Hỗ trợ lãi suất sau đầu tư là một trong các hình thức hỗ trợ đầu tư phát triển của Nhà nước, thông qua Quỹ hỗ trợ phát triển để hỗ trợ một phần lãi suất cho chủ đầu tư các dự án thuộc diện được hưởng ưu đãi đầu tư theo quy định hiện hành của Chính phủ về hướng dẫn thi hành luật Khuyến Khích đầu tư trong nước (sửa đổi) do chủ đầu tư vay vốn của các tổ chức tín dụng hoạt động hợp pháp tại Việt Nam để đầu tư, đã hoàn thành đưa vào sử dụng và đã hoàn trả được vốn vay. Trong năm 2000, Quỹ đã ký hợp đồng hỗ trợ lãi suất sau đầu tư cho 80 dự án với số tiền là 15,5 tỷ đồng. Theo báo cáo mới nhất của Quỹ hỗ trợ phát triển, năm 2001 Quỹ đã hỗ trợ lãi suất sau sau đầu tư cho 126 dự án với tổng mức vốn hỗ trợ gần 60 tỷ đồng (tăng 157% về số dự án và 387% về vốn so với năm 2000);
Bảo lãnh tín dụng đầu tư là một trong các hình thức hỗ trợ đầu tư phát triển của Nhà Nước đối với các dự án đầu tư của các thành phần kinh tế thuộc một số ngành, lĩnh vực, chương trình kinh tế lớn của Nhà nước và các vùng có khó khăn cần khuyến khích đầu tư. Đối với bảo lãnh tín dụng đầu tư, trong năm 2001, Quỹ phát hành bảo lãnh cho 3 dự án với tổng số tiền được bảo lãnh 20 tỷ đồng;
Ngoài các hình thức trên, từ tháng 9 năm 2001, Quỹ bắt đầu triển khai thực hiện hình thức cho vay tín dụng hỗ trợ xuất khẩu. Quỹ đã hỗ trợ cho hơn 30 doanh nghiệp thực hiện 84 hợp đồng chủ yếu xuất khẩu hàng nông, thuỷ sản với số tiền trên 163 tỷ đồng.
89 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1359 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng và giải pháp khuyến khích đầu tư trong nước, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
đãi đầu tư lại bị sao nhãng, mặc dù trong năm 2001, Chính phủ đã ban hành một số văn bản quan trọng quy định, hướng dẫn về đất đai.
Ngoài ra, cũng như thời kỳ trước vẫn tồn tại bất bình đẳng về ưu đãi đất đai giữa 2 thành phần kinh tế Nhà Nước và kinh tế dân doanh. Các DNNN luôn chiếm phần lớn trong diện tích đất được giao và cho thuê. Điều đó dẫn đến tình trạng nhiều doanh nghiệp dân doanh phải thuê lại đất của DNNN. Do đó, họ không được áp dụng những biện pháp miễn giảm tiền thuế đất (Vì Luật KKĐTTN không có quy định về trường hợp thuê lại đất).
2.2.3.3. Về ưu đãi thuế:
Các biện pháp ưu đãi về thuế được quy định chi tiết trong thông tư 146 của Bộ Tài chính, ban hành 17/12/1999. Sau khi ra đời thông tư này đã có nhiều điểm không phù hợp với Luật và Nghị định 51. Do đó, Bộ Tài chính đã ban hành Thông tư 22/2001/TT-BTC thay thế Thông tư trên, một số hướng dẫn được quy định trong Thông tư không phù hợp đã được chỉnh sửa. Tuy nhiên, vẫn còn một số vấn đề vẫn chưa được hướng dẫn thực hiện triệt để, như hướng dẫn các đối tượng thực hiện theo Nghị định 44/1998/NĐ-CP về chuyển doanh nghiệp Nhà Nước thành công ty cổ phần, Nghị định 103/1999/NĐ-CP về giao bán, khoán kinh doanh cho thuê doanh nghiệp Nhà Nước, hoặc đối tượng có dự án đầu tư mở rộng, đầu tư chiều sâu, di chuyển cơ sở ra khỏi đô thị, v.v. theo Phụ lục Danh mục A của Nghị định 51 và các đối tượng được cơ quan thuế áp dụng mức thuế khoán. Mặc dù vậy, các biện pháp ưu đãi về thuế cũng đã được áp dụng tích cực hơn.
Về ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp (bảng 15):
Bảng 15: Tình hình thực hiện ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp qua 2 năm 2000-2001.
Năm 2000
Năm 2001
DN Nhà Nước
DN dân doanh
Tổng
DN Nhà Nước
DN dân doanh
Tổng
Số dự án được cấp ưu đãi
528
1.113
1.641
808
1.617
2.425
Số dự án được hưởng ưu đãi thuế TNDN
212
568
780
648
997
1.645
Số dự án được hưởng ưu đãi thuế TNDN / tổng số dự án được hưởng ưu đãi thuế TNDN (%)
27,2
72,8
100
39,4
60,6
100
Số dự án được hưởng ưu đãi thuế TNDN / tổng số dự án được cấp ưu đãi (%)
40,2
51
47,5
80,2
61,7
67,8
Nguồn : Báo cáo của các Sở KH&ĐT và Vụ Doanh nghiệp Bộ KH và ĐT.
Điều đáng ghi nhận trong thời kỳ này là sự gia tăng số dự án được hưởng ưu đãi thuế TNDN, từ 780 dự án (năm 2000 ) lên 1.645 dự án (năm 2001) tăng hơn 2 lần. Về số tương đối, số dự án được hưởng ưu đãi thuế TNDN trên tổng số dự án được cấp ưu đãi đã tăng từ 47,5% (năm 2000) lên 67,8% (năm 2001). Trong đó số dự án được hưởng ưu đãi TNDN trong tổng số dự án được cấp ưu đãi của khu vực Nhà Nước tăng đột biến, từ 40,2 % (năm 2000) lên 80,2% (năm 2001), còn tỷ trọng này của khu vực kinh tế dân doanh chỉ tăng 10,7% (từ 51% năm 2000 lên 61,7% năm 2001).
Còn về thuế nhập khẩu: trong số 2.425 dự án được hưởng ưu đãi đầu tư có 479 dự án được áp dụng biện pháp miễn giảm thuế nhập khẩu, trong đó DNNN có 232 dự án (chiếm 48,4% tổng số dự án được hưởng biện pháp ưu đãi này); doanh nghiệp dân doanh có 247 dự án được thực hiện biện pháp miễn giảm này (chiếm 51,6% tổng số dự án được hưởng biện pháp ưu đãi này).
Từ số liệu tổng hợp kể trên có thể thấy rằng: các cơ quan chức năng đã quan tâm triển khai thực hiện Luật KKĐTTN với tinh thần cởi mở hơn, đặc biệt là cơ quan các cấp thuộc ngành thuế, và sự phân biệt đối xử giữa các thành phần kinh tế cũng đã được giảm thiểu trong chính sách khuyến khích.
Bên cạnh đó, trong thực tế cũng nẩy sinh một số vấn đề như các doanh nghiệp tư nhân gặp trở ngại trong việc được miễn giảm thuế theo nội dung ưu đãi đầu tư đã được cấp vì đã không thực hiện đúng về sổ sách kế toán , bản thân một số doanh nghiệp không thực hiện sản xuất kinh doanh đúng với phương án đăng ký ưu đãi đầu tư, không đến khai báo với ngành thuế sau khi được cấp giấy chứng nhận ưu đãi đầu tư.
2.2.4 Những vướng mắc cần tháo gỡ trong quá trình thực hiện Luật KKĐTTN (sửa đổi):
Nhìn chung, sau hơn 3 năm thực hiện, Luật KKĐTTN (sửa đổi) đã mang lại kết quả rõ rệt. Nó đã góp phần cải thiện môi trường đầu tư, thu hút nguồn vốn trong dân, góp phần giải quyết công ăn việc làm cho hàng triệu người, thu hút mạnh hơn lượng kiều hối v.v. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện lại nẩy sinh những vướng mắc mới cần phải tháo gỡ để Luật KKĐTTN thực hiện tốt hơn nữa vai trò của mình. Những vướng mắc đó bao gồm:
2.2.4.1 Vướng mắc từ chính bản thân Luật và các văn bản pháp qui hướng dẫn thi hành Luật:
Luật KKĐTTN (sửa đổi) nói chung, đã được quy định rõ ràng hơn Luật KKĐTTN năm 1994 và đã khắc phục được khá nhiều vướng mắc trong quá trình thực hiện Luật KKĐTTN năm 1994 đặt ra. Tuy nhiên, một số vướng mắc kéo dài mà vẫn chưa được xử lý. Ví dụ, trong chương về đảm bảo và hỗ trợ đầu tư có quy định: “trong trường hợp do thay đổi quy định của pháp luật mà làm thiệt hại đến lợi ích của nhà đầu tư thi Nhà Nước cho nhà đầu tư được tiếp tục hưởng các ưu đãi đã quy định cho thời gian còn lại hoặc Nhà Nước giải quyết thoả đáng quyền lợi cho nhà đầu tư”. Về nội dung “tiếp tục hưởng”, Nghị định 51 bước đầu có hướng xử lý, nhưng nội dung “giải quyết thoả đáng” thì từ Luật KKĐTTN (sửa đổi) đến nay, chưa có hướng xử lý nào, đang là một nội dung còn bỏ ngỏ. Cũng trong chương này, Luật KKĐTTN quy định khá nhiều Quỹ: Quỹ hỗ trợ đầu tư, Quỹ hỗ trợ xuất khẩu, Quỹ hỗ trợ phát triển khoa học và công nghệ, nhưng thực tế rất chậm được triển khai và cụ thể hoá.
Luật KKĐTTN (sửa đổi) và Nghị định 51 đã quy định và ban hành danh mục ngành nghề được hưởng ưu đãi nhưng chưa đủ cụ thể và chưa đủ rõ. Mặt khác, một số ngành mới xuất hiện từ thực tế kinh doanh thì danh mục chưa bao quát được, gây khó khăn cho các cơ quan xem xét cấp giấy chứng nhận ưu đãi đầu tư.
Ngoài những vướng mắc kể trên, vẫn tồn tại sự thiếu nhất quán và đồng bộ với các chính sách và các văn bản pháp luật có liên quan. Ví dụ như, Luật đất đai quy định điều kiện để được Nhà Nước giao đất, cho thuê đất là có dự án được cấp có thẩm quyền “phê duyệt”. Trong khi quy chế quản lý đầu tư và xây dựng ban hành kèm theo Nghị định số 52/1999/NĐ-CP ngày 08-07-1999 của Chính phủ quy định các dự án của thành phần kinh tế ngoài quốc doanh do chủ đầu tư tự quyết định. Điều đó cũng có nghĩa là các doanh nghiệp dân doanh không thể có được dự án được cấp có thẩm quyền phê duyệt. Do đó, các địa phương đều lúng túng về thủ tục cho thuê đất đối với đối tượng này. Đến nghị định 12/2000/NĐ-CP ngày 05-05-2000 của Chính phủ về việc sửa đổi một số điều của Quy chế quản lý đầu tư và xây dựng mới có quy định rõ việc UBND cấp có thẩm quyền của địa phương “chấp thuận” về địa điểm, diện tích đất của dự án (không phê duyệt toàn bộ dự án) để làm thủ tục giao đất hoặc cho thuê đất. Từ đó mới có cơ sở pháp lý để giải quyết vấn đề này. Tuy nhiên, Nghị định này lại quy định thêm một điều kiện là “dự án đầu tư sản xuất – kinh doanh đã được chấp nhận đăng ký kinh doanh” trong khi thủ tục nộp phương án đầu tư ban đầu trong hồ sơ đăng ký kinh doanh đã được bãi bỏ theo tinh thần Luật doanh nghiệp. Điều này làm cho các nhà đầu tư, nhất là các nhà đầu tư thuộc khu vực dân doanh, khó tiếp cận được đất đai làm mặt bằng sản xuất – kinh doanh. Một thực tế nữa liên quan đến đất đai là hiện nay, nhiều doanh nghiệp muốn thuê đất trong thời hạn tương ứng với thời gian hoạt động của dự án để chủ động trong việc lập kế hoạch phát triển sản xuất – kinh doanh lâu dài, nhưng thường Nhà Nước chỉ cho thuê đất trong một thời gian ngắn hơn rất nhiều. Điều này làm cho các nhà đầu tư không an tâm, không muốn bỏ vốn lớn để xây dựng, hoặc hiện đại hoá các công trình của doanh nghiệp vì thời gian thuê đất không đủ để có thể thu hồi vốn đầu tư.
Như vậy, để Luật KKĐTTN (sửa đổi) có thể triển khai tốt trong thực tế thì sự phối hợp và nhất quán trong hướng dẫn của các cơ quan có thẩm quyền là vô cùng quan trọng. Và để chủ trương khuyến khích các hoạt động đầu tư trong nước có thể đi vào cuộc sống, được đông đảo nhân dân hưởng ứng thì cùng với việc quy định rõ ràng, minh bạch các nội dung ưu đãi và thủ tục đăng ký và thực hiện ưu đãi tại các văn bản pháp lý về khuyến khích đầu tư, việc quy định các nội dung có liên quan đến chế độ ưu đãi tại các văn bản khác cần đảm bảo tính nhất quán, một cách hiểu với quy định của Luật KKĐTTN hiện hành, cố gắng hạn chế tối đa sự chồng chéo, quy định mâu thuẫn nhau nhằm bảo đảm một nội dung chuyên môn hẹp không để có nhiều cách vận dụng, nhiều cách hiểu khác nhau, gây khó khăn cho doanh nghiệp, cho các chủ đầu tư.
2.2.4.2 Những vướng mắc trong khâu thực hiện Luật:
Có thể nói Luật và các văn bản hướng dẫn thi hành là cơ sở, là bộ khung để thực hiện các chính sách về khuyến khích đầu tư trong nước. Thế nhưng, khâu thực hiện Luật mới có vai trò quyết định đưa Luật đi vào cuộc sống. Sau hơn 3 năm thực hiện, Luật KKĐTTN (sửa đổi) đã đạt được những kết quả rất khả quan. Tuy nhiên nó vẫn chưa thật sự phát huy được vai trò khuyến khích trong giai đoạn phát triển, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Đó là do vẫn còn tồn tại nhiều bất cập trong quá trình thực hiện Luật.
Thứ nhất, thiếu sự chỉ đạo, phối hợp giải thích Luật của các cơ quan chức năng. Trừ một số địa phương có sự quan tâm thực sự và chỉ đạo sát sao của lãnh đạo (như ở thành phố Hồ Chí Minh và một số tỉnh phía Nam), còn ở những địa phương khác việc triển khai thực hiện Luật KKĐTTN (sửa đổi) bị buông lỏng, để mặc cho dân “tự vận động”. Một số biểu hiện cụ thể là:
Chưa có cơ chế phối hợp tốt giữa Sở kế hoạch và đầu tư với cục thuế và các sở, ban, ngành khác, làm chậm quá trình xét duyệt dự án ưu đãi đầu tư, hoặc khi có các ý kiến khác nhau về một vấn đề nào đó thì không có cơ quan nào đứng ra giải quyết. Hậu quả là các nhà đầu tư phải gánh chịu. Đây là một trong các lý do làm giảm lòng tin của các nhà đầu tư vào hiệu lực của Luật KKĐTTN (sửa đổi).
Việc tuyên truyền, tập huấn, phổ biến tinh thần, nội dung Luật và các văn bản pháp qui hướng dẫn thi hành Luật đã được thực hiện nhưng chưa đầy đủ, nên không ít nhà đầu tư hầu như không hay biết gì về chính sách khuyến khích đầu tư của Nhà Nước.
Nhiều biện pháp hỗ trợ đầu tư thuộc chức năng của địa phương như xây dựng các khu công nghiệp, chuẩn bị cơ sở hạ tầng ngoài hàng rào khu công nghiệp, quy hoạch đất đai… đã bị bỏ qua hay thực hiện chưa đến nơi đến chốn, gây thiệt hại cho nhà đầu tư.
Thứ hai, những tồn tại trong thực hiện chính sách đất đai.
Về công tác quy hoạch sử dụng đất. Luật KKĐTTN có quy định UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương định kỳ hàng năm công bố quy hoạch sử dụng đất đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền xét duyệt, công bố quỹ đất chưa sử dụng, quỹ đất đang có nhu cầu cho thuê để các nhà đầu tư có nhu cầu đăng ký nhận thuê hoặc tham gia đấu thầu nhận thuê. Song, cho đến nay sau 3 năm thi hành Luật, công tác này vẫn chỉ được số ít địa phương quan tâm thực hiện, làm cho các doanh nghiệp khó tiếp cận được biện pháp này. Phản ánh từ một số địa phương cho thấy: chỉ có những doanh nghiệp biết “chắc chắn” mới dám làm hồ sơ xin thuê đất hoặc giao đất; còn hầu hết các doanh nghiệp đều nghĩ rằng: làm gì còn đất sản xuất kinh doanh cho doanh nghiệp dân doanh. Điều này dẫn đến tình trạng quỹ đất có, nhưng tỉnh không thể kêu gọi được dự án đầu tư.
Các biện pháp hỗ trợ đầu tư xây dựng các khu công nghiệp, cụm công nghiệp, chuẩn bị cơ sở hạ tầng ngoài hàng rào khu công nghiệp đã được một vài tỉnh/thành phố quan tâm, như Hà Nội, Hải Phòng, Hưng Yên, Tp HCM v.v. Tuy nhiên, có thể nói, đa số các địa phương chưa thực sự quan tâm thực hiện, làm nhiều doanh nghiệp thất vọng. Còn ở các khu công nghiệp, khu chế xuất có cơ sở hạ tầng hoàn chỉnh thì giá thuê đất chưa phù hợp với các doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ (nhất là với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh vốn nhỏ, sức cạnh tranh kém).
Tình trạng phải thuê lại đất. Khảo sát thực tế ở một số tỉnh cho thấy, nhiều doanh nghiệp ngoài quốc doanh phải sử dụng đất của mình làm mặt bằng để sản xuất hoặc phải thuê lại đất của các doanh nghiệp nhà nước, của tổ chức cá nhân khác với giá thuê đất cao hơn gấp nhiều lần giá cho thuê của Nhà nước, thời gian hợp đồng không được lâu. Cá biệt, có doanh nghiệp phải thuê tới 3 - 4 địa điểm khác nhau, dẫn đến đầu tư dàn trải, ảnh hưởng đến công tác quản lý, chi phí giá thành sản phẩm cao làm ảnh hưởng đến sức cạnh tranh của các doanh nghiệp trong quá trình hội nhập.
Chính phủ đã có Nghị định 18/CP ban hành ngày 13/2/1995 quy định việc chuyển đất trong các DNNN được giao để sản xuất, kinh doanh mà không phải là sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản, làm muối đều phải chuyển sang hình thức thuê đất của Nhà nước. Nhưng quy định này hầu như chưa được thực hiện, vì hầu hết các DNNN đều tìm cách khước từ việc kê khai, đăng ký chuyển mục đích sử dụng đất với những lý do khác nhau như: vẫn còn nhu cầu sử dụng, đang lập dự án, đang xin, chờ vốn đầu tư, hoặc đưa ra mức đòi đền bù rất cao cho phần kinh phí đã đầu tư v.v. Ngoài ra, còn có cơ quan chủ quản đề nghị cho đơn vị được tiếp tục sử dụng đất, dù biết rõ đất đó đang bị bỏ hoang không được sử dụng hoặc sử dụng không có hiệu quả, sai mục đích. Ví dụ như ở Hà Nội, theo số liệu tổng hợp từ kết quả của một cuộc điều tra của Sở Địa chính trong năm 2001 cho thấy, có: 675 tổ chức sử dụng đất sai mục đích với diện tích 152,15 ha; 272 tổ chức để đất hoang hoá hoặc chưa sử dụng 128,5 ha đất.
Ngoài thiệt thòi phải trả chi phí cao (tiền thuê, tiền đền bù,..), các trường hợp thuê lại đất lại không được áp dụng được biện pháp ưu đãi miễn giảm tiền thuê đất (vì Luật KKĐTN không có quy định về trường hợp thuê lại đất). Đây là một trong nhiều nguyên nhân đã và đang làm hạn chế chủ trương khuyến khích, ưu đãi đầu tư của Nhà nước.
Chuyển mục đích sử dụng đất là một trong những khâu khó khăn nhất. Nhiều doanh nghiệp gặp khó khăn, thiệt thòi trong việc chuyển mục đích sử dụng đất. Chẳng hạn, doanh nghiệp phải nộp thuế chuyển mục đích sử dụng đất và tiền thuê đất cho chính mảnh đất mình đã sử dụng trước đó. Đây là những khoản tiền lớn đối với họ.
Như vậy, ngoài việc phải trả tiền thuê đất theo quy định (có thể sau khi ký hợp đồng chuyển sang hình thức thuê đất doanh nghiệp cũng được áp dụng các biện pháp miễn, giảm tiền thuê đất), nhà đầu tư trước đó còn phải nộp thuế chuyển mục đích sử dụng đất, dẫn đến chi phí rất lớn cho doanh nghiệp. Không ít trường hợp doanh nghiệp chỉ đủ kinh phí đóng thuế chuyển mục đích sử dụng đất, do vậy chỉ chuyển một phần nhỏ diện tích sang thuê, dẫn đến vi phạm các quy định quản lý đất đai.
Thế chấp quyền sử dụng đất vẫn đang là khâu ách tắc. Việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở trong thời gian qua đã được Chính phủ quan tâm đẩy nhanh tiến độ thực hiện tuy cũng đã đạt được một số kết quả, nhưng vẫn chưa đáp ứng được với nhu cầu thực tế của nhà đầu tư. Vấn đề này cũng đang là một cản trở lớn đến doanh nghiệp trong việc hoàn thành hồ sơ vay vốn tài sản thế chấp ngân hàng.
Còn trong trường hợp có đủ giấy tờ để thế chấp hoặc được tổ chức tín dụng chấp thuận cho thế chấp không cần "sổ đỏ", thì người có tài sản thế chấp cũng chỉ được vay khoản tiền bằng 70% giá trị đất thế chấp theo bảng giá do tỉnh, thành phố ban hành (Nghị định 178/CP). Trong khi mức giá theo quy định tại Nghị định 87/CP về khung giá các loại đất rất thấp so với giá thực tế tại địa phương. Ngoài ra, pháp luật đất đai chưa cho phép người sử dụng đất được thế chấp quyền sử dụng đất tại các tổ chức tín dụng nước ngoài để vay vốn. Điều này phần nào hạn chế việc thu hút vốn cho đầu tư.
Thứ ba, những khó khăn trong tiếp cận tín dụng đầu tư.
Về cho vay đầu tư. Theo quy định tại điều 8 Nghị định 43, chỉ những dự án thuộc địa bàn khó khăn hoặc đặc biệt khó khăn và thuộc 6 ngành nghề (trồng rừng nguyên liệu, nuôi trồng thuỷ sản, hạ tầng cơ sở v.v.) được hưởng biện pháp cho vay đầu tư. Như vậy, các đối tượng được hưởng biện pháp vay vốn đầu tư được quy định quá hẹp, không phù hợp với quy định tại Nghị định 51 (Nghị định 51 quy định tất cả các dự án thuộc danh mục A, B, C đều được hưởng biện pháp cho vay đầu tư).
Ngoài ra, thủ tục vay quá phức tạp và vẫn còn thể hiện sự phân biệt giữa các thành phần kinh tế, nhất là đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Theo Nghị định: " Các chủ đầu tư không phải là DNNN, khi vay vốn ngoài việc dùng tài sản hình thành từ vốn vay để bảo đảm tiền vay, phải có tài sản thế chấp trị giá tối thiểu bằng 50% mức vốn vay. Tuy nhiên, đa số các DN dân doanh hiện nay hầu như không có vốn tự có từ 30-50% số vốn dự định đầu tư, chưa nói gì đến các DN vùng sâu, vùng xa. Điều đó làm cho nguồn vốn của Quỹ nằm ngoài tầm với của các doanh nghiệp dân doanh, đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Về hỗ trợ lãi suất sau đầu tư. Phần lớn các dự án được hưởng ưu đãi đầu tư đề nghị được hỗ trợ lãi suất sau đầu tư, tuy nhiên điều kiện để được hỗ trợ theo quy định tại Nghị định số 43/1999/NĐ-CP quá hẹp, dẫn đến tình trạng doanh nghiệp không tiếp cận được nguồn hỗ trợ này. Ví dụ như: quy định về việc, dự án muốn được hưởng ưu đãi hỗ trợ lãi suất sau đầu tư thì phải đảm bảo yêu cầu là chưa hề vay một đồng vốn ưu đãi nào; dự án không được phép điều chỉnh thời gian vay vốn và dự án phải được bố trí kế hoạch cấp hỗ trợ lãi suất sau đầu tư do cấp có thẩm quyền phê duyệt.
Một số dự án vay vốn đầu tư của các tổ chức tín dụng bằng ngoại tệ đề nghị được hỗ trợ lãi suất sau đầu tư. Tuy nhiên, tại Nghị định số 43 chưa có quy định về vấn đề này. Điểm quan trọng nữa làm nản lòng các nhà đầu tư là trình tự, thủ tục để hỗ trợ lãi suất sau đầu tư rất phức tạp.
Về bảo lãnh tín dụng đầu tư . Đây là biện pháp cực kỳ quan trọng, song việc triển khai rất chậm, còn nhiều ách tắc. Trong cả năm 2000 Quỹ chưa phát hành thư bảo lãnh, sang năm 2001 kết quả đã khá hơn, nhưng Quỹ cũng chỉ thực hiện bảo lãnh cho 16 dự án, trong đó DNNN 12 dự án (chiếm 88,2%). Lý giải cho việc triển khai chậm này người ta cho rằng có 3 nguyên nhân:
Một là, điều kiện được hưởng bảo lãnh tín dụng đầu tư rất phức tạp. Đối tượng được hưởng bảo lãnh là các dự án được hưởng ưu đãi theo Luật nhưng không được hỗ trợ lãi suất sau đầu tư, không được vay hoặc mới được vay một phần vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước. Ngoài ra, chủ đầu tư muốn được được bảo lãnh tín dụng phải được tổ chức tín dụng thẩm định cho vay có văn bản yêu cầu bảo lãnh.
Hai là, vẫn còn sự phân biệt đối xử giữa các thành phần kinh tế. Cũng như biện pháp cho vay đầu tư, chủ đầu tư không phải là doanh nghiệp nhà nước, khi được bảo lãnh, ngoài việc dùng tài sản hình thành bằng vốn vay để bảo đảm cho bảo lãnh, phải có tài sản thế chấp trị giá tối thiểu bằng 50% mức vốn được bảo lãnh. Điều này khiến cho các doanh nghiệp dân doanh khó tiếp cận biện pháp này.
Ba là, bảo lãnh tín dụng đầu tư có rủi ro cao hơn so với 2 hình thức kể trên, trong khi đó nguồn vốn của Quỹ lại rất hạn chế.
Thứ tư, về vấn đề thực hiện thủ tục cấp ưu đãi đầu tư.
Thời gian làm thủ tục còn dài, một số địa phương kéo dài gấp 3 đến 5 lần thời gian quy định. Chậm trễ trong khâu xét, cấp ưu đãi đầu tư ở một số địa phương cũng là một trong những trở ngại làm nản lòng các nhà đầu tư, làm mất đi không ít cơ hội đầu tư.
Thủ tục xác nhận danh mục máy móc thiết bị, nguyên liệu nhập khẩu được miễn thuế nhập khẩu còn phức tạp. Với thủ tục này, đối với việc nhập máy móc thiết bị để tạo tài sản cố định, cơ quan tham khảo ý kiến thường là Sở công nghiệp, Sở khoa học – công nghệ và môi trường, sở xây dựng. Thời gian xác nhận trung bình 6 ngày, tuy vậy vẫn còn có tỉnh kéo dài tới 180 ngày như trường hợp tỉnh Hà Giang.
Vấn đề đáng nói ở đây là thủ tục xét cấp ưu đãi nhập khẩu đối với nguyên liệu lại quay trở lại quy trình phiền hà, tốn kém trước đây, tức là, các doanh nghiệp phải đến Bộ thương mại trình nộp hồ sơ để Bộ này xem xét. Cả nước hiện có hàng vạn doanh nghiệp đăng ký hoạt động xuất nhập khẩu, chỉ tính riêng khâu đi lại làm thủ tục cũng gây ra lãng phí tiền của, thời gian, sức lực đối với nhà đầu tư.
Một trong những yêu cầu trong thủ tục xét, cấp ưu đãi đầu tư đang gây lúng túng và khó khăn cho những nhà đầu tư, nhất là những nhà đầu tư tư nhân là đòi hỏi trình “dự án”. Nghị định 52 về đầu tư xây dựng có nêu các yêu cầu của một dự án đầu tư những nó khá “khắt khe”, chỉ nên áp dụng cho các dự án lớn.
Như vậy, qua hơn 7 năm thực hiện Luật KKĐTTN có thể thấy, những kết quả đạt được vẫn còn khiêm tốn, chưa tương xứng với tiềm năng và yêu cầu. Có tình trạng đó là do những tồn tại như: môi trường đầu tư chưa thông thoáng khuôn khổ pháp lý chưa đầy đủ, thủ tục còn phiền hà, nhà đầu tư chưa mạnh dạn bỏ vốn vào những lĩnh vực, ngành nghề và địa bàn mà Nhà Nước khuyến khích nhất là đối với các vùng sâu, vùng xa, vùng còn nhiều khó khăn v.v. Tồn tại đó đòi hỏi cần phải có một hệ thống giải pháp cụ thể và hiệu quả hơn để tiếp tục khuyến khích hoạt động đầu tư trong nước.
Chương 3: một số khuyến nghị về giải pháp khuyến khích đầu tư trong nước.
Trên cơ sở tổng hợp, nghiên cứu các vấn đề lý luận chủ yếu về đầu tư và khuyến khích đầu tư trong nước, thông qua sự phân tích những kết quả đạt được, những mặt hạn chế của thực trạng khuyến khích đầu tư trong nước thời gian qua, tôi xin khuyến nghị một số giải pháp chủ yếu nhằm tiếp tục khuyến khích mạnh mẽ hơn nữa hoạt động đầu tư trong nước.
3.1. Định hướng quan điểm KKĐTTN:
Tinh thần chung của việc khuyến khích đầu tư trong nước là nhằm tiếp tục công cuộc đổi mới, phát huy nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, cần kiệm để CNH, HĐH đất nước. Cụ thể, cần nắm vững các định hướng quan điểm dưới đây:
Cơ chế, chính sách và giải pháp khuyến khích đầu tư trong nước phải bảo đảm thúc đẩy sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế và điều chỉnh cơ cấu đầu tư.
Việc khuyến khích đầu tư phải trên cơ sở phát huy nội lực, bảo đảm tính nhất quán với các chính sách thu hút các nguồn lực đầu tư từ bên ngoài.
Bảo đảm môi trường đầu tư bình đẳng trong việc khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia các hoạt động đầu tư.
Lựa chọn được những ngành, lĩnh vực và địa bàn cần khuyến khích đầu tư.
Để thực hiện tốt các định hướng chiến lược đó, theo tôi nên thực hiện các giải pháp sau:
3.2. Những khuyến nghị nhằm hoàn thiện khung pháp lý cho KKĐTTN:
Thứ nhất, các Bộ, ngành liên quan, UBND tỉnh, thành phố rà soát, sửa đổi, bổ sung những văn bản do đơn vị mình ban hành cho phù hợp với Luật KKĐTTN (sửa đổi) và Nghị định 51/1999/CP. Một số khuyến nghị cụ thể như sau:
Bộ Kế hoạch và Đầu tư nghiên cứu, lập Danh mục các ngành, nghề, lĩnh vực nhà đầu tư là người nước ngoài được góp vốn, mua cổ phần với mức không quá 30% vốn điều lệ của doanh nghiệp Việt Nam trình Chính phủ xem xét quyết định; chủ trì phối hợp với các cơ quan liên quan để hướng dẫn bổ sung thủ tục cấp ưu đãi đầu tư cho các đối tượng quy định tại Nghị định số 73/1999/NĐ-CP về chính sách khuyến khích xã hội hoá đối với các hoạt động trong lĩnh vực giáo dục, y tế, văn hoá, thể thao.
Bộ Tài chính tiếp tục nghiên cứu sửa đổi, bổ sung Thông tư 22/2001/TT-BTC theo hướng:
- Làm rõ và cụ thể hơn về trình tự, thủ tục để được hưởng ưu đãi thuế đối với các doanh nghiệp được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh mới theo Nghị định số 44/1998/NĐ-CP về chuyển doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần và Nghị định số l03/1999/NĐ-CP về giao bán, khoán kinh doanh cho thuê doanh nghiệp nhà nước, nhằm thúc đẩy quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp và tạo điều kiện thu hút vốn đầu tư từ khu vực tư nhân.
- Hình thức khoán thuế do cơ quan thuế cho phép các cơ sở kinh doanh áp dụng cũng cần được hiểu là “cơ sở đã thực hiện đầy đủ các quy định về thuế”, để được xét cấp ưu đãi, có như vậy thì các cơ sở kinh doanh được khoán thuế mới có thể tiếp cận được với các biện pháp ưu đãi đầu tư.
- Đối với hình thức đầu tư mở rộng, đầu tư chiều sâu theo quy định tại Mục VI của Danh mục A (Đầu tư xây dựng dây chuyền sản xuất, mở rộng qui mô, đổi mới công nghệ; cải thiện sinh thái và môi trường, vệ sinh đô thị; đa dạng hoá ngành, nghề, sản phẩm) cần được hướng dẫn thực hiện các biện pháp hỗ trợ, ưu đãi đặc biệt là thuế suất và thời gian được hưởng miễn giảm theo quy định của Nghị định 51/1999/NĐ-CP.
Bộ Khoa học Công nghệ và Môi trường chủ trì phối hợp với các cơ quan liên quan để hướng dẫn bổ sung thủ tục cấp ưu đãi đầu tư cho các đối tượng quy định tạị Nghị định số 119/1999/NĐ-CP về một số chính sách và cơ chế tài chính khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư vào hoạt động khoa học và công nghệ.
Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn chủ trì, phối hợp với các cơ quan liên quan để hướng dẫn bổ sung thủ tục cấp ưu đãi đầu tư cho các đối tượng quy định tại Nghị quyết số 03/2000/NQ-CP ngày 2 tháng 2 nằm 2000 của Chính phủ về kinh tế trang trại.
Tổng cục Địa chính ban hành Thông tư hướng dẫn và tuyên truyền rộng rãi đến người dân về thủ tục giao đất, cho thuê đất phù hợp với những quy định liên quan về quản lý đầu tư và xây dựng, khuyến khích đầu tư trong nước. Cải cách thủ tục xét cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, nhà ở; có quy định cụ thể thời gian thục hiện công tác này như công tác xét cấp đăng ký kinh doanh, xét cấp ưu đãi đầu tư của các cơ quan quản lý nhà nước.
Quỹ Hỗ trợ phát triển chủ trì, phối hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính và các cơ quan liên quan cụ thể hoá các quy định về điều kiện, trình tự, thủ tục hỗ trợ lãi suất sau đầu tư theo quy định tại Điều 26, Điều 29, Nghị định số 43/1999/NĐ- CP về tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước. Sửa đổi Điều 6 Nghị định 43/1999/NĐ-CP cho phù hợp với Nghị định 51/CP theo hướng: tất cả các dự án được cấp giấy chứng nhận ưu đãi đầu tư theo Luật KKĐTTN (sửa đổi) đều được hưởng biện pháp cho vay đầu tư chứ không phải chỉ hạn chế cho địa bàn khó khăn và đặc biệt khó khăn thuộc 6 ngành nghề như hiện nay. Đồng thời nghiên cứu việc hỗ trợ lãi suất sau đầu tư cho các dự án vay vốn đầu tư của các tổ chức tín dụng bằng ngoại tệ.
Thứ hai, từng bước giảm thiểu sự khác biệt giữa Luật KKĐTTN và Luật đầu tư nước ngoài, từ đó thống nhất thành một Luật chung điều chỉnh hoạt động đầu tư. Trong điều kiện nước ta hiện nay, việc tồn tại những khác biệt nhất định giữa Luật KKĐTTN và Luật đầu tư nước ngoài là một tất yếu của lịch sử. Về cơ bản, những khác biệt đó có thể phân thành: những điểm khác biệt thuộc về bản chất không thể hoặc chưa thể thay đổi được (như về đất đai; hình thức pháp lý, cơ cấu tổ chức của các xí nghiệp; các vấn đề về lĩnh vực đầu tư và thị trường tiêu thụ v.v.) và những điểm khác biệt thuộc về hình thức (như chế độ miễn, giảm, thực hiện nghĩa vụ đóng thuế; tiền lương, giá, phí một số hàng hoá, dịch vụ v.v.). Theo ý kiến cá nhân, để giảm bớt sự phân biệt giữa đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài, các nhà lập pháp cần từng bước giảm sự khác biệt thuộc về hình thức. Và khi Luật KKĐTTN và Luật đầu tư nước ngoài đã thực hiện xong sứ mệnh lịch sử của mình, nên ban hành một đạo Luật chung điều chỉnh hoạt động đầu tư trong nước, tạo một môi trường bình đẳng cho đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài.
3.3. Những khuyến nghị nhằm tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh:
Để Luật KKĐTTN (sửa đổi) đi vào cuộc sống thì nhất thiết là phải tạo được lòng tin của các nhà đầu tư bằng cách bảo đảm an toàn và ngày càng sinh lời từ nguồn vốn họ bỏ ra. Muốn vậy, phải có môi trường đầu tư thuận lợi, ngày càng cải thiện cho hoàn chỉnh. ở nước ta, môi trường đầu tư tuy đã được Chính phủ quan tâm nhưng chưa thực sự được cải thiện đáng kể. Môi trường đầu tư là cả điều kiện vật chất và điều kiện pháp lý. Do đó, bên cạnh những giải pháp nhằm hoàn thiện khung pháp lý cho hoạt động đầu tư trong nước kể trên, cần thực hiện những công việc sau:
Thứ nhất, Nhà Nước cần có chính sách nhất quán phát triển kinh tế xã hội với sự tham gia bình đẳng của các thành phần kinh tế. Nhà Nước cần có chiến lược phát triển cho từng ngành, từng lĩnh vực. Từ đó các nhà đầu tư sẽ lựa chọn kế hoạch đầu tư cho phù hợp với mục tiêu tăng trưởng kinh tế theo đường lối của Đảng và Nhà Nước.
Thứ hai, Nhà nước cần sử dụng các công cụ tài chính, tiền tệ để tạo môi trường đầu tư an toàn, kiểm soát lạm phát, ổn định sức mua của đồng tiền. Có như vậy mới đảm bảo được hiệu quả đầu tư và khuyến khích người dân bỏ vốn vào kinh doanh.
Thứ ba, cần xây dựng mới và hoàn thiện các cơ sở hạ tầng để phục vụ cho việc trao đổi hàng hoá, phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế thị trường. Vấn đề này cần xúc tiến càng nhanh càng tốt vì chính nó đang là yếu tố cản trở nhiều công trình đầu tư của nước ngoài vào Việt Nam cũng như của các doanh nghiệp trong nước.
Thứ tư, cần cải thiện môi trường kinh doanh . Hoạt động kinh doanh đa dạng, có hiệu quả sẽ khuyến khích người có tiền tham gia đầu tư để đồng vốn sinh lời. Nếu sản xuất kinh doanh không sinh lời sẽ làm cho người có tiền tích trữ vàng, ngoại tệ mạnh. Từ môi trường kinh doanh thuận lợi, xu thế phát triển của các doanh nghiệp sẽ là sức hút các nhà đầu tư bỏ vốn vào kinh doanh.
3.4. Những khuyến nghị nhằm đưa Luật KKĐTTN (sửa đổi) đi vào cuộc sống:
Để Luật KKĐTTN (sửa đổi) thực sự đi vào cuộc sống, xin khuyến nghị một số giải pháp như sau:
Thứ nhất, cần quán triệt tinh thần và nội dung Luật KKĐTTN (sửa đổi) đến cán bộ lãnh đạo các tỉnh, thành phố để từ đó tất cả các UBND tỉnh, thành phố có nhận thức đầy đủ về tầm quan trọng của Luật này như một công cụ trong việc phát huy nội lực để công nghiệp hoá, hiện đại hoá tại địa phương và chú trọng hơn tới việc chỉ đạo cụ thể công tác triển khai thực hiện Luật KKĐTTN (sửa đổi) tại địa bàn phụ trách của mình.
Thứ hai, UBND các tỉnh phải là đầu mối chỉ đạo, ban hành cơ chế phối hợp giữa Sở Kế hoạch và Đầu tư, Cục Thuế và Sở Địa chính để giải quyết những vấn đề vướng mắc cho các nhà đầu tư; chỉ đạo và đôn đốc các cơ quan trong tỉnh định kỳ 6 tháng và 1 năm có tổng hợp báo cáo về một đầu mối (Sở KH&ĐT) việc thực hiện Luật. Đồng thời chỉ đạo UBND các quận, huyện phổ biến, hướng dẫn thủ tục đề nghị được hưởng ưu đãi đầu tư đến các cơ sở, hộ kinh doanh, các hợp tác xã trên địa bàn quản lý.
Thứ ba, các cơ quan đăng ký kinh doanh niêm yết các quy định về Luật KKĐTTN (sửa đổi) để các nhà đầu tư mới có thể tham khảo. Cần tổ chức thêm các cuộc tập huấn, phổ biến rộng rãi Luật đến các nhà đầu tư tiềm năng, các doanh nghiệp, đặc biệt đến các địa bàn khó khăn và đặc biệt khó khăn.
Thứ tư, giữa các Bộ, ngành có liên quan đến chính sách khuyến khích cần hình thành một cơ chế phối hợp từ cấp trung ương đến đại phương để giải quyết kịp thời những khó khăn cho các nhà đầu tư. Các cơ quan quản lý nhà nước ở các địa phương, cần hướng dẫn cho các doanh nghiệp việc thực hiện các điều kiện để được hưởng ưu đãi, có báo cáo theo định kỳ việc thực hiện các biện pháp ưu đãi. Như vậy, giúp cho việc tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc được nhanh chóng, công tác tổng kết của các ngành ở các cấp cũng có được kết quả trung thực hơn.
Thứ năm, tổ chức tập huấn cho các cán bộ quản lý địa phương, tăng cường hỗ trợ về nghiệp vụ và kinh phí hoạt động cho bộ máy quản lý Nhà Nước thực hiện công việc này.
Thứ sáu, tuyên truyền, phổ biến rộng rãi chính sách khuyến khích, ưu đãi đầu tư của Nhà nước đến các nhà đầu tư và mọi tầng lớp nhân dân thông qua các phương tiện thông tin đại chúng như báo chí, truyền hình, truyền thanh, mạng Internet … Làm sao để khi cần tìm kiếm thông tin nhà đầu tư có thể dễ dàng kiếm được.
3.5. Các giải pháp nhằm khuyến khích mạnh đầu tư của khu vực kinh tế dân doanh:
Để thực hiện thành công các mục tiêu CNH, HĐH đất nước thì không thể thiếu được sự đóng góp của khu vực dân doanh. Để khuyến khích mạnh mẽ đầu tư của khu vực dân doanh theo tôi cần tập trung giải quyết một số vấn đề sau:
Thứ nhất, phải tạo một môi trường pháp lý bình đẳng giữa khu vực quốc doanh và khu vực dân doanh. Các văn bản pháp lý cho kinh doanh được xây dựng là để hỗ trợ và tạo điều kiện thuận lợi cho kinh doanh, bảo vệ lợi ích hợp pháp của nhà kinh doanh. Do đó, các quy định phải cụ thể, nhất quán, dễ hiểu, dễ thực hiện để có thể thực hiện thống nhất trong toàn quốc, không để cho cán bộ thừa hành các cấp tuỳ tiện giải thích và vận dụng theo ý kiến chủ quan của mình. Trong các văn bản pháp luật, phải đảm bảo không có sự phân biệt giữa thành phần kinh tế Nhà Nước và kinh tế dân doanh về quyền lợi và trách nghiệm. Muốn làm được điều đó, nên thống nhất Luật doanh nghiệp Nhà Nước và Luật doanh nghiệp, để tất cả các doanh nghiệp chịu sự điều chỉnh của một Luật duy nhất. Bên cạnh đó, cần tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Luật Doanh nghiệp; xoá bỏ các "giấy phép con" trái với Luật Doanh nghiệp; đồng thời xử lý nghiêm túc những cơ quan ban hành văn bản núp dưới danh nghĩa tăng cường quản lý nhà nước, song thực chất là gây thêm khó khăn cho doanh nghiệp tư nhân.
Thứ hai, phải nâng cao nhận thức và quan điểm đối xử với khu vực kinh tế dân doanh. Muốn vậy, phải xác định đúng đắn vai trò của khu vực kinh tế dân doanh. Cần khẳng định phát triển kinh tế dân doanh không mâu thuẫn với định hướng XHCN ở nước ta. Mặc dù kinh tế dân doanh phát triển nhằm mục đích lợi nhuận, vì vậy nó có thể gây ra những hậu quả không mong muốn như chênh lệch giàu nghèo, sẽ không tránh khỏi tình trạng bóc lột, bất công. Song bên cạnh đó kinh tế dân doanh tạo ra sự phát triển ổn định, phồn vinh và đây chính là tiền đề quan trọng nhất để Nhà Nước thực hiện các mục tiêu công bằng xã hội, duy trì định hướng xã hội chủ nghĩa. Ngoài ra, trong thời kỳ mới cần phải tôn vinh các doanh nhân, coi kinh doanh cũng là một nghề cao quý. Cần có những hình thức khen thưởng các chủ doanh nghiệp xứng đáng. Muốn nâng cao vị thế của các doanh nghiệp không thể không nói đến vai trò của hệ thống thông tin đại chúng. Các phương tiện thông tin đại chúng không nên chỉ nhìn vào những mặt tiêu cực cá biệt của các doanh nhân, mà nên đưa ra các điển hình tiêu biểu của các doanh nghiệp dân doanh. Bên cạnh các biện pháp kể trên, cần phải củng cố và xây dựng bộ máy Nhà Nước vững mạnh. Bộ máy Nhà Nước phải có tinh thần hỗ trợ cho khu vực kinh tế dân doanh. Cần nâng cao tính chuyên nghiệp của bộ máy thông qua việc tiêu chuẩn hoá cán bộ và quy định cụ thể chức năng nhiệm vụ của từng cơ quan Nhà Nước. Gắn quyền hạn với trách nghiệm, có chế độ đãi ngộ thoả đáng, đồng thời buộc các cán bộ các cấp phải chịu trách nghiệm cá nhân, kể cả trách nghiệm vật chất nếu phạm phải các sai lầm làm tổn hại đến các lợi ích của nhân dân.
3.6. Các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của các biện pháp hỗ trợ đầu tư:
Thứ nhất, mở rộng tín dụng đầu tư cho các dự án dân doanh. Muốn làm được việc này thì bên cạnh việc sửa đổi, bổ sung Thông tư 22/2001/TT-BTC như trên đã trình bày, cần phải:
Phân cấp cho UBND tỉnh, giám đốc Chi nhánh Quỹ Hỗ trợ phát triển quyết định mức cho vay vốn tối đa của một dự án được hưởng ưu đãi đầu tư.
Quy định thời hạn giải ngân, giảm thiểu thủ tục để doanh nghiệp có thể chủ động đầu tư kịp thời. Xoá bỏ sự phân biệt đối xử trong thủ tục thế chấp tài sản để vay vốn giữa DNNN và doanh nghiệp dân doanh.
Khoanh một phần của Quỹ HTPT cho tín dụng đầu tư cho khu vực dân doanh, công bố công khai nguồn, thủ tục vay vốn cho toàn dân biết.
Cần cải cách về thông báo và đăng ký vốn vay, theo hướng: Quỹ thông báo tổng mức vốn vay tín dụng đầu tư phát triển đối với các dự án nhóm B, C cho các tỉnh/thành phố; đối với dự án thuộc nhóm A, thì ghi danh mục và mức vốn cho từng dự án. Trên cơ sở đó các tỉnh/thành phố cân đối và quyết định.
Đề nghị phân cấp việc thẩm định các dự án hỗ trợ lãi suất sau đầu tư cho Chi nhánh Quỹ hỗ trợ tại các địa phương thẩm định, UBND tỉnh/Tp ra quyết định. Như vậy, cơ hội đầu tư và tiến độ thực hiện của các dự án đầu tư sẽ được đẩy nhanh hơn.
Để biện pháp bảo lãnh tín dụng mang lại hiệu quả cao hơn nữa, đề nghị xoá bỏ sự phân biệt trong thủ tục thế chấp tài sản giữa doanh nghiệp dân doanh và doanh nghiệp quốc doanh.
Thứ hai, minh bạch, thông thoáng, đơn giản hơn nữa thủ tục đất đai và thủ tục hành chính. Mặc dù, việc giao đất và cho thuê đất trong thời gian qua đã có khả quan hơn so với những năm trước đây, nhưng đến nay việc thế chấp tài sản khi vay vốn vẫn còn khó khăn đối với chủ đầu tư, vì còn nhiều nơi chưa cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc giấy chứng nhận sở hữu nhà ở nên không đủ chứng từ tài sản thế chấp theo quy định của ngân hàng. Do đó, để nâng cao hiệu quả của biện pháp giao đất và cho thuê đất của chính phủ, cần phải:
Đẩy nhanh tiến độ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và giấy chứng nhận sở hữu nhà ở, tạo thuận lợi cho các nhà đầu tư có tài sản thế chấp trong việc tạo nguồn vốn để hoạt động sản xuất kinh doanh.
Thực hiện triệt để việc thu hồi đất đã được giao hay cho tổ chức thuê đang để hoang hoá, sử dụng sai mục đích, v.v. và làm tốt công tác quy hoạch đất, có kế hoạch công bố công khai các hạng mục, diện tích kêu gọi đầu tư hoặc cho đấu thầu diện tích đất. Nên cho phép cấp tỉnh được quyền cho thuê với diện tích lớn hơn hiện nay, thay vì hạn chế dưới 1 ha. Đồng thời, cải cách trình tự, thủ tục xin thuê đất và xây dựng.
Có hướng dẫn cụ thể về nội dung và chuẩn mực dự án đầu tư để thống nhất thực hiện. Một trong những yêu cầu trong thủ tục xét, cấp ưu đãi đầu tư đang gây lúng túng và khó khăn cho nhiều nhà đầu tư, nhất là những nhà đầu tư tư nhân là đòi hỏi trình "dự án", trong khi khái niệm "dự án" cũng như chuẩn mực nội dung của nó chưa được quy định thống nhất và hướng dẫn cụ thể trong các văn bản của Chính phủ. Một số văn bản hiện hành (như Nghị định 52 về đầu tư xây dựng) có nêu các yêu cầu của một dự án đầu tư, nhưng đó là những đòi hỏi khá "khắt khe" áp dụng cho các dự án lớn. Do vậy, để giảm bớt khó khăn, phức tạp về thủ tục cho các nhà đầu tư, cần phải có hướng dẫn cụ thể về nội dung và chuẩn mực của dự án đầu tư để các ban ngành liên quan thống nhất thực hiện.
Kết luận
Chính sách khuyến khích đầu tư có vai trò rất quan trọng đối với hoạt động đầu tư trong nước. Nó tạo môi trường, động lực để khuyến khích hoạt động đầu tư theo định hướng phát triển của từng quốc gia. Đề tài “Thực trạng và giải pháp khuyến khích hoạt động đầu tư trong nước” là một đề tài nghiên cứu về vấn đề đó. Sau khi hoàn thành xong đề tài, tôi thấy có thể rút ra một số kết luận như sau:
1. Về mặt lý luận: Luận văn đã chỉ ra được vai trò của khuyến khích đầu tư trong nước đồng thời đưa ra những kinh nghiệm về khuyến khích đầu tư trong nước của một số nước trên thế giới mà Việt Nam có thể học hỏi được.
2. Trên cơ sở những lý luận đã trình bày, luận văn đi sâu vào phân tích chính sách khuyến khích đầu tư trong nước (mà cụ thể là Luật KKĐTTN và hệ thống các văn bản pháp qui hướng dẫn thi hành Luật KKĐTTN). Luận văn đã tổng hợp những kết quả đạt được đồng thời làm rõ những nguyên nhân của những tồn tại trong quá trình thực hiện Luật KKĐTTN.
3. Khi phân tích những kết quả đã đạt được, tác giả đã chủ động phân tích theo cơ cấu đầu tư để có cái nhìn tổng quát, toàn diện và trung thực về hoạt động đầu tư trong nước.
4. Còn khi phân tích những tồn tại cần khắc phục, tác giả phân tích theo hai hướng: những tồn tại tại chính những văn bản pháp qui hướng dẫn thi hành Luật KKĐTTN và những tồn tại trong khâu thực hiện từ Trung Ương đến các địa phương.
5. Cuối cùng, luận văn đưa ra những giải pháp mang tính chất khuyến nghị nhằm thúc đẩy mạnh mẽ hoạt động đầu tư trong nước. Trong phần này, tác giả đã cố gắng đưa ra những giải pháp cụ thể, có khả năng thực hiện.
Có thể nói, trong phạm vi luận văn của mình, tác giả đã cố gắng đi sâu vào các nội dung cơ bản theo mục đích, phạm vi nghiên cứu, áp dụng các phương pháp nghiên cứu đã được xác định. Tuy nhiên, do vấn đề rộng, tài liệu về thi hành Luật KKĐTTN chưa nhiều, năng lực bản thân có hạn, nên không tránh được việc còn có những sai sót. Rất mong được sự chỉ bảo của thầy cô giáo và bạn bè.
Phụ lục 1: Các văn bản hướng dẫn thi hành Luật KKĐTTN ban hành ngày 22-6-1994.
Nghị định 29/CP, ngày 12-5-1995 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật Khuyến khích đầu tư trong nước
Thông tư 03/TT-NH1, ngày 1-9-1995 của Ngân hàng Nhà Nước Việt Nam, hướng dẫn thi hành Nghị định 29/CP.
Thông tư 06/UB-QLKT, ngày 27-9-1995 của uỷ ban kế hoạch Nhà Nước (nay là Bộ Kế hoạch và ĐT), qui định trình tự, thủ tục cấp giấy chứng nhận ưu đãi đầu tư theo Luật KKĐTTN .
Công văn 1394/NHCT-TD, ngày 27-9-1995 của Ngân hàng Công thương Việt Nam, hướng dẫn về cho vay ưu đãi lãi suất đối với các doanh nghiệp làm hàng xuất khẩu.
Quyết định 808/TTG, ngày 9-12-1995, của Chính phủ về thành lập Quỹ Hỗ trợ đầu tư quốc gia. Quyết định này hiện nay đã bị bãi bỏ.
Thông tư 94TC/TCT, ngày 22-12-1995, của Bộ tài chính, hướng dẫn về thủ tục, trình tự, thẩm quyền xét miễn, giảm thuế theo Luật KKĐTTN.
Thông tư 96 TC/TCT, ngày 30-12-1995, của Bộ tài chính, hướng dẫn thu thuế đối với các trường hợp chuyển nhượng vốn của các chủ đầu tư trong các doanh nghiệp được thành lập theo Luật công ty, Luật doanh nghiệp tư nhân, Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, Luật KKĐTTN và các chủ đầu tư trong các ngân hàng liên doanh, chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam và các bên hợp doanh trong các hợp đồng hợp tác kinh doanh theo Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam.
Thông tư 02 BKH/DN,ngày 30-1-1996, của Bộ Kế hoạch và Đầu tư hướng dẫn về thủ tục đầu tư tại Việt Nam của Người Việt Nam định cư ở nước ngoài và của người nước ngoài cư trú lâu dài ở Việt Nam.
Quyết định 952/QĐ-UB, ngày 12-3-1996 của UBND thành phố Hà Nội về việc quyết định giao nhiệm vụ tiếp nhận hồ sơ của các doanh nghiệp xin ưu đãi đầu tư trong nước cho Uỷban Kế hoạch thành phố.
Công văn số 2367/BKH-QLKT, ngày 27-5-1996 của Bộ kế hoạch và đầu tư , hướng dẫn sửa đổi một số điểm trong Thông tư 06/UB-QLKT về trình tự cấp giấy chứng nhận ưu đãi đầu tư.
Quyết định 462/TTg, ngày 90701996 của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt Điều lệ Quỹ hỗ trợ đầu tư Quốc gia.
Quyết định 972 TC/ĐTQG, ngày 29-10-1996 của Bộ tài chính về việc ban hành Quy chế góp vốn, huy động vốn của Quỹ hỗ trợ đầu tư quốc gia.
Thông tư 82/TC-TCNH, ngày 24-12-1996 của Bộ tài chính hướng dẫn quy chế quản lý tài chính đối với Quỹ đầu tư quốc gia.
Thông tư liên bộ số 11/BKH-NG, ngày 31-12-1996 của liên bộ Kế hoạch và đầu tư, Ngoại giao hướng dẫn thủ tục xác nhận nguồn gốc Việt Nam và lý lịch tư pháp của người Việt Nam định cư ở nước ngoài đầu tư về Việt Nam.
Nghị định 07/1998/NĐ-CP, ngày 15-1-1998 của Chính phủ Quy định chi tiết thi hành Luật KKĐTTN (sửa đổi).
Thông tư số 2/1998/TT-BKH, ngày 16-3-1998 của Bộ kế hoạch và Đầu tư về việc hướng dẫn trình tự, thủ tục cấp Giấy chứng nhận ưu đãi đầu tư theo Nghị định 07/1998/ NĐ- CP.
Công văn số 349/CP-KTN, ngày 30-3-1998 của Chính phủ về việc ban hành các văn bản hướng dẫn Nghị định 07/1998/NĐ-CP.
Thông tư số 43/1998/TT-BTC, ngày 4-4-1998 của Bộ tài chính hướng dẫn thi thực hiện việc miễn giảm thuế theo qui định tại Nghị định 07/1998/NĐ-CP.
Thông tư số 04/1998/TT-NHNN1, ngày 02/05/1998 của Ngân hàng Nhà Nước Việt Nam hướng dẫn thi hành Nghị định số 07/1998/NĐ-CP.
Phụ lục 2: Các văn bản pháp hướng dẫn thi hành Luật khuyến khích đầu tư trong nước (sửa đổi) ban hành ngày 20-5-1998.
Thông tư số 82/1998/TT-BTC, ngày 19-6-1998 của Bộ tài chính hướng dẫn chế độ tài chính áp dụng cho các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao.
Thông tư số 09/1998/TT-BTM, ngày 18-7-1998 của Bộ thương mại hướng dẫn việc miễn thuế nhập khẩu đối với các dự án đầu tư theo quy định tại Nghị định 07/1998/NĐ-CP.
Công văn 966 TC/TCT, ngày 3/3/1999 của Bộ tài chính về việc ưu đãi thuế.
Công văn số 31 QHTQG/KH, của Bộ tài chính, Quỹ hỗ trợ đầu tư quốc gia về lãi suất và tài sản bảo đảm nợ vay vốn Quỹ hỗ trợ đầu tư quốc gia năm 1999.
Quyết định số 07/QĐ-HĐQL, ngày 11-5-1999 của Quỹ hỗ trợ đầu tư quốc gia về việc ban hành Quy chế thẩm định phương án tài chính và hiệu quả kinh tế - tài chính của dự án đầu tư vay vốn từ Quỹ hỗ trợ quốc gia.
Nghị định số 51/1999/NĐ-CP, ngày 08-07-1999 của Chính phủ về qui định chi tiết thi hành Luật khuyến khích đầu tư trong nước (sửa đổi).
Quyết định số 68/1999/QĐ-UB, ngày 18-8-1999 của Uỷ ban Nhân dân thành phố Hà Nội về việc ban hành quy định về thủ tục để được giao đất, thuê đất trên địa bàn thành phố Hà Nội.
Thông tư số 02/1999/TT-BKH, ngày 29-4-1999 của Bộ kế hoạch và đầu tư về việc hướng dẫn trình tự, thủ tục cấp ưu đãi đầu tư theo Nghị định 51/1999/NĐ-CP.
Chỉ thị số 20/1999/CT-UB, ngày 18-11-1999 của UBND thành phố Hà Nội về việc cấp Giấy chứng nhận ưu đãi đầu tư theo Thông tư số 02/1999/TT-BKH.
Thông tư số 146/1999/TT-BTC, ngày 17-12-1999 của bộ tài chính về hướng dẫn thực hiện việc miễn giảm thuế theo qui định tại Nghị định 51/1999/NĐ-CP.
Quyết định số 231/1999/QĐ-TTg, ngày 17-12-1999 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Điều lệ tổ chức và hoạt động của Quỹ Hỗ trợ và phát triển.
Quyết định số 11/2000/QĐ-HĐQL, ngày 2-3-2000 của Hội đồng quản lý – Quỹ hỗ trợ phát triển về việc ban hành tạm thời Quy chế bảo lãnh tín dụng đầu tư, tái bảo lãnh và nhận tái bảo lãnh cho các Quỹ đầu tư.
Quyết định số 12/2000/QĐ-HĐQL, ngày 2-3-2000 của Hội đồng quản lý – Quỹ hỗ trợ phát triển về việc ban hành Quy chế cho vay, thu hồi nợ vay vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà Nước.
Quyết định số 14/2000/QĐ-HĐQL, ngày 2-3-2000 của Hội đồng quản lý – Quỹ hỗ trợ phát triển về việc ban hành tạm thời Quy chế hỗ trợ lãi suất sau đầu tư.
Công văn số 2911/TC/TCT, ngày 19-7-2000 của Bộ tài chính về miễn giảm thuế thu nhập doanh nghiệp.
Công văn số 1008 HTPT/KHNV, ngày 1-8-2000 của Quỹ hỗ trợ phát triển về việc xây dựng kế hoạch tín dụng đầu tư phát triển năm 2001.
Thông tư liên tịch số 10/2000/TTLT/BKH-BTP-BNG-BCA, ngày 15-8-2000 của liên tịch Bộ Kế hoạch và đầu tư – Bộ Tư pháp – Bộ Ngoại giao – Bộ Công an hướng dẫn việc người Việt Nam định cư ở nước ngoài, người nước ngoài thường trú tại Việt Nam đầu tư theo Nghị định 51/1999/NĐ-CP.
Quyết định số 54/2000/QĐ-UB-CNN, ngày 3-10-2000 của UBND thành phố Hồ Chí Minh về việc uỷ quyền thực hiện việc ký và cấp thẻ chứng nhận áp dụng chế độ một giá.
Công văn số 927/CP-CN, ngày 11-10-2000 của Chính phủ về việc rà soát các văn bản pháp luật tháo gỡ khó khăn trong thực hiện Luật khuyến khích đầu tư trong nước và Luật doanh nghiệp.
Quyết định số 101/2000/QĐ-HĐQL, ngày 17-11-2000 của Hội đồng quản lý Quỹ hỗ trợ phát triển về việc ban hành Quy chế phối hợp giữa Quỹ hỗ trợ phát triển và các tổ chức tín dụng trong cho vay đầu tư, bảo lãnh tín dụng đầu tư và hỗ trợ lãi suất sau đầu tư.
Thông tư 117/2000/TT-BTC, ngày 21-12-2000 của Bộ tài chính về việc bổ sung và sửa đổi một số điểm của thông tư số 40/2000TT-BTC ban hành ngày 15-5-2000 của Bộ tài chính hướng dẫn thi hành Quyết định số 176/QĐ-BTC ngày 26-8-1999 của Thủ tướng Chính phủ về miễn giảm thuế nhập khẩu đối với nguyên vật liệu.
Thông tư 22/2001/TT-BTC, của Bộ tài chính về việc bổ sung và sửa đổi một số điểm của thông tư số 146/1999/TT-BTC ngày 17-12-1999 của bộ tài chính về hướng dẫn thực hiện việc miễn giảm thuế theo qui định tại Nghị định 51/1999/NĐ-CP.
Nghị định 35/2002/NĐ-CP, ngày 29-3-2002 của Chính phủ về sửa đổi bổ sung danh mục A, B, C ban hành kèm Nghị định số 51/1999/NĐ-CP.
Tài liệu tham khảo
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX – Nhà xuất bản chính trị quốc gia – 2001.
Giáo trình kinh tế đầu tư – Nhà xuất bản giáo dục - 1998.
Chính sách khuyến khích đầu tư trong nước ở Việt Nam và kinh nghiệm quốc tế – Viện Nghiên cứu Quản lý kinh tế Trung ương – 1998.
Chiến lược huy động vốn và các nguồn lực cho sự nghiệp CNH – HĐH – Nhà xuất bản chính trị quốc gia – 1998
Những ưu đãi của Nhà Nước cho đầu tư trong nước – Nhà xuất bản tài chính - 1996
Luật đầu tư nước ngoài.
Luật KKĐTTN và các văn bản pháp qui có liên quan.
Báo cáo tình hình thực hiện Luật KKĐTTN (sửa đổi) năm 1999, 2000, 2001 – Vụ Doanh nghiệp – Bộ Kế hoạch và đầu tư.
PTS Lê Đăng Doanh – Đẩy mạnh việc đưa Luật KKĐTTN đi vào cuộc sống – tạp chí Kinh tế và dự báo 10/1996.
PTS Nguyễn Đình Tài – Một số vướng mắc thực tiễn cần xử lý để thực hiện Luật KKĐTTN – tạp chí Kinh tế và dự báo 10/1996.
PTS Nguyễn Đình Tài – Khuyến khích đầu tư trong nước – giải pháp huy động vốn hàng đầu – Tạp chí Tài chính 3/1997.
THS. Nguyễn thị Hiền – Khuyến khích đầu tư trong nước chiến lược phát triển bằng nội lực – tạp chí Kinh tế và phát triển 4/ 1997.
PTS Lê Đăng Doanh – Luật Khuyến khích đầu tư trong nước phải có tác dụng huy động mọi nguồn lực để CNH – HĐH đất nước - tạp chí cộng sản 7-1997.
Phát huy mạnh mẽ các nguồn vốn đầu tư trong và ngoài nước - Trích báo cáo của Thủ tướng Phan Văn Khải trình bày tại kỳ họp thứ 1 khoá IX – tạp chí ngân hàng S5/1997
PTS. Lê Đăng Doanh – Đẩy mạnh việc đưa Luật Khuyến khích đầu tư trong nước đi vào cuộc sống – tạp chí tạp chí Kinh tế và dự báo 9/1997.
Vũ Xuân Thuyên – Đầu tư trong nước: bước gian nan – Thời báo Kinh tế Việt Nam số 86/1997.
Vũ Quốc Tuấn – Khuyến khích hơn nữa đầu tư trong nước – Thời báo Kinh tế Việt Nam 83/1997.
Vũ Xuân Thuyên – Về tình hình thực hiện Luật Khuyến khích đầu tư trong nước – tạp chí Kinh tế và dự báo 8/1997.
Huỳnh Huy Quế – Quy định mới về Khuyến khích đầu tư trong nước – Thông tin tài chính 2/1998.
Minh Tâm – Luật Khuyến khích đầu tư trong nước đang đi vào cuộc sống – tạp chí phát triển kinh tế 4/1998.
PTS Nguyễn Đình Tài , Đỗ Chu Đạt – Thực hiện Luật Khuyến khích đầu tư trong nước : kết quả, hạn chế và giải pháp – tạp chí Nghiên cứu Kinh tế 4/1998.
PTS Nguyễn Đình Tài và Cử nhân Nguyễn Anh Dũng – Nhìn lại 3 năm thực hiện Luật Khuyến khích đầu tư trong nước – tạp chí Kinh tế và dự báo 6/1998.
THS. Phạm Thị Hà - Một số ý kiến nhằm thực hiện tốt Luật KKĐTTN – tạp chí phát triển kinh tế 12/1998.
Thanh Vân – Luật Khuyến khích đầu tư trong nước (sửa đổi) động lực mới kích thích đầu tư – tạp chí thương mại 12/1998.
TS. Nguyễn Đình Tài và Tạ Minh Thảo – Thực hiện Khuyến khích đầu tư trong nước (sửa đổi) – tạp chí Tài chính 3/2000.
TS. Nguyễn Đình Tài – Luật Khuyến khích đầu tư trong nước : Kết quả và tác dụng – tạp chí Kinh tế và dự báo 7/2001.
TS. Nguyễn Đình Tài – Những tồn tại và giải pháp đẩy mạnh thực hiện Luật Khuyến khích đầu tư trong nước – tạp chí Kinh tế và dự báo 8/2001.
TS. Lê Xuân Bá - Kết quả thực hiện Luật Khuyến khích đầu tư trong nước (sửa đổi) và những vướng mắc cần tháo gỡ – Tạp chí Quản lý Nhà Nước 6/2000.
Nguyễn Lê Trung & Trần Quốc Trung – Khuyến khích đầu tư trong nước – thực trạng và giải pháp – tạp chí Nghiên cứu Kinh tế 12/2000.
Phát huy nội lực khuyến khích kinh tế dân doanh - tạp chí Kinh tế và dự báo 12/2001.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- B0056.doc