Một yếu tố rất quan trọng và không thể thiếu được, đó là yếu tố con người. Các biện pháp khuyến khích xuất khẩu của Nhà nước ngay cả khi được xác định một cách khoa học và đúng đắn mới chỉ là một vế của phương trình xuất khẩu, trách nhiệm cuối cùng cũng như khả năng tận dụng được mọi sự ưu đãi để có thể chào bán được các sản phẩm có tính cạnh tranh cao để mở rộng thị trường xuất khẩu lại thuộc về bản thân các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam cũng như các nỗ lực chủ quan của họ. Đào tạo nhân lực không chỉ là mối quan tâm ở mức doanh nghiệp mà còn là mối quan tâm của quốc gia cũng như quốc tế. Như vậy phương châm nhà nước và nhân dân cùng tham gia đầu tư cho việc xây dựng nguồn nhân lực sẽ mang lại hiệu quả. Đào tạo nhân lực nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của ngành xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam cần tập trung vào một số vấn đề chính:
Tăng cường và mở rộng hình thức đào tạo trong và ngoài nước cho cán bộ quản lý, cán bộ nghiên cứu và cán bộ Marketing. Đặc biệt chú ý tổ chức các khóa đào tạo ngắn hạn, các lớp tập huấn cho đội ngũ cán bộ quản lý và các doanh nghiệp am hiểu về luật lệ và các chính sách kinh tế, thương mại của các nước và quốc tế.
Mở rộng các hình thức liên kết, hợp tác quốc tế để tìm kiếm sự giúp đỡ của các nước, các tổ chức quốc tế để đào tạo cán bộ đaị học, sau đại học ở các nước có nghề cá phát triển như Na Uy, Nhật Bản, Mỹ, Trung Quốc, Liên Bang Nga, Thái Lan hoặc thuê chuyên gia nước ngoài trực tiếp đến Việt Nam giảng dạy. Đồng thời, tổ chức các chuyến tham quan, tìm hiểu thị trường, học tập kinh nghiệm phát triển nghề cá của các nước phát triển trên thế giới, nhất là các nước trong khu vực như Thái Lan, Indonesia, Trung Quốc, Đài Loan theo hình thức phối hợp giữa các hội nghề nghiệp.
98 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1306 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của ngành xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
doanh còn nhiều vướng mắc nhất là về thế chấp. Tư duy về thị trường chưa thật phổ biến, đặc biệt là trong các cấp lãnh đạo quản lý, nên trong chỉ đạo ở một số nơi đã cản trở sự phát triển thương mại cũng như của các nhà doanh nghiệp.
3.2. Trình độ công nghệ hiện tại còn thấp
Phương thức tích luỹ trong thời gian qua chủ yếu là từ thương mại, tích luỹ do bản thân ngành công nghiệp chế biến thuỷ sản tạo ra chưa đáng kể. Đó là tất yếu khách quan, phù hợp với trình độ sản xuất và điều kiện của giai đoạn khai thác tài nguyên, tuy vậy vẫn tồn tại những bất hợp lý về lợi ích giữa các lực lượng tham gia quá trình sản xuất thuỷ sản xuất khẩu, do đó đã làm chậm quá trình tích luỹ tái đầu tư để đổi mới công nghệ. Trong khu vực chế biến, phần lớn các xí nghiệp có qui mô nhỏ, ít thiết bị hiện đại, tỷ trọng lao động thủ công cao, điều kiện sản xuất và trình độ công nghệ chưa đạt yêu cầu của nhiều thị trường thế giới, chỉ thích hợp với các sản phẩm dạng nguyên liệu thô sơ chế. Các công ty nước ngoài hoạt động trong lĩnh vực thuỷ sản chỉ chú trọng khai thác triệt để chênh lệch về giá nguyên liệu và nhân công, chưa muốn đầu tư công nghệ cao. Trong khu vực sản xuất nguyên liệu thuỷ sản, cơ sỏ hạ tầng (bao gồm cầu cảng, hệ thống điện nước, đường giao thông, phương tiện bảo quản...) còn quá nhỏ bé, không đáp ứng được yêu cầu phát triển mới, nhất là yêu cầu về kỹ thuật bảo quản sau thu hoạch.
3.3. Thiếu sự hỗ trợ từ phía Nhà Nước
Hoạt động xuất khẩu thuỷ sản có một đặc trưng là phụ thuộc rất nhiều vào các yếu tố tự nhiên từ khâu nguyên liệu đầu vào cho tới khi chế biến thành phẩm mang ra thị trường thế giới trao đổi, nếu chúng ta bảo quản không tốt thì sẽ dẫn đến chất lượng hàng thuỷ sản giảm sút. Hơn thế nữa tốc độ chu chuyển vốn đầu tư cũng như khả năng bán các sản phẩm lâu và có thể gặp rủi ro. Do vậy ngành thuỷ sản mà đặc biệt là lĩnh vực chế biến xuất khẩu thuỷ sản rất cần sự hỗ trợ từ phía Nhà Nước về các điều kiện tài chính như: việc lập các quỹ bình ổn giá cả nhằm giảm thiểu tối đa các tác động tiêu cực tới các nhà sản xuất và xuất khẩu, việc xem xét cắt giảm thuế quan nhập khẩu và xuất khẩu các nguyên liệu phục vụ cho tái xuất các mặt hàng của ngành.
Để kết luận, mặc dù đạt được nhiều thành tựu đáng kể, nhưng sản xuất và xuất khẩu thuỷ sản của nước nhà còn chưa tương xứng với tiềm năng tài nguyên đất nước và nếu so sánh với các nước có tiềm năng thuỷ sản giống ta (như Thái Lan) thì mức độ chênh lệch về trình độ công nghệ và trình độ quản lý là rất lớn, do vậy mục tiêu chiến lược là phải phát huy được những tiềm năng của thuỷ sản nước nhà và đưa trình độ công nghệ sản xuất, chế biến và xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam cũng như trình độ quản lý lên ngang tầm khu vực và thế giới.
Chương III: Một số giải pháp chủ yếu nâng cao hiệu quả hoạt động của ngành xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam
Mục tiêu và định hướng phát triển thuỷ sản
1. Những căn cứ xác định mục tiêu
1.1. Những quan điểm cơ bản để phát triển xuất khẩu thuỷ sản
Xuất khẩu thuỷ sản tiếp tục là mũi nhọn trong phát triển kinh tế thuỷ sản, trước hết là kinh tế biển, có vai trò và vị trí quan trọng trong phát triển kinh tế đất nước, nâng cao thu nhập và giải quyết việc làm, cải thiện đời sống nhân dân vùng biển.
Xuất khẩu thuỷ sản phải chuyển từ kinh tế khai thác tài nguyên và kinh tế thương mại là chủ yếu sang kinh tế khai thác lao động kỹ thuật và kinh tế công nghiệp là chủ yếu, chuẩn bị điều kiện để tiến tới kinh tế khai thác trí tuệ và khoa học những năm sau năm 2015.
Xuất khẩu và chế biến xuất khẩu thuỷ sản phải gắn mật thiết và trực tiếp thúc đẩy sự phát triển của khai thác, nuôi trồng thủy sản, trên cơ sở cơ cấu kinh tế hợp lý với sự tham gia tích cực của nhiều thành phần kinh tế, tạo tích luỹ lớn để tái sản xuất mở rộng, nhanh chóng tiến hành công nghiệp hoá hiện đại hoá, thực hiện song song các mục tiêu: phát triển năng lực sản xuất, tái tạo và phát triển nguồn lợi, bảo vệ môi trường, tái tạo và phát triển sức lao động nghề cá.
Xuất khẩu thuỷ sản phải đặt trong mối liên hệ chặt chẽ với đổi mới công nghệ, kỹ thuật và trang thiết bị; phối hợp hài hoà với phát triển sản xuất cho nhu cầu xuất khẩu tại chỗ và tiêu dùng nội địa; mở rộng nhập khẩu bổ sung nguyên liệu cho tái xuất khẩu.
Phát triển xuất khẩu và chế biến thuỷ sản phải dựa trên thực hiện chiến lược con người, đổi mới tổ chức quản lý, chuyển hẳn từ quản lý chủ yếu dựa vào kinh nghiệm và năng lực cá nhân sang quản lý chủ yếu bằng tri thức khoa học đáp ứng yêu cầu phát triển.
1.2 Định hướng phát triển xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam
1.2.1. Mở rộng và đa dạng hoá thị trường
Phương hướng của Việt Nam là giữ vững các thị trường truyền thống, tăng nhanh tỷ trọng thị trường các nước Châu Âu, Bắc Mỹ và các thị trường thu nhập cao khác, tạo thế cân bằng với thị trường truyền thống, coi trọng xuất khẩu tại chỗ và thị trường trong nước; từng bước vươn ra làm chủ một số thị trường thế giới về số mặt hàng.
Cụ thể:
Phối hợp chặt chẽ các hoạt động mở rộng thị trường với hoạt động ngoại giao.
Thực hiện linh hoạt chính sách khuyến khích mở rộng thị trường phù hợp với những thay đổi của thị trường và luật pháp các nước nhập khẩu.
Đổi mới công tác thông tin tiếp thị, áp dụng công nghệ thông tin, khuyến khích đa dạng hoá hoạt động thông tin cả ở cấp Nhà nước và cấp doanh nghiệp, theo một tổ chức đồng bộ, thống nhất, với định hướng chiến lược chung và các sách lược rõ ràng.
Phát triển mạnh xuất khẩu tại chỗ phục vụ phát triển du lịch và thị trường tiêu thụ trong nước song song với thị trường nước ngoài.
1.2.2. Chuyển dịch cơ cấu sản phẩm thuỷ sản xuất khẩu
Trong thời gian tới, thuỷ sản Việt Nam phải dạng hoá và nâng cao giá trị sản phẩm, không ngừng cải tiến và nâng cấp các mặt hàng truyền thống, tạo ra ngày càng nhiều sản phẩm mới có giá trị và chất lượng cao; chuyển dần từ xuất khẩu nguyên liệu thô sang xuất khẩu các sản phẩm sống, tươi, sản phẩm ăn liền và sản phẩm bán lẻ siêu thị.
Cụ thể:
Nâng cao giá bình quân của các mặt hàng xuất khẩu, trước hết là mặt hàng tôm đông lạnh lên ngang giá bình quân của mặt hàng cùng chủng loại trên thị trường thế giới.
Phát triển mạnh xuất khẩu các mặt hàng thuỷ sản tươi sống, cá đông lạnh, đồ hộp, các mặt hàng giá trị gia tăng, các sản phẩm ăn liền đóng gói nhỏ.
Phát triển xuất khẩu các sản phẩm từ cá và các đặc sản nước ngọt, phát triển sản xuất và xuất khẩu cá cảnh, tiến tới xuất khẩu các loại giống thuỷ sản và các chế phẩm sinh học có giá trị cao trong y học.
1.2.3. Phấn đấu tăng giá thuỷ sản xuất khẩu trong điều kiện đảm bảo cạnh tranh
Xu hướng tăng giá quốc tế hàng thủy sản thời gian tới vẫn tiếp tục do khả năng cung cấp không thoả mãn nhu cầu, do tăng chi phí khai thác và tăng giá lao động, ngoài ra là do thay đổi cơ cấu sản phẩm thuỷ sản theo hướng tăng tỷ trọng hàng thuỷ sản ăn liền và các hàng thuỷ sản cao cấp khác.
Xét trên đặc thù xuất khẩu của Việt Nam về cơ cấu sản phẩm xuất khẩu, về mức giá xuất khẩu so với giá cả trung bình của thế giới và về các tương quan khác, Việt Nam có thể cải thiện giá xuất khẩu hàng thuỷ sản từ mức thấp hiện nay và nâng mức giá trung bình xuất khẩu hàng thuỷ sản lên ít ra cũng bằng 75%-85% mức giá xuất khẩu cùng loại sản phẩm của các nước khác trong khu vực. Tuy nhiên, việc tăng giá sản phẩm ở đây vẫn phải đảm bảo hàng thuỷ sản Việt Nam có sức cạnh tranh để chiếm lĩnh thị trường quốc tế khi mà chúng ta muốn tăng kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản hàng năm 10,63%.
Vì vậy, trong chiến lược về giá cả, việc áp dụng chiến lược tăng giá hay giảm giá đi liền với những sản phẩm xuất khẩu, nhu cầu thị hiếu của chế biến và có quan hệ mật thiết với dạng sản phẩm xuất khẩu, nhu cầu thị hiếu của thị trường nhập khẩu. Đối với các thuỷ sản xuất khẩu phổ biến, muốn tăng được số lượng xuất khẩu thì việc phấn đẩu để giá cả thấp vẫn có tính cạnh tranh mạnh nhất, trong khi đối với các loại thuỷ sản cao cấp và quý hiếm, chưa chắc giá cả thấp đã là hay vì đối với đặc điểm tâm lý của người tiêu thụ thuộc phần thị trường này, giá cả cao lại làm tăng giá trị của người tiêu dùng sản phẩm đó. Do đó, yếu tố quyết định để nâng được mức giá xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam thời gian tới sẽ là thay đổi cơ cấu hàng xuất khẩu, việc nâng tỷ trọng hàng chế biến sâu như đồ hộp thuỷ sản hay thuỷ sản ăn liền trong tổng xuất khẩu hàng thuỷ sản, cũng như việc áp dụng thành tựu khoa học kỹ thuật mới để có khả năng xuất khẩu các loại thuỷ sản sống giá trị cao... Còn dạng sản phẩm sơ chế khó có thể nói tới việc tăng giá, trừ khi cung cấp không đáp ứng được nhu cầu.
Tất nhiên, nghiên cứu để đạt được một chính sách giá hợp lý để góp phần tăng kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản là một công việc khó khăn và phải được đầu tư thích đáng, có thể đây là một hướng đi sâu nghiên cứu trong hoạt động marketing xuất khẩu hàng thuỷ sản.
1.2.4. Đa dạng hoá cơ cấu sở hữu theo hướng phát huy năng lực của mọi thành phần kinh tế trong tất cả các khâu của sản xuất thuỷ sản xuất khẩu
Cụ thể:
Tiến hành thí điểm và triển khai cổ phần hoá phần lớn các doanh nghiệp Nhà nước trong chế biến xuất khẩu thuỷ sản.
Thành lập ngân hàng cổ phần thương mại thuỷ sản Việt Nam, nhằm huy động vốn đóng góp của mọi thành phần kinh tế để thúc đẩy và hỗ trợ vốn cho phát triển sản xuất kinh doanh chế biến xuất khẩu thuỷ sản.
Khuyến khích phát triển các hình thức đầu tư trong nước vào ngành thuỷ sản như công ty cổ phần, công ty liên doanh, công ty tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, các hình thức hợp tác và kinh tế hộ gia đình.
Thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài trong lĩnh vực khai thác xa bờ, chế biến công nghệ cao, khuyến khích công ty 100% vốn nước ngoài và các hình thức hợp tác chuyển giao công nghệ hiện đại.
1.2.5. Đổi mới công nghệ kỹ thuật trong hệ thống đồng bộ thống nhất các khâu sản xuất thuỷ sản xuất khẩu; tăng cường ứng dụng kỹ thuật tiến bộ của thế giới
Cụ thể:
Nhanh chóng qui hoạch lại và đầu tư chiều sâu nhằm nâng cấp và hiện đại hoá các cơ sở chế biến thuỷ sản hiện có.
Xây dựng các trung tâm chế biến với công nghệ hiện đại, có điều kiện sản xuất tiên tiến, gắn liền với đầu tư phát triển các vùng nguyên liệu tập trung.
1.2.6. Tăng cường bảo đảm an toàn chất lượng thuỷ sản theo hướng đồng bộ, tiên tiến, hiện đại, nối liền và xuyên suốt các khâu bảo quản sau thu hoạch, trong quá trình tiếp nhận, vận chuyển nguyên liệu, chế biến và tiêu thụ sản phẩm thuỷ sản
Cụ thể:
Tập trung đầu tư hiện đại hoá công nghệ bảo quản sau thu hoạch.
Thực hiện đồng bộ các biện pháp bảo đảm an toàn chất lượng trong tất cả các khâu của quá trình sản xuất thuỷ sản xuất khẩu theo cách tiếp cận HACCP.
áp dụng đồng bộ phương pháp GMP (thực hiện sản xuất tốt) và xây dựng hệ thống tự kiểm tra chất lượng cho các cơ sở chế biến thuỷ sản.
Tăng cường khả năng của cơ quan và các chân rết của hệ thống quản lý an toàn chất lượng và kiểm tra chất lượng thuỷ sản.
1.3. Xu hướng phát triển xuất khẩu thuỷ sản thế giới
Theo dự báo của Trung tâm Thuỷ sản Thế giới, đến năm 2020, các nước đang phát triển sẽ chiếm tới 77% tổng lượng tiêu thụ thuỷ sản toàn cầu và 79% tổng sản lượng thuỷ sản thế giới. Như vậy là, từ năm 1997 đến năm 2020, tiêu thụ thuỷ sản ở các nước đang phát triển sẽ tăng từ 62,7 triệu tấn (57%), trong khi các nước đang phát triển chỉ tăng 4%, từ 28,1 triệu tấn lên 29,2 triệu tấn.
Bảng 16: Dự báo tiêu thụ thuỷ sản thế giới đến năm 2020 (đơn vị: 1000 tấn)
Các nhu cầu
Châu Phi
Bắc Mỹ
Caribe, Nam Mỹ
Châu á
Châu Âu + Nga
Châu Đại Dương
Toàn thế giới
Tổng nhu cầu
8.735
9.047
19.180
91.310
20.589
862
149.615
Phi thực phẩm
736
1278
12.873
7.469
6.001
109
28.466
Thực phẩm
7.999
7.769
6.307
83.841
14.583
7.753
121.149
Dân số (triệu người)
997
332
595
4.145
713
34
6.816
Mức tiêu thụ/người (kg)
8,0
23,4
10,6
20,2
20,5
22,1
17,8
Nguồn: Tạp chí thương mại thuỷ sản 4/2006
Do nghề khai thác thuỷ sản tự nhiên hiện nay đã hoạt động hết hoặc vượt công suất, nghiên cứu cũng như dự báo đến năm 2020, trên 40% khối lượng thuỷ sản được tiêu thụ sẽ do các cơ sở nuôi cung cấp và sản lượng nuôi trồng thuỷ sản trong hai thập kỷ tới sẽ tăng gấp đôi, từ 28,6 triệu tấn năm 1997 lên 53,6 triệu tấn năm 2020.
Về thị hiếu, dân chúng sẽ chuyển hướng sang tiêu thụ hàng thuỷ sản tươi sống, đặc biệt là hàng có giá trị cao và đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm. Tuy nhiên, do cạnh tranh giữa các nước sản xuất ngày càng quyết liệt và các thị trường tiêu thụ cũng gây nhiều sức ép nhằm bảo hộ thương mại, nên giá có xu hướng giảm nhẹ đi. Một số mặt hàng đặc sản đảm bảo các yêu cầu và có chất lượng cao vẫn không có nhiều trên thị trường nên duy trì được giá cao.
2. Mục tiêu phát triển XK thuỷ sản đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020
Mục tiêu phát triển xuất khẩu thuỷ sản đến năm 2010
Mục tiêu về sản lượng và kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản
Theo Chương trình phát triển xuất khẩu thuỷ sản đến năm 2010, ngành thuỷ sản phấn đấu đến năm 2010 đạt giá trị kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản đạt 4 tỷ USD và giá trị kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản tăng bình quân 10,63%/năm. Bên cạnh đó phải nâng cao hơn nữa sức cạnh tranh cho sản phẩm thuỷ sản nước ta, đưa xuất khẩu thuỷ sản tăng trưởng một cách hiệu quả, bền vững, sánh ngang với các nước phát triển, đưa thuỷ sản tiếp tục là ngành kinh tế mũi nhọn và là một trong những ngành hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam.
Về sản lượng xuất khẩu, đến năm 2010 phấn đấu đạt tổng sản lượng nguyên liệu 4 triệu tấn, tổng sản lượng sản phẩm xuất khẩu đạt 831.210 tấn. Tính theo khu vực địa lý, khu vực miền Bắc 218 triệu USD, Bắc Trung Bộ 112 triệu USD, Đông Nam Bộ 490 triệu USD, đồng bằng sông Cửu Long 2.580 triệu USD và khu vực thuộc khối trung ương đạt 50 triệu USD.
Mục tiêu về cơ cấu thị trường
Cần đa dạng hoá thị trường hơn nữa, tiếp tục tìm kiếm bạn hàng theo chiều sâu, giảm bớt thị trường trung gian, thường xuyên điều chỉnh và không bị lệ thuộc vào một thị trường để kịp thời điều tiết khi có biến động.
Tiếp tục đẩy mạnh xuất khẩu vào các thị trường tiềm năng, đặc biệt quan tâm đến thị trường Trung Quốc. Dự kiến thị phần xuất đi các nước như sau:
Nhật Bản: không dưới 30%
Mỹ: trên 25% trong những năm trước mắt và trên 30% những năm cuối của giai đoạn 2006 – 2010 cũng như những năm tiếp theo
EU (15 nước): từ 10 – 15%
Trung Quốc + Hồng Kông: 8-12%
Hàn Quốc: khoảng 8%
Còn lại là xuất khẩu thuỷ sản tới các thị trường khác.
Mục tiêu về cơ cấu thị trường xuất khẩu
Đối với từng nhóm sản phẩm, mục tiêu đến năm 2010 giá trị kim ngạch xuất khẩu của nhóm sản phẩm tôm đạt 1,98 tỷ USD, cá biển 0,31 tỷ USD, mực và bạch tuộc 0,24 tỷ USD, nhuyễn thể hai mảnh vỏ 0,16 tỷ USD, cá ngừ đại dương 0,15 tỷ USD, cá tra/basa 0,6 tỷ USD, cá rô phi 0,1 tỷ USD, cá cảnh 0,03 tỷ USD, các sản phẩm khác 0,33 tỷ USD.
Biểu đồ 7: Mục tiêu tỷ trọng XKTS theo nhóm sản phẩm đến năm 2010
Nguồn: Bộ Thuỷ sản_Chương trình phát triển XKTS đến năm 2010 và tầm nhìn 2020
Mục tiêu về nguyên liệu
Mục tiêu về nguyên liệu thuỷ sản được cụ thể hoá như sau:
Về tôm, để đáp ứng được mục tiêu chế biến xuất khẩu khoảng 390 nghìn tấn tôm vào năm 2010, sản lượng tôm nuôi và khai thác dự kiến đạt khoảng 483 nghìn tấn. Trong đó, tôm sú vẫn là đối tượng xuất khẩu chính, riêng sản lượng tôm sú đến năm 2010, đảm bảo 360.000 tấn nguyên liệu. Nuôi tôm sú tập trung ở các vùng Đông Nam Bộ và đồng bằng sông Cửu Long. Khu vực miền Bắc, miền Trung sẽ tập trung nuôi tôm chân trắng theo hướng tăng dần, dự kiến sản lượng đến năm 2010 sẽ là 60.000 tấn. Bên cạnh tôm sú và tôm chân trắng, các đối tượng tôm nuôi khác như tôm hùm, tôm càng xanh và tôm từ khai thác cũng được chú trọng để đảm bảo sản lượng cho xuất khẩu.
Cá tra, cá basa, chỉ tiêu phát triển đến năm 2010 đạt 800.000-850.000 tấn nguyên liệu để đảm bảo sản xuất 230.000 tấn sản phẩm cho xuất khẩu. Ngoài vùng nuôi tập trung tại đồng bằng sông Cửu Long, diện tích nuôi sẽ mở rộng ra các hồ chứa vùng Đông Nam Bộ, Nam Trung Bộ và các hồ chứa nước phía Bắc.
Cá ngừ được xác định là loài có giá trị kinh tế và xuất khẩu, do đó sẽ chuyển đổi dần nghề nghiệp khai thác, đến năm 2010 phấn đấu sản lượng khai thác cá ngừ đạt 50.000 tấn, đồng thời tăng cường công tác bảo quản, đảm bảo đạt 45.000 tấn sản phẩm xuất khẩu.
Mực và bạch tuộc, ổn định mức sản lượng nhuyễn thể chân đầu khoảng 180.000 tấn để đáp ứng 75.000 tấn sản phẩm xuất khẩu.
Nhuyễn thể hai mảnh vỏ, đến năm 2010 đạt 530.000 tấn, trong đó nhuyễn thể nuôi đạt 380.000 tấn, tập trung ở Bến Tre, Tiền Giang, Kiên Giang, Cà Mau, Trà Vinh, TP.HCM, Vũng Tàu, Nam Định, Thái Bình. Lượng sản phẩm xuất khẩu năm 2010 khoảng 40.000 tấn.
Cá biển nuôi, đến năm 2010 đạt sản lượng 200.000 tấn với các loại cá phục vụ cho xuất khẩu như cá song, hồng, cam, vược, giò… tập trung nuôi tại các vùng Quảng Ninh, Hải Phòng, Thừa Thiên-Huế, Khánh Hoà, Vũng Tàu, Kiên Giang.
Cá rô phi, trong giai đoạn tới đây sẽ là một trong những đối tượng xuất khẩu chính, với khoảng 200.000 tấn nguyên liệu, trong đó nguyên liệu đủ tiêu chuẩn xuất khẩu từ 130.000-150.000 tấn.
Định hướng đến năm 2020
Về định hướng đến năm 2020, Bộ Thuỷ sản đã đưa ra 3 định hướng chung nhằm đạt tới 3 nhóm mục tiêu lớn:
Phát triển nghề cá thương mại theo hướng CNH-HĐH với quy mô tập trung, sản xuất hàng hoá lớn và liên hoàn, cùng với việc hình thành những khu vực có tiềm năng và triển vọng như ở dải ven biển, đồng bằng Nam Bộ và một số cụm đảo.
Bảo đảm chất lượng và tính cạnh tranh cao của hàng hoá thuỷ sản thông qua đa dạng hóa cơ cấu sản phẩm, đầu tư xây dựng thương hiệu đối với các mặt hàng thuỷ sản chủ lực. Tạo tiền đề để từng bước chuyển từ quan điểm coi trọng “tổng sản lượng” sang coi trọng “giá trị gia tăng” của các loại sản phẩm thuỷ sản, giữ vững là ngành có kim ngạch xuất khẩu cao.
Tiếp tục chuyển dịch cơ cấu theo hướng ổn định khai thác ở vùng biển ven bờ, phát triển khai thác xa bờ hợp lý, phát triển mạnh nuôi trồng cả trên đất liền lẫn trên biển; đảm bảo cung cấp nguyên liẹu chủ yếu cho xuất khẩu; đa dạng hình thức nuôi, đối tượng nuôi và cơ cấu giống nuôi để giảm thiểu rủi ro, bảo vệ nguồn lợi và môi trường sinh thái; tổ chức tốt nghề cá cộng đồng để giải quyết việc làm cho lao động khu vực nông thôn, cải thiện sinh kế cho người dân; tận dụng tiềm năng phát triển thuỷ sản ở quy mô nhỏ lẻ, phân tán và quản lý theo nguyên tắc tự nguyện, tự quản và đồng thuận.
Hiệu quả là một phạm trù kinh tế xã hội, là một chỉ tiêu phản ánh trình độ của con người sử dụng các yếu tố cần thiết tham gia trong các hoạt động để đạt được kết quả với mục đích của mình.
Theo cách hiểu đó thì hiệu quả cũng là sự phù hợp giữa kết quả đạt được và mục tiêu đề ra. Vì vậy, để nâng cao hiệu quả hoạt động của ngành xuất khẩu thuỷ sản trong thời gian tới, em có đưa ra một số giả pháp để ngành thuỷ sản có thể đạt được các mục tiêu đã đặt ra.
II. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của ngành xuất khẩu thuỷ sản ở Việt Nam trong thời gian tới
Trên cơ sở những phương hướng và mục tiêu phát triển ngành thuỷ sản cùng với sự phân tích triển vọng thị trường thuỷ sản thế giới, có thể xem xét một số biện pháp chủ yếu để giải quyết những vấn đề còn tồn tại trong xuất khẩu thuỷ sản thời gian qua, góp phần tăng sản lượng thuỷ sản xuất khẩu, đưa ngành thuỷ sản phát triển nhanh chóng xứng với tiềm năng thực của nó.
1. Giải pháp thị trường
Đây là giải pháp mang tính chất trực tiếp và cực kỳ quan trọng đến việc nâng cao hình ảnh, uy tín sản phẩm, mở rộng đối tác và phạm vi thị trường xuất khẩu. Hiện chúng ta đang đặt mục tiêu giữ vững thị trường truyền thống, tăng nhanh tỷ trọng các thị trường Châu Âu, Bắc Mỹ, và coi trọng các thị trường thu nhập cao khác trên thế giới tạo thế cân bằng với thị trường truyền thống, chiếm ưu thế lớn trên thế giới ở một số các mặt hàng, giảm tối đa việc xuất khẩu các sản phẩm thô và việc xuất khẩu qua thị trường trung gian và tăng xuất khẩu trực tiếp vào các thị trường trên thế giới. Để thực hiện được giải pháp này cụ thể chúng ta cần giải quyết các công việc sau:
Tăng cường công tác thông tin về thị trường thế giới và các cơ chế chính sách thương mại của các nước. Phát huy vai trò của hiệp hội, các câu lạc bộ nhóm sản phẩm trong việc cung cấp thông tin thị trường, dự báo nhu cầu và diễn biến thị trường cho doanh nghiệp và cho người sản xuất, phát triển công tác thị trường ở cả tầm vĩ mô và vi mô, phối hợp chặt chẽ giữa Nhà nước và doanh nghiệp.
Tiếp tục giữ vững các thị trường lớn như thị trường Hoa Kỳ, Nhật Bản và EU đồng thời tăng cường xuất khẩu hàng vào Trung Quốc, Hồng Kông, mở rộng sang các thị trường mới ở các nước thuộc SNG, Trung Đông, Mexico và Ecuador, trong đó đặc biệt chú trọng thị trường Trung Quốc bằng việc xây dựng các kho lạnh tại Lào Cai, Móng Cái để trữ hàng.
Đẩy mạnh công tác quảng cáo tiếp thị hướng dẫn tiêu dùng, tham gia các hội chợ trong và ngoài nước để quảng bá sản phẩm và tìm đối tác kinh doanh. Bên cạnh đó chúng ta cần chú trọng thị trường có sức mua lớn đi đôi với mở rộng khảo sát thăm dò mở rộng thêm thị trường mới chủ động phòng ngừa những đột biến của thị trường truyền thống.
Có cơ quan đầu mối thực hiện chức năng quản lý Nhà nước về xúc tiến thương mại, thành lập văn phòng đại diện thương mại thuỷ sản Việt Nam tại một số thị trường lớn: Mỹ, Nhật, EU, Trung Quốc. Bên cạnh đó cần tích cực rút ra kinh nghiệm để tổ chức cho các thị trường khác.
Đưa Quỹ phát triển thị trường xuất khẩu thuỷ sản trên cơ sở hỗ trợ ban đầu của Nhà nước và nguồn thu chủ yếu từ các doanh nghiệp, dựa vào sản lượng xuất khẩu từng nhóm sản phẩm nhằm nâng cao năng lực của sản phẩm cũng như doanh nghiệp để chủ động thực hiện công tác xúc tiến thương mại và xử lý tranh chấp thương mại khi xảy ra.
Bộ Thuỷ sản cùng VASEP phối hợp với các Sứ quán, Thương vụ Việt Nam ở nước ngoài tổ chức các hoạt động xúc tiến thương mại, quảng bá sản nhằm nâng cao hình ảnh của phẩm thuỷ sản Việt Nam.
2. Cải tiến chất lượng và đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm
Ngoài việc phấn đấu giảm giá thành để có ưu thế trong cạnh tranh xuất khẩu hàng thuỷ sản thì vấn đề đảm bảo chất lượng và an toàn vệ sinh thực phẩm có tầm quan trọng sống còn đối với việc xuất khẩu hàng thuỷ sản Việt nam, Việt nam có thể thấm thía điều này qua ví dụ cụ thể là trường hợp của Thái Lan, trở thành một trong những nước xuất khẩu thuỷ sản lớn nhất nhất thế giới hiện nay là nhờ việc Thái Lan tập trung mọi nỗ lực của ngành thuỷ sản, cả tư nhân và nhà nước để cải tiến chất lượng hàng thuỷ sản khẩu. Hướng xuất khẩu thuỷ sản thời gian tới của Nhà nước là tăng thị phần ở liên minh Châu Âu và Bắc Mỹ, nơi mà mọi vấn đề liên quan đến chất lượng đều được quy tụ trong việc thực hiện trong tiêu chuẩn HACCP. Vì vậy, không có các nào khác là sự vươn lên của các danh nghiệp Việt nam cùng với sự trợ giúp về kỹ thuật, tài chính của Nhà nước và quốc tế để cải tiến chất lượng hàng thuỷ sản Việt nam.
Để nâng cao chất lượng sản phẩm và an toàn vệ sinh thực phẩm trước hết phải nâng cao chất lượng nguồn nguyên liệu, nâng cao chế biến và có quy đinh chung về chất lượng.
2.1. Nâng cao chất lượng nguồn nguyên liệu
Chất lượng nguồn nguyên liệu ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng sản phẩm. Đó là việc đảm bảo kích cỡ, độ tươi sống, chủng loại nguyên liệu. Ngành thuỷ sản Việt Nam cần phải chú ý thực hiện các vấn đề sau:
Chuyển mạnh sang phương thức “quản lý hệ thống” mà trọng tâm là hướng dẫn, đào tạo cho người nuôi, ngư dân thực hiện các tiêu chuẩn quy định. Hỗ trợ các cộng đồng ngư dân xây dựng vùng nuôi an toàn. Quy hoạch và đầu tư xây dựng hệ thống kho lạnh và phát triển dịch vụ kho lạnh trong cả nước với công nghệ và thiết bị tiên tiến.
Giúp xây dựng các tổ chức cộng đồng như cá hội, các câu lạc bộ sản xuất cùng một loại sản phẩm. Khuyến khích các doanh nghiệp xây dựng các quan hệ liên kết dọc, nội dung chủ yếu của các liên kết này là cùng thống nhất thực hiện các tiêu chuẩn, quy định trong tất cả các khâu của ngành sản xuất và xây dựng thương hiệu chung của cộng đồng. Các vùng nuôi hoặc các cộng đồng đạt tiêu chuẩn cần được kiểm soát và chứng nhận, nâng cao vai trò của cộng đồng trong việc tự kiểm soát và thực hiện các cam kết chung. Việc chứng nhận cần được xã hội hoá, sử dụng các tổ chức “bên thứ ba” độc lập.
Bên cạnh việc xây dựng các vùng nuôi đạt tiêu chuẩn cần thực hiện chuyển mạnh sang thực hiện liểm tra và chứng nhận an toàn vệ sinh đối với nguyên liệu thuỷ sản trước khi đưa vào chế biến hoặc tiêu thụ nội địa. Để làm việc này, cần tổ chức các chợ bán buôn thuỷ sản theo mô hình chợ cá của các nước trong khu vực tại các trọng điểm và đầu mối giao lưu về giao thông.
Thực hiện việc đăng ký kinh doanh đối với 100% các hộ sản xuất, kinh doanh nguyên liệu, hướng dẫn và kiểm tra việc thực hiện các tiêu chuẩn quy định về đảm bảo an toàn vệ sinh trong quá trình sản xuất, kinh doanh.
Huy động hệ thống chính trị và các phương tiện thông tin đại chúng trên địa bàn tỉnh để vận động giáo dục đấu tranh chống các hành vi gian lận, bơm chích tạp chất hoặc vi phạm các tiêu chuẩn, quy định về an toàn vệ sinh thực phẩm. Đề nghị các tỉnh thành lập Ban chỉ đạo do một Phó Chủ tịch UBND tỉnh làm trưởng ban.
Trước mắt, trong giai đoạn quá độ, do chưa xây dựng được năng lực để quản lý từ gốc, có thể duy trì trong một thời gian gần việc kiểm soát sản phẩm và thực hiện kiểm tra tại hiện trường. Phối hợp nguồn lực Nhà nước ở cấp bô, cấp tỉnh và huy động nguồn lực của các doanh nghiệp để thực hiện công tác này.
Nhanh chóng cập nhật và xây dựng các tiêu chuẩn, các quy định về trình tự thủ tục kiểm tra công nhận để đưa vào hướng dẫn thực hiện. Sớm sửa đổi bổ sung các văn bản quy phạm pháp luật về xử phạt hành chính phù hợp với thực tiễn.
Nâng cao chất lượng trong chế biến
Để hình thành một ngành công nghiệp chế biến thuỷ sản vững mạnh, có đủ khả năng cạnh tranh với các nước trong khu vực cần có những giải pháp sau:
Ban hành chính sách khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư công nghệ hiện đại, bí quyết công nghệ, thuê chuyên gia giỏi nước ngoài, đầu tư nghiên cứu ứng dụng công nghệ mới, phát triển các mặt hàng mới.
Nâng cao tỷ trọng các cơ sở chế biến thực hiện chương trình quản lý chất lượng theo GMP, SSOP và HACCP, bắt buộc 100% các cơ sở chế biến thuỷ sản phải thực hiện hệ thống quản lý chất lượng tiên tiến nhằm đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm cho người tiêu dùng và xuất khẩu.
Hỗ trợ tín dụng ưu đãi cho các doanh nghiệp chế biến thuỷ sản đầu tư nâng cấp điều kiện sản xuất đáp ứng yêu cầu an toàn vệ sinh thực phẩm của các nước, nhất là Mỹ và EU.
Xây dựng, ban hành và triển khai áp dụng các tiêu chuẩn Nhà nước (TCVN) và tiêu chuẩn ngành (TCN) về điều kiện sản xuất, an toàn vệ sinh tối thiểu đối với các chợ, các cảng cá, các cơ sở chế biến thuỷ sản tiêu thụ trong nước và xuất khẩu.
Đầu tư nâng cấp cơ sở vật chất và năng lực nghiên cứu và triển khai của Trung tâm Công nghệ Sinh học và Công nghệ Chế biến thuộc Viện nghiên cứu Nuôi trồng Thuỷ sản II (Bộ Thuỷ sản), tạo điều kiện cho Trung tâm nghiên cứu phát triển sản phẩm và tư vấn cho doanh nghiệp phát triển đa dạng hoá mặt hàng.
Thành lập tổ chức tư vấn, giúp các doanh nghiệp đầu tư mới, sửa chữa, cải tạo và nâng cấp nhà xưởng chế biến, xây dựng và hoàn thiện hệ thống quản lý chất lượng.
Tăng cường hoàn thiện năng lực và hoạt động của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền về kiểm tra và chứng nhận an toàn vệ sinh thuỷ sản đối với hoạt động của các cơ sở chế biến thuỷ sản, trên cơ sở Trung Tâm Kiểm tra Chất lượng và vệ sinh thuỷ sản hiện nay.
2.3. Đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm
Tiếp tục đổi mới công tác an toàn vệ sinh phù hợp yêu cầu mới trên hai mặt, hệ thống tổ chức và hệ thống văn bản pháp quy kỹ thuật, nhằm nâng cao độ tin cậy của hệ thống kiểm soát đối với sản phẩm thuỷ sản Việt Nam. Việc quản lý an toàn vệ sinh thực phẩm phải trở thành hệ thống xuyên suốt trong các khâu từ sản xuất nguyên liệu, đến thu gom, vận chuyển, chế biến, tiêu thụ. Lấy các tiêu chuẩn của thị trường làm thước đo cho mức độ đáp ứng.
3. Đảm bảo nguồn cung cấp nguyên liệu chế biến thuỷ sản xuất khẩu
3.1. Nuôi trồng thuỷ sản
Trong nuôi trồng, để có nguyên liệu đủ về sản lượng, đảm bảo về chất lượng, phù hợp với yêu cầu của thị trường chúng ta phải đảm bảo về các mặt:
3.1.1. Con giống
Tổ chức lại, nâng cao khả năng nghiên cứu và sản xuất của hệ thống giống các cấp; khả năng bảo vệ các bãi giống, bãi đẻ tự nhiên của tôm, cá và lưu giữ các nguồn gen quý hiếm; đảm bảo cung cấp đủ, kịp thời giống tốt với giá hợp lý cho nuôi trồng thuỷ sản, kể cả nhập khẩu giống và công nghệ sản xuất giống cần thiết.
Chủ động trong việc sản xuất và kiểm soát chất lượng con giống. Tăng cường công tác khuyến ngư hướng dẫn quy trình công nghệ và kỹ thuật nuôi cho dân để nâng cao năng suất, hạn chế rủi ro và thực hiện được yêu cầu về an toàn vệ sinh thực phẩm đối với nguyên liệu cho chế biến xuất khẩu.
Bộ nên tổ chức thí điểm một số mô hình quản lý cộng đồng đối với nuôi sạch để liên kết với các doanh nghiệp xuất khẩu ổn định nguồn con giống, nguyên liệu sạch bệnh.
3.1.2. Kỹ thuật nuôi trồng
Tăng cường về năng lực và cơ sở vật chất kỹ thuật của các Viện nghiên cứu, trường của các ngành khác để đào tạo đội ngũ cán bộ nghiên cứu, quản lý và kỹ thuật về công nghệ nuôi, sản xuất giống, xử lý môi trường, chẩn đoán, phòng trừ dịch bệnh, sản xuất thức ăn, bảo quản sau thu hoạch; đồng thời bằng nhiều hình thức để đào tạo bồi dưỡng kỹ thuật nuôi, phòng dịch bệnh cho nông dân và ngư dân.
Phát triển nuôi tôm với các phương thức công nghiệp, bán thâm canh, nuôi sinh thái quảng canh cải tiến và các hình nuôi kết hợp tôm-lúa, tôm-rừng phù hợp với điều kiện sinh thái và môi trường, nhằm tạo ra sản phẩm chất lượng cao giá thành cạnh tranh. Đồng thời phát triển mạnh các vùng nuôi có sản lượng lớn đối với các đối tượng xuất khẩu khác như tôm càng xanh, cá ba sa, cá tra, nhuyễn thể, rô phi, song, hồng...
3.2. Khai thác hải sản
Trang thiết bị và phương tiện bảo quản để thay đổi công nghệ bảo quản thuỷ sản trên các tàu cá, nhất là các tàu khai thác dài ngày; sản phẩm khai thác cần được tiến hành phân loại và bảo quản ngay trên tàu. Các tàu đóng mới của Chương trình đánh cá xa bờ nhất thiết phải được trang bị ngay từ khâu thiết kế.
Đầu tư đóng mới thử nghiệm tiến đến đóng mới đội tàu chuyên môn hoá vào việc bảo quản và vận chuyển thuỷ sản của đội tàu khai thác xa bờ, các tàu này được trang bị thiết bị cấp đông và khoang bảo quản dung tích lớn.
Công tác khuyến ngư cho khai thác phải tập trung vào việc truyền bá các kỹ thuật cơ bản về xử lý, bảo quản thuỷ sản cho các đối tượng là các chủ tàu và ngư dân trực tiếp khai thác trên biển.
Phát triển mạnh các nghề khai thác đối tượng có giá trị xuất khẩu cao như nghề câu cá ngừ đại dương vây rút chỉ kết hợp chà rạo, lồng bẫy...
Nhập khẩu nguyên liệu thuỷ sản để chế biến tái xuất
Tổ chức tìm kiếm các nguồn nguyên liệu từ các khu vực kém năng lực chế biến hoặc có chi phí chế biến cao để nhập khẩu làm tăng thêm nguồn nguyên liệu và cơ cấu nguyên liệu thích hợp và chủ động hơn cho chế biến tái xuất sang các thị trường có thu nhập cao.
Hình thành các cảng cá tự do tại Quảng Ninh, Hải Phòng, Kiên Giang và một số địa phương có điều kiện khác để thu hút tàu thuyền nước láng giềng và đồng thời tạo điều kiện thuận lợi về thủ tục cho doanh nghiệp trong quá trình nhập khẩu nguyên liệu để tái xuất.
4. Quy hoạch nuôi trồng thuỷ sản và khai thác hải sản
Yêu cầu lớn nhất đối với quy hoạch ngành thuỷ sản để phát triển xuất khẩu thuỷ sản là cần đảm bảo tốt quy hoạch phát triển sản xuất nguyên liệu cho xuất khẩu. Chúng ta xem xét ảnh hưởng chủ yếu ở những khía cạnh sau:
4.1. Quy hoạch nuôi trồng thuỷ sản
Rà soát và điều chỉnh quy hoạch phát triển nuôi trồng thuỷ sản kết hợp với việc lập các dự án đầu tư cụ thể, gắn với quy hoạch phát triển thuỷ lợi và đê biển chung trên địa bàn, nâng cao hiệu quả đầu tư và sử dụng có hiệu quả đất đai mặt nước vào nuôi trồng thuỷ sản.
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn chủ trì, phối hợp với Bộ Thuỷ sản trong xây dựng quy hoạch hệ thống đê biển có liên quan đến nuôi trồng thuỷ sản.
Bộ Thuỷ sản quy hoạch và xác định cụ thể số lượng các trại giống của từng vùng, từng địa phương, đặc biệt là các trại sản xuất giống tôm, cá cho nhu cầu đại trà cung cấp nguyên liệu cho xuất khẩu.
Nhanh chóng quy hoạch và đầu tư các vùng nuôi trồng thuỷ sản tập trung, quy mô lớn, công nghệ tiên tiến theo mô hình sinh thái bền vững, tăng cường năng lực con người và thiết bị cho các cơ quan kiểm soát chất lượng môi trường các vùng nước nuôi thuỷ sản cấp trung ương và địa phương; thường xuyên theo dõi và dự báo về chất lượng nước và dịch bệnh.
Các địa phương khẩn trương điều chỉnh lại quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội của địa phương mình theo tinh thần nghị quyết 09/2000/ NQ-CP về chuyển dịch cơ cấu sản xuất trong nông nghiệp nông thôn, trong đó có chuyển đất hoang hoá, đất nông nghiệp kém hiệu quả sang nuôi trồng thuỷ sản, trên cơ sở đó xây dựng qui hoạch cụ thể phát triển thuỷ sản trên từng địa bàn.
Tăng cường năng lực con người, thiết bị cho các cơ quan kiểm soát chất lượng các vùng nước nuôi trồng thuỷ sản cấp Trung ương và địa phương, thường xuyên theo dõi và dự báo về chất lượng nước và dịch bệnh.
Nhập công nghệ sản xuất giống và nuôi nhuyễn thể có giá trị xuất khẩu cao như nghêu, ngao, sò lông, điệp, ốc hương, bào ngư, trai ngọc, hầu... theo phương thức quảng canh kết hợp, bán thâm canh tại các tỉnh Quảng Ninh, Hải Phòng, Thái Bình, Nghệ An, Quảng Bình, Đà Nẵng, Phú Yên, Khánh Hoà, Bình Thuận, Bà Rịa Vũng Tàu, TP. Hồ Chí Minh, Tiền Giang, Bến Tre, Kiên Giang, Cà Mau.
Tăng cường nghiên cứu khoa học, nhập khẩu công nghệ, trước hết tập trung vào khâu sản xuất giống để cho đẻ nhân tạo được các giống nuôi chủ yếu, tiến tới cho đẻ nhân tạo một số giống đặc sản; nghiên cứu hoàn thiện công nghệ nuôi nước ngọt, lợ và nuôi biển đối với các đối tượng nuôi chủ yếu; các biện pháp về phòng trừ dịch bệnh; công nghệ sản xuất thức ăn, công nghệ bảo quản và chế biến sau thu hoạch.
4.2. Quy hoạch khai thác hải sản
Thúc đẩy công tác điều tra, khảo sát tiềm năng của từng vùng biển, từng ngư trường để xác định rõ quy mô, thời điểm khai thác một cách hợp lý nhằm vừa đảm bảo sản lượng vừa bảo vệ và tái tạo được nguồn lợi hải sản.
Phát triển mạnh năng lực sản xuất và tổ chức khai thác xa bờ ở vùng Vịnh Bắc Bộ, biển Trung Bộ và Tây Nam Bộ, phấn đấu đưa sản lượng khai thác xa bờ năm 2010 lên 300-400 nghìn tấn, chủ yếu là cá nổi giá trị cao.
Ưu tiên đầu tư đào tạo một đội ngũ đông đảo máy trưởng và thuyền trưởng. Tiếp tục xây dựng cơ chế, chính sách cho vay vốn hợp lý hơn để ngư dân có đủ khả năng làm chủ tài sản, vay và trả nợ sòng phẳng, hỗ trợ ngư dân đóng tàu thuyền lớn.
Rà soát lại toàn bộ quá trình thực hiện Chương trình Khai thác hải sản xa bờ để chấn chỉnh từng khâu, xử lý rạch ròi các tồn đọng, nhất định không để xảy ra tình trạng đầu tư đóng tàu thuyền nhưng không ra khơi được. Song song với quá trình giảm dần số lượng tàu thuyền cỡ nhỏ, giải bản các tàu quá cũ kỹ, phải đầu tư nghiên cứu thiết kế, đóng mới các hạm tàu lớn khai thác ngoài khơi chuyên năng như viễn dương…
Xây dựng các đội tàu đánh cá quốc doanh lớn, làm nhiệm vụ hướng dẫn kỹ thuật và hỗ trợ các dịch vụ hậu cần, đưa ngư dân ra khai thác xa bờ. Bên cạnh đó, đưa vào hoạt động có hiệu quả một số tàu hậu cần cho đội tàu xa bờ. Triển khai thực hiện dự án tàu công ích làm dịch vụ cho đánh bắt hải sản xa bờ.
Mở rộng hợp tác với các nước có nghề cá phát triển, tân dụng mọi khả năng về vốn, công nghệ để liên doanh hợp tác xa bờ, từng bước tiến đến đánh cá đại dương.
Cần xây dựng một chuẩn mực hiện đại về cơ sở hạ tầng đối với các bến cá, bao gồm bến đậu, kho tàng, chợ bán buôn, kho trữ lạnh, nơi ăn nghỉ và các dịch vụ cung ứng cho thủy thủ đoàn.
5. Đẩy mạnh quản lý thương mại nguyên liệu thuỷ sản
Để phát huy lợi thế của các doanh nghiệp trong sản xuất chế biến hàng thuỷ sản xuất khẩu, chúng ta cần kết hợp củng cố vị trí cho các tập đoàn xuất khẩu lớn với việc giúp đỡ các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong xuất khẩu hàng thuỷ sản bởi nếu chỉ tập trung hỗ trợ các tập đoàn lớn, tuy điều kiện đầu tư, đổi mới trang thiết bị sẽ tốt hơn, đào tạo tập trung hơn, đưa các tập đoàn lớn trở thành đầu tàu đẩy mạnh xuất khẩu thuỷ sản nhưng các tập đoàn lớn thường khó thích nghi trước những biến đổi thất thường và các yêu cầu đa dạng, phong phú của thị trường cá biệt trong khi các doanh nghiệp nhỏ có tính linh hoạt và dễ thích ứng hơn. Hơn nữa, đặc điểm của Việt Nam là kinh tế hộ gia đình, các xí nghiệp vừa và nhỏ là điều cần thiết.
Cần vận dụng linh hoạt các phương thức mua bán quốc tế sẽ mở thêm cho ta những cơ hội xuất khẩu mới. Ngoài việc ký kết các hợp đồng trực tiếp, có thể ký gửi bán hàng thuỷ sản ở nước ngoài hay sử dụng mạng lưới phân phối hàng thuỷ sản ở nước ngoài như đại lý, môi giới bán hàng ...
Xây dựng hệ thống chợ thuỷ sản bán buôn tại thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội và các chợ đấu giá thuỷ sản khu vực tại Bạc Liêu, Cà Mau, Khánh Hoà và các chợ cá đầu mối tại các địa phương, trong đó Nhà nước đầu tư phần cơ sở hạ tầng của các chợ.
6. Giải pháp về khoa học công nghệ
Tiến hành lựa chọn công nghệ, xác định công nghệ khai thác có hiệu quả, tập trung vào các nghề khai thác cá nổi di cư, cá nổi đại dương, cá đáy, nhuyễn thể ở độ sâu 20-30m. Các nghề chủ yếu cần quan tâm là lưới kéo đôi hoặc đơn có độ mở cao, lưới vây rút chì, lưới rê, nghề câu vàng, cần câu, câu mực, chụp mực. Bên cạnh đó cần nghiên cứu ứng dụng hoặc nhập khẩu công nghệ hiện đại của nước ngoài để nâng cao hiệu quả khai thác hải sản.
Trên cơ sở đặc điểm sinh thái và tiềm năng của từng vùng địa lý, từng vùng mặt nước, xác định các đối tượng nuôi, công nghệ nuôi và quy mô nuôi cho phù hợp theo hướng đảm bảo năng suất cao và hiệu quả kinh tế lâu dài.
Đưa nhanh các tiến bộ khoa học kỹ thuật hiện đại của thế giới và khu vực vào áp dụng thí điểm rồi chuyển sang diện rộng. Hoàn thiện công nghệ hiện có, đồng thời du nhập những công nghệ mới về giống, nuôi, thức ăn, xử lý, bảo vệ môi trường, đặc biệt với tôm, cá biển và nhuyễn thể.
Đầu tư nâng cấp, xây dựng mới các doanh nghiệp chế biến với công nghệ tiên tiến để nâng cao chất lượng sản phẩm thuỷ sản đáp ứng yêu cầu ngày càng gắt gao của thị trường thế giới. Nâng cao tỷ trọng các cơ sở chế biến thực hiện quản lý chất lượng theo GMP, SSOP và HACCP, đồng thời khuyến khích các doanh nghiệp nhập khẩu công nghệ cao từ các nước phát triển, bí quyết công nghệ, thuê chuyên gia giỏi nước ngoài đầu tư nghiên cứu ứng dụng nhữg công nghệ mới.
Nghiên cứu và chuyển giao công nghệ sản xuất trên quy mô lớn các đối tượng thuỷ sản có gía trị kinh tế, phục vụ xuất khẩu, đồng thời gắn với các đơn vị chế biến để nghiên cứu sản xuất những mặt hàng mới có hàm lượng công nghệ cao, tận dụng nguyên liệu trong nước đáp ứng thị hiếu của thị trường thế giới.
Tập trung chỉ đạo đổi mới công nghệ bảo quản sau thu hoạch và khâu vận chuyển nhằm tăng chất lượng nguyên liệu, giảm thất thoát sau thu hoạch và tăng giá trị sản phẩm.
Hoàn thiện hệ thống khuyến ngư để tham gia chuyển giao tiến bộ khoa học kỹ thuật vào các khâu nuôi trồng, khai thác, sơ chế, bảo quản nguyên liệu thuỷ sản.
7. Phát triển nguồn nhân lực cho ngành thuỷ sản
Một yếu tố rất quan trọng và không thể thiếu được, đó là yếu tố con người. Các biện pháp khuyến khích xuất khẩu của Nhà nước ngay cả khi được xác định một cách khoa học và đúng đắn mới chỉ là một vế của phương trình xuất khẩu, trách nhiệm cuối cùng cũng như khả năng tận dụng được mọi sự ưu đãi để có thể chào bán được các sản phẩm có tính cạnh tranh cao để mở rộng thị trường xuất khẩu lại thuộc về bản thân các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam cũng như các nỗ lực chủ quan của họ. Đào tạo nhân lực không chỉ là mối quan tâm ở mức doanh nghiệp mà còn là mối quan tâm của quốc gia cũng như quốc tế. Như vậy phương châm nhà nước và nhân dân cùng tham gia đầu tư cho việc xây dựng nguồn nhân lực sẽ mang lại hiệu quả. Đào tạo nhân lực nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của ngành xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam cần tập trung vào một số vấn đề chính:
Tăng cường và mở rộng hình thức đào tạo trong và ngoài nước cho cán bộ quản lý, cán bộ nghiên cứu và cán bộ Marketing. Đặc biệt chú ý tổ chức các khóa đào tạo ngắn hạn, các lớp tập huấn cho đội ngũ cán bộ quản lý và các doanh nghiệp am hiểu về luật lệ và các chính sách kinh tế, thương mại của các nước và quốc tế.
Mở rộng các hình thức liên kết, hợp tác quốc tế để tìm kiếm sự giúp đỡ của các nước, các tổ chức quốc tế để đào tạo cán bộ đaị học, sau đại học ở các nước có nghề cá phát triển như Na Uy, Nhật Bản, Mỹ, Trung Quốc, Liên Bang Nga, Thái Lan… hoặc thuê chuyên gia nước ngoài trực tiếp đến Việt Nam giảng dạy. Đồng thời, tổ chức các chuyến tham quan, tìm hiểu thị trường, học tập kinh nghiệm phát triển nghề cá của các nước phát triển trên thế giới, nhất là các nước trong khu vực như Thái Lan, Indonesia, Trung Quốc, Đài Loan theo hình thức phối hợp giữa các hội nghề nghiệp.
8. Một số giải pháp tài chính tín dụng khuyến khích xuất khẩu hàng thuỷ sản
8.1. Miễn giảm các loại thuế đối với sản xuất và xuất khẩu hàng thuỷ sản
Hàng thuỷ sản thuộc nhóm hàng xuất khẩu truyền thống của Việt Nam và trước đây có lợi thế cạnh tranh khá lớn vì vậy khối lượng và kim ngạch xuất khẩu đạt tốc độ tăng trưởng cao trong thời gian qua. Tuy nhiên, ngày nay lợi thế cạnh tranh này đã giảm đi rất nhiều do chi phí tàu thuyền, chi phí nguyên liệu ngày càng cao, giá lao động tăng lên nhiều trong khi máy móc thiết bị cho đánh bắt và chế biến trong tình trạng quá lạc hậu so với trình độ chung, vì vậy để tăng cường sức cạnh tranh của các doanh nghiệp sản xuất, chế biến hàng thuỷ sản xuất khẩu cần có chính sách thuế thoả đáng cho nên việc Nhà nước không đánh thuế xuất khẩu hàng thuỷ sản từ 15/2/1998 để các doanh nghiệp xuất khẩu hàng thuỷ sản có thể tăng khả năng cạnh tranh về mặt giá cả. Còn đối với nguyên liệu vật tư nhập khẩu phục vụ cho chế biến xuất khẩu thì nên hoàn trả 100% thuế nhập khẩu và đề nghị Nhà nước nên đầu tư đổi mới trang tiết bị cho chế biến hàng thuỷ sản xuất khẩu thông qua qui định về thuế nhập khẩu hay phương pháp tính khấu hao hợp lý để khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư đổi mới thiết bị. Việc áp dụng linh hoạt các chính sách thuế có tác động tích cực đối với việc tăng cường sức mạnh cạnh tranh xuất khẩu của hàng thuỷ sản Việt nam, khuyến khích mở rộng thị trường xuất khẩu và đa dạng hoá sản phẩm xuất khẩu.
8.2. Cần tăng cường hoạt động tài trợ xuất khẩu và thành lập quĩ hỗ trợ sản xuất, xuất khẩu thuỷ sản
Vấn đề tài trợ xuất khẩu- export financing- bao trùm toàn bộ các biện pháp tài chính tạo điều kiện thuận lợi cho xuất khẩu hàng thuỷ sản. Đây là một trong nhưng yếu tố qyết định thành công của hoạt động xuất khẩu thuỷ sản nhu cầu tài trợ xuấ khẩu bao gồm:
Tài trợ trước khi giao hàng (vốn cho đầu vào sản xuất chế biến hàng xuất khẩu (mua nguyên liệu và máy móc thiết bị phụ tùng cần thiết, nhu cầu về vốn này rất quan trọng do đặc điểm của ngành thuỷ sản là sản xuất nguyên liệu có tính thời vụ cao và nhiều loại nguyên liệu có tính cần thiết cho chế biến lại phải nhập khẩu).
Tài trợ trong khi giao hàng
Tín dụng sau giao hàng
Về quĩ hỗ trợ sản xuất, xuất khẩu hàng thuỷ sản:
Có nhiều ý kiến cho rằng hiện nay thuỷ sản xuất khẩu của Việt nam vẫn còn lợi thế so sánh tương đối để phát triển, đặc biêt là hình thức nuôi tôm bán thâm canh có lợi thế rất lớn vì vậy cần thiết phải thiết lập ra một quỹ hỗ trợ sản xuất và xuất khẩu hàng thuỷ sản trong khi chúng ta rất hạn hẹp về mặt kinh phí và có nhiều ngành công nghiệp cần hỗ trợ. Thực ra, đã đến lúc Việt Nam phải thành lập loại quỹ này nếu muốn đẩy mạnh xuất khẩu hàng thuỷ sản. Lý do bởi vì:
Do đặc thù của ngành thuỷ sản như đẵ phân tích ở trên, hàng thuỷ sản thuộc nhóm hàng mà cung cấp phụ thuộc rất nhiều vào điều kiện thiên nhiên, có tính chất thời vụ, rủi do rất lớn và giá cả biến động rất thất thường, nên thành lập quỹ này để ổn định giá cho các nhà sản xuất và xuất khẩu thuỷ sản.
Lợi thế so sánh của xuất khẩu thuỷ sản đã giảm lớn khi mà nguồn thuỷ sản ven bờ đã cạn kiệt, chi phí tàu thuyền và nhiên liệu cho khai thác hải sản đã tăng hơn 100% so với cách đây hơn 10 năm, cơ sở hậu cần nghề cá và cơ sở hạ tầng quá yếu kém và lạc hậu.
Quỹ hỗ trợ xuất khẩu thuỷ sản không chỉ có tác dụng duy trì sự ổn định giá trong sản xuất, chế biến hàng thuỷ sản xuất khẩu, mà còn là những trợ giúp cần thiết khi muốn đổi mới trang thiết bị để nâng cao mức độ chế biến, cải tiến chất lượng và an toàn vệ sinh thực phẩm
Nguồn tài chính của quỹ hỗ trợ này từ:
Nguồn thu thuế đối với hàng thuỷ sản
Nguồn đóng góp của các doanh nghiệp trong ngành thuỷ sản (một phần trong chi phí nghiên cứu triển khai và chi tiêu thụ sản phẩm)
Nguồn hỗ trợ phát triển quốc tế
Như vậy, về phương diện tài chính thì đây thực sự chỉ là một cách phân bổ nguồn lực tài chính hợp lý và hiệu quả hơn.
9. Giải pháp về hoàn thiện cơ chế quản lý ngành
Tiếp tục đẩy mạnh việc đổi mới thật sự tổ chức bộ máy và đổi mới phương thức quản lý Nhà Nước đối với sản xuất kinh doanh của ngành thuỷ sản.
Cần sớm hoàn thành và thông qua Luật Thuỷ sản nhằm ổn định môi trường kinh doanh, cũng như tạo cơ sở để thực hiện kiểm tra, kiểm soát hoạt động kinh doanh thuỷ sản từ khai thác, nuôi trồng đến chế biến thương mại… từ đó có những biện pháp xử lý đối với những tình trạng vi phạm pháp luật, đặc biệt là việc khai thác bừa bãi nguồn tài nguyên môi trường.
Xây dựng cơ chế phối hợp về quản lý và chỉ đạo thống nhất giữa Bộ Thuỷ sản và các địa phương trong việc thực hiện nuôi trồng thuỷ sản theo đúng quy hoạch và các mục tiêu, nhiệm vụ của chương trình phát triển xuất khẩu thuỷ sản với chương trình phát triển nuôi trồng thuỷ sản, chương trình khai thác hải sản xa bờ, giữa các chương trình với các hoạt động khác của ngành có tầm quan trọng trong kinh tế xã hội và quản lý môi trường nguồn lợi.
Tăng cường công tác quản lý kiểm tra, giám sát việc thực hiện các tiêu chuẩn, quy trình, quy phạm nhằm đáp ứng các yêu cầu về an toàn vệ sinh thực phẩm tránh, dư lượng kháng sinh và đồng đều về chất lượng ngay từ khâu sản xuất nguyên liệu đến thu mua bảo quản và chế biến xuất khẩu. Tổ chức lại hệ thống cơ quan quản lý an toàn vệ sinh và thú y thuỷ sản từ Trung ương đến địa phương.
Phát huy năng lực các tổ chức xã hội nghề nghiệp (Hiệp hội Chế biến và xuất khẩu thuỷ sản, Hội Nghề cá Việt Nam) và xây dựng các tổ chức quần chúng, xã hội-nghề nghiệp này vững mạnh ở những địa phương trọng điểm có nghề cá phát triển. Tạo mọi điều kiện để các tổ chức này tham gia thực hiện chương trình, đề án phát triển sản xuất và xuất khẩu thuỷ sản. Xây dựng các quy chế phối hợp giữa Bộ và hai hội nhằm phát huy cao nhất vai trò của các tổ chức quần chúng trong quản lý và phát triển ngành cho phù hợp với yêu cầu đổi mới và hội nhập.
kết luận
Qua nghiên cứu, phân tích thực trạng sản xuất và xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam trong thời gian qua chúng ta có thể thấy thuỷ sản là ngành có tiềm năng rất lớn, đem lại hiệu quả xuất khẩu cao và tốc độ tăng trưởng cao. Vì lẽ đó mà xuất khẩu thuỷ sản trong thời gian qua rất được chú trọng và thuỷ sản xứng đáng được coi là mặt hàng chủ lực có tiềm năng nằm trong 3 chương trình kinh tế lớn của Việt Nam là lương thực – thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu. Tuy nhiên hoạt động xuất khẩu thuỷ sản hiện nay còn phải đối mặt với không ít khó khăn. Đó là mức độ chiếm lĩnh thị trường còn hạn chế, nguồn cung cấp nguyên liệu phục vụ cho công tác sản xuất chế biến còn chưa đáp ứng được cả về số lượng và chất lượng, chất lượng sản phẩm còn thấp, giá cả bị chèn ép, giá nhiên liệu không ngừng tăng lên làm ảnh hưởng tới khai thác và chế biến thuỷ sản,…đặc biệt trong thời gian qua ảnh hưởng của thiên tai khá nặng nề. Tuy vậy ngành thuỷ sản thế giới hiện trong thời gian tới sẽ phát triển hết sức sôi động vì sự tăng trưởng dân số, cùng với sự xuất hiện của những căn bệnh ở gia cầm, gia súc khiến cho xu hướng chuyển sang tiêu ding thuỷ sản ngày càng tăng lên. Ngành thuỷ sản Việt Nam hiện nay có rất nhiều lợi thế để không nằm ngoài xu hướng đó. Do vậy đẩy mạnh xuất khẩu mặt hàng thuỷ sản của Việt Nam là một đòi hỏi cấp bách trong tình hình hiện nay. Trước những khó khăn và thuận lợi đối với ngành thuỷ sản đòi hỏi các nhà sản xuất, kinh doanh mặt hàng này cũng như các cơ quan Bộ ngành chủ quản có liên quan cần phát huy thế mạnh và đẩy lùi dần các yếu điểm, hạn chế. Nhưng bên cạnh đó cũng không thể thiếu vai trò quản lý và sự quan tâm của Nhà nước với những chính sách phù hợp hỗ trợ khuyến khích cũng như các biện pháp cụ thể nỗ lực hơn nữa để đẩy mạnh xuất khẩu mặt hàng này.
Nếu những giải pháp này được thực hiện triệt để đồng bộ chúng ta có thể tin tưởng rằng trong tương lai không xa xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam sẽ khẳng định được vị trí của mình trên thị trường quốc tế và sẽ đóng góp rất nhiều trong công cuộc công nghiệp hoá – hiện đại hoá đất nước, góp phần đưa nền kinh tế Việt Nam đi lên ngang tầm với các nước trong khu vực và trên thế giới. Mặc dù em đã rất cố gắng trong quá trình thu thập tài liệu cũng như viết bài nhưng do chưa có nhiều kinh nghiệm thực tiễn vì vậy bài luận văn của em không thể tránh được những thiếu sót nhất định, em rất mong nhận được sự chỉ bảo của các thầy cô giáo cũng như ý kiến đóng góp của các bạn sinh viên có quan tâm đến đề tài này.
Một lần nữa em xin chân thành cảm ơn!
TàI liệu tham khảo
1. Báo cáo tham luận hội nghị “ Đánh giá kết quả thực hiện chương trình phát triển nuôi trồng thuỷ sản giai đoạn 2000-2005 và biện pháp thực hiện đến năm 2010_Bộ Thuỷ sản
2. Dự án quy hoạch tổng thể ngành thuỷ sản đến năm 2010_Bộ Thuỷ sản
3. Chương trình phát triển nuôi trồng thuỷ sản thời kỳ 1999-2010_Bọ Thuỷ sản
4. Chương trình phát triển xuất khẩu thuỷ sản đến năm 2010 và tầm nhìn 2020_Bộ Thuỷ sản
5. Giáo trình kinh tế ngoại thương_GS.TS Bùi Xuân Lưu (Trường Đại học Ngoại thương)
6. Phát triển thuỷ sản Việt Nam – Những luận cứ và thực tiễn_PGS-TS Hoàng Thị Chỉnh (Nhà xuất bản Nông nghiệp TP. Hồ Chí Minh 2003)
7. Số liệu thống kê thuỷ sản_Bộ Thuỷ sản_NXB Thống kê_2004
8. Tạp chí Kinh tế đối ngoại/Số 17 (5/2006)_Ths. Hồ Thuý Ngọc
9. Tạp chí ngoại thương/Số ngày 11-20/2/2006_Tác giả Tùng Lâm
10. Tạp chí thuỷ sản các năm 2002-2006
11. Một số thông tin lấy trên mạng và một số tài liệu khác
Mục lục
Thực trạng và giảI pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của ngành xuất khẩu thuỷ sản việt Nam
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- A0500.doc