nam có hệ thống tài chính - ngân hàng cung cấp các dịch vụ có giá cạnh tranh ở trong nước và trợ giúp các khoản đầu tư, thương mại quốc tế của các doanh nghiệp. Do vậy, các nguồn lực sẽ được phân bổ đến những nơi có hiệu quả nhất. Đây cũng là cơ hội để VDB đưa ra các lợi ích, mở rộng quan hệ hợp tác, phù hợp với các thông lệ quốc tế của các tổ chức tài trợ phát triển khu vực và thế giới.
- Tiến trình quan hệ quốc tế trong lĩnh vực ngân hàng đang diễn ra mạnh mẽ, tạo động lực thúc đẩy công cuộc đổi mới và nâng cao tính minh bạch, tính tự chịu trách nhiệm của hệ thống ngân hàng, đây chính là cơ hội để VDB thông qua đó mở rộng quan hệ quốc tế; tăng cường tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm, nâng cao tính minh bạch, nâng cao hiệu quả điều hành trong lĩnh vực tín dụng đầu tư phát triển và tín dụng xuất khẩu.
2.1.1.2 Những thách thức
- Khó khăn lớn nhất là chính sách tín dụng đầu tư phát triển và tín dụng xuất khẩu của Nhà nước đang trong quá trình đổi mới, hoàn thiện đáp ứng yêu cầu của thời kỳ mới, trong khi đó kiến thức ngân hàng, trình độ chuyên môn, kỹ thuật nghiệp vụ, kinh nghiệm của đội ngũ viên chức VDB còn nhiều hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu công việc. Đây là một thách thức để thực hiện hợp tác và hội nhập thành công.
- Với ưu thế sẵn có về vốn và công nghệ ngân hàng, cũng như kinh nghiệm quản lý của các ngân hàng nước ngoài thì cạnh tranh sẽ quyết liệt hơn khi ngân hàng nước ngoài ngày càng mở rộng quy mô và phạm vi hoạt động trên thị trường Việt Nam. Trong khi đó, Việt Nam chưa có chính sách thống nhất để quản lý hiệu quả hoạt động cạnh tranh trong lĩnh vực ngân hàng. Các sản phẩm dịch vụ mới còn hạn chế, công nghệ chưa được coi là công cụ hàng đầu để nâng cao sức cạnh tranh, đối với VDB cũng sẽ gặp khó khăn trong việc thực hiện đồng thời hai nhiệm vụ: giữ vững an toàn, hiệu quả trong hoạt động tín dụng đầu tư và tín dụng xuất khẩu trong nước và mở rộng thị trường ra nước ngoài.
- Cơ chế quản lý của VDB chưa thật sự hoàn thiện, nhất là về hoạt động thanh tra, giám sát và tỷ lệ nợ xấu trong hệ thống VDB chưa được xử lý triệt để sẽ là nguy cơ cho sự phát triển an toàn bền vững của VDB.
- Xuất phát điểm của VDB quá thấp, đặc biệt trong ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động tín dụng đầu tư phát triển và tín dụng xuất khẩu.
2.1.2 Định hướng phát triển
2.1.2.1 Định hướng phát triển hoạt động đến 2020
Là một tổ chức được Chính phủ thành lập nhằm thực hiện chính sách tín dụng đầu tư phát triển và tín dụng xuất khẩu của Nhà nước, hoạt động của VDB phải phù hợp với chủ trương, chính sách, pháp luật hiện hành và các cam kết quốc tế, đặc biệt là cam kết gia nhập WTO.
Do ngành tài chính giữ vị trí đặc biệt quan trọng trong nền kinh tế quốc dân, lượng vốn thông qua VDB dành cho đầu tư phát triển rất lớn nên việc đảm bảo sự an toàn có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với cả VDB nói riêng và toàn ngành tài chính cũng như nền kinh tế nói chung. Vì vậy, trong quá trình phát triển, việc bảo đảm an toàn trong hoạt động để phát triển bền vững phải trở thành một phương châm chiến lược quan trọng nhất.
Cùng với việc bảo đảm sự an toàn, hoạt động của VDB phải góp phần giải quyết nhu cầu về vốn cho đầu tư phát triển trong các lĩnh vực, ngành nghề trọng điểm và các vùng miền khó khăn của đất nước trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế; đồng thời phải bảo đảm yêu cầu nâng cao hiệu quả đầu tư, nâng cao khả năng cạnh tranh của nền kinh tế, đảm bảo nền kinh tế phát triển bền vững theo chủ trương của Chính phủ.
Do vậy phương châm chiến lược trong hoạt động của VDB là:
An toàn hiệu quả - hội nhập quốc tế - phát triển bền vững
2.1.2.2 Chiến lược phát triển hoạt động của VDB giai đoạn 2008 - 2010
Mục tiêu tổng quát đến năm 2010 là VDB phải trở thành một ngân hàng hoạt động mang tính chuyên nghiệp; bộ máy tinh gọn, năng lực quản lý theo hướng hiện đại, đạt mức trung bình của khu vực; tài chính công khai minh bạch; hướng tới thị trường và hội nhập quốc tế.
Mục tiêu cụ thể
- Tổng số vốn cung ứng (vốn trong nước và ODA cho vay lại) cho nền kinh tế giai đoạn 2008 - 2010 dự kiến 160.000 tỷ đồng.
- Nguồn vốn huy động trong nước hàng năm chiếm khoảng 50% - 60% tổng nguồn vốn hoạt động giai đoạn trước năm 2010.
- Số huy động mới vốn trong nước hàng năm chiếm bình quân 42% nguồn vốn trong nước. Đến cuối năm 2010, số dư nguồn vốn huy động bằng trái phiếu chiếm 52% tổng nguồn vốn trong nước.
- Tỷ lệ nợ xấu/Tổng dư nợ: dưới 5%. Nợ xấu xác định theo tiêu chuẩn phân loại nợ của Việt Nam, phù hợp với thông lệ quốc tế
- Tỷ lệ an toàn vốn đến năm 2010: đạt yêu cầu theo chuẩn mực quốc tế (không dưới 8%).
Các nhóm giải pháp lớn đến năm 2010:
* Hoàn thiện hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách tín dụng đầu tư phát triển và tín dụng xuất khẩu của Nhà nước
- Tiếp tục rà soát, hoàn thiện cơ chế, chính sách và các quy chế nghiệp vụ về tín dụng đầu tư, bảo đảm tiền vay, ngoại hối, huy động vốn, kế toán và thanh toán; nâng cao tính tự chịu trách nhiệm của từng bộ phận nghiệp vụ, từng cá nhân và người đứng đầu các đơn vị; tổ chức, triển khai có hiệu quả chính sách tín dụng đầu tư và tín dụng xuất khẩu của Nhà nước theo đúng quy định.
- Trong giai đoạn sau 2010 - 2015: trình Quốc hội ban hành Luật về tổ chức và hoạt động của Ngân hàng phát triển nhằm phù hợp với các Luật mới như: Luật Ngân hàng nhà nước, Luật các tổ chức tín dụng, Luật giám sát an toàn hoạt động ngân hàng và các Luật, văn bản hướng dẫn liên quan.
* Nâng cao năng lực của Ngân hàng phát triển để triển khai có hiệu quả chính sách tín dụng đầu tư phát triển và tín dụng xuất khẩu của Nhà nước
- Đẩy mạnh huy động vốn và nâng cao hiệu quả quản lý vốn
- Xây dựng hệ thống giám sát và quản trị rủi ro phù hợp với chuẩn mực quốc tế
- Lành mạnh hóa và nâng cao năng lực tài chính của VDB, nâng cao chất lượng quản lý tài chính và kế toán, thanh toán
- Tái cơ cấu nợ
- Đẩy mạnh hoạt động cho vay lại vốn ODA và thu hút vốn ủy thác
- Từng bước đa dạng hóa các nghiệp vụ
- Tăng cường quan hệ hợp tác trong nước và quốc tế
- Hiện đại hóa trên cơ sở đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin
- Đổi mới quản lý cán bộ và phát triển nguồn nhân lực
- Kiện toàn bộ máy tinh gọn và tiết kiệm chi phí
- Tăng cường marketing ngân hàng
2.2 Giải pháp hoàn thiện phân tích tài chính doanh nghiệp để phục vụ hoạt động cho vay tại Ngân hàng phát triển Việt Nam
2.2.1 Các giải pháp chủ yếu
2.2.1.1 Hoàn thiện các chỉ tiêu phân tích tài chính
Ngân hàng phát triển Việt Nam hiện đang sử dụng phương pháp truyền thống và phổ biến trong phân tích tài chính doanh nghiệp là phương pháp tỷ số. Theo phương pháp này các tỷ số được sử dụng để phân tích chia theo các nhóm, bao gồm: nhóm các chỉ tiêu về khả năng thanh toán, nhóm các chỉ tiêu về tính ổn định và khả năng tự tài trợ, nhớm các chỉ tiêu về hiệu quả sử dụng vốn và khả năng sinh lời, nhóm các chỉ tiêu về sức tăng trưởng. Như vậy các yếu tố phi tài chính chưa được phản ánh đầy đủ khi phân tích tài chính doanh nghiệp, đó là yếu tố như: lĩnh vực kinh doanh của khách hàng; mức độ rủi ro của ngành, nghề kinh doanh; tính thời vụ của lĩnh vực kinh doanh; thời gian kinh doanh của khách hàng trên thị trường; sự ảnh hưởng của thị trường thế giới đến lĩnh vực khách hàng đề nghị vay vốn
Chính vì thế cần bổ sung thêm chỉ tiêu tài chính mà trong đó đảm bảo các yếu tố phi tài chính nêu trên được đưa vào trong quá trình chấm điểm để xếp hạng tín dụng khách hàng vay vốn. Đó chính là việc lượng hóa các yếu tố phi tài chính để đưa vào chỉ tiêu này. Trong chỉ tiêu này các yếu tố tài chính và phi tài chính của doanh nghiệp được đánh giá trên cơ sở các yếu tố khách quan và được lượng hóa qua một hệ số nhất định. Các yếu tố được sắp xếp theo mức độ quan trọng. Điểm được tính theo các yếu tố, sau đó nhân với hệ số của yếu tố đó để tính được tổng điểm tín dụng mà khách hàng đạt được:
M = ∑(hi x Ti)
Với:
- hi là hệ số quan trọng của yếu tố thứ i
- Ti là điểm số của yếu tố thứ i
- M là tổng số điểm của khách hàng
2.2.1.2 Xây dựng nhóm các chỉ tiêu về rủi ro về tài chính
Trong điều kiện cơ chế thị trường và xu thế hội nhập kinh tế quốc tế luôn tồn tại sự cạnh tranh gay gắt giữa các doanh nghiệp. Do vậy mà các doanh nghiệp luôn phải đối mặt với nguy cơ phá sản, giải thể hay sáp nhập; mà rủi ro của doanh nghiệp vay vốn cũng chính là rủi ro cho VDB. Chính vì thế việc phân tích rủi ro, đặc biệt là rủi ro tài chính đối với các doanh nghiệp là hết sức cần thiết để VDB có thể đưa ra một quyết định đúng đắn khi quyết định cho vay đối với khách hàng. Để phản ánh rủi ro về tài chính có thể sử dụng các chỉ tiêu sau:
- Hệ số nợ trên tổng tài sản
Hệ số nợ trên tổng tài sản
=
Tổng số nợ
Tổng tài sản
- Hệ số nợ ngắn hạn trên tổng tài sản ngắn hạn
Hệ số nợ ngắn hạn trên tổng tài sản ngắn hạn
=
Tổng số nợ ngắn hạn
Tổng tài sản ngắn hạn
- Hệ số thu hồi nợ
Hệ số thu hồi nợ
=
Doanh thu thuần
Tổng số các khoản nợ phải thu
- Thời gian thu hồi nợ bình quân
Thời gian thu hồi nợ bình quân (ngày)
=
Thời gian của kỳ phân tích (ngày)
Hệ số thu hồi nợ
- Hệ số vòng quay hàng tồn kho
Hệ số vòng quay hàng tồn kho
=
Doanh thu thuần
Trị giá hàng bán tồn kho bình quân
- Thời gian hàng tồn kho bình quân
Thời gian hàng tồn kho bình quân (ngày)
=
Thời gian bình quân kỳ phân tích (ngày)
Hệ số quay vòng hàng tồn kho
- Hệ số thanh toán lãi vay
Hệ số thanh toán lãi vay
=
Lãi thuần từ hoạt động SXKD (trước thuế) + chi phí lãi vay
Lãi vay phải trả
2.2.1.3 Đào tạo và nâng cao chất lượng cán bộ tín dụng
Cán bộ tín dụng được coi là nhân tố quan trọng nhất quyết định chất lượng cho vay vì họ chính là những người trực tiếp thực hiện công việc thu thập thông tin, phân tích, đánh giá và đề xuất phương án thực hiện các khoản vay. Kết quả thẩm định khoản vay sẽ cho độ tin cậy cao nếu được thực hiện một cách khách quan, khoa học và công tâm, điều này lại phụ thuộc chủ yếu vào năng lực và đạo đức của cán bộ tín dụng. Cán bộ tín dụng phải có trình độ từ đại học trở lên, có kiến thức cơ bản về kinh tế - xã hội, kinh tế thị trường, hoạt động tín dụng, tài chính doanh nghiệp, tài chính dự án, có khả năng tính toán, phân tích các chỉ tiêu kinh tế tài chính và khả năng trả nợ của dự án, am hiểu kiến thức, phương pháp thẩm định hiện đại để ứng dụng vào thực tế. Bên cạnh đó, cán bộ tín dụng phải có khả năng đánh giá tổng hợp và nhạy bén với các yêu cầu đòi hỏi mới của công tác thẩm định; có kỹ năng ứng dụng các phần mềm hỗ trợ hiện đại phục vụ cho công tác thẩm định. Cán bộ tín dụng phải có phẩm chất đạo đức nghề nghiệp, trung thực, có tinh thần trách nhiệm và kỷ luật nghề nghiệp cao. Để đáp ứng được yêu cầu đó VDB cần phải quan tâm đến đội ngũ cán bộ tín dụng hơn nữa - nâng cao chất lượng cho cán bộ tín dụng bằng cách:
Một là, trong công tác tuyển dụng cán bộ cần có chính sách hợp lý để thu hút những sinh viên giỏi của các trường thuộc các chuyên ngành kinh tế, tài chính, ngân hàng cũng như những người có trình độ, năng lực và kinh nghiệm về tín dụng và phân tích tài chính vào làm việc tại VDB.
Hai là, xây dựng một đội ngũ cán bộ tín dụng giỏi trên cơ sở rà soát lại đội ngũ cán bộ tín dụng, xem xét và chuyển các cán bộ không đáp ứng được yêu cầu sang làm nhiệm vụ khác, bố trí cán bộ có trình độ, bản lĩnh, tinh thần trách nhiệm cao, có tinh thần tự học tập và rèn luyện nâng cao kiến thức vào các khâu chủ chốt trong quá trình thẩm định. Với khối lượng công việc càng lớn như hiện nay, cần tăng cường lực lượng cán bộ để bố trí cho phù hợp, tuyệt đối tránh tình trạng quá tải đối với cán bộ tín dụng vì khi đó tiềm ẩn rủi ro rất lớn cho hoạt động tín dụng nói riêng và hoạt động ngân hàng nói chung khi mà một cán bộ không kiểm soát nổi hoạt động của mình.
Ba là, có cơ chế đãi ngộ riêng đối với cán bộ tín dụng. Do đặc thù nghiệp vụ tín dụng phức tạp và có độ rủi ro cao nên VDB cần có các chế độ khen thưởng vật chất hợp lý để động viên tinh thần làm việc hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao của cán bộ tín dụng. VDB nên xây dựng chính sách tiền lương, thưởng phạt rõ ràng, cụ thể đối với cán bộ tín dụng để vừa đảm bảo phát huy năng lực của cán bộ tín dụng vừa làm cho họ thấy được trách nhiệm của mình trong công tác, đồng thời cần xử lý nghiêm khắc những cán bộ tín dụng vì lợi ích cá nhân, thiếu tinh thần trách nhiệm gây thất thoát vốn của Nhà nước.
Bốn là, tập hợp các sáng kiến, đề xuất, đề án nghiên cứu có giá trị để phổ biến cho cán bộ tín dụng trong toàn hệ thống.
Năm là, tăng cường đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ cán bộ tín dụng. Do yêu cầu về kiến thức kinh tế - xã hội tổng hợp sâu rộng khi thẩm định các khoản vay, dự án nên không phải bất cứ một cán bộ tín dụng nào cũng có thể nắm bắt đầy đủ công việc thẩm định tài chính của doanh nghiệp đi vay. Vì vậy, cách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ tín dụng tốt nhất là đào tạo bằng công việc. Mỗi khoản vay, dự án nên có hai cán bộ tín dụng cùng thẩm định, một cán bộ có kinh nghiệm chịu trách nhiệm chính về khoản vay, dự án đó và một cán bộ mới cùng tham gia. Qua thực tế cùng với nền tảng kiến thức đã qua đào tạo của mình, cán bộ tín dụng mới có thể nắm bắt nhanh hơn kỹ năng thẩm định tài chính doanh nghiệp. Bên cạnh đó, ngoài các đợt tập huấn nghiệp vụ được tổ chức hàng năm, VDB cần thường xuyên tổ chức các buổi hội thảo chuyên đề về kinh nghiệm khi thẩm định tài chính các khoản vay, dự án (chú trọng kỹ năng đánh giá, phân loại khách hàng và kỹ năng phân tích tài chính của doanh nghiệp đi vay). Ngoài ra, để cán bộ tín dụng có cơ hội tiếp cận với các phương pháp và kỹ năng thẩm định hiện đại cũng như kinh nghiệm từ các Ngân hàng nước ngoài, có thể mời các chuyên gia nước ngoài đến giảng dạy, trao đổi hoặc cử các cán bộ tín dụng chuyên làm các khoản vay, dự án lớn đi thực tập tại các Ngân hàng nước ngoài.
2.2.1.4 Nâng cao chất lượng nguồn thông tin
Trong thời gian qua, VDB đã xây dựng hệ thống các quy chế, sổ tay hướng dẫn nghiệp vụ tín dụng hoàn chỉnh làm cơ sở cho công tác thẩm định tài chính doanh nghiệp được nâng cao. Tuy nhiên, một trong những yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến chất lượng phân tích tài chính doanh nghiệp để phục vụ hoạt động cho vay của Ngân hàng chính là chất lượng nguồn thông tin. Do vậy việc xây dựng một hệ thống thông tin đảm bảo cung cấp chính xác, kịp thời và đầy đủ các thông tin cần thiết phục vụ cho công tác thẩm định tài chính doanh nghiệp để phục vụ hoạt động cho vay tại VDB là hết sức cần thiết trong giai đoạn hiện nay.
Nguồn thông tin VDB sử dụng trong phân tích tài chính của các doanh nghiệp vay vốn bao gồm:
- Thông tin từ hồ sơ vay vốn do doanh nghiệp cung cấp.
- Thông tin từ Trung tâm tín dụng (CIC).
- Thông tin từ các văn bản pháp pháp quy.
- Thông tin khai thác từ nội bộ VDB.
VDB cần thường xuyên cập nhập thông tin từ khách hàng vay vốn như thông tin về tình hình tài chính của khách hàng; uy tín trong quan hệ tín dụng của khách hàng với các TCTD khác; thương hiệu, năng lực quản trị của khách hàngđể dự đoán được khuynh hướng phát triển, uy tín của khách hàngtừ đó có thể đánh giá được khả năng trả nợ của khách hàng. Bên cạnh đó đối với các dự án cho vay đã hoàn thành đưa vào sử dụng, VDB cũng cần thu thập thông tin về hiệu quả hoạt động của dự án để làm dữ liệu so sánh cho các dự án, khoản vay khác.
Bên cạnh đó, VDB cần chủ động khai thác thông tin từ các bạn hàng và đối thủ cạnh tranh của khách hàng, thông tin từ các Hiệp hội, thông tin từ các Ngân hàng thương mạiNhững thông tin này không xuất phát từ phía bản thân khách hàng nên có tính khách quan cao và do đó những thông tin này giúp VDB thẩm định tốt hơn khả năng tài chính của doanh nghiệp đi vay.
Thông tin từ báo chí, từ mạng Internet, từ các cơ quan quản lý, cơ quan thống kê và các công ty kiểm toáncần được tích cực khai thác hơn nữa. Vì mục tiêu phục vụ lâu dài cho hoạt động của mình, VDB cần thiết lập mối quan hệ chặt chẽ với các cơ quan trên.
2.2.2 Các giải pháp bổ trợ
2.2.2.1 Thành lập bộ phận phụ trách thông tin khách hàng vay vốn
Hoàn thiện hệ thống lưu trữ thông tin về khách hàng vay vốn trong toàn hệ thống VDB, từ đó tiến tới thành lập bộ phận phụ trách thông tin khách hàng vay vốn. Thông qua bộ phận này, cán bộ tín dụng có thể dễ dàng truy cập, khai thác các thông tin hay bổ sung, cập nhật các thông tin về khách hàng vay vốn. Bên cạnh đó, bộ phận phụ trách thông tin còn có thể cung cấp cho cán bộ tín dụng các thông tin về kinh tế, pháp luật, môi trường kinh doanh và những vấn đề liên quan đến các ngành, các lĩnh vực kinh tế.
Bộ phận phụ trách thông tin khách hàng vay vốn có trách nhiệm thu thập các thông tin về hiệu quả hoạt động của các dự án đã hoàn thành để làm dữ liệu so sánh với quá trình thẩm định trước đây cũng như so sánh với các dự án khác.
VDB cần thường xuyên cập nhật thông tin về doanh nghiệp vay vốn không chỉ về tình hình tài chính mà còn phải bổ sung các thông tin phi tài chính về bản thân doanh nghiệp như vị thế tín dụng, thương hiệu, năng lực quản lý để từ đó có thể dự đoán được xu hướng phát triển trong tương lai của doanh nghiệp, áp lực cạnh tranh, các đối thủ của doanh nghiệp để từ đó có thể đánh giá chính xác về khả năng trả nợ của doanh nghiệp.
2.2.2.2 Xây dựng các phần mềm hỗ trợ
Xây dựng các phần mềm Excell để tính toán các chỉ số giúp giảm bớt thời gian lấy được số liệu phân tích trong tờ trình các khoản vay.
Nhằm giúp các cán bộ tín dụng loại trừ được các rủi ro về đạo đức của khách hàng, bảo đảm sự thống nhất trong chính sách tín dụng của toàn hệ thống, VDB cần xây dựng phần mềm mà cán bộ tín dụng có thể truy cập được danh sách các khách hàng đã gửi hồ sơ vay tại các Chi nhánh của VDB trên toàn quốc mà các Chi nhánh đó đã từ chối và nguyên nhân từ chối cho vay.
2.3 Kiến nghị
2.3.1 Kiến nghị đối với Chính phủ
- Chính phủ đóng một vai trò rất quan trọng trong việc điều hành các hoạt động của nền kinh tế nhất là trong lĩnh vực ngân hàng - lĩnh vực hoạt động rất nhạy cảm. Những định hướng đúng đắn và chính sách phù hợp của Chính phủ đưa ra kịp thời sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động của hệ thống ngân hàng, đặc biệt là Ngân hàng phát triển Việt Nam - một tổ chức tài chính được Chính phủ thành lập và trực tiếp chỉ đạo thực hiện những chính sách kinh tế xã hội của đất nước. Như vậy nhằm góp phần nâng cao chất lượng phân tích tài chính doanh nghiệp để phục vụ hoạt động cho vay tại Ngân hàng phát triển Việt Nam, một số kiến nghị với Chính phủ cần thực hiện trong thời gian đến như sau:
- Qua kinh nghiệm tại các ngân hàng nước ngoài cho thấy họ gặp thuận lợi hơn so với các ngân hàng trong nước là ở chỗ họ có sự trợ giúp của các tổ chức chuyên thu thập thông tin một cách chuyên nghiệp, các tổ chức tư vấn độc lập. Chính sự đa dạng và độc lập của các nguồn thông tin do các tổ chức này cung cấp sẽ quyết định chất lượng phân tích tài chính doanh nghiệp trong quá trình duyệt vay, từ đó góp phần nâng cao chất lượng cho vay của ngân hàng. Vì vậy Chính phủ cần khuyến khích thành lập các tổ chức, doanh nghiệp chuyên thu thập, đánh giá thông tin, xếp hạng doanh nghiệp, tư vấn đầu tưvà ban hành các văn bản pháp luật quy định về việc mua bán thông tin, dịch vụ tư vấn và trách nhiệm của các bên liên quan.
- Để các thông tin do khách hàng cung cấp cho các ngân hàng trong quá trình đi vay trung thực và có độ tin cậy cao, giúp các ngân hàng đánh giá một cách đúng đắn tình hình tài chính cũng như triển vọng trong tương lai của các khách hàng, Chính phủ cần ban hành các quy định cụ thể chỉ đạo các doanh nghiệp nghiêm túc thực hiện chế độ thống kê, kế toán, kiểm toán và báo cáo thông tin, đồng thời xây dựng và ban hành những quy định ràng buộc trách nhiệm của các doanh nghiệp, những chế tài áp dụng đối các doanh nghiệp không thực hiện đúng những chế độ đó.
2.3.2 Kiến nghị đối với Ngân hàng Nhà nước và các Bộ ngành có liên quan
Với hoạt động của VDB, mặc dù là tổ chức tài chính được Chính phủ thành lập nhưng hoạt động trong lĩnh vực ngân hàng nên sự ảnh hưởng và mối quan hệ với Ngân hàng Nhà nước (NHNN) và các Bộ ngành liên quan là rất lớn. Cùng với sự hình thành và phát triển của VDB, một số kiến nghị liên quan đến các tổ chức này như sau:
- Ngân hàng Nhà nước cần kiện toàn tổ chức và cơ cấu hoạt động của Trung tâm thông tin tín dụng (CIC) thống nhất được thông tin trong phạm vi cả nước, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho các ngân hàng thương mại trong việc cung cấp và tiếp nhận thông tin.
- Ngân hàng Nhà nước cần tăng cường xúc tiến, mở rộng quan hệ đối ngoại với các tổ chức thông tin quốc tế để thu thập thông tin về các tổ chức nước ngoài muốn đầu tư vào Việt Nam.
- Ngân hàng Nhà nước tích cần tích cực tăng cường trao đổi thông tin trong nước với các tổ chức có liên quan như Tổng cục Thống kê, Bộ Công thương, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính, Văn phòng Chính phủ để tạo nguồn thông tin đa dạng, không chỉ là các thông tin về tín dụng mà còn là các thông tin về thị trường, về quy hoạch phát triển, về định hướng và chính sách phát triển kinh tế - xã hội trong từng thời kỳ.
- Các Bộ ngành cần tham mưu một cách khoa học, khách quan và chi tiết các định hướng và quy hoạch phát triển cho từng ngành, từng lĩnh vực. Cần có sự phối hợp một cách chặt chẽ giữa các Bộ ngành, chính quyền địa phương trong việc định hướng, quy hoạch cho phù hợp nhằm tránh tình trạng có ngành nghề, lĩnh vực thì đầu tư tràn lan, dàn trải; có ngành nghề, lĩnh vực thì đầu tư quá ít, không đáp ứng được nhu cầu thực tế phát sinh.
KẾT LUẬN
Qua thời gian nghiên cứu lý luận và khảo sát thực tiễn công tác phân tích tài chính doanh nghiệp để phục vụ hoạt động cho vay tại cơ quan của mình - Ngân hàng phát triển Việt Nam, tôi đã phân tích, đánh giá được thực trạng công tác phân tích tài chính doanh nghiệp để phục vụ hoạt động cho vay, nêu ra được những thành tựu và hạn chế trong công tác phân tích tài chính doanh nghiệp để phục vụ hoạt động cho vay tại Ngân hàng phát triển Việt Nam. Trên cơ sở đó, đề xuất các giải pháp cụ thể nhằm hoàn thiện công tác phân tích tài chính doanh nghiệp để phục vụ hoạt động cho vay với mong muốn đóng góp một phần nhỏ nghiên cứu của mình vào chiến lược phát triển của VDB, góp phần phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đưa đất nước hội nhập sâu và rộng vào nền kinh tế quốc tế.
Việc thực hiện Chuyên đề đã đạt được các mục tiêu đã đề ra, đó là:
- Khái quát được quá trình hình thành và phát triển của Ngân hàng phát triển Việt Nam, đồng thời đánh giá thực trạng công tác phân tích tài chính doanh nghiệp để phục vụ hoạt động cho vay tại Ngân hàng phát triển Việt Nam. Qua việc phân tích thực trạng, đã nêu lên những thành công trong công tác phân tích tài chính doanh nghiệp để phục vụ hoạt động cho vay tại Ngân hàng phát triển Việt Nam cũng đã chỉ ra được những mặt hạn chế, còn tồn tại, cũng như tìm nguyên nhân của hạn chế đó.
- Trên cơ sở phân tích thực trạng công tác phân tích tài chính doanh nghiệp để phục vụ hoạt động cho vay và chiến lược hoạt động của Ngân hàng phát triển Việt Nam đã đề xuất một số giải pháp thiết thực nhằm hoàn thiện công tác phân tích tài chính doanh nghiệp để phục vụ hoạt động cho vay tại Ngân hàng phát triển Việt Nam.
- Đưa ra một số kiến nghị với Chính phủ, NHNN và các Bộ, ngành liên quan nhằm tạo điều kiện hoạt động tốt nhất cho VDB.
Với thời gian nghiên cứu chưa nhiều, Chuyên đề không tránh khỏi những sai sót và khiếm khuyết. Rất mong sự góp ý sửa chữa, bổ sung thêm của tập thể giáo viên Khoa Kế toán, trường Đại học Kinh tế Quốc dân để Chuyên đề được hoàn chỉnh hơn.
Xin chân thành biết ơn các Thầy, Cô giáo đã hướng dẫn tận tình và giảng dạy những kiến thức quý báu cùng kỹ năng viết bài để Học viên thực hiện Chuyên đề này./.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Phạm Văn Dược (1997), Phân tích hoạt động kinh doanh, Nxb Thống kê, Hà Nội.
2. PGS.TS Phạm Thị Gái (2004), Giáo trình Phân tích hoạt động kinh doanh, Nxb Tài chính, Hà Nội.
3. Nguyễn Năng Phúc (2007), Phân tích kinh doanh lý thuyết và thực hành, Nxb Tài chính, Hà Nội.
4. Ngân hàng phát triển Việt Nam, Báo cáo tổng kết tình hình hoạt động Ngân hàng phát triển Việt Nam các năm 2006, 2007, 2008.
5. Tạp chí Hỗ trợ phát triển các số năm 2006, 2007, 2007, 2008 và các số 6 tháng đầu năm 2009
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- TH2552.doc