I. TỔNG QUAN VỂ CÁN CÂN THANH TOÁN QUỐC TẾ.
1. Khái niệm cán cân thanh toán quốc tế
2. Kết cấu của cán cân thanh toán quốc tế
3. Các cán cân bộ phận
II. THỰC TRẠNG CÁN CÂN THANH TOÁN QUỐC TẾ CỦA VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN QUA
1. Cán cân vãng lai
1.1 Cán cân thương mại
1.2 Cán cân dịch vụ
1.3 Cán cân thu nhập
1.4 Cán cân chuyển giao vãnh lai một chiều
1.5 Mối quan hệ giữa tiết kiệm, đầu tư và thâm hụt cán cân vãng lai
2. Cán cân vốn
2.1 Đầu tư trực tiếp nước ngoài
2.2 Đầu tư gián tiếp nước ngoài
III. GIẢI PHÁP
1. Các biện pháp tác động trực tiếp lên cán cân vãng lai
1.1 Chính sách nhập khẩu
1.2 Chính sách khuyến khích xuất khẩu
1.3 Biện pháp thu hút chuyển giao vãng lai từ nước ngoài vào Việt Nam.
2. Các biện pháp thu hút và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư nước ngoài
2.1 Thu hút và sử dụng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài(FDI)
3. Biện pháp tăng tiết kiệm
4. Các biện pháp điều chỉnh chi tiêu
4.1. Sử dụng chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa.
4.2 Sáng kiến Chiềng Mai
5. Biện pháp điều chỉnh tỷ giá
50 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 2882 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng và giải pháp phân tích cán cân thanh toán quốc tế ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
xu hướng chuyển khoản các khoản lợi nhuận về nước để hổ trợ công ty mẹ, làm tăng các khoản chi trong cán cân dịch vụ do đó trong hai năm 2008, 2009 cán cân thu nhập của Việt Nam tiếp tục thâm hụt với mức độ cao hơn so với năm 2007 và các năm trước đó. Dự đoán trong năm 2010, cán cân thu nhập vẫn thâm hụt với mức cao hơn.
Cán cân chuyển giao vãng lai một chiều (Tr)
Từ năm 2000 đến nay, cán cân chuyển giao vãng lai một chiều luôn thặng dư, là nguồn tài trợ quan trọng cho thâm hụt cán cân vãng lai của Việt Nam.
Bảng 2.9: Cán cân chuyển giao vãng lai một chiều của Việt Nam từ năm 2000-2010
Năm
2000
2001
2002
2003
2004
2005
2006
2007
Tr
1.732
1.250
1.921
2.239
3.093
3.380
4.049
6.430
Tư nhân
1.585
1.100
1.767
2.100
2.919
3.150
3.800
6.180
Chính phủ
147
150
154
139
174
230
249
250
Năm
2008
2009
2010
Tr
8.100
7.000
6.900
Nguồn: SBV, IMF, WB (Năm 2010 là ước tính của Bộ Kế hoạch và Đầu tư)
Đơn vị: triệu USD
Nhìn vào bảng số liệu trên có thể thấy, trong cán cân chuyển giao vãng lai của Việt Nam thì bộ phận chiếm tỷ trọng chủ yếu là chuyển giao tư nhân, còn bộ phận chuyển giao chính phủ chiếm tỷ trọng không đáng kể và thường xu hướng ổn định. Chuyển giao tư nhân của Việt Nam chủ yếu là chuyển tiền của người Việt Nam sống ở nước ngoài (kiều hối)… Tháng 10/1999, Thủ tướng đã kí quyết định số 170/1999/QD-TTG theo đó đã khuyến khích kiều hối của người Việt Nam ở nước ngoài gửi về. Kết quả là trong năm 2000, nguồn chuyển giao tư nhân đạt tới 1585 triệu USD. Hơn nữa, việc thiết lập thêm những kênh chuyển tiền mới đã giúp cho người Việt Nam ở nước ngoài yên tâm chuyển tiền qua các kênh chính thức và giúp giảm các chi phí chuyển tiền cũng như các rủi ro. Thêm vào đó, chính sách thu hút kiều hối ngày càng thông thoáng chẳng hạn như cho phép người Việt Nam trực tiếp mang tiền về nước mà không giới hạn số lượng chỉ cần khai báo hải quan, cho phép Việt kiều mua nhà hay đầu tư tại Việt Nam… Đặc biệt, việc Chính Phủ cho phép mở rộng đối tượng làm đại lí chi trả kiều hối đã tạo thêm nhiều kênh chuyển tiền từ nước ngoài về, làm tăng sự cạnh tranh giữa các tổ chức dịch vụ chi trả ngoại tệ tạo áp lực buộc các tổ chức này phải giảm chi phí chuyển tiền và nâng cao chất lượng dịch vụ. Chính những điều này đã tạo nên sự tăng vọt của lượng kiều hối chuyển về nước từ năm 2003 trở lại đây, khiến cho chuyển giao tư nhân của Việt Nam tăng lên không ngừng, nhờ đó Chính phủ bù đắp được một phần thâm hụt của cán cân vãng lai.
Tác động của cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế sẽ khiến cho đại bộ phận thu nhập của người lao động trên thế giới giảm xuống, cuộc sống trở nên khó khăn hơn, trong đó có bộ phận người Việt Nam sống ở nước ngoài, do đó sẽ khiến cho dòng kiều hối chảy về Việt Nam trong những năm gần đây giảm sút.
Theo ước tính của cơ quan lập báo cáo, thu nhập đầu tư (bao gồm trả nợ lãi các khoản vay nước ngoài, lãi từ hoạt động đầu tư của nhà đầu tư nước ngoài…) thâm hụt 5,4 tỷ USD. Chỉ duy nhất mục chuyển tiền trong cán cân vãng lai có thặng dư khoảng 6,9 tỷ USD.
Bảng 2.10: Cán cân chuyển giao vãng lai một chiều 6 tháng đầu năm 2010
Thời gian
Quý I/2010
Ước Quý II/2010
Ước 6 tháng đầu năm
Chuyển tiền một chiều (ròng)
2.051
1.828
3.879
Đơn vị: Triệu USD - Nguồn: NHNN
Cụ thể, tính chung 6 tháng đầu năm 2010, chuyển tiền một chiều ròng đạt gần 3,9 tỷ USD, tăng 24% so cùng kỳ năm 2009. Chuyển tiền kiều hối 6 tháng đầu năm 2010 đạt khá (ước khoảng 3,6 - 3,7 tỷ USD, tăng hơn 20% so cùng kỳ năm 2009). Ngay cả quý II, dù không phải là "mùa kiều hối", lượng kiều hối vẫn duy trì được ở mức khá cao (bình quân 500-600 triệu USD/tháng).
Mối quan hệ giữa tiết kiệm, đầu tư và thâm hụt cán cân vãng lai.
Giữa tiết kiệm, đầu tư và cán cân vãng lai có mối quan hệ với nhau thông qua đẳng thức: CA = S – I
Như đã phân tích ở trên, cán cân vãng lai của Việt Nam phần lớn là thâm hụt trong giai đoạn trong giai đoạn từ 2000-2010 (trừ hai năm 2000, 2001). Nhìn vào đẳng thức trên có thể thấy nguyên nhân làm cho cán cân vãng lai của Việt Nam thâm hụt liên tục trong thời gian qua là do đầu tư ở mức cao so với mức tiết kiệm của quốc gia, thâm hụt NSNN liên tục xuất hiện qua các năm, các nguyên nhân này có thể xuất hiện một cách đơn lẻ hoặc đồng thời xuất hiện tác động lên cán cân vãng lai. Chúng ta sẽ đi phân tích từng nhân tố làm cho cán cân vãng lai của Việt Nam trong thời gian qua.
Đầu tư ở mức cao so với tiết kiệm.
Nền kinh tế nước ta chịu ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính Đông Á 1997, luồng vốn FDI chảy vào Việt Nam trong 2 năm 2000, 2001 giảm thị trường chứng khoán còn trong giai đoạn đầu phát triển, khiến cho hoạt động đầu tư trở nên kém sôi động. Bên cạnh đó, đầu tư luôn ở mức thấp hơn so với tiết kiệm nên trong hai năm này có thể thấy cán cân vãng lai của ta đã thặng dư. Từ năm 2002 trở lại đây thì đầu tư lại có xu hướng cao hơn so với tiết kiệm, điều này cũng tất yếu dẫn đến cán cân vãng lai của Việt Nam liên tục thâm hụt, một số nguyên nhân chính làm cho đầu tư trong giai đoạn này tăng cao là:
Thứ nhất, do để theo đuổi mục tiêu tăng trưởng kinh tế trong giai đoạn này, NHNN Việt Nam đã thực hiện một chính sách tiền tệ nới lỏng (từ năm 2007 trở lại trước) kích thích đầu tư trong nước.
Trong năm 2008 tuy đã thực hiện quyết liệt một chính sách tiền tệ theo hướng thắt chặt song cũng do độ trễ của chính sách tiền tệ mà lạm phát lên cao, điều này tiếp tục làm cho cán cân thương mại của Việt Nam xấu đi, hơn cả năm 2007. Năm 2009 do lạm phát được đẩy lùi cùng với một chính sách tiền tệ nới lỏng để kích cầu, đầu tư trong nước để chống suy giảm kinh tế nên sức cạnh tranh thương mại của Việt Nam được cải thiện, mức thâm hụt của cán cân vãng lai giảm đi so với năm 2008, xuống chỉ còn 8 tỷ USD. Tuy nhiên, sang năm 2010, theo dự đoán thì mức thâm hụt có xu hướng tăng lên đến 10,6 tỷ USD.
Thứ hai, do sự tăng trưởng nóng của thị trường chứng khoán Việt Nam. Trong các năm 2006, 2007 thị trường chứng khoán Việt Nam được coi như bùng nổ, VN Index có lúc đã chạm ngưỡng 1100 điểm. Với sự sôi động của thị trường như vậy, một loạt các doanh nghiệp đã thực hiện IPO để huy động vốn cho sản xuất. Với lượng vốn đầu tư được huy động qua kênh thị trường chứng khoán, rõ ràng là mức đầu tư của Việt Nam đã tăng lên rất nhiều. Hệ quả tất yếu của việc này là sự gia tăng thâm hụt của cán cân vãng lai.
Thứ ba, cùng với việc tạo điều kiện dễ dàng hơn cho các nhà đầu tư nước ngoài trong những năm gần đây khiến cho dòng vốn FDI chảy vào Việt Nam tăng mạnh, đặc biệt là trong hai năm 2008 và 2009, sự tăng trưởng của FDI cũng khiến cho tổng đầu tư của cả nước tăng lên, dẫn đến thâm hụt cán cân vãng lai, do sự tăng trưởng của FDI cũng mang lại sự tăng về nhập khẩu cho Việt Nam, trong khi các dự án của FDI ở Việt Nam chủ yếu tập trung ở lĩnh vực bất động sản, lĩnh vực ít có khả năng xuất khẩu.
Mức tiết kiệm quốc gia thấp.
Nhìn chung mức tiết kiệm của Việt Nam còn khá thấp so với nhu cầu đầu tư trong nước.
Từ năm 2000-2005 mức tiết kiệm có xu hướng tăng lên, do thu nhập của người dân tăng nên mức tiết kiệm cũng tăng. Tuy nhiên trong năm 2006 thì mức tiết kiệm bắt đầu có xu hướng giảm xuống, nguyên nhân chủ yếu là do mức tiêu dung tăng cao đột biết. Trong hai năm 2006, 2007 có thể thấy có nhiều nguyên nhân dẫn tới sự thay đổi trong cơ cấu tiêu dùng của người dân Việt Nam. Một trong những nguyên nhân chính là hiệu ứng tài sản do sự tăng trưởng nhanh chóng của thị trường chứng khoán, cũng như thị trường bất động sản của Việt Nam gây ra.
Cán cân vốn (Capital Balance – K)
Bảng 2.11: Cán cân vốn của Việt Nam từ năm 2000 – 2010
Năm
2000
2001
2002
2003
2004
2005
2006
2007
K
-754
220
1.980
2.533
2.753
3.087
3.088
17.540
Năm
2008
2009
2010
K
13.400
12.300
9.200
Nguồn: SBV, IMF, WB (Năm 2010 là ước tính của Bộ Kế hoạch và Đầu tư)-Đơn vị: triệu USD
Cán cân vốn của Việt Nam bao gồm các bộ phận cơ bản: vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), vốn đầu tư gián tiếp (FII), các khoản nợ ngắn hạn, tín dụng thương mại, các khoản nợ trung – dài hạn và tài sản ngoại tệ của các Ngân hàng thương mại.
Nhìn vào cán cân vốn của Việt Nam trong giai đoạn 2000 – 2010 có thể thấy rõ xu hướng chuyển dịch của cán cân vốn từ thâm hụt vào năm 2000 đến bắt đầu có thặng dư vào năm 2001 và tiếp tục thặng dư mạnh trong các năm tiếp theo cho tới trước cuộc khủng hoảng tài chính thế giới năm 2008 nổ ra, kể từ sau cuộc khủng hoảng thì thặng dư của cán cân vốn bắt đầu có xu hướng giảm xuống.
Sau đây nhóm chúng tôi xin đi vào phân tích thực trạng của các thành phần vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài và vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài, là những thành phần dễ bị ảnh hưởng nhiều nhất khi khủng hoảng kinh tế xảy ra.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI)
Bảng 2.12: Đầu tư trực tiếp nước ngoài của Việt Nam từ 2000 – 2009
Năm
2000
2001
2002
2003
2004
2005
2006
2007
2008
2009
FDI
1.298
1.300
1.400
1.450
1.610
1.889
2.315
6.550
10.000
7.400
Nguồn: SBV, IMF, WB Đơn vị: triệu USD
Nhìn vào bảng số liệu trên, ta thấy trong năm 2000 con số FDI được giải ngân đạt 1.298 trệu USD, thấp hơn nhiều so với năm 1999, trong bối cảnh cuộc khủng hoảng tài chính Đông Á vừa mới kết thúc, nên sự suy giảm đầu tư nước ngoài tại Việt Nam cũng có nguyên nhân khách quan gắn với cuộc khủng hoảng tiền tệ trong khu vực và tiếp đó là sự suy giảm kinh tế thế giới. Mặt khác, tuy là nước chịu ảnh hưởng không nhiều từ cuộc khủng hoảng tài chính Đông Á song Việt Nam lại là một trong số những nước có FDI sụt giảm mạnh nhất. Tình hình giảm sút của FDI của Việt Nam trong thời gian này ngoài nguyên nhân khách quan nêu trên còn có nguyên nhân chủ quan xuất phát từ hệ thống pháp luật thiếu minh bạch, nhất quán, cho đến việc thực thi pháp luật không nghiêm minh, thủ tục hành chính phiền hà, chi phí đầu tư và kinh doanh tương đối cao, đã làm cho môi trường kinh doanh của Việt Nam kém hấp dẫn hơn trước.
Từ năm 2001 đến năm 2004 là thời kì phục hồi chậm của hoạt động FDI, quân số FDI giải ngân hàng năm vẫn tăng lên song tốc độ tăng trưởng rất chậm.
Từ năm 2005, hoạt động đầu tư nước ngoài ở Việt Nam mới thật sự khởi sắc, khi Việt Nam thật sự trở thành một điểm đến hấp dẫn cho các nhà đầu tư nước ngoài với sự thông thoáng hơn trong cơ chế cũng như nhiều ưu đãi hấp dẫn cho các nhà đầu tư nước ngoài, con số dự án đăng ký có vốn đầu tư nước ngoài năm 2005 là 970 dự án, với tổng số vốn đăng ký đạt khoảng 2 tỷ USD.
Năm 2006 đầu tư nước ngoài tiếp tục tăng trưởng mạnh mẽ. Tới năm 2007 thì đầu tư nước ngoài đã thực sự bùng nổ ở Việt Nam với những con số hết sức ấn tượng, tổng số đã có 1.544 dự án đăng ký với tổng số vốn đăng ký đạt 20,3 tỷ USD, tổng số vốn giải ngân là 6,5 tỷ USD, nguyên nhân chính là do năm 2007 là năm đầu Việt Nam thực hiện các cam kết của mình khi gia nhập WTO, tạo điều kiện thông thoáng hơn cho các nhà đầu tư.
Dòng tiền FDI của năm 2008 là 7 tỷ USD, tăng vọt so với các năm trước giúp làm bội thu cán cân thanh toán tài khoản vốn. Tuy nhiên, so với các nước Đông Nam Á thì thu hút vốn FDI của Việt Nam chỉ đứng thức 4 sau Singapore (22,7 tỷ USD), Thái Lan (10,1 tỷ USD), Malaysia (8,1 tỷ USD); và trong các năm này, xu hướng dòng vốn FDI không tập trung vào các ngành công nghiệp chế biến và nông nghiệp, mà tập trung vào các ngành bất động sản, khách sạn, nhà hàng (chiếm 63%) nhằm tìm kiếm lợi nhuận cao. Sự dịch chuyển dòng vốn FDI như vậy cần được xem xét dưới góc độ hiệu quả kinh tế, trình độ công nghệ đi kèm với FDI và năng lực xuất khẩu trong tương lai.
Trong năm 2009 con số FDI được giải ngân đạt 7.400 trệu USD, thấp hơn so với năm 2008 là 2.600 triệu USD.
Theo Cục Đầu tư nước ngoài- Bộ Kế hoạch và Đầu tư, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) tiếp tục là nhân tố quan trọng giúp giảm thâm hụt cán cân thanh toán, trong hoàn cảnh thâm hụt cán cân thương mại 6 tháng khoảng trên 6,5 tỷ USD.
Với mức giải ngân vốn FDI tháng 6/2010 đạt 900 triệu USD, tổng mức giải ngân 6 tháng đầu năm đã đạt 5,4 tỷ USD, tăng khoảng 6% so với cùng kỳ năm 2009. Tính bình quân từ đầu năm đến nay, chúng ta đã giải ngân khoảng 900 triệu USD vốn FDI mỗi tháng. Một điều đáng chú ý là, chỉ tiêu thu hút vốn đăng ký mới tiếp tục khởi sắc. Trong tháng 6, đã có 78 dự án được cấp giấy chứng nhận đầu tư với tổng vốn đăng ký trên 800 triệu USD. Như vậy tính chung 6 tháng, đã có 438 dự án đăng ký cấp mới với tổng vốn cam kết đầu tư đạt trên 7,9 tỷ USD, so với năm 2009 tuy chỉ bằng 80% về số dự án nhưng tăng tới 43% về vốn. Nếu tính cả các dự án tăng vốn, trong nửa đầu đầu năm 2010, các nhà đầu tư nước ngoài đã đăng ký số vốn bằng khoảng hơn 80% cùng kỳ năm trước, đạt ở mức 8,43 tỷ USD.
Không ai phủ nhận vai trò tích cực của FDI đối với sự tăng trưởng kinh tế của các quốc gia; tuy nhiên, cần phải hiểu biết những mặt trái của FDI nhằm có chính sách thu hút và sử dụng FDI hiệu quả hơn. Tác động tích cực của FDI trước tiên là dòng ngoại tệ vào làm tăng tài khoản vốn giúp nâng cao khả năng thanh khoản của tài khoản quốc gia; nhưng tác động tiêu cực của vốn FDI thường bị tác động bởi ba nhân tố chủ yếu: 1) Tác động thông qua cán cân thương mại; 2) tác động thông qua chuyển lợi nhuận đầu tư ra nước ngoài; 3) Tác động do tăng chi phí mua patent, know-how nhằm độc quyền kỹ thuật cao.
Đầu tư gián tiếp nước ngoài (FII)
Đầu tư gián tiếp nước ngoài là hình thức đầu tư xuyên biên giới. Nó chỉ các hoạt động mua tài sản tài chính nước ngoài nhằm kiếm lời. Hình thức đầu tư này không kèm theo việc tham gia vào các hoạt động quản lý và nghiệp vụ vủa doanh nghiệp giống như trong hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài. Việt Nam đã có những thành công trong thu hút FDI, song việc thu hút FII thì vẫn còn nhiều những hạn chế.
Bảng 2.13: Đầu tư gián tiếp nước ngoài của Việt Nam từ 2000 – 2009
Năm
2000
2001
2002
2003
2004
2005
2006
2007
2008
2009
FII
--
--
--
--
--
865
1.313
6.243
- 600
100
Nguồn: SBV, IMF, WB Đơn vị: triệu USD
Sau cuộc khủng hoảng năm 1997, nguồn vốn FII vào Việt Nam có xu hướng tăng, nhưng quy mô còn rất nhỏ và chiếm tỷ lệ thấp so với vốn FDI, đầu tư gián tiếp nước ngoài vào Việt Nam từ năm 2000 đến năm 2004 trong báo cáo của IMF về Việt Nam thậm chí còn không được ghi nhận.
Năm 2005, nguồn vốn FII vào Việt Nam mới thực sự khởi sắc, với vốn đầu tư nước ngoài vào thị trường chứng khoán Việt Nam ước đạt 865 triệu USD, cùng với sự tăng trưởng nóng của thị trường chứng khoán Việt Nam năm 2006 và nửa đầu 2007, con số vốn đầu tư gián tiếp đổ vào Việt Nam cũng tăng lên rất nhanh, lên đến 1.313 triệu USD vào năm 2006 và 6.243 triệu USD vào năm 2007. Một phần nguyên nhân khiến FII tăng trưởng cao trong các năm 2006 và 2007 là có sự hoạt động mạnh mẽ của các quỹ đầu tư nước ngoài tại Việt Nam.
Do tác động của cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ dẫn tới TTCK toàn cầu suy giảm, trong đó có TTCK Việt Nam khiến cho FII có xu hướng thoái lui khỏi TTCK Việt Nam vào nửa cuối năm 2008. Tuy nhiên năm 2009, khi TTCK Việt Nam bắt đầu có những tín hiệu hồi phục với những phiên tăng điểm liên tiếp và khá bền vững thì dòng vốn này đã có xu hướng quay trở lại.
Luồng vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài (FII) tiếp tục duy trì xu hướng thặng dư. Trong quý II/2010, các nhà đầu tư nước ngoài mua ròng trên thị trường chứng khoán khoảng 500 triệu USD. Tính chung 6 tháng đầu năm 2010, vốn FII ròng đạt mức thặng dư 1,8 tỷ USD . Vốn FII thặng dư lớn là do đầu năm 2010, Chính phủ Việt Nam đã phát hành thành công 1 tỷ USD trái phiếu ra thị trường quốc tế (theo phương pháp luận thống kê cán cân thanh toán quốc tế giao dịch này phải được thống kê vào hạng mục FII thay vì vay nợ của Chính phủ). Nếu loại trừ phát hành trái phiếu của Chính phủ thì trong 6 tháng đầu năm 2010 các nhà đầu tư nước ngoài vẫn mua ròng trên thị trường chứng khoán Việt Nam khoảng 800 triệu USD (bao gồm cả thị trường OTC), trong đó quý I/2010 là 290 triệu USD.
III. Giải pháp
Ông Peter Naray - chuyên gia của Mutrap bình luận rằng các vấn đề của VN chưa tới mức nghiêm trọng và vẫn có thể kiểm soát được. Vì nhiều lí do, cán cân thanh toán của VN vẫn chưa bị coi là tình trạng báo động. Lý do thứ nhất là do các món nợ ngắn hạn của VN có thể được trả đúng hạn. Mức độ dự trữ hiện nay là cao hơn so với các năm trước và vì có ít yêu cầu trả các khoản nợ nhỏ ngắn hạn, nên không có thúc bách lớn cần phải dự trữ quốc tế trong ngắn hạn và trung hạn. Các dự trữ đủ lớn với kim ngạch nhập khẩu và sự mất cân đối thương mại của VN đã có dấu hiệu chứng tỏ được phục hồi. Hơn nữa, các dòng vốn quốc tế được dự báo sẽ trở lại xu thế như trước đây, khi nền kinh tế thế giới khởi sắc vào năm 2010. Điều quan trọng là VN vẫn giữ được niềm tin đối với nền kinh tế, đảm bảo làm giảm thiểu sự di chuyển vốn.
Thứ nhất, VN có thể xuất khẩu để đáp ứng nhu cầu cao về nhập khẩu của một số nước, việc áp các biện pháp hạn chế nhập khẩu sẽ làm mất tính cạnh tranh trong xuất khẩu của VN. Thứ hai, việc áp dụng chính sách thương mại thay đổi như vậy có thể dẫn đến tình trạng một số dự án đầu tư có vốn trực tiếp nước ngoài sẽ rút về hoặc đóng băng, vì những dự án này cần nhập khẩu cho đầu vào hoặc công nghệ của họ. Thứ ba, những biện pháp như vậy có thể gây mất lòng tin của nhà đầu tư đối với viễn cảnh kinh tế của VN. Điều này có thể sẽ dẫn đến tình trạng di chuyển vốn và tạo ra áp lực làm mất giá đồng tiền VN.
Tiến sĩ Võ Trí Thành - chuyên gia kinh tế khi nhìn nhận về viễn cảnh kinh tế và tầm nhìn chính sách VN 2010 cho rằng: Cần phải tính đến việc can thiệp của chính sách vĩ mô trong giai đoạn của khủng hoảng và rút lui ra khỏi khủng hoảng như thế nào ? Vấn đề mất cân đối có mang tính chất bền vững không ? Không có nền kinh tế nào có thể cân đối cả bên trong và bên ngoài, trong nền kinh tế có mức độ đôla hóa như của VN các chính sách tài khóa và tiền tệ rất khó thống nhất điều này tạo điều kiện cho các nhà đầu cơ tài chính. Cơ cấu xuất nhập khẩu của VN có vấn đề, nợ nước ngoài tăng nhanh... trong 2 năm qua VN đã sử dụng quá nhiều biện pháp hành chính nên đặt nền kinh tế hiện tại trong một trạng thái rất khó. Ví dụ: trần lãi suất, trần về thâm hụt ngân sách... các mất cân đối đang diễn ra nghiêm trọng và có xu hướng tăng. Các giải pháp: thắt chặt chính sách tiền tệ, đồng VN phải được bảo vệ bằng cách tăng lãi suất, nhưng vấn đề đặt ra là tiến độ chính sách là ngay lập tức hay từ từ ?
Trong bối cảnh nền kinh tế Việt Nam hiện nay, mặc dù có nhiều chuyển biến tích cực song vẫn còn nhiều mặt hạn chế như áp lực lạm phát tăng cao, sức cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam về hàng hóa xuất khẩu còn kém, mức tiết kiệm trong nước còn rất thấp, thiếu vốn đầu tư, tỷ lệ thất nghiệp vẫn còn cao, nhập siêu vẫn kéo dài… Tuy cán cân thanh toán quốc tế của Việt Nam đã thặng dư và sẽ tiếp tục thặng dư song cán cân thương mại ngày càng thâm hụt do nhập siêu. Sự thặng dư ở đây là do nguồn đầu tư vào trong nước ngày càng tăng và lượng kiều hối chuyển về nước cũng tăng mạnh. Mà đối với một nước luôn nhập siêu như Việt Nam hiện nay thì việc cán cân thanh toán thặng dư do thặng dư cán cân vốn bù đắp cho thiếu hụt cán cân vãng lai thì chưa chắc đã là một dấu hiệu tốt. Nếu Việt Nam sử dụng vốn đầu tư ( vốn vay) kém hiệu quả thì nợ quốc gia sẽ nhanh chóng trở thành gánh nặng, gây áp lực phải trả nợ rất lớn đối với Ngân sách Nhà nước. Như vậy, mức thâm hụt cán cân vãng lai của Việt Nam có thể tài trợ đư,ợc nhưng chính phủ cũng nên có các biện pháp tích cực để cải thiện cán cân vãng lai nhàm đảm bảo cân đối bên ngoài một cách vững chắc. Nhiệm vụ chính của các chính sách kinh tế Việt Nam hiện nay là phải đảm bảo thiết lập được cả cân đối bên trong và cân đối bên ngoài. Định hướng điều chỉnh cán cân thanh toán của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay:
- Tăng cường hơn nữa thu hút vồn đầu tư nước ngoài bằng cách nâng cao hiệu quả sư dụng vốn nhằm cải thiện cán cân thanh toán, tăng cường dự trữ ngoại tệ và phục vụ cho phát triển kinh tế.
- Trong giai đoạn hiện nay, Việt Nam không thể đảm bảo cân bằng cán cân vãng lai và phải chấp nhận sự thiếu hụt cán cân vãng lai nhưng vấn đề là phải duy trì được khả năng chịu đựng thâm hụt của cán cân vãng lai. Tức là phải duy trì khả năng thanh toán của quốc gia. Một yêu cầu đặt ra đối với Việt Nam là phải tạo ra thặng dư cán cân vãng lai trong tương lai (không bao gồm các khoản trả lãi) đủ để hoàn trả các khoản nợ hiện tại. Nhưng sự đảo ngược trong các chính sách kinh tế (như một sự thắt chặt đột ngột) kèm theo một sự khó khăn vĩ mô như giảm mạnh các hoạt động kinh tế và tiêu dùng thì sự thiếu hụt cán cân vãng lai của Việt Nam trong hiện tại mới được coi là có khả năng chịu đựng.
Như vậy trong giai đoạn hiện nay, Việt Nam cần phải hạn chế mức độ thiếu hụt cán cân vãng lai nhưng không để ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế và việc làm. Đồng thời cố gắng duy trì và nâng cao khả năng chịu đặng thiếu hụt cán cân vãng lai để không xảy ra tình trạng mất khả năng thanh toán bằng cách cải thiện các chỉ số kinh tế vĩ mô trên:
1. Các biện pháp tác động trực tiếp lên cán cân vãng lai
Các biện pháp này bao gồm chính sách hạn chế nhập khẩu, chính sách khuyến khích xuất khẩu và chính sách thu hút chuyển giao vãng lai từ nước ngoài về Việt Nam. Đây là những biện pháp chuyển dịch chi tiêu có chọn lọc và nhằm mục đích kiểm soát các nhân tố cụ thể trong cán cân thanh toán.
1.1 Chính sách nhập khẩu
Chính sách hạn chế nhập khẩu nhằm mục đích cố gắng dịch chuyển chi tiêu nội địa từ nước ngoài và hàng hóa trong nước. Các biện pháp hạn chế nhập khẩu bao gồm: thuế nhập khẩu, hạn ngạch nhập khẩu, yêu cầu bắt buộc kết hối ngoại tệ, cấm nhập khẩu, yêu cầu cấp giấy phép nhập khẩu… Tác dụng của biện pháp này là làm giảm số lượng hay giá trị nhập khẩu trong một khoảng thoài gian nhất định. Do đó, ban đầu nó có tác động trược tiếp cải thiện cán cân thương mại nói riêng và cán cân vãng lai nói chung. Tuy nhiên, các biện pháp này chỉ có tác dụng làm giảm thiếu hụt cán cân vãng lai lúc ban đầu. Nhưng sau đó, do giảm suất khẩu, người tiêu dùng trong nước sẽ quay sang mua hàng hóa sản xuất trong nước làm tăng tổng cầu đối với nền kinh tế dẫn đến sản lượng và thu nhập quốc dân tăng lên. Thư nhập quốc dân sẽ làm cho nhập khẩu tăng và cuối cùng làm cho sự cải thiện cán cân vãng lai ban đầu giảm đi.
Song trong bối cảnh nền kinh tế Việt Nam hiện nay, do luồng vốn đầu tư vào trong nước ngày càng tăng mạnh kèm thao nhu cầu nhập khẩu lớn để tăng trưởng kinh tế nên Chính phủ đã phải thực hiện một số nới lỏng trong chính sách hạn chế nhập khẩu. Thêm nữa, Việt Nam đang tăng cường chủ động hội nhập kinh tế quốc tế nên việc sử dụng các hạn chế thương mại sẽ dần dần được loại bỏ. Như vậy, trong tương lai, việc sử dụng các biện pháp hạn chế nhập khẩu sẽ rất khó thực hiện và có thể không thể thực hiện nữa.
Để vừa đảm bảo các mục tiêu kinh tế, vừa giảm bớt được tình trạng nhập siêu trong giai đoạn hiện nay,Việt Nam cần thực hiện các việc sau:
Ưu tiên nhập khẩu vật tư, thiết bị và công nghệ tiên tiến phục vụ cho công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Khuyến khích gia tăng sử dụng vật tư, thiết bị trong nước đã sản xuất được để tiết kiệm ngoại tệ và pháy triển hàng hóa sản xuất trong nước.
Thúc đẩy phát triển sản xuất nguyên liệu thay thế nhập khẩu như bông, nguyên liệu thuốc lá, ngô, đậu tương, đa nguyên liêu…và áp dụng các công cụ thuế mới nhằm giảm kim ngạch nhập khẩu các mặt hàng này
Hạn chế tối đa việc nhập khẩu hàng tiêu dùng và kiểm soát chặt chẽ việc nhập khẩu ô tô và linh kiện xe hai bánh gắn máy.
Thực hiện chính sách giảm chi ngoại tệ nhập khẩu đối với một số ngành dịch vụ có nhập khẩu các loại trang thiết bị chuyên dụng, thiết bị và vật liệu rẻ tiền mai hỏng mà tập trung tạo điều kiện sacr xuất để thay thế hàng nhập khẩu…
Nói chung, những biện pháp hạn chế nhập khẩu chỉ là tạm thời, hiệu quả không cao và có thể ảnh hưởng đến tốc độ tăng trưởng kinh tế. trong tình thế hiện nay, để giảm được thâm hụt thương mại, Việt Nam có thể tập trung vào các biện pháp nhằm đẩy mạnh tốc độ xuất khẩu thay vì việc tập trung để giảm nhập khẩu thay vì việc tập trung để giảm nhập khẩu như trước đây.
1.2 Chính sách khuyến khích xuất khẩu
Chính sách khuyến khích xuất khẩu nhằm mục đích chuyển dịch chi tiêu nước ngoài vào các sản phẩm nội địa. Các biện pháp khuyến khích xuất khẩu bao gồm: mở rộng thị trường xuất khẩu, giảm và bỏ thuế xuất khẩu, xóa bỏ hạn ngạch xuất khẩu, cho phép mọi thành phần kinh tế tham gia vào hoạt động xuất khẩu… Tác dụng của các biện pháp này là làm tăng khối lượng xuất khẩu, làm giảm thâm hụt cán cân thương mại và đồng thời còn làm tăng khả năng chịu đựng của cán cân vãng lai. Nó cho pháp cán cân vãng lai thiếu hụt lớn mà không dẫn đến một cuộc khủng hoảng bên ngoài nào. Đặc biệt trong điều kiện khủng hoảng kinh tế hiện nay, khuyến khích xuất khẩu lại càng trở nên cần thiết hơn bao giờ hết.
Đẩy mạnh xuất khẩu là cách tốt nhất để Việt Nam có thể cải thiện được cán cân thương mại, đẩy lùi được tình trạng nhập siêu và có nguồn vốn để trả nợ nước ngoài. Hơn nữa vẫn đảm bảo được mục tiêu cân đối bên trong như tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và giải quyết việc làm.Trong những năm tiếp theo, Việt Nam cần phải đảm bảo tốc độ tăng xuất khẩu lớn hơn tốc độ tăng nhập khẩu để có thặng dư cán cân vãng lai trong tương lai thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bền vững.Chính vì vậy ,Chính phủ cần quan tâm đến các biện pháp nhằm khuyến khích xuất khẩu.
Trong thực tế,hoạt động nhập khẩu của Việt Nam đã phải đối mặt với một số trở ngại.Trở ngại lớn nhất đối với xuất khẩu là các chính sách thuế nhập khẩu,hạn ngạch nhập khẩu..làm mất đi các lợi thế xuất khẩu của Việt Nam. Do hệ thống thuế và hệ thống quản lý thương mại là nhằm sản xuất thay thế hang nhập khẩu và sản xuất các loại hàng hóa,dịch vụ thương mại dẫn đến việc bảo hộ cho những ngành không có hiệu quả. Còn những ngành có lợi thế và khả năng xuất khẩu thì không được đầu tư các nguồn lực thích đáng.Hơn nữa,khi vực kinh tế tư nhân có nhiều tiềm năng xuất khẩu thì không được đầu tư các nguồn lực thích đáng. Hơn nữa,khu vực kinh tế có nhiều tiềm năng xuất khẩu thì chưa được chú ý phát triển. Thêm vào đó, thị trường xuất khẩu của Việt Nam trên thế giới đang bị cạnh tranh gay gắt mà sức cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam thì yếu, thì trường thương mại dịch vụ chưa đáp ứng được yêu cầu của xuất khẩu,tình trạng gian lận trong buôn bán vẫn còn xảy ra. Trong cơ cấu hàng hóa xuất khẩu của của Việt Nam thì tỷ trọng hàng thô và sơ chế còn cao, hàng gia công chiếm tỷ trọng lớn.. khiến cho giá trị xuất khẩu chưa cao và không có sức cạnh tranh.Mặt khác,các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam còn nhiều hạn chế về kỹ thuật kinh doanh, chưa am hiểu đầy đủ về luật pháp và thông lệ quốc tế,chưa có độ nhanh nhạy nắm bắt thông tin thị trường nên dẫn đến việc bỏ lỡ những cơ hội kinh doanh có lợi,phải chịu những thiệt hại không đáng có trong hoạt động sản xuất..Vậy nên,Chính phủ cần có những biện pháp vừa giải quyết được những khó khăn trở ngại trong hoạt động xuất khẩu lại vừa đẩy nhanh tốc độ tăng xuất khẩu nhằm cải thiện được tình trạng thâm hụt thương mại hiện nay.
Một số biện pháp cụ thể nhằm đẩy mạnh xuất khẩu trong thời gian tới:
- Tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế cùng phát triển,cải tiến chế độ phân phối,chế độ xuất nhập khẩu,tạo ra một sự phân phối nhịp nhàng,chặt chẽ giữa các doanh nghiệp cùng làm nhiệm vụ kinh doanh xuất nhập khẩu với cùng một ngành hàng,không phân biệt đó là doanh nghiệp nhà nước hay tư nhân nhằm tạo ra sức mạnh tổng hợp để nâng cao vị thế và sức cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam trên thị trường quốc tế.
Bên cạnh đó,trong tiến trình hội nhập,Việt Nam cần phấn đấu thực hiện những mục tiêu như: đẩy mạnh hợp tác kinh tế và kỹ thuật trên cơ sở tự nguyện cùng có lợi với tất cả quốc gia trên mọi lĩnh vực,thúc đẩy tự do hóa thương mại bằng các biện pháp giảm bớt thuế,dần tiến tới phi thuế;hủy bỏ việc cấm xuất khẩu, cấm nhập khẩu; tăng năng suất lao động,giảm bớt chi phí sản xuất hàng hóa để tăng sức mạnh về giá;đơn giản hóa thủ tục xuất nhập khẩu,thủ tục đầu tư,thủ tục hải quan,ngoại hối,ngân hàng..
- Tăng cường đầu tư nâng cao năng lực sản xuất và sức cạnh tranh của hàng hóa xuất khẩu.Tập trung các luồng vốn đầu tư nước ngoài vào sản xuất các mặt hàng phục vụ cho xuất khẩu.Đặc biệt chú trọng những ngành hàng có khả năng tăng trưởng ổn định ,sử dụng nhiều lao động và nguyên liệu trong nước,đặt yêu cầu năng cao tiêu chuẩn chất lượng hàng hóa lên hàng đầu,gắn sản xuất với yêu cầu của thị trường về chất lượng và mẫu mã sản phẩm…Đồng thời chuyển dịch mạnh cơ cấu đầu tư theo hướng tăng đầu tư Nhà nước để phát triển các ngành dịch vụ và một số ngành sản xuất với công nghệ cao nhằm đẩy mạnh xuất khẩu dịch vụ cho phù hợp với xu hướng phát triển kinh tế dịch vụ và kinh tế tri thức.
- Chuyển dịch cơ cấu hàng xuất khẩu,phát triển và đa dạng hóa với những mặt hàng chủ lực,gắn yêu cầu của thị trường đối với tường loại sản phẩm chính.Về đổi mới cơ cấu hàng xuất, Việt Nam cần phải chuyển nhanh và mạnh sang phần lớn hàng chế biến,giảm mức tối đa xuất hàng nguyên liệu và hàng sơ chế.
- Chính phủ cần quan tâm đến việc phát triển các doanh nghiệp tư nhân có tiềm năng,nhất là các doanh nghiệp trong các ngành chế tạo có định hướng xuất khẩu cao.Hỗ trợ nhiều hơn cho các tổ chức ,doanh nghiệp và cá nhân để phát triển các mặt hàng mới và thị trường mới.
- Việt Nam cần mở rộng thị trường xuất khẩu.Thực hiện phương châm đa dạng hóa,đa phương hóa thị trường và đối tác,hạn chế việc xuất khẩu một mặt hàng bị phụ thuộc vào một số thị trường,chú trọng các thị trường có sức mua lớn như :Mỹ,EU,Nhật Bản,Trung Quốc,Đông Nam Á..đồng thời tìm cách thâm nhập và gia tăng sự hiện diện của hàng hóa Việt Nam ở các thị trường châu Phi,Mỹ La tinh;tăng cường các hình thức buôn bán hàng đổi hàng…
- Chính phủ cũng nên tăng cường rà soát và xác định cụ thể những nguyên nhân làm chậm trễ hoặc cản trở việc thực hiện các chính sách hỗ trợ và khuyến khích xuất khẩu để xử lý kịp thời.Đồng thời thực hiện bổ sung,sửa đổi các cơ chế,chính sách,quy định chưa hợp lý;tiếp tục cải cách hành chính tạo thuận lợi cho hoạt động xuất khẩu.
1.3 Biện pháp thu hút chuyển giao vãng lai từ nước ngoài vào Việt Nam.
Do quá trình hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng,thị trường trong nước và thị trường ngoài nước được mở rộng và gắn kết với nhau nên lượng người Việt Nam sinh sống tại nước ngoài và lao động xuất khẩu ngày càng tăng lên.Và thực tế cho thấy,số tiền do những người Việt Nam ở nước ngoài gửi về nước luôn là nguồn tài trợ quan trọng cho thâm hụt cán cân vãng lai.Trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế toàn cầu đang diễn ra, nguồn kiều hối gửi về Việt Nam đã bị giảm sút do phần còn lại của thế giới cũng lâm vào tình trạng khó khăn.Để có thể khai thác triệt để nguồn ngoại tệ này,Chính phủ cần có những biện pháp nhằm khắc phục một số vướng mắc hiện tại.Các biện pháp có thể áp dụng như thiết lập thêm mấy kênh chuyển tiền mới giúp cho kiều bào an tâm chuyển tiền,nâng cao chất lượng dịch vụ chuyển tiền,đơn giản hóa các thủ tục có liên quan tới hệ thống ngân hàng,cải thiện môi trường đầu tư,khuyến khích kiều bào tăng cường đầu tư vào thị trường trong nước,tiếp tục thực hiện chính sách thu hút kiều hối thông thoáng…
Các biện pháp kiểm soát trực tiếp nêu trên đếu có tác dụng làm giảm thiếu hụt cán cân thương mại,tăng khả năng chịu đựng của cán cân vãng lai nên Việt Nam cần phải chú trọng tới những biện pháp này.Nhất là trong tình hình hiện nay thì việc đẩy mạnh xuất khẩu và thu hút tối đa luồng kiều hối là hết sức quan trọng.Nó không những cải thiện cán cân vãng lai trong hiện tại mà còn đảm bảo thặng dư cán cân vãng lai trong tương lai giúp thanh toán những khoản nợ nước ngoài,đảm bảo ổn định nền kinh tế.
2. Các biện pháp thu hút và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư nước ngoài
Cũng như các nước đang phát triển khác, Việt Nam đứng trước hai vấn đề quan trọng có liên quan đến vốn đầu tư để đảm bảo tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và bền vững:
Tỷ lệ huy động vốn trong nước thông qua kênh tiết kiệm và các khoản thu của Nhà nước không đáp ứng đủ nhu cầu vốn đầu tư.
Tình trạng nhập siêu không thể tránh khỏi trong giai đoạn đầu công nghiệp hóa đất nước dẫn đến thâm hụt cán cân vãng lai và sự thiếu hụt ngoại tệ trong một thời gian dài.
Cả 2 vấn đề này có thể giải quyết bằng cách thu hút vốn ngoài nước,trong đó có FDI và ODA.Cho nên để tài trợ cho thâm hụt cán cân vãng lai,cải thiện cán cân thanh toán,Chính phủ nên thu hút các luồng vốn này.Tuy việc thu hút các luồng vốn đầu tư nước ngoài vào sẽ có tác dụng làm tăng sản lượng,tạo việc làm và tài trợ cho thiếu hụt cán cân vãng lai nhưng cũng sẽ làm tăng thiếu hụt cán cân vãng lai do tăng nhập khẩu và tăng các khoản trả lợi nhuận,lãi vay cho nước ngoài.Do vậy,để đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế,tăng xuất khẩu giải quyết việc làm,Việt Nam phải chấp nhận thâm hụt cán cân vãng lai trong giới hạn khả năng chịu đựng để không dẫn đến cuộc khủng hoảng bên ngoài.
2.1 Thu hút và sử dụng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài(FDI)
Trong các luồng vốn nước ngoài vào,đầu tư nước ngoài vào,đầu tư trực tiếp được coi là luồng vốn không tạo ra dư nợ nên Chính phủ cần tập trung khai thác luồng vốn này.Để thu hút được nhiều vốn FDI,Chính phủ có thể thực hiện có biện pháp sau:
Tìm kiếm thị trường và đối tác mới:trong khi vẫn coi trọng các thị trường và đối tác hiện nay,mà chủ yếu là Châu Á và các doanh nghiệp vừa,cần mở rộng việc thu hút FDI từ thị trường mới nhất là Mỹ - một nước có tiềm năng lớn và có quan hệ thương mại gia tăng mạnh mẽ với nước ta trong những năm qua.
Nâng cao vị thế của Việt Nam trên thị trường thế giới:trên cơ sở thường xuyên quan tâm đến việc xếp hạng của các tổ chức quốc tế về năng lực cạnh tranh trong đầu tư của từng nước,cũng như sự đánh giá của các nhà đầu tư nước ngoài đối với nước ta để sửa đổi,bổ sung những nhân tố có liên quan làm cho vị thế nước ta ngày càng cao hơn trong bảng xếp hạng của thế giới.
Tạo lập môi trường đầu tư tốt nhất:đảm bảo tính minh bạch và ổn định của luật pháp để các nhà đầu tư có thế tính được xu thế phát triển của dự án đầu tư.Cải cách cơ bản thủ tục hành chính theo nguyên tắc hoạt động đầu tư thuộc quyền của các doanh nghiệp.
Nâng cao chất lượng quy hoạch tổng thể thu hút vốn FDI phù hợp và gắn liền với quy hoạch ngành, lãnh thổ, lĩnh vực ưu tiên, mặt hàng chủ lực, khả năng thu hút lao động cao… từ đó lựa chọn dự án khả thi, dự án ưu tiên đầu tư từ nguồn vốn nước ngoài.
Tạo điều kiện thuận lợi cho các dự án đã được cấp phép triển khai nhanh hoạt động xử lý linh hoạt chuyển đôi các hình thức đầu tư. Ngoài các dự án không cấp phép đầu tư do yêu cầu an ninh quốc gia, cần mở rộng danh mục các dự án cho phép nhà đầu tư nước ngoài được lựa chọn các hình thức đầu tư xuất phát từ hiệu quả kinh doanh.
Đáp ứng đủ nguồn vốn đối ứng: Khả năng tiếp cận FDI của nền kinh tế nói chung và của từng doanh nghiệp nói riêng là nhân tố quyết định đến hiệu quả đầu tư. FDI chỉ thực sự phát huy hiệu quả khi Việt Nam có khả năng tiếp năng tiếp nhận vốn và ngược lại sẽ bị phụ thuộc vào nước ngoài. Để tiếp nhận hiệu quả vốn FDI đòi hỏi phải có một tỉ lệ vốn đối ứng hợp lý.
2.2 Quản lý, sử dụng vốn viện trợ phát triển chính thức(ODA)
So vơi FDI, Việt Nam sẽ tiếp nhận nguồn vốn ODA sớm hơn. Nhưng thực chất nguồn vốn ODA là nguồn vốn ưu đãi.vì chỉ có khoảng 10-15% là viện trợ không hoàn lại. Vì vậy, việc quản lý và sử dụng có hiệu quả vốn này là hết sức cần thiết.
Các biện pháp cụ thể là:
Sức hấp dẫn của ODA nằm ở chỗ khâu lập hồ sơ nhanh chóng, sát với nhu cầu thực tế, các chủ dự án có năng lực cao. Vì vậy, chính phủ Việt Nam cần giải quyết các vấn đề này để thu hút thêm nhiều ODA phục vụ mục tiêu phát triển kinh tế xã hội. Công tác vận động vốn ODA cần được đổi mới cơ bản về nội dung và phương pháp thực hiện, chú trọng khâu lập dự án nghiên cứu khả thi bảo đảm chất lượng trước khi đàm phán. Trong quá trình vận động tổ chức vốn cần xuất phát từ lợi ích tổng thể quốc gia, hiệu quả công việc trên cơ sở nâng cao tính chủ động của phía Việt Nam với bên nước ngoài, cần mạnh dạn chối bỏ các nguồn vốn không đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế xã hội của đất nước.
Thực hiện nghiêm chỉnh các nghi quyết của Đảng và Chính phủ đẩy mạnh cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước, bao gồm cả những côngty lớn trong hầu hết các ngành kinh tế chủ chốt. Một khi chính những công ty nhà nước đã thực hiện đa sở hữu hóa thì đây chính là một động lực để thúc đẩy tiến độ giải ngân vốn ODA.
Để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn quan trọng này, bao gồm cả yêu cầu về giải ngân, Chính phủ cần đổi mới công tác tổ chức điều hành các dự án công trình quan trọng quốc gia có sử dụng nguồn vốn ODA. Đối với những công trình, hạng mục công trình quan trọng nên tổ chức đấu thầu chọn chủ dự án, công trình, mà tốt nhất là doanh nghiệp nhà nước đã được cổ phần hóa hay công ty cổ phần có vốn góp của nhà nước. Vốn đối ứng để thực hiện dự án công trình, ngoài ngân sách nhà nước, cần huy động thêm từ xã hội thông qua phát hành cổ phiếu và trái phiếu công trình.
Nâng cao nhận thức và thống nhất quan điểm về vốn ODA. Nếu coi là nguồn viện trợ thuần túy thì dẫn đến sử dụng kém hiệu quả, lãng phí, không tră được nợ và cuối cùng bị lệ thuộc vào bên ngoài. Viện trợ không hoàn lại cần đựoc quản lý như đối với nguồn thu ngân sách nhà nước (NSNN) dành cho đầu tư phát triển, phần vay ưu đãi được hạch toán bù đắp bội chi ngân sách nhà nước, kiên quýêt không vay cho chi thường xuyên.
Để cải thiện tình hình giải ngân và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn ODA, chính phủ cũng cần tiếp tục cải thiện cơ sở pháp lý nhằm tạo môi trường rõ ràng hơn và thuận lợi hơn cho quản lý và sử dụng ODA.
3. Biện pháp tăng tiết kiệm
Như phần trên đã phân tích, chúng ta biết rằng thiếu hụt cán cân vãng lai bằng lỗ hổng tiết kiệm và đầu tư của 1 quốc gia. Đối với Việt Nam thì lỗ hổng này chủ yếu xuất phát từ khu vực tư nhân. Chính vì vậy, để giảm thâm hụt cán cân vãng lai đòi hỏi chính phủ phải có các biện pháp nhằm tăng cường tiết kiệm quốc gia, đặc biệt là tiết kiệm tư nhân. Mặt khác, nếu chính phủ thu hút được nguồn vốn này để phục vụ cho đầu tư trong nước thì sẽ giảm đựoc vay vốn nước ngoài. Giảm vay vốn đầu tư nước ngoài sẽ giảm được nhập khẩu, do đó giảm được thâm hụt thương mại và giảm bớt các khoản nợ nước ngoài.
Hiện tại, Việt Nam chủ yếu thu hút các nguồn tiết kiệm tư nhân thông qua hệ thống ngân hàng dưới dạng tiền gửi tiết kiệm. Song lượng tiền gửi vào chưa nhiều và phần lớn các luồn tiền gửi vào ngân hàng là tiền gửi ngắn hạn. Kết quả là trong thực tế, Việt Nam là thiếu vốn trung và dài hạn đầu tư cho phát triển kinh tế. Chính vì vậy, ngân hàng cần tích cực thu hút các luồng vốn trung và dài hạn bằng cách khuyến khích phát triển thị trường trái phiếu.
Để đạt được ti lệ tích lũy cao hơn, Chính phủ cần phải cải thiện môi trường tổng thể sao cho thuận lợi hơn, cải thiện khuôn khổ các biện pháp khuyến khích và cần có 1 chiến lược phát triển dựa trên xuất khẩu để tăng mức thu nhập. Ngoài ra, nâng cao vai trò quan trọng ccủa nhà nước trong việc duy trì môi trường với lãi suất thực dương; đảm bảo về mặt pháp lý cho tính chất toàn vẹn lâu dài của các quyền về tài sản và sở hữu của caỉ vật chất; điều chỉnh tỷ giá hối đoái và tỷ lệ lạm phát ở mức hợp lý để cho người gửi tiền tiết kiệm có thể yên tâm về giá trị lâu dài của đồng tiền; xây dựng 1 hệ thống ngân hàng an toàn và lành mạnh để người dân yêu tâm gửi tiền; và một hệ thống thuế công bằng, hợp lý không de dọa tịch thu tiết kiệm và của cải trong tương lai.
4. Các biện pháp điều chỉnh chi tiêu
4.1. Sử dụng chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa.
Ngoài những biện pháp kiểm soát trực tiếp, để điều chỉnh cán cân thanh toán,các chính phủ còn có thể sử dụng các chính sách kinh tế vĩ mô như các chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa. Chính sách tiền tệ liên quan đến cung tiền của NHTƯ của một nước và chính sách tài khóa liên quan đến những thay đổi trong chi tiêu Chính phủ và thuế quan. Việc sử dụng hai chính sách này vẫn đảm bảo được cân đối bên trong và bên ngoài của nền kinh tế. Tuy nhiên, để có thể phát huy một cách có hiệu quả các chính sách kinh tế vĩ mô cho việc thiết lập cân đối bên trong và bên ngoài của nền kinh tế,yêu cầu phải có thị trường tài chính và đặc biệt phải tự do hóa về tài chính.
Theo quan điểm của Mundell ,trong điều kiện tự do hóa thương mại và tài chính với chế độ tỷ giá cố định,cân đối bên trong và bên ngoài có thể đạt được thông qua chính sách tiền tệ và tài khóa hợp lý. Như vậy là chính sách tài khóa được phân cho mục tiêu cân đối bên trong và chính sách tiền tệ được phân cho mục tiêu cân đối bên ngoài (vì chính sách tiền tệ có lợi thế tương đối trong thực hiện cân đối bên ngoài và chính sách tài khóa có lợi thế tương đối trong thực hiện cân đối bên trong). Trên cơ sở đó, Mundell đã đưa ra một số gợi ý chính sách điều chỉnh như sau:
Chính sách tiền tệ và tài khóa nhằm thiết lập cân đối bên trong và bên ngoài.
Trạng thái nền kinh tế
Chính sách tiền tệ
Chính sách tài khóa
Thất ngiệp và thặng dư
Lạm phát và thặng dư
Lạm phát và thâm hụt
Thất nghiệp và thâm hụt
Mở rộng
Mở rộng
Thắt chặt
Thắt chặt
Mở rộng
Thắt chặt
Thắt chặt
Mở rộng
NHTW điều hành chính sách tiền tệ thông qua các công cụ điều chỉnh như: nghiệp vụ thị trường mở,tỷ lệ dự trữ bắt buộc ,lãi suất triết khấu… Chính phủ điều hành chính sách tài khóa thông qua biện pháp tăng hoặc giảm chi tiêu của chính phủ và thuế.
Khi NHTW thực hiện chính sách tiền tệ mở rộng tức là tăng cung tiền bằng cách mua vào các trái phiếu trên thị trường mở,dẫn đến giá trái phiếu tăng và mức lãi suất giảm; lãi suất giảm kích thích đầu tư tăng;đầu tư tăng làm tăng thu nhập quốc dân; thu nhập quốc dân tăng làm tăng nhập khẩu. Như vậy ,chính sách tiền tệ mở rộng sẽ làm cho cán cân thanh toán xấu đi.
Ngược lại, khi NHTW thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt tức là giảm cung tiền bằng cách bán ra các trái phiếu trên thị trường mở, dẫn đến giá trái phiếu giảm và mức lãi suất tăng : lãi suất tăng kìm hãm đầu tư; đầu tư giảm làm giảm thu nhập quốc dân ; thu nhập quốc dân giảm làm giảm nhập khẩu. Như vậy ,chính sách tiền tệ thắt chặt sẽ làm cho cán cân thanh toán được cải thiện.
Còn khi Chính phủ thực hiện chính sách tài khóa mở rộng tức là tăng chi tiêu của chính phủ bằng cách bán ra trái phiếu trên thị trường mở, dẫn đến tăng thu nhập thông qua thừa số chi tiêu của chính phủ. Tuy nhiên ,chính sách tài khóa mở rộng cũng không hẳn làm cho cán cân thanh toán xấu đi. Do chính phủ bán trái phiếu ra nên giá trị trái phiếu giảm và lãi suất tăng;lãi suất tăng dẫn đén giảm đầu tư;điều này phần nào làm giảm đi hiệu ứng tăng thu nhập thông qua thừa số chi tiêu của Chính phủ ;đồng thời lãi suất tăng sẽ kích thích luồng vốn chảy vào làm cho cán cân thanh toán được cải thiện. Tương tự ,khi chính phủ thực hiện chính sách tài khóa thắt chặt cũng vậy,nó không hẳn làm cho cán cân thanh toán được cải thiện. Do việc khó xác định được chính xác ảnh hưởng của chính sách tài khóa lên cán cân thanh toán cho nên tùy thuộc vào từng thời kỳ cụ thể mà các nước cần có sự kết hợp hài hòa giữa các chính sách tài khóa và tiền tệ .
Đối với tình hình Việt Nam hiện nay,các chính sách tiền tệ và tài khóa cần phải đảm bảo cả mục tiêu cân đối bên trong và mục tiêu cân đối bên ngoài. Do đó,Chính phủ có thể áp dụng các chính sách cụ thể như sau:
Chính sách tiền tệ của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay là mở rộng tiền tệ. Việc tăng cung tiền sẽ được thực hiện chủ yếu thông qua tăng dự trữ quốc tế (do cán cân thanh toán thặng dư) và tăng số nhân tiền bằng cách thay đổi tỷ lệ dự trữ bắt buộc .Kết hợp vói giảm lãi suất để duy trì cung tiền bằng cầu tiền. Cụ thể:
Tăng dự trữ quốc tế phù hợp với yêu cầu tăng nhập khẩu phục vụ phát triển kinh tế ,đồng thời có tác dụng hạn chế việc tăng giá đồng Việt Nam khi thu hút vốn nước ngoài và hạn chế được tốc độ tăng lạm phát.
Giảm lãi suất để hạn chế thu hút vốn ngắn hạn và tăng vốn đầu tư trong nước.
Giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc có ý nghĩa là giảm thuế đánh vào hệ thống ngân hàng, có tác dụng giảm lãi suất nội địa và giảm chênh lệch lãi suất cho vay. Do đó ,nó đảm bảo vừa tăng được đầu tư vừa khuyến khích được tiết kiệm trong nước.
Chính sách tài khóa mở rộng hiện nay là: Giảm thuế suất và mở rộng diện nộp thuế;tăng chi tiêu đầu tư và xã hội để xây dựng cơ sở hạ tầng,xóa đói giảm nghèo, phát triển giáo dục đồng thời hạn chế chi tiêu thường xuyên .Thiếu hụt NSNN được bù đắp bằng cách Chính phủ bán công trái và trái phiếu kho bạc .Cụ thể:
- Mở rộng diện thu thuế là cần thiết để tăng thu ngân sách vì Việt Nam còn nhiều nguồn thu bị bỏ qua như thu thuế,phí từ thị trường đất đai,bất động sản,thu nhập cá nhân…
- Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế,việc để thuế giá trị gia tăng,thuế suất nhập khẩu cao là không hợp lý làm triệt tiêu động lực của sản xuất ,giảm sức cạnh tranh.Việc giảm thuế này về dài hạn sẽ thu lại nguồn thu lớn nhờ sản xuất được mở rộng.
- Để phát triển kinh tế bền vững lâu dài,cần tăng chi cho đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng ,giáo dục,xóa đói,y tế,môi trường… Đồng thời trong ngắn hạn đây cũng là một biện pháp làm tăng tổng cầu và giải quyết việc làm.
- Bán công trái và trái phiếu kho bạc sẽ có tác dụng thu hút các nguồn vốn nhàn rỗi trong dân làm tăng tiết kiệm tư nhân.
Mặc dù tác động cải thiện cán cân vãng lai không rõ ràng nhưng chính sách tiền tệ và tài khóa lại có tác dụng cải thiện các chỉ số kinh tế vĩ mô đảm bảo cho khả năng chịu đựng thâm hụt của cán cân vãng lai để tránh không gây ra một cuộc khủng hoảng bên ngoài như chỉ số: tỷ lệ xuất khẩu/GDP tăng ;tỷ lệ tiết kiệm và đầu tư nội địa/GDP tăng ,tỷ giá đồng nội tệ giảm phù hợp với tỷ giá thực…
4.2 Sáng kiến Chiềng Mai
Hội nghị Bộ trưởng tài chính ASEAN +3 tổ chức tại Phuket ,Thái Lan ngày 22 tháng 2 năm 2009 để bàn về các biện pháp đối phó với những bất ổn của thị trường tài chính toàn cầu. Theo đó ,hội nghị đã thông qua việc nâng cao mức tín dụng của cơ chế “Đa phương hóa sáng kiến Chiềng Mai” (CMIM) từ 80 tỷ lên 120 tỷ USD và phát triển một cơ chế giám sát mạnh mẽ và hiệu quả hơn để hỗ trợ việc vận hành CMIM. Sáng kiến Chiềng Mai bao gồm 2 nội dung chính:
Thứ nhất, mở rộng Thỏa thuận hoán đổi ASEAN (ASA) cho 10 nước thành viên ASEAN tham gia.Thỏa thuận đã được các nước ký kết vào tháng 11/2000 và tổng giá trị thỏa thuận là 1 tỷ USD ,trong đó mức cam kết của Việt Nam là 60 triệu USD và mức vay tối đa của Việt Nam trong khuôn khổ thỏa thuận Hoán đổi ASEAN là 120 triệu USD.
Thứ hai, thiết lập một mạng lưới các thỏa thuận Hoán đổi song phương (BSA) và thỏa thuận mua lại (Repo) giữa các nước ASEAN và ba nước đối tác Trung Quốc ,Nhật Bản và Hàn Quốc. Mục đích của BSA là để cung cấp vốn ngắn hạn dưới hình thức hoán đổi ngoại tệ cho các nước tham gia khi gặp phải khó khăn về cán cân thanh toán hoặc về khả năng thanh toán trong thời hạn ngắn.
Trong bối cảnh hội nhập càng sâu rộng với những nguy cơ và thách thức mới,đa phương hóa sáng kiến Chiềng Mai đã được đề xuất nhằm hỗ trợ các nước gặp khó khăn về thanh khoản ngắn hạn, đặc biệt khi có khủng hoảng xảy ra, từng bước và cả khu vực sẽ cần một lượng vốn rất lớn kèm theo sự phối hợp chung về chính sách. 13 nước đóng góp vào một thỏa thuận hỗ trợ đa phương với tên gọi là “Thỏa thuận dự trữ tự quản”. Theo đó,các nước cam kết đóng góp từ nguồn dự trữ ngoại hối để sử dụng cho vay các nước thành viên gặp phải thiếu hụt thanh khoản tạm thời.
Đây là giải pháp hữu hiệu giữa các nước ASEAN để tự giúp mình chống đỡ những tác động bất lợi mang lại từ cuộc khủng hoảng kinh tế.
5. Biện pháp điều chỉnh tỷ giá
Thực tế cho thấy, các hệ số co giãn nhu cầu hàng xuất khẩu và nhập khẩu của một quốc gia phụ thuộc vào cơ cấu hàng xuất khẩu của quốc gia đó. Qua phân tích, chúng ta thấy rằng cơ cấu hàng xuất khẩu của Việt Nam chủ yếu là những mặt hàng thô, sơ chế, những mặt hàng chế biến chiếm tỷ trọng nhỏ. Hầu hết các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam đều phụ thuộc vào nhu cầu trên thị trường thế giới và giá cả do thị trường thế giới quyết định. Do đó, Việt Nam có giảm giá các mặt hàng này cũng không thể tăng được số lượng xuất khẩu và tăng giá thì không xuất khẩu được. Còn những mặt hàng công nghiệp xuất khẩu của Việt Nam thì chủ yếu là hàng gia công, nguyên liệu đầu vào phàn lớn phải nhập khẩu và có giá trị gia tăng thấp. Do đó nếu Việt Nam phá giá đồng nội tệ thì cũng không giảm được giá xuất khẩu đối với những mặt hàng này. Có thể nói, hệ số co giãn nhu cầu hàng xuất khẩu của Việt Nam là rất thấp và gần như không co giãn nên việc phá giá sẽ không làm tăng được doanh thu xuất khẩu của Việt Nam. Đối với hàng nhập khẩu của Việt Nam cũng vậy, hệ số co giãn nhu cầu nhập khẩu là rất thấp, thậm chí là không co giãn ở Việt Nam. Vì hiện nay Việt Nam đang trong quá trình công nghiệp hóa đất nước, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nên rất cần nhập khẩu các máy móc thiết bị, phụ tùng và nguyên nhiên liệu ( trong nước không sản xuất được). Đây cũng chính là những mặt hàng nhập khẩu chủ yếu của Việt Nam. Do đó, việc phá giá đồng nội tệ cũng không thể giẩm bớt những chi phí nhập khẩu của Việt Nam.
Như vậy là việc phá giá đồng nội tệ ở Việt Nam hoàn toàn không có tác dụng cải thiện can cân thương mại cả trong ngắn hạn và dài hạn, không đẩy nhanh được tốc độ tăng trưởng kinh tế, không giải quyết được thất nghiệp. Không những thế, phá giá đồng nội tệ còn làm cho lạm phát ở Việt Nam tăng cao. Vì vậy, khi xem xét vấn đề phá giá đồng Việt Nam cho việc thanh toán các khoản nợ nước ngoài, ảnh hưởng không tốt đến quá trình công nghiệp hóa đất nước( do hạn chế nhập khẩu)… Trong bói cảnh nền kinh tế Việt Nam hiện nay, chính phủ không nên phá giá đồng nội tệ.
Một số biện pháp về chính sách tỷ giá trong thời gian tới mà Việt Nam cần thực hiện là:
Chính sách tỷ giá phải giữ vững thế cân bằng nội và cân bằng ngoại.
Ổn định tỷ giá trên mối tương quan cung cầu trên thị trường xuất khẩu,kích thích xuất khẩu,hạn chế nhập khẩu,cải thiện cán cân thanh toán quốc tế và tăng dự trự ngoại tế.
Từng bước nâng cao uy tín VNĐ,tạo điều kiện cho VNĐ có thể trở thành đồng tiền chuyển đổi.
Phối hợp với chính sách ngoại hối để chống hiện tượng đô la hóa.
Ngoài ra ,Chính phủ cần hoàn thiện hơn chính sách ngoại hối để vừa tranh thủ được các nguồn vốn quốc tế vừa thúc đẩy các hoạt động thương mại,dịch vụ,du lịch,kiều hối,đầu tư,…nhưng lại phải đảm bảo được chủ quyền của đồng Việt Nam, thực hiện được mục tiêu của chính sách tiền tệ.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- thuc_trang_va_giai_phap_can can TTQT VN.doc