Đề tài Thực trạng và giải pháp khuyến khích đầu tư trong nước

Theo tổng hợp của cơ quan chức năng, trong năm 2000, số dự án được ưu đãi về thuế thu nhập doanh nghiệp là 780 dự án (chiếm 47,53% tổng số dự án được xét cấp ưu đãi), trong đó có 212 dự án (chiếm 27,2%) của khu vực doanh nghiệp nhà nước và 568 dự án (chiếm 72,8%) của khu vực dân doanh. Sang năm 2001, trong tổng số các dự án được hưởng các biện pháp ưu đãi đầu tư có 1.645 dự án (chiếm 67,84% tổng số dự án của cả nước) được hưởng biện pháp ưu đãi về thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp. Trong đó: DNNN có 648 dự án được hưởng (chiếm 39,4% trong tổng số dự án được hưởng biện pháp ưu đãi thuế này), trong số này có 404 dự án do Bộ KH&ĐT cấp. Các dự án của DNNN được ưu đãi thuế suất do địa phương xét cấp là 244, số dự án hưởng các mức thuế cụ thể: 189 dự án hưởng mức thuế suất 25%, 40 dự án hưởng mức thuế suất 20% và 15 dự án hưởng mức thuế suất 15%. Khu vực kinh tế dân doanh có 997 (chiếm 60,6%) dự án được miễn giảm thuế thu nhập doanh nghiệp, được tổng hợp và phân tích cụ thể: 68 dự án hưởng mức thuế suất 15% thuế thu nhập doanh nghiệp; 253 dự án hưởng mức 20% thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp và 920 dự án hưởng mức thuế suất 25% thế thu nhập doanh nghiệp. Còn về thuế nhập khẩu: trong số 2.425 dự án được hưởng ưu đãi đầu tư có 479 dự án được áp dụng biện pháp miễn giảm thuế nhập khẩu, trong đó DNNN có 232 dự án (chiếm 48,4% tổng số dự án được hưởng biện pháp ưu đãi này), địa phương xét cấp được 90 dự án, Bộ KH&ĐT xét cấp 142 dự án; doanh nghiệp dân doanh có 247 dự án được thực hiện biện pháp miễn giảm này (chiếm 51,6% tổng số dự án được hưởng biện

doc53 trang | Chia sẻ: haianh_nguyen | Lượt xem: 1357 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng và giải pháp khuyến khích đầu tư trong nước, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
đầu tư cho các dự án đầu tư trong nước. Cụ thể như sau: - Hình thức được khuyến khích mở rộng thêm đó là đầu tư theo hình thức hợp đồng xây dựng – kinh doanh - chuyển giao (BOT). - Một quy định mới trong NĐ này là cơ chế “một cửa”: Theo điều 44 NĐ 07/1998/NĐ-CP thì những dự án đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh ngành nghề mới hoặc sản phẩm mới tại cùng một địa điểm; đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh sản phẩm hiện có hoặc sản phẩm mới tại địa điểm mới thì không phải xin cấp giấy phép thành lập doanh nghiệp mà chỉ cần đăng ký bổ sung ngành nghề mới kinh doanh và thủ tục thành lập doanh nghiệp tư nhân, công ty. - Nghị định 07 còn nới rộng chế độ ưu đãi đối với các dự án đầu tư sử dụng số lao động bình quân trong năm bằng việc giảm mức quy định lao động tối thiểu được sử dụng cho dự án. Theo nghị định này thì đầu tư vào các dự án sản xuất, kinh doanh sử dụng số lao động bình quân trong năm ít nhất là: ở ở đô thị loại 1 và loại 2: 100 người. ở ở các huyện thuộc vùng dân tộc thiểu số, miền núi, hải đảo và các vùng khó khăn khác (được quy định tại danh mục B và C Nghị định 07/1998/NĐ-CP) :20 người. ở Các vùng khác: 50 người. 2.1.2. Đánh giá chung về thực trạng khuyến khích đầu tư trong nước thời kỳ này: Trong thời kỳ này, Luật KKĐTTN đã có những đóng góp đáng kể cho sự phát triển kinh tế đất nước, góp phần thực hiện các mục tiêu của kế hoạch 5 năm 1996 - 2000. Tuy nhiên, những kết quả đạt được còn rất khiêm tốn. Sau đây, tôi xin tổng hợp về những kết quả đã đạt được, làm rõ những mặt hạn chế trong việc KKĐTTN, nêu lên những nguyên nhân khách quan và chủ quan của những hạn chế đó. Trong thời kỳ này, có 2 mốc thời gian quan trọng là thời điểm ban hành Nghị định 29/CP và Nghị định 07/CP. Do đó, để có được sự đánh giá cụ thể về thực trạng hoạt động đầu tư trong nước, tôi sẽ tập trung phân tích theo 2 giai đoạn: 2.1.2.1. Thời kỳ thực hiện Luật KKĐTTN và Nghị định 29/CP (từ 1-1-1995 đến 30-1-1998): Qua những tài liệu thu thập được, có thể thấy Luật KKĐTTN đã được đón nhận và hưởng ứng một cách tích cực. Tuy nhiên, tình hình triển khai thực hiện chậm và kết quả thấp xa so với mong đợi. Ngoài ra do mức độ quan tâm khác nhau nên việc triển khai thực hiện Luật KKĐTTN ở các tỉnh, thành phố rất không đồng đều. Thật vậy, tính đến ngày 31-12-1997 cả nước đã cấp Giấy chứng nhận ưu đãi đầu tư cho hơn 963 dự án với tổng số vốn đầu tư hơn 8.106 tỷ đồng. Trong đó: có 35 dự án thuộc khu vực doanh nghiệp do Trung ương quản lý với tổng vốn đầu tư 1.299, 733 tỷ đồng, chiếm 3,6 % về số dự án và 16% về số vốn đầu tư của các dự án được cấp Giấy chứng nhận ưu đãi đầu tư; 928 dự án thuộc khu vực doanh nghiệp do địa phương quản lý với tổng vốn đầu tư là 6.806 tỷ đồng, chiếm 96,4 % về số dự án và 84 % về số vốn đầu tư của các dự án được cấp giấy chứng nhận ưu đãi đầu tư trong cả nước (Xem bảng 1). Bảng 1: Cấp giấy chứng nhận ưu đãi đầu tư tính đến 31-12-1997. Loại hình Doanh nghiệp Tổng số dự án Tổng số vốn đầu tư (triệu đ) Doanh nghiệp do TW quản lý % của tổng số 35 3,6 1.299.733 16 Doanh nghiệp do ĐP quản lý % của tổng số 928 96,4 6.806.736 84 Tổng số: 963 8.106.469 Nguồn : Báo cáo của các Sở KH&ĐT và Vụ Doanh nghiệp Bộ KH và ĐT. Cùng với việc khuyến khích các doanh nghiệp trong nước, các địa phương cũng đã cấp ưu đãi đầu tư theo Luật KKĐTTN cho 107 dự án của người Việt nam ở nước ngoài và người nước ngoài cư trú lâu dài ở Việt nam đầu tư trực tiếp tại nước ta với tổng số vốn đầu tư 105,625 tỷ đồng. Trong đó, số dự án thành lập mới doanh nghiệp chiếm 83,17 %; mua cổ phần, góp vốn chiếm 18,6 %, góp phần đáng kể hạn chế dần tình trạng “đầu tư chui”, Nhà nước không kiểm soát được ở một số tỉnh, thành phố. Trong giai đoạn này, các biện pháp khuyến khích đầu tư chỉ chủ yếu phục vụ cho thành phần kinh tế Nhà Nước. Đối với loại hình kinh tế dân doanh còn chưa có các chính sách ưu đãi nhất quán so với các loại hình kinh tế quốc doanh. Do vậy, khu vực kinh tế dân doanh chưa được khuyến khích và động viên đúng mức. Điều này được thể hiện qua tình hình thực tế cấp ưu đãi trong giai đoạn này. Cụ thể là, trong tổng số dự án được cấp Giấy chứng nhận ưu đãi đầu tư tính đến hết 31-12-1997, số doanh nghiệp quốc doanh được hưởng ưu đãi chiếm tới 61,2 % tổng số dự án và 83,7 % tổng số vốn đầu tư. Trong khi đó, số doanh nghiệp dân doanh được hưởng ưu đãi là 374 dự án, chiếm 38,8% tổng số dự án và 16,3 % tổng vốn đầu tư (xem bảng 2). Tuy nhiên, ở các tỉnh như Trà Vinh, Hà Tây, An Giang và nhiều tỉnh khác phía Nam, việc cấp giấy chứng nhận ưu đãi đầu tư lại chủ yếu tập trung vào khu vực kinh tế dân doanh. Bảng 2: Số dự án được cấp Giấy chứng nhận ưu đãi đầu tư phân theo thành phần kinh tế tính đến 31-12-1997. Loại hình doanh nghiệp Tổng số dự án Tống số vốn đầu tư (triệu đồng) Doanh nghiệp quốc doanh % của tổng số (%) 589 (61,2%) 6.781.284 (83,7%) Doanh nghiệp dân doanh % của tổng số (%) 374 (38,8%) 1.325.185 (16,3%) Tổng số: 963 (100%) 8.106.469 (100%) Nguồn: Báo cáo của các Sở KH&ĐT và Vụ Doanh nghiệp Bộ KH và ĐT. Thực tế cho thấy có 3 lý do chính của việc các doanh nghiệp Nhà Nước được cấp Giấy chứng nhận ưu đãi đầu tư nhiều hơn các doanh nghiệp dân doanh: Một là, doanh nghiệp Nhà Nước có điều kiện tiếp cận các thông tin về Luật KKĐTTN tốt hơn các doanh nghiệp dân doanh. Hai là, việc chuẩn bị các dự án đầu tư, các hồ sơ xin cấp Giấy chứng nhận ưu đãi đầu tư cũng như việc hiểu biết các quan hệ hành chính, các cơ quan hành chính đối với các doanh nghiệp dân doanh yếu hơn các doanh nghiệp Nhà Nước. Ba là, trong một chừng mực nhất định, thói quen truyền thống dành phần ưu tiên cho các doanh nghiệp Nhà Nước được thể hiện ít nhiều trong cách làm của các cơ quan cấp Giấy chứng nhận ưu đãi đầu tư. Ngoài ra, còn một lý do không kém phần quan trọng nữa là các doanh nghiệp dân doanh chưa khẳng định dược vai trò và vị thế của mình trong nền kinh tế, thậm chí còn nhiều hiện tượng kinh doanh chụp giật, lừa đảo. Điều này cũng có những ảnh hưởng nhất định đến tâm lý của cán bộ thực hiện công tác ưu đãi đầu tư. Nếu xét về cơ cấu ưu đãi đầu tư mới và đầu tư mở rộng, ta thấy các dự án đầu tư mới chiếm tỷ trọng rất nhỏ, chẳng hạn trong khu vực doanh nghiệp TW quản lý chỉ có 2 dự án đầu tư mới được hưởng ưu đãi (chiếm 5,7% trong tổng dự án do TW quản lý được ưu đãi đầu tư), còn số dự án đầu tư mới do địa phương quản lý tuy có tỷ trọng thấp hơn so với các dự án đầu tư mở rộng nhưng khoảng cách giữa chúng không đáng kể (chiếm 45,2% của tổng số dự án đầu tư được ưu đãi ở địa phương) (Bảng 3). Bảng 3: Cơ cấu dự án ưu đãi và tỷ trọng vốn giữa đầu tư mới và đầu tư mở rộng. (Đơn vị tính: triệu đồng) Số dự án Tổng số vốn đầu tư Cơ cấu dự án đầu tư Tỷ trọng vốn đầu tư DN do TW quản lý - Đầu tư mới - Đầu tư mở rộng 35 2 33 1.299.733 38.329 1.261.404 100 5,7% 94,3% 100 2,9% 97,1% DN do ĐP quản lý - Đầu tư mới - Đầu tư mở rộng 928 433 495 6.806.735 4.483.219 2.323.516 100 42,5% 54,8% 100 55,8% 44,2% Nguồn: Báo cáo của các Sở KH&ĐT và Vụ Doanh nghiệp Bộ KH và ĐT Đầu tư mở rộng chiếm tỷ trọng lớn như đã nêu là đáng phấn khởi vì theo Nghị định 29/CP thì đầu tư mở rộng chính là đầu tư chiều sâu, đầu tư cải tiến công nghệ, hợp lý hoá sản xuất, hợp lý hoá quản lý, làm tăng quy mô và chất lượng của hàng hoá, mang lại hiệu quả kinh tế cao. Tuy nhiên, trên thực tế rất nhiều dự án đầu tư mới bị coi là dự án đầu tư mở rộng nếu dự án đó không gắn với việc thành lập doanh nghiệp (kể cả khi đó là dự án đầu tư mới hoàn toàn cả về công nghệ, mặt hàng, thị trường, địa điểm). Trong giai đoạn này, việc Luật KKĐTTN triển khai chậm và không đáp ứng được sự mong đợi có nhiều nguyên nhân, song nổi bật: Một là, các nội dung hỗ trợ đầu tư chưa được triển khai hoặc chưa đủ sức hấp dẫn. Bảy biện pháp về hỗ trợ đầu tư qui định trong Luật KKĐTTN chưa được triển khai triệt để. Các biện pháp về giao đất và cho thuê đất tuy đã được pháp luật quy định cụ thể song trên thực tế, việc giao và cho thuế đất của các tổ chức trong nước vẫn còn rất phiền hà, qua nhiều thủ tục, đầu mối, chính sách cho thuê đất đối với chủ đầu tư là người Việt nam ở nước ngoài và người nước ngoài cư trú lâu dài tại Việt nam theo Luật KKĐTTN chưa rõ. Các biện pháp về xây dựng kết cấu hạ tầng các khu công nghiệp để cho thuê cũng không có sức hút mạnh đối với nhà đầu tư vào khu công nghiệp – do giá thuê đất và chi phí trả cho việc sử dụng hạ tầng ở khu công nghiệp còn cao. Việc khuyến khích đầu tư thông qua Quỹ hỗ trợ đầu tư quốc gia không đủ hấp dẫn đối với nhà đầu tư trong nước. Điều này là do số vốn ban đầu của Quỹ quá ít ỏi, công thêm mức lãi suất cho vay chưa thật khuyến khích. Các biện pháp khác như: góp vốn vào cơ sở sản xuất, kinh doanh và bảo lãnh tín dụng, hỗ trợ tổ chức thực hiện các chương trình, dịch vụ khuyến khích đầu tư và phổ biến chuyển giao công nghệ … chưa có chính sách và cơ chế thực hiện cụ thể. Hai là, mức độ khuyến khích và ưu đãi trong nước chưa được ngang bằng với đầu tư nước ngoài, đặc biệt về ưu đãi thuế. Do đó, những doanh nghiệp trong nước cùng ngành hàng bị thua thiệt nhiều hơn so với doanh nghiệp có vốn nước ngoài. Ba là, còn có sự phân biệt đối xử giữa doanh nghiệp dân doanh và doanh nghiệp quốc doanh. Do đó, khu vực kinh tế dân doanh chưa được khuyến khích và động viên đúng mức, chưa được hỗ trợ một cách thiết thực và có hiệu quả. Bốn là, về thủ tục hành chính, tuy Luật KKĐTTN đã cố gắng thể hiện tinh thần “một dấu, một cửa” cho các nhà đầu tư, tuy nhiên, do một số luật liên quan khác chưa sửa đổi, bổ sung kịp thời nên thủ tục phiền hà đến nay vẫn chưa khắc phục. Tình trạng mỗi Bộ, ngành, mỗi địa phương ban hành quy chế riêng cho mình vẫn còn phổ biến, gây không ít những khó khăn. 2.1.2.2 Thời kỳ thực hiện Nghị định 07/CP (từ 30-01-1998 đến 31-12-1998): Do có những hạn chế và kết quả đạt được chưa đáp ứng được yêu cầu đặt ra như đã trình bày ở trên, nên ngày 15-01-1998, Chính phủ đã ban hành Nghị định 07/1998/NĐ-CP thay thế cho Nghị định 29/CP. Với những quy định mới của Nghị định O7, các doanh nghiệp đã quan tâm hơn về các chính sách ưu đãi đầu tư của Nhà Nước, tạo thêm động lực mới cho hoạt động đầu tư . Do đó, kết quả thực hiện Luật KKĐTTN thời kỳ này đã tăng lên đáng kể (Bảng 4). Bảng 4: Cấp giấy chứng nhận ưu đãi đầu tư năm 1998. Loại hình Doanh nghiệp Tổng số dự án Tổng số vốn đầu tư (tỷ đồng) Doanh nghiệp do TW quản lý - % của tổng số (%) - So với thời kỳ 95-97 (lần) 124 6,87 10,63 4.424 12,72 10,21 Doanh nghiệp do ĐP quản lý - % của tổng số (%) - So với thời kỳ 95-97 (lần) 1.680 93,13 5,43 30.333 87,28 13,37 Tổng số: 1804 34.757 Nguồn : Báo cáo của các Sở KH&ĐT và Vụ Doanh nghiệp Bộ KH và ĐT. Trong năm 1998, ở TW, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã cấp 124 dự án, tăng 10,63 lần so với thời kỳ 95-97 (số dự án cấp bình quân năm thời kỳ 95-97 là 12), với số vốn đăng ký là 4.424 tỷ đồng, tăng 10,21 lần so với thời kỳ 95-97 (số vốn đăng ký bình quân năm thời kỳ 95-97 là 433.244 triệu đồng). Còn ở các địa phương, tính toán tương tự, ta có số liệu như ở bảng trên. Nói chung, nghị định sửa đổi lần này đã tạo ra một không khí mới, tích cực hơn cho hoạt động đầu tư trong nước. Lý giải cho điều này người ta cho rằng có 2 nguyên nhân cơ bản: Một là, thông tin về Luật đã được phổ cập hơn trước, việc tổ chức hướng dẫn của các bộ, tỉnh, thành phố tốt hơn và tích cực hơn; Hai là, nội dung các loại ưu đãi của Nghị định 07 hấp dẫn hơn so với Nghị định 29/CP, nhất là việc mở rộng số dự án được hưởng ưu đãi theo hình thức đầu tư mới. Tuy vậy, Nghị định 07 vẫn không giải quyết được những tồn tại trước đó về khuyến khích đầu tư như vẫn khuyến khích thành phần quốc doanh hơn dân doanh, đầu tư mới vẫn được khuyến khích hơn đầu tư mở rộng… Có thể nói, so với thời kỳ thực hiện Nghị định 29/CP, thì thời kỳ này là một bước ngoặt nhưng để Luật KKĐTTN thực sự đi vào cuộc sống, phát huy được tác dụng đầy đủ và hiệu quả hơn thì cần phải tháo gỡ những vướng mắc và các hạn chế ngay trong bản thân Luật KKĐTTN. 2.2. Thời kỳ 1999 đến nay: 2.2.1 Những thay đổi của Luật KKĐTTN (sửa đổi) số 03/1998/QH10 so với Luật KKĐTTN cũ: Trước những yêu cầu và đòi hỏi của thực tế, ngày 20-05-1998 Kỳ họp thứ 3, Quốc hội khoá 10 đã thông qua Luật KKĐTTN (sửa đổi) có hiệu lực từ 1-1-1999, với tinh thần chỉ sửa đổi một số điều, không sửa cơ bản toàn bộ Luật KKĐTTN. Nội dung sửa đổi lần này là đưa thêm nhiều khích thích mới nhằm đẩy nhanh việc thu hút vốn đầu tư trong nước, ngoài nước. Cụ thể, Luật sửa đổi lần này có những nội dung mới như sau: 2.2.1.1. Về chủ thể bỏ vốn đầu tư: Luật sửa đổi đã cho phép người nước ngoài thường trú ở Việt Nam; người Việt Nam định cư ở nước ngoài được phép đầu tư bằng hình thức góp vốn mua cổ phần của các doanh nghiệp đang hoạt động hoặc thành lập doanh nghiệp mới với tỷ lệ dưới 30 % vốn điều lệ doanh nghiệp. Quy định này một mặt khắc phục hạn chế về chủ thể của Luật Đầu tư nước ngoài, mở ra khả năng mới trong việc hút vốn bên ngoài. Điều này trước đây Luật cũ chưa đề cập đến. 2.2.1.2. Về đảm bảo và hỗ trợ đầu tư: Luật sửa đổi đã tăng cường cam kết trong đảm bảo đầu tư. Đó là: Nhà Nước cam kết: tài sản, vốn đầu tư hợp pháp của Nhà đầu tư không bị quốc hữu hoá, không bị tịch thu bằng biện pháp hành chính. Nhà Nước trưng dụng hoặc trưng mua tài sản của Nhà đầu tư sẽ giải quyết thoả đáng quyền lợi của nhà đầu tư. 2.2.1.3 Về hình thức đầu tư và hình thức góp vốn đầu tư: Luật sửa đổi đã đưa thêm hình thức được hưởng ưu đãi đầu tư là: BOT, BTO, BT. Các hình thức góp vốn mới cũng được chấp nhận trong Luật là: góp vốn bằng giá trị quyền sở hữu trí tuệ; Bí quyết ký thuật; Quy trình công nghệ; Các tài sản hợp pháp khác của nhà đầu tư. 2.2.1.4 Về ưu đãi đầu tư: Luật sửa đổi được thiết kế các ưu đãi đầu tư theo các nội dung: a) Các ưu đãi chung cho dự án; b) Các ưu đãi theo lĩnh vực đầu tư; c) Các ưu đãi theo địa bàn và hình thức đầu tư; Các ưu đãi tập trung chủ yếu là miễn thuế thu nhập doanh nghiệp cho các loại hình đầu tư mới; đầu tư mở rộng (Luật đã thu hẹp chênh lệch giữa ưu đãi cho đầu tư mới và đầu tư mở rộng); chuyển lợi nhuận; thu nhập bổ sung; góp vốn; hoạt động XNK … Các ưu đãi này có sự phân biệt khác nhau về lượng nếu đầu tư theo các vùng và các hình thức đầu tư khác nhau. 2.2.1.5 So sánh các nội dung khuyến khích đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài (trong Luật đầu tư nước ngoài) đã thể hiện sự xích lại gần nhau.Cụ thể: - Về chủ thể: giảm bớt sự phân biệt chủ thể là người nào trong tham gia đầu tư. - Về các hình thức đầu tư gần tương đương (cùng khuyến khích với các loại hình thức đầu tư như BOT, BOT, BT …) - Về các ưu đãi tuy còn sự khác biệt nhất định về lượng trong các ưu đãi đầu tư theo lĩnh vực, theo địa bàn, theo thời gian đối với từng dự án. Song mức độ chênh lệch nhau không xa. Một số nội dung đã xích lại gần nhau. Ví dụ : đầu tư tại địa bàn kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn sẽ được miễn giảm tiền thuê hoặc thuế sử dụng đất trong thời gian thực hiện dự án. Miễn thuế với máy móc thiết bị, phương tiện v.v… để tạo tài sản cố định thực hiện đầu tư mới v.v… Như vậy, Luật KKĐTTN (sửa đổi) đã thể hiện rõ quan điểm của Đảng và Nhà nước về phát huy nội lực để phát triển kinh tế, về sự bình đẳng giữa khuyến khích đầu tư trong nước và khuyến khích đầu tư nước ngoài, tạo một động lực mới thu hút mọi nguồn lực trong và ngoài nước cho sự nghiệp CNH-HĐH. 2.2.2 Những kết quả đạt được từ khi có Luật KKĐTTN (sửa đổi): Nhìn chung, Luật KKĐTTN (sửa đổi) đã tạo ra một luồng sinh khí mới cho hoạt động đầu tư trong nước. Số dự án được cấp ưu đãi đầu tư đã tăng một cách đáng kể. Tính từ thời điểm bắt đầu thi hành Luật KKĐTTN (sửa đổi) – ngày 1-1-1999 đến 31-12-2001, theo con số thống kê chưa đầy đủ, các tỉnh, thành phố trong cả nước đã cấp Giấy chứng nhận ưu đãi đầu tư cho 4882 dự án với tổng số vốn đầu tư là 81.757 tỷ đồng. Trong đó, số chứng nhận ưu đãi cấp cho các doanh nghiệp TW quản lý là 859 chiếm 17,6% tổng số dự án (tăng 2 lần so với năm 1998; 24,5 lần so với thời kỳ 95-97) với số vốn đầu tư 32802,5 tỷ đồng chiếm 40,12% về tổng số vốn đầu tư (tăng 2,47 lần so với năm 1998; 25,24 lần so với thời kỳ 95-97); số chứng nhận ưu đãi cấp cho doanh nghiệp địa phương quản lý là 4032 chiếm 82,4% (giảm 0,8 lần so với năm 1998; tăng 4,34 lần so với thời kỳ 95-97) với số vốn đầu tư trên 48954,5 tỷ đồng chiếm 59,88% (giảm 0,537 lần so với năm 1998; tăng 7,19 lần so với thời kỳ 95-97). Trong thời kỳ này: tốc độ tăng của số dự án luôn nhỏ hơn tốc độ tăng của số vốn đầu tư trong các thời kỳ trước (trừ năm 1998 ở các doanh nghiệp địa phương). Điều này chứng tỏ rằng: số vốn bình quân trên một dự án cả ở TW lẫn địa phương đầu tăng, thể hiện sự tăng qui mô vốn đầu tư trên một dự án. (Bảng 5). Bảng 5: Tình hình cấp chứng nhận ưu đãi đầu tư từ 01/1/1999 đến 31/12/2001 Loại hình Doanh nghiệp Tổng số dự án Tổng số vốn đầu tư (tỷ đồng) Doanh nghiệp do TW quản lý - % của tổng số (%) - So với năm 1998 (lần) - So với thời kỳ 95-97 (lần) 859 17,6% 2 24,5 32802,5 40,12% 2,47 25,24 Doanh nghiệp do ĐP quản lý - % của tổng số (%) - So với năm 1998 (lần) - So với thời kỳ 95-97 (lần) 4.023 82,4% 0,8 4,34 48954,5 59,88% 0,537 7,19 Tổng số: 4.882 81.757 Nguồn : Báo cáo của các Sở KH&ĐT và Vụ Doanh nghiệp Bộ KH và ĐT. Bảng 6:Cấp ưu đãi đầu tư qua các năm 1998, 1999, 2000, 2001. Doanh nghiệp do TƯ quản lý Doanh nghiệp do ĐP quản lý Tổng Năm 1998 Số dự án 124 1.680 1.804 Số vốn đầu tư (tỷ đ) 4.424 30.333 34.757 Năm 1999 Số dự án 179 637 816 Số vốn đầu tư (tỷ đ) 7.600 9.541 17.141 Năm 2000 Số dự án 237 1.404 1.641 Số vốn đầu tư (tỷ đ) 10.615 15.278 25.893 Năm 2001 Số dự án 443 1982 2.425 Số vốn đầu tư (tỷ đ) 14.587,5 24.135,5 38.723 Nguồn : Báo cáo của các Sở KH&ĐT và Vụ Doanh nghiệp Bộ KH và ĐT. Từ Bảng 6, ta thấy có sự sụt giảm đầu tư ở một số địa phương trong năm 1999 dẫn đến tổng số dự án và số vốn đầu tư đều giảm so với năm 1998. Một trong những nguyên nhân chủ yếu dẫn đến hiện tượng sụt giảm này là do việc ban hành chậm Nghị định 51 hướng dẫn thi hành Luật KKĐTTN (sửa đổi) (8/7/1999) (nghĩa là sau 7 tháng kể từ khi Luật có hiệu lực thi hành). Năm 2000, tổng số dự án và tổng số vốn tăng so với năm 1999 nhưng vẫn thấp hơn năm 1998. Chỉ đến năm 2001, theo số liệu chưa chính thức, thì tổng số dự án và tổng số vốn đầu tư mới vượt năm 1998. Trong khi đó, số dự án được cấp ưu đãi và số vốn của khối doanh nghiệp do TW quản lý vẫn tăng đều qua các năm. Điều này chứng tỏ Luật KKĐTTN (sửa đổi) đang nhận được sự hưởng ứng của các doanh nghiệp. Cùng với dự gia tăng đầu tư, các dự án được cấp ưu đãi đã góp phần tạo việc làm cho hơn 644.649 lao động trong cả nước. Chỉ tính riêng trong năm 2001, các dự án được cấp GCNƯĐĐT đã tạo việc làm cho 286.883 lao động, trung bình mỗi dự án sử dụng trên 118 lao động (năm 2000 là 96 lao động/dự án). Theo kết quả tính bình quân chung về sử dụng lao động, khu vực kinh tế dân doanh sử dụng 123 lao động/dự án, DNNN sử dụng 109 lao động/dự án. Như vậy, có thể thấy rằng, khu vực kinh tế dân doanh đã tạo ra nhiều việc làm hơn khu vực kinh tế nhà nước, trong khi đó vốn đầu tư tạo ra một chỗ làm lại thấp hơn. Đây là kết quả đáng phấn khởi, nhất là trong điều kiện thiếu việc làm như ở nước ta hiện nay. Trên đây là số liệu tổng hợp về tình hình thực hiện Luật KKĐTTN thời kỳ này. Tuy nhiên, để có một hình dung rõ ràng, cụ thể hơn về tình hình khuyến khích đầu tư trên phạm vi cả nước, tôi sẽ đi sâu phân tích một số khía cạnh liên quan đến cơ cấu đầu tư. Thứ nhất, về cơ cấu giữa đầu tư mới và đầu tư mở rộng. Nếu như ở thời kỳ trước, ta thấy có sự chênh lệch lớn giữa hình thức đầu tư mới và đầu tư mở rộng, đầu tư mới luôn chiếm một tỷ trọng lớn cả về số dự án được ưu đãi và số vốn đầu tư, thì ở thời kỳ này, khoảng cách chênh lệch giữa 2 hình thức này đã được rút ngắn một cách đáng kể. Tỷ trọng số dự án được cấp theo hình thức đầu tư mới đã giảm dần từ 63% (chiếm 78,8% số vốn) - năm 1998; đến 56% (chiếm 57% số vốn) – năm 1999; đến 52,78 % (chiếm 55,09% số vốn) – năm 2000. Cùng ví nó là sự gia tăng tỷ trọng số dự án đầu tư mở rộng, từ 37% (21,2% số vốn) – năm 1998; đến 44% (43% số vốn) – năm 1999; đến 47,22% (44,91% số vốn) – năm 2000 (bảng 7). Có được kết quả này là do Luật KKĐTTN (sửa đổi) đã thu hẹp khoảng cách chênh lệch giữa đầu tư mới và đầu tư mở rộng. Bảng 7: Cơ cấu dự án ưu đãi và tỷ trọng vốn giữa đầu tư mới và đầu tư mở rộng năm 2000 ở các địa phương. Hình thức đầu tư Số dự án Số vốn đầu tư (tỷ đồng) Cơ cấu dự án (%) Tỷ trọng vốn đầu tư (%) Đầu tư mới 741 8.417 52,78% 55,09 Đầu tư mở rộng 663 6.861 47,22% 44,91 Tổng: 1404 15.278 100% 100% Nguồn: Báo cáo của các Sở KH&ĐT và Vụ Doanh nghiệp Bộ KH và ĐT Thứ hai, về cơ cấu đầu tư giữa thành phần kinh tế quốc doanh và dân doanh: Bảng 8: Cơ cấu cấp ưu đãi theo thành phần kinh tế giai đoạn 1999-2001 Thành phần kinh tế Số dự án Số vốn đầu tư (tỷ đồng) Cơ cấu dự án (%) Tỷ trọng vốn đầu tư (%) Kinh tế quốc doanh 1.977 44.788,4 40,5 56,16 Kinh tế dân doanh 2.905 34.968,6 59,5 43,84 Tổng: 4.882 79.757 100% 100% Nguồn : Báo cáo của các Sở KH&ĐT và Vụ Doanh nghiệp Bộ KH và ĐT. Qua số liệu tổng hợp sơ bộ trên cho thấy, khu vực kinh tế dân doanh thời kỳ này phát triển mạnh về số lượng cũng đã được Nhà nước quan tâm bằng các biện pháp ưu đãi đầu tư. Trong 3 năm, khu vực kinh tế dân doanh đã có tới 2.905 dự án (chiếm 59,5% tổng số dự án được cấp ưu đãi) được cấp ưu đãi với tổng số vốn đầu tư là 34.968,6 tỷ đồng (chiếm 43,84%), trong khi đó thành phần kinh tế quốc doanh được hưởng ưu đãi 1.977 dự án (chiếm 40,5% tổng số dự án được cấp ưu đãi) với số vốn đầu tư là 44.788,4 tỷ đồng (chiếm 56,16%). Điều này thể hiện sự quan tâm đích đáng của các cấp, các ngành từ TW đến địa phương đến các doanh nghiệp nhỏ, không như những năm trước đây ưu đãi đầu tư chỉ dành cho khu vực kinh tế chủ đạo của nhà nước. Thứ ba, cơ cấu đầu tư giữa 3 miền Bắc, Trung, Nam: Bảng 9: Cơ cấu đầu tư giữa 3 miền Bắc – Trung – Nam năm 2000-2001: Số dự án Số vốn đầu tư (tỷ đồng) Cơ cấu dự án (%) Tỷ trọng vốn đầu tư (%) Miền Bắc 749 7.821,2 22,13 19,85 Miền Trung 464 14.975,1 13,71 38,00 Miền Nam 2171 16.614,3 64,16 42,15 Tổng: 3384 39.410,6 100% 100% Nguồn : Báo cáo của các Sở KH&ĐT và Vụ Doanh nghiệp Bộ KH và ĐT. Theo con số thống kê chưa đầy đủ, cũng như những năm trước, chính sách khuyến khích đầu tư vẫn không đồng đều giữa các vùng của đất nước. Các tỉnh phía Nam vẫn là nơi hưởng ứng Luật KKĐTTN (sửa đổi) mạnh mẽ nhất. Chỉ riêng trong 2 năm 2000 – 2001, các tỉnh phía Nam đã cấp ưu đãi cho 2171 dự án (chiếm 64,16% tổng số dự án được cấp ưu đãi trong cả nước) với số vốn đầu tư trên 16.614,3 tỷ đồng (chiếm 42,15% tổng vốn đầu tư). Trong khi đó, các tỉnh miền Trung, tuy có số dự án được cấp ưu đãi thấp hơn nhưng số vốn thực hiện lại cao hơn gần gấp đôi các tỉnh phía Bắc. Nhìn chung, Luật KKĐTTN (sửa đổi) đã trở nên hấp dẫn các nhà đầu tư trong nước, đặc biệt là khu vực kinh tế dân doanh. Tuy nhiên, sẽ là thiếu sót nếu phân tích tình hình thực hiện Luật KKĐTTN (sửa đổi) mà không xem xét các biện pháp hỗ trợ đầu tư. 2.2.3. Đánh giá về các biện pháp hỗ trợ đầu tư: 2.2..3.1 Về tín dụng từ quỹ hỗ trợ phát triển: Một trong những biện pháp hỗ trợ đầu tư trực tiếp, mang lại hiệu quả cao là việc thành lập Quỹ hỗ trợ phát triển. Từ ngày 1/1/2000, theo nghị định 50/1999/NĐ/CP ngày 8/7/1999, quỹ hỗ trợ phát triển thay thế quỹ hỗ trợ đầu tư quốc gia đầu tư quốc gia. Chức năng chính của Quỹ là cho vay đầu tư; hỗ trợ sau đầu tư; bảo lãnh tín dụng đầu tư. Theo báo cáo của Quỹ hỗ trợ phát triển , năm 1999, tổng nguồn vốn cho vay từ Quỹ là 510 tỷ đồng cho 186 dự án trong đó DNNN là 368 tỷ đồng (chiếm 72,2 %) với 91 dự án được vay, khối doanh nghiệp dân doanh chỉ được vay 142 tỷ đồng với 95 dự án. Trong năm 2000, Quỹ đã ký hợp đồng tín dụng với 1.113 dự án, với tổng số vốn 6.736 tỷ đồng, đạt 90,94% kế hoạch năm. Trong đó, kinh tế trung ương: 332 dự án, số vốn 4.471 tỷ đồng đạt 92,5% kế hoạch năm; kinh tế địa phương: 781 dự án, số vốn 2.265 tỷ đồng, đạt 80,8% kế hoạch năm. Về thực hiện cho vay ưu đãi, năm 2000 tổng số dự án được cho vay ưu đãi là 496 dự án, với số vốn vay là 1.128 tỷ đồng. Trong đó doanh nghiệp Nhà Nước chiếm 193 dự án với số tiền vay trên 873 tỷ đồng (chiếm 77,3%); doanh nghiệp dân doanh chiếm 303 dự án nhưng số tiền vay lại ít hơn rất nhiều: 255 tỷ đồng (chiếm 22,7%). Về tình hình thực hiện hỗ trợ lãi suất sau đầu tư: số dự án được Quỹ ký hợp đồng hỗ trợ lãi suất sau đầu tư là 40 (trong tổng số 400 dự án đăng ký hỗ trợ) với số tiền là 4 tỷ đồng (trong tổng số 154,3 tỷ đồng đăng ký hỗ trợ). Theo báo cáo mới nhất của Quỹ hỗ trợ phát triển năm 2001 Quỹ đã hỗ trợ lãi suất sau sau đầu tư cho 126 dự án với tổng mức vốn hỗ trợ gần 60 tỷ đồng tăng 157% về số dự án và 387% về vốn so với năm 2000; đối với bảo lãnh tín dụng đầu tư, Quỹ phát hành bảo lãnh cho 3 dự án với tổng số tiền được bảo lãnh 20 tỷ đồng; đối với hình thức cho vay tín dụng hỗ trợ xuất khẩu do mới được triển khai thực hiện trong 3 tháng cuối năm 2001, Quỹ đã hỗ trợ cho hơn 30 doanh nghiệp thực hiện 84 hợp đồng chủ yếu xuất khẩu hàng nông, thuỷ sản với số tiền trên 163 tỷ đồng. Theo báo này cho thấy, hầu hết các dự án được vay vốn đều thuộc các chương trình trọng điểm thực hiện Nghị quyết, Quyết định của Chính phủ về phát triển ngành kinh tế mũi nhọn, chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp và kinh tế nông thôn, …. Tuy nhiên, kết quả đạt được còn rất thấp so với tiềm năng của Quỹ, số nguồn vốn cho vay ưu đãi vẫn chủ yếu tập trung vào các doanh nghiệp quốc doanh. Điều đó là do một số nguyên nhân sau: Thứ nhất, thời gian thẩm định để cho vay của quỹ kéo dài, các nhà đầu tư phải làm nhiều thủ tục với nhiều loại giấy tờ khác nhau. Điều đó làm ảnh hưởng đến cơ hội kinh doanh, làm giảm lòng tin của các nhà đầu tư, dẫn đến việc giải ngân chậm. Thứ hai, theo ý kiến tại một số địa phương thì lãi suất cho vay ưu đãi từ Quỹ còn cao, với quá nhiều mức lãi suất khác nhau. 2.2.3.2. Về ưu đãi đất đai: Mặt bằng sản xuất, kinh doanh là một trong những điều kiện quan trọng cho thành lập và phát triển của các doanh nghiệp. Tuy Luật KKĐTTN (sửa đổi) đã có những quy định cụ thể như phát triển các khu công nghiệp, khu chế xuất, quy hoạch đất và công bố các khu quy hoạch kêu gọi đầu tư tại các địa phương, các mức miễn giảm thuế, tiền thuê đất nhưng tình hình thực hiện các biện pháp hỗ trợ về đất đai rất không khả quan. Trong giai đoạn này, năm 2000 được đánh giá là năm thành công nhất trong việc thực hiện các biện pháp hỗ trợ về đất đai. Theo báo cáo của 42 tỉnh, thành phố, trong năm 2000 có 419 dự án được giao, thuê đất, trong đó 72 dự án được giao đất với tổng diện tích là 43.990.908 m2, 347 dự án được thuê đất với tổng diện tích là 86.527.383 m2. So với năm 1999, số dự án được giao đất tăng 3 lần và số dự án được thuê đất tăng 2,6 lần. Thế nhưng đến năm 2001, số dự án được hưởng ưu đãi về đất đai lại giảm một cách đáng kể. Tổng hợp báo cáo từ 60 địa phương, kết quả cho thấy chỉ có 14 dự án được nhà nước giao đất (DNNN có 3 dự án) với diện tích 3.388.549 m2 (DNNN chiếm 1% S); 39 dự án được thuê đất của nhà nước (DNNN 14 dự án) với diện tích 798.542m2 (DNNN chiếm 41% S). Còn ở TW, có 9 dự án được giao đất và 110 dự án được thuê đất (không có số liệu về diện tích được giao, thuê đất). Số còn lại hầu hết phải tự khai thác diện tích phục vụ sản xuất kinh doanh. Phản ảnh qua các báo cáo của địa phương mà cơ quan tổng hợp ghi nhận được: có 19 dự án của doanh nghiệp dân doanh sử dụng đất tự có; 4 dự án của doanh nghiệp dân doanh thuê lại đất của DNNN với diện tích 499.000 m2 và 1 dự án của doanh nghiệp dân doanh thuê lại đất của tổ chức, cá nhân khác với diện tích 234.000 m2 . Như vậy có thể thấy rằng, biện pháp hỗ trợ đất đai làm mặt bằng cho sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp được hưởng ưu đãi đầu tư lại bị sao nhãng, mặc dù trong năm 2001, Chính phủ đã ban hành một số văn bản quan trọng quy định, hướng dẫn về đất đai. Ngoài ra, cũng như thời kỳ trước vẫn tồn tại bất bình đẳng về ưu đãi đất đai giữa 2 thành phần kinh tế Nhà Nước và kinh tế dân doanh. Các DNNN luôn chiếm phần lớn trong diện tích đất được giao và cho thuê. Điều đó dẫn đến tình trạng nhiều doanh nghiệp dân doanh phải thuê lại đất của DNNN. Do đó, họ không được áp dụng những biện pháp miễn giảm tiền thuế đất (Vì Luật KKĐTTN không có quy định về trường hợp thuê lại đất). 2.2.3.3. Về ưu đãi thuế: Các biện pháp ưu đãi về thuế được quy định chi tiết trong thông tư 146 của Bộ Tài chính, ban hành 17/12/1999. Tuy nhiên, sau khi ra đời thông tư này đã có nhiều điểm không phù hợp với Luật và Nghị định 51. Do đó, Bộ Tài chính đã ban hành Thông tư 22/2001/TT-BTC thay thế Thông tư trên, một số hướng dẫn được quy định trong Thông tư không phù hợp đã được chỉnh sửa. Tuy vẫn còn một số vấn đề vẫn chưa được hướng dẫn thực hiện triệt để, như hướng dẫn các đối tượng thực hiện theo Nghị định 103, Nghị định 44, hoặc đối tượng có dự án đầu tư mở rộng, đầu tư chiều sâu, di chuyển cơ sở ra khỏi đô thị, …. theo Phụ lục Danh mục A của Nghị định 51 và các đối tượng được cơ quan thuế áp dụng mức thuế khoán nhưng các biện pháp ưu đãi về thuế cũng đã được áp dụng tích cực hơn. Theo tổng hợp của cơ quan chức năng, trong năm 2000, số dự án được ưu đãi về thuế thu nhập doanh nghiệp là 780 dự án (chiếm 47,53% tổng số dự án được xét cấp ưu đãi), trong đó có 212 dự án (chiếm 27,2%) của khu vực doanh nghiệp nhà nước và 568 dự án (chiếm 72,8%) của khu vực dân doanh. Sang năm 2001, trong tổng số các dự án được hưởng các biện pháp ưu đãi đầu tư có 1.645 dự án (chiếm 67,84% tổng số dự án của cả nước) được hưởng biện pháp ưu đãi về thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp. Trong đó: DNNN có 648 dự án được hưởng (chiếm 39,4% trong tổng số dự án được hưởng biện pháp ưu đãi thuế này), trong số này có 404 dự án do Bộ KH&ĐT cấp. Các dự án của DNNN được ưu đãi thuế suất do địa phương xét cấp là 244, số dự án hưởng các mức thuế cụ thể: 189 dự án hưởng mức thuế suất 25%, 40 dự án hưởng mức thuế suất 20% và 15 dự án hưởng mức thuế suất 15%. Khu vực kinh tế dân doanh có 997 (chiếm 60,6%) dự án được miễn giảm thuế thu nhập doanh nghiệp, được tổng hợp và phân tích cụ thể: 68 dự án hưởng mức thuế suất 15% thuế thu nhập doanh nghiệp; 253 dự án hưởng mức 20% thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp và 920 dự án hưởng mức thuế suất 25% thế thu nhập doanh nghiệp. Còn về thuế nhập khẩu: trong số 2.425 dự án được hưởng ưu đãi đầu tư có 479 dự án được áp dụng biện pháp miễn giảm thuế nhập khẩu, trong đó DNNN có 232 dự án (chiếm 48,4% tổng số dự án được hưởng biện pháp ưu đãi này), địa phương xét cấp được 90 dự án, Bộ KH&ĐT xét cấp 142 dự án; doanh nghiệp dân doanh có 247 dự án được thực hiện biện pháp miễn giảm này (chiếm 51,6% tổng số dự án được hưởng biện pháp ưu đãi này). Từ số liệu tổng hợp kể trên có thể thấy rằng: các cơ quan chức năng đã quan tâm triển khai thực hiện Luật KKĐTTN với tinh thần cởi mở hơn, đặc biệt là cơ quan các cấp thuộc ngành thuế, và sự phân biệt đối xử giữa các thành phần kinh tế cũng đã được giảm thiểu trong chính sách khuyến khích. Nhưng xét về tỷ lệ hưởng ưu đãi trong biện pháp này giữa hai khu vực, thì con số này lại phản ánh xu hướng không được khả quan lắm. Bên cạnh đó, trong thực tế cũng nẩy sinh một số vấn đề như các doanh nghiệp tư nhân gặp trở ngại trong việc được miễn giảm thuế theo nội dung ưu đãi đầu tư đã được cấp vì đã không thực hiện đúng về sổ sách kế toán , bản thân một số doanh nghiệp không thực hiện sản xuất kinh doanh đúng với phương án đăng ký ưu đãi đầu tư, không đến khai báo với ngành thuế sau khi được cấp giấy chứng nhận ưu đãi đầu tư. 2.2.4 Những vướng mắc cần tháo gỡ trong quá trình thực hiện Luật KKĐTTN (sửa đổi): Nhìn chung, sau hơn 3 năm thực hiện, Luật KKĐTTN (sửa đổi) đã mang lại kết quả rõ rệt. Nó đã góp phần cải thiện môi trường đầu tư, thu hút nguồn vốn trong dân, góp phần giải quyết công ăn việc làm cho hàng triệu người, thu hút mạnh hơn lượng kiều hối… Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện lại nẩy sinh những vướng mắc mới cần phải tháo gỡ để Luật KKĐTTN thực hiện tốt hơn nữa vai trò của mình. Những vướng mắc đó bao gồm: 2.2.4.1 Vướng mắc từ chính bản thân Luật và các văn bản pháp qui hướng dẫn thi hành Luật: Luật KKĐTTN (sửa đổi) nói chung, đã được quy định rõ ràng hơn Luật KKĐTTN năm 1994 và đã khắc phục được khá nhiều vướng mắc trong quá trình thực hiện Luật KKĐTTN năm 1994 đặt ra. Tuy nhiên, một số vướng mắc kéo dài mà vẫn chưa được xử lý. Ví dụ, trong chương về đảm bảo và hỗ trợ đầu tư có quy định: “trong trường hợp do thay đổi quy định của pháp luật mà làm thiệt hại đến lợi ích của nhà đầu tư thi Nhà Nước cho nhà đầu tư được tiếp tục hưởng các ưu đãi đã quy định cho thời gian còn lại hoặc Nhà Nước giải quyết thoả đáng quyền lợi cho nhà đầu tư”. Về nội dung “tiếp tục hưởng”, Nghị định 51 bước đầu có hướng xử lý, nhưng nội dung “giải quyết thoả đáng” thì từ Luật KKĐTTN (sửa đổi) đến nay, chưa có hướng xử lý nào, đang là một nội dung còn bỏ ngỏ. Cũng trong chương này, Luật KKĐTTN quy định khá nhiều Quỹ: Quỹ hỗ trợ đầu tư, Quỹ hỗ trợ xuất khẩu, Quỹ hỗ trợ phát triển khoa học và công nghệ, nhưng thực tế rất chậm được triển khai và cụ thể hoá. Luật KKĐTTN (sửa đổi) và Nghị định 52 đã quy định và ban hành danh mục ngành nghề được hưởng ưu đãi nhưng chưa đủ cụ thể và chưa đủ rõ. Mặt khác, một số ngành mới xuất hiện từ thực tế kinh doanh thì danh mục chưa bao quát được, gây khó khăn cho các cơ quan xem xét cấp giấy chứng nhận ưu đãi đầu tư. Ngoài những vướng mắc kể trên, vẫn tồn tại sự thiếu nhất quán và đồng bộ với các chính sách và các văn bản pháp luật có liên quan. Ví dụ như, Luật đất đai quy định điều kiện để được Nhà Nước giao đất, cho thuê đất là có dự án được cấp có thẩm quyền “phê duyệt”. Trong khi quy chế quản lý đầu tư và xây dựng ban hành kèm theo Nghị định số 52/1999/NĐ-CP ngày 08-07-1999 của Chính phủ quy định các dự án của thành phần kinh tế ngoài quốc doanh do chủ đầu tư tự quyết định. Do đó, các địa phương đều lúng túng về thủ tục cho thuê đất đối với đối tượng này. Đến nghị định 12/2000/NĐ-CP ngày 05-05-2000 của Chính phủ về việc sửa đổi một số điều của Quy chế quản lý đầu tư và xây dựng mới có quy định rõ việc UBND cấp có thẩm quyền của địa phương “chấp thuận” về địa điểm, diện tích đất của dự án (không phê duyệt toàn bộ dự án) để làm thủ tục giao đất hoặc cho thuê đất thì mới có cơ sở pháp lý để giải quyết vấn đề này. Tuy nhiên, Nghị định này lại quy định thêm một điều kiện là “dự án đầu tư sản xuất – kinh doanh đã được chấp nhận đăng ký kinh doanh” trong khi thủ tục nộp phương án đầu tư ban đầu trong hồ sơ đăng ký kinh doanh đã được bãi bỏ theo tinh thần Luật doanh nghiệp. Điều này làm cho các nhà đầu tư, nhất là các nhà đầu tư thuộc khu vực dân doanh, khó tiếp cận được đất đai làm mặt bằng sản xuất – kinh doanh. Một thực tế nữa liên quan đến đất đai là hiện nay, nhiều doanh nghiệp muốn thuê đất trong thời hạn tương ứng với thời gian hoạt động của dự án để chủ động trong việc lập kế hoạch phát triển sản xuất – kinh doanh lâu dài, nhưng thường Nhà Nước chỉ cho thuê đất trong một thời gian ngắn hơn rất nhiều. Điều này làm cho các nhà đầu tư không an tâm, không muốn bỏ vốn lớn để xây dựng, hoặc hiện đại hoá các công trình của doanh nghiệp vì thời gian thuê đất không đủ để có thể thu hồi vốn đầu tư. Như vậy, để Luật KKĐTTN (sửa đổi) có thể triển khai tốt trong thực tế thì sự phối hợp và nhất quán trong hướng dẫn của các cơ quan có thẩm quyền là vô cùng quan trọng. Và để chủ trương khuyến khích các hoạt động đầu tư trong nước có thể đi vào cuộc sống, được đông đảo nhân dân hưởng ứng thì cùng với việc quy định rõ ràng, minh bạch các nội dung ưu đãi và thủ tục đăng ký và thực hiện ưu đãi tại các văn bản pháp lý về khuyến khích đầu tư, việc quy định các nội dung có liên quan đến chế độ ưu đãi tại các văn bản khác cần đảm bảo tính nhất quán, một cách hiểu với quy định của Luật KKĐTTN hiện hành, cố gắng hạn chế tối đa sự chồng chéo, quy định mâu thuẫn nhau nhằm bảo đảm một nội dung chuyên môn hẹp không để có nhiều cách vận dụng, nhiều cách hiểu khác nhau, gây khó khăn cho doanh nghiệp, cho các chủ đầu tư. 2.2.4.2 Những vướng mắc trong khâu thực hiện Luật: Có thể nói Luật và các văn bản hướng dẫn thi hành là cơ sở, là bộ khung để thực hiện các chính sách về khuyến khích đầu tư trong nước. Thế nhưng, khâu thực hiện Luật mới có vai trò quyết định đưa Luật đi vào cuộc sống. Sau hơn 3 năm thực hiện, Luật KKĐTTN (sửa đổi) đã đạt được những kết quả rất khả quan. Tuy nhiên nó vẫn chưa thật sự phát huy được vai trò khuyến khích trong giai đoạn phát triển, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Đó là do vẫn còn tồn tại nhiều bất cập trong quá trình thực hiện Luật. Thứ nhất, thiếu sự chỉ đạo, phối hợp giải thích Luật của các cơ quan chức năng. Trừ một số địa phương có sự quan tâm thực sự và chỉ đạo sát sao của lãnh đạo (như ở thành phố Hồ Chí Minh và một số tỉnh phía Nam), còn ở những địa phương khác việc triển khai thực hiện Luật KKĐTTN (sửa đổi) bị buông lỏng, để mặc cho dân “tự vận động”. Một số biểu hiện cụ thể là: Chưa có cơ chế phối hợp tốt giữa Sở kế hoạch và đầu tư với cục thuế và các sở, ban, ngành khác, làm chậm quá trình xét duyệt dự án ƯĐĐT, hoặc khi có các ý kiến khác nhau về một vấn đề nào đó thì không có cơ quan nào đứng ra giải quyết. Hậu quả là các nhà đầu tư phải gánh chịu. Đây là một trong các lý do làm giảm lòng tin của các nhà đầu tư vào hiệu lực của Luật KKĐTTN (sửa đổi). Việc tuyên truyền, tập huấn, phổ biến tinh thần, nội dung Luật và các văn bản pháp qui hướng dẫn thi hành Luật đã được thực hiện nhưng chưa đầy đủ, nên không ít nhà đầu tư hầu như không hay biết gì về chính sách khuyến khích đầu tư của Nhà Nước. Nhiều biện pháp hỗ trợ đầu tư thuộc chức năng của địa phương như xây dựng các khu công nghiệp, chuẩn bị cơ sở hạ tầng ngoài hàng rào khu công nghiệp, quy hoạch đất đai… đã bị bỏ qua hay thực hiện chưa đến nơi đến chốn, gây thiệt hại cho nhà đầu tư. Thứ hai, những tồn tại trong thực hiện chính sách đất đai. Về công tác quy hoạch sử dụng đất. Luật KKĐTTN có quy định UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương định kỳ hàng năm công bố quy hoạch sử dụng đất đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền xét duyệt, công bố quỹ đất chưa sử dụng, quỹ đất đang có nhu cầu cho thuê để các nhà đầu tư có nhu cầu đăng ký nhận thuê hoặc tham gia đấu thầu nhận thuê. Song, cho đến nay sau 3 năm thi hành Luật, công tác này vẫn chỉ được số ít địa phương quan tâm thực hiện, làm cho các doanh nghiệp khó tiếp cận được biện pháp này. Phản ánh từ một số địa phương cho thấy: chỉ có những doanh nghiệp biết “chắc chắn” mới dám làm hồ sơ xin thuê đất hoặc giao đất; còn hầu hết các doanh nghiệp đều nghĩ rằng: làm gì còn đất sản xuất kinh doanh cho doanh nghiệp dân doanh. Điều này dẫn đến tình trạng quỹ đất có, nhưng tỉnh không thể kêu gọi được dự án đầu tư. Các biện pháp hỗ trợ đầu tư xây dựng các khu công nghiệp, cụm công nghiệp, chuẩn bị cơ sở hạ tầng ngoài hàng rào khu công nghiệp đã được một vài tỉnh/thành phố quan tâm, như Hà Nội, Hải Phòng, Hưng Yên, Tp HCM….. Tuy nhiên, có thể nói, đa số các địa phương chưa thực sự quan tâm thực hiện, làm nhiều doanh nghiệp thất vọng. Còn ở các khu công nghiệp, khu chế xuất có cơ sở hạ tầng hoàn chỉnh thì giá thuê đất chưa phù hợp với các doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ (nhất là với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh vốn nhỏ, sức cạnh tranh kém). Tình trạng phải thuê lại đất. Khảo sát thực tế ở một số tỉnh cho thấy, nhiều doanh nghiệp ngoài quốc doanh phải thuê lại đất của các doanh nghiệp nhà nước, của tổ chức cá nhân khác hoặc phải sử dụng đất của mình làm mặt bằng để sản xuất. Kết quả tổng hợp từ các báo cáo của 60 tỉnh cũng đã phản ánh rõ điều này: 19 dự án sử dụng đất của chủ doanh nghiệp; 4 dự án thuê lại của DNNN và 1 dự án thuê lại tổ chức, cá nhân khác. Số lượng thực tế các doanh nghiệp phải đi thuê lại đất trên thực tế có thể còn cao hơn nhiều và giá thuê đất thường cao hơn gấp nhiều lần giá cho thuê của Nhà nước, thời gian hợp đồng không được lâu. Cá biệt, có doanh nghiệp phải thuê tới 3 - 4 địa điểm khác nhau, dẫn đến đầu tư dàn trải, ảnh hưởng đến công tác quản lý, chi phí giá thành sản phẩm cao làm ảnh hưởng đến sức cạnh tranh của các doanh nghiệp trong quá trình hội nhập. Chính phủ đã có Nghị định 18/CP ban hành ngày 13/2/1995 quy định việc chuyển đất trong các DNNN được giao để sản xuất, kinh doanh mà không phải là sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản, làm muối đều phải chuyển sang hình thức thuê đất của Nhà nước. Nhưng quy định này hầu như chưa được thực hiện, vì hầu hết các DNNN đều tìm cách khước từ việc kê khai, đăng ký chuyển mục đích sử dụng đất với những lý do khác nhau, như: vẫn còn nhu cầu sử dụng, đang lập dự án, đang xin, chờ vốn đầu tư, hoặc đưa ra mức đòi đền bù rất cao cho phần kinh phí đã đầu tư ... Ngoài ra, còn có cơ quan chủ quản đề nghị cho đơn vị được tiếp tục sử dụng đất, dù biết rõ đất đó đang bị bỏ hoang, sử dụng không có hiệu quả hoặc sai mục đích. Theo số liệu tổng hợp từ kết quả của một cuộc điều tra của Sở Địa chính Hà Nội cho thấy, có: 675 tổ chức sử dụng đất sai mục đích với diện tích 152,15 ha; 272 tổ chức để đất hoang hoá hoặc chưa sử dụng 128,5 ha đất. Trong năm 2001, thực hiện kiểm tra việc sử dụng đất theo chỉ thị của UBND thành phố, Sở Địa chính đã phát hiện có tới 1.757 tổ chức sử dụng đất không có giấy tờ hợp pháp trong tổng số 3.660 tổ chức kinh tế đang sử dụng đất. Ngoài thiệt thòi phải trả chi phí cao (tiền thuê, tiền đền bù,..), các trường hợp thuê lại đất lại không được áp dụng được biện pháp ưu đãi miễn giảm tiền thuê đất (vì Luật KKĐTN không có quy định về trường hợp thuê lại đất). Đây là một trong nhiều nguyên nhân đã và đang làm hạn chế chủ trương khuyến khích, ưu đãi đầu tư của Nhà nước. Chuyển mục đích sử dụng đất là một trong những khâu khó khăn nhất. Nhiều doanh nghiệp gặp khó khăn, thiệt thòi trong việc chuyển mục đích sử dụng đất. Chẳng hạn, doanh nghiệp phải nộp thuế chuyển mục đích sử dụng đất và tiền thuê đất cho chính mảnh đất mình đã sử dụng trước đó. Đây là những khoản tiền lớn đối với họ. Hoặc, nhiều doanh nghiệp dân doanh phải bỏ vốn đền bù chi phí hoa màu, chi phí khai phá, giải phóng mặt bằng hoặc mua đất của dân (có sổ đỏ), nhưng khi xây dựng hạ tầng sản xuất kinh doanh lại phải làm thủ tục chuyển đất đó sang hình thức thuê đất. Như vậy, ngoài việc phải trả tiền thuê đất theo quy định (có thể sau khi ký hợp đồng chuyển sang hình thức thuê đất doanh nghiệp cũng được áp dụng các biện pháp miễn, giảm tiền thuê đất), nhà đầu tư trước đó còn phải nộp thuế chuyển mục đích sử dụng đất, dẫn đến chi phí rất lớn cho doanh nghiệp. Không ít trường hợp doanh nghiệp chỉ đủ kinh phí đóng thuế chuyển mục đích sử dụng đất, do vậy chỉ chuyển một phần nhỏ diện tích sang thuê, dẫn đến vi phạm các quy định quản lý đất đai. Thế chấp quyền sử dụng đất vẫn đang là khâu ách tắc. Việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở trong thời gian qua đã được Chính phủ quan tâm đẩy nhanh tiến độ thực hiện tuy cũng đã đạt được một số kết quả, nhưng vẫn chưa đáp ứng được với nhu cầu thực tế của nhà đầu tư cũng đang là một cản trở lớn đến doanh nghiệp trong việc hoàn thành hồ sơ vay vốn tài sản thế chấp ngân hàng. Còn trong trường hợp có đủ giấy tờ để thế chấp hoặc được tổ chức tín dụng chấp thuận cho thế chấp không cần "sổ đỏ", thì người có tài sản thế chấp cũng chỉ được vay khoản tiền bằng 70% giá trị đất thế chấp theo bảng giá do tỉnh, thành phố ban hành (Nghị định 178/CP). Trong khi mức giá theo quy định tại Nghị định 87/CP về khung giá các loại đất rất thấp so với giá thực tế tại địa phương. Ngoài ra, pháp luật đất đai chưa cho phép người sử dụng đất được thế chấp quyền sử dụng đất tại các tổ chức tín dụng nước ngoài để vay vốn. Điều này phần nào hạn chế việc thu hút vốn cho đầu tư. Thứ ba, những khó khăn trong tiếp cận tín dụng đầu tư. Về hỗ trợ lãi suất sau đầu tư. Phần lớn các dự án được hưởng ưu đãi đầu tư có được đề nghị hỗ trợ lãi suất sau đầu tư, tuy nhiên điều kiện để được hỗ trợ theo quy định tại Nghị định số 43/1999/NĐ-CP của Chính phủ về tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước quá hẹp, dẫn đến tình trạng doanh nghiệp không tiếp cận được nguồn hỗ trợ này. Cũng theo quy định tại Nghị định 43, các đối tượng được hưởng biện pháp vay vốn đầu tư được quy định quá hẹp, không phù hợp với quy định tại Nghị định 51. đặc biệt, tại các thành phố, vùng kinh tế trọng điểm địa bàn thuộc Danh mục B và C ban hành kèm theo Nghị định 51 rất ít, trong khi đó số lượng dự án đầu tư có nhu cầu về vốn rất lớn, nhưng không đủ điều kiện để vay từ quỹ, hoặc nếu được vay thì thời gian giải ngân không đảm bảo tiến độ triển khai của dự án. Một số dự án vay vốn đầu tư của các tổ chức tín dụng bằng ngoại tệ đề nghị được hỗ trợ lãi suất sau đầu tư. Tuy nhiên, tại Nghị định số 43 chưa có quy định về vấn đề này. Điểm quan trong nữa làm nản lòng các nhà đầu tư là trình tự, thủ tục để vay vốn rất phức tạp. Về bảo lãnh tín dụng đầu tư . Đây là biện pháp cực kỳ quan trọng, song việc triển khai rất chậm, còn nhiều ách tắc. Trong cả năm 2000 Quỹ chưa phát hành thư bảo lãnh, sang năm 2001 kết quả đã khá hơn, nhưng Quỹ cũng chỉ thực hiện bảo lãnh cho 16 dự án, trong đó DNNN 12 dự án (chiếm 88,2%). Theo quy định các doanh nghiệp ngoài quốc doanh lại phải có tài sản thế chấp, quy định như vậy, làm cho nguồn vốn của Quỹ nằm ngoài tầm với của DN vừa và nhỏ, đặc biệt là các DN dân doanh. Nguyên nhân là: - Đối tượng của Quỹ được quy định tại Nghị định 43 quá hẹp: chỉ gồm những dự án thuộc địa bàn khó khăn hoặc đặc biệt khó khăn và thuộc 6 ngành nghề (trồng rừng nguyên liệu, nuôi trồng thuỷ sản, hạ tầng cơ sở...). Chính phủ cũng đã ban hành nhiều Nghị quyết, Quyết định chính sách hỗ trợ cho một số ngành kinh tế, tuy nhiên việc thực hiện hỗ trợ cho các chương trình này vẫn còn chưa khắc phục được hết khó khăn của một số đối tượng khác. Có 42 ý kiến của các địa phương kiến nghị sửa đổi, bổ sung Nghị định 43 và đề nghị Nhà nước mở rộng hơn nữa đối tượng cho vay từ Quỹ HTPT. - Thủ tục vay quá phức tạp và vẫn còn thể hiện sự phân biệt giữa các thành phần kinh tế, nhất là đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Theo Nghị định: " Các chủ đầu tư không phải là DNNN, khi vay vốn ngoài việc dùng tài sản hình thành từ vốn vay để bảo đảm tiền vay, phải có tài sản thế chấp trị giá tối thiểu bằng 50% mức vốn vay. Tuy nhiên, đa số các DN dân doanh hiện nay hầu như không có vốn tự có từ 30-50% số vốn dự định đầu tư, chưa nói gì đến các DN vùng sâu, vùng xa. Thứ tư, về vấn đề thực hiện thủ tục cấp ưu đãi đầu tư. Về cơ quan tham khảo ý kiến cấp ưu đãi đầu tư. Xảy ra không ít trường hợp các cơ quan được hỏi ý kiến không trả lời, vì coi đó “không phải là việc của mình” hoặc cố tình không trả lời để không thực hiện ưu đãi đầu tư. Thời gian làm thủ tục còn dài, một số địa phương kéo dài gấp 3 đến 5 lần thời gian quy định. Chậm trễ trong khâu xét, cấp ưu đãi đầu tư ở một số địa phương cũng là một trong những trở ngại làm nản lòng các nhà đầu tư, làm mất đi không ít cơ hội đầu tư. Thủ tục xác nhận danh mục máy móc thiết bị, nguyên liệu nhập khẩu được miễn thuế nhập khẩu còn phức tạp. Với thủ tục này, đối với việc nhập máy móc thiết bị để tạo tài sản cố định, cơ quan tham khảo ý kiến thường là Sở công nghiệp, Sở khoa học – công nghệ và môi trường, sở xây dựng. Thời gian xác nhận trung bình 6 ngày, tuy vậy vẫn còn có tỉnh kéo dài tới 180 ngày như trường hợp tỉnh Hà Giang. Việc điều chỉnh danh mục miễn thuế nhập khẩu sau khi phê duyệt trung bình 1 lần/ dự án. Vấn đề đáng nói ở đây là thủ tục xét cấp ưu đãi nhập khẩu đối với nguyên liệu lại quay trở lại quy trình phiền hà, tốn kém trước đây, tức là, các doanh nghiệp phải đến Bộ thương mại trình nộp hồ sơ để Bộ này xem xét. Cả nước hiện có hàng vạn doanh nghiệp đăng ký hoạt động xuất nhập khẩu, chỉ tính riêng khâu đi lại làm thủ tục cũng gây ra lãng phí tiền của, thời gian, sức lực đối với nhà đầu tư. Một trong những yêu cầu trong thủ tục xét, cấp ưu đãi đầu tư đang gây lúng túng và khó khăn cho những nhà đầu tư, nhất là những nhà đầu tư tư nhân là đòi hỏi trình “dự án”. Nghị định 52 về đầu tư xây dựng có nêu các yêu cầu của một dự án đầu tư những nó khá “khắt khe”, áp dụng cho các dự án lớn. Chương 3: một số khuyến nghị về giải pháp khuyến khích đầu tư trong nước. Trên cơ sở tổng hợp, nghiên cứu các vấn đề lý luận chủ yếu về đầu tư và khuyến khích đầu tư trong nước, thông qua sự phân tích những kết quả đạt được, những mặt hạn chế của thực trạng khuyến khích đầu tư trong nước thời gian qua, tôi xin khuyến nghị một số giải pháp chủ yếu nhằm tiếp tục khuyến khích mạnh mẽ hơn nữa hoạt động đầu tư trong nước. 3.1. Định hướng quan điểm KKĐTTN: Tinh thần chung của việc khuyến khích đầu tư trong nước là nhằm tiếp tục công cuộc đổi mới, phát huy nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, cần kiệm để CNH, HĐH đất nước. Cụ thể, cần nắm vững các định hướng quan điểm dưới đây: Cơ chế, chính sách và giải pháp khuyến khích đầu tư trong nước phải bảo đảm thúc đẩy sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế và điều chỉnh cơ cấu đầu tư. Việc khuyến khích đầu tư phải trên cơ sở phát huy nội lực, bảo đảm tính nhất quán với các chính sách thu hút các nguồn lực đầu tư từ bên ngoài. Bảo đảm môi trường đầu tư bình đẳng trong việc khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia các hoạt động đầu tư. Lựa chọn được những ngành, lĩnh vực và địa bàn cần khuyến khích đầu tư. 3.2. Sửa đổi và hoàn thiện khung pháp lý về KKĐTTN: 3.3. Đẩy mạnh việc phổ biến, tuyên truyền Luật và phối hợp thực hiện: 3.4. Khuyến khích mạnh đầu tư của khu vực kinh tế dân doanh: 3.4.1 Nâng cao nhận thức và quan điểm đối xử với kinh tế dân doanh: 3.4.2 Tạo một môi trường bình đẳng giữa khu vực quốc doanh và khu vực dân doanh: 3.4.3 Nâng cao trình độ cho các chủ doanh nghiệp dân doanh: 3.5. Xoá bỏ sự phân biệt đối xử giữa đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài: 3.6. Nâng cao hiệu quả của các biện pháp hỗ trợ đầu tư: 3.4.1 Công khai quy hoạch sử dụng đất và đơn giản hơn nữa thủ tục đất đai: 3.4.2 Cải tổ quỹ hỗ trợ đầu tư quốc gia: 3.4.3 Các biện pháp hỗ trợ đầu tư khác:

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docC0241.doc
Tài liệu liên quan