Đề tài Thực trạng và giải pháp tăng cường đầu tư của Việt Nam sang Lào

Xét về tỉ trọng vốn đầu tư cho các ngành sang Lào so với sang các quốc gia khác, cũng có thể thấy rõ Lào là đối tác đầu tư lớn của Việt Nam, tổng vốn đầu tư vào ngành công nghiệp chiếm 60,64% , ngành nông nghiệp lên tới 92,96%, còn ngành dịch vụ chỉ chiếm vẻn vẹn 10,85% do khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam trong lĩnh vực này còn yếu. Trong lĩnh vực dịch vụ thì văn hoá – y tế - giáo dục chiếm tỷ trọng vốn đầu tư cao nhất 53,42%. Lào nhận được vốn đầu tư cao hơn so với các quốc gia khác trong ngành này chính là xuất phát từ mối quan hệ truyền thống, tốt đẹp giữa hai quốc gia, hợp tác đầu tư không chỉ vì lợi nhuận mà còn nhằm các mục tiêu kinh tế - xã hội khác. Còn điển hình trong công nghiệp chính là công nghiệp nặng, Lào tiếp nhận vốn đầu tư chiếm tới 98,97 tổng vốn đầu tư của Việt Nam ra nước ngoài cho các ngành công nghiệp nặng. Xét về tỉ lệ vốn đầu tư thực hiện vốn đầu tư sang Lào so với ra nước ngoài, ngành dịch vụ chính là ngành có tỉ lệ vốn đầu tư thực hiện cao nhất lên tới 31,84 % do đặc điểm của ngành là vốn đầu tư trung bình cho một dự án nhỏ và hầu như không có dự án lớn đặc biệt nổi trội nào. Trong khi đó tỉ lệ vốn thực hiện trong ngành nông nghiệp Lào cụ thể là nông lâm nghiệp chỉ có 28, 59%, lí do là vì trong năm 2005 chúng ta mới được cấp phép hai dự án lớn trồng cao su, các dự án này chưa kịp triển khai thực hiện. Tương tự như vậy với ngành công nghiệp tỉ lệ vốn thực hiện thấp một mặt do ngành đòi hỏi vốn lớn trong khi năng lực tài chính của doanh nghiệp Việt Nam có hạn, đồng thời dự án nhà máy điện Xêkaman3 với số vốn đầu tư lớn nhưng cũng chỉ mới được cấp phép cuối năm 2005.

doc67 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1318 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng và giải pháp tăng cường đầu tư của Việt Nam sang Lào, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
rồng,chế biến cao su, thuỷ điện. Tiếp theo là Trung Lào với 34% tổng số dự án, chủ yếu vào các ngành khoáng sản. Viênchan cũng chiếm khối lượng dự án đáng kể 16% chủ yếu vào các lĩnh vực xây dựng, chế biến thực phẩm, dịch vụ…Khu vực có số dự án thấp nhất là miền Bắc Lào với 10% số dự án vào một số lĩnh vực như: kinh doanh siêu thị, khai thác khoáng sản. Xét theo qui mô vốn Miền Nam chiếm vị trí tuyệt đối về tổng vốn đẩu tư với 93%, với hang loạt các dự án có qui mô lớn đầu tư vào vùng này trong namư 2005 như: dự án nhà máy Xêkaman 3, hai dự án trồng cao su tại 4 tỉnh Nam Lào… Các vùng khác chiếm khối lượng vốn không đáng kể,chỉ 4% ở Miền Trung, 2% ở Viên chăn, 1% ở Miền Trung. Nam Lào là vùng có điều kiện tự nhiên, khí hậu thuận lợi, đất đai phì nhiêu, rừng bao phủ 70 – 80% diện tích, có nhiều đồng bằng và thung lũng rộng rất thuận lợi cho việc phát triển các vùng trồng nguyên liệu như cao su…Nhờ lợi thế trước hết về điều kiện tự nhiên, nên đây trở thành vùng thu hút nhiều nhất số dự án cũng như vốn đầu tư của các doanh nghiệp Việt Nam. Miền Nam là khu vực chịu ảnh hưởng nhiều của hang hoá Thái Lan, các loại hang hoá như: tivi, xe máy, tủ lạnh, các vật dụng sinh hoạt khác…, có chất lượng tốt, giá cả phải chăng. Do vậy khả năng cạnh tranh của Việt Nam là rất khó khăn nếu hoạt động trong các lĩnh vực này. Vì vậy, sự lựa chọn của các doanh nghiệp Việt Nam là xây dựng vùng nguyên liệu, sản xuất và chế biến gỗ tại đây rất phù hợp. Khu vực Bắc Lào có địa hình khá hiểm trở, giao thông khó khăn, kinh tế lại kém phát triển nhất trong cả nước. Tuy nhiên đây lại là vùng có nguồn tài nguyên khoáng sản dồi dào. Các doanh nghiệp Việt Nam chủ yếu kinh doanh tại đây trong lĩnh vực thăm dò, khai thác khoáng sản. Mặt khác Bắc Lào lại chịu ảnh hưởng của Trung Quốc nên khả năng năng cạnh tranh của hang hoá Việt Nam rất hạn chế. Hơn nữa giáp ranh vùng này là các tỉnh Tây Bắc Việt Nam – các tỉnh có điều kiện kinh tế xã hội khó khăn, do vậy việc đầu tư của các doanh nghiệp tại đây sang Lào là rất hạn chế. Viênchăn là thủ đô của Lào, là vùng có dân số đông đúc nhất trong cả nước, đồng thời có điều kiện kinh tế xã hội phát triển hơn cả so với các vùng khác. Các doanh nghiệp của Việt Nam do vậy chủ yếu đầu tư vào kinh doanh dược phẩm, siêu thị, cung cấp lương thực, thực phẩm, cung cấp các vật liệu xây dựng. Viênchăn là khu vực thu hút đầu tư lớn nhất tại Lào, nhưng với Việt Nam rất khó cạnh tranh tại đây, vì vậy các doanh nghiệp Việt Nam cũng không đầu tư vào vùng này với qui mô vốn lớn. Trung Lào cũng gần giống như Nam Lào, điều kiện tự nhiên, giao thông thuận lợi, tài nguyên rừng cũng như khoáng sản khá phong phú, lại ít chịu ảnh hưởng từ phía Trung Quốc cũng như Thái Lan do vậy các doanh nghiệp Việt Nam thường đầu tư khai thác khoáng sản, chế biến gỗ. Tuy nhiên số dự án đầu tư vào vùng khá cao nhưng tỉ trọng vốn còn thấp là do thiếu những dự án khai thác khoáng sản có tầm cỡ lớn. Trong tương lai đây sẽ là vùng thu hút được số dự án cũng như vốn đầu tư ngày càng gia tăng của các doanh nghiệp Việt Nam, vì đây là khu vực chịu ảnh hưởng nhiều từ phía Việt Nam. 3.4 Phân theo hình thức Hình thức Số dự án Tổng vốn đầu tư (USD) Tỷ trọng vốn đầu tư cho mỗi hình thức (%) Tỷ trọng vốn đầu tư sang Lào so với đầu tư ra nước ngoài (%) 100% vốn Việt Nam 12 322318748 87.85 88.2 Liên doanh 20 40109222 10.93 52.824 Hợp đồng hợp tác kinh doanh 18 4452566 1.21 2.89 Nguồn: Ban hợp tác Việt Lào Theo qui định của Luật đầu tư Lào, các doanh nghiệp nước ngoài đầu tư vào Lào dưới ba hình thức: Hợp đồng hợp tác kinh doanh Doanh nghiệp liên doanh giữa nhà đầu tư nước ngoài và nhà đầu tư trong nước Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài Xét theo tiêu chí số dự án Liên doanh là hình thức có số dự án nhiều nhất chiếm tới 40% số dự án đầu tư sang Lào. Hình thức đầu tư này cũng là hình thức được ưa chuộng tại Lào hơn so với sang các quốc gia khác, chiếm tới 68,96% tổng số dự án đầu tư ra nước ngoài theo hình thức này. Hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh cũng chiếm tỉ trọng về số dự án đầu tư sang Lào tương đối cao khoảng 36% tuy nhiên chi chiếm có 27,27% trong tổng số dự án đầu tư ra nước ngoài dưới hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh. Hình thức 100% vốn Việt Nam vẫn chiếm khối luợng dự án khá khiêm tốn 24%, mặc dù đây là hình thức phát huy được tính chủ động của doanh nghiệp Việt Nam. Các doanh nghiệp Việt Nam vẫn còn e dè khi thực hiện đầu tư bằng 100% vốn sang Lào, do vậy tỉ lệ này chỉ chiếm có 21,82% trong tổng số các dự án đầu tư bằng 100% vốn Việt Nam ra nước ngoài. Xét theo tiêu chí qui mô vốn Đứng đầu về tổng vốn đầu tư sang Lào chính là hình thức 100% vốn Việt Nam. Hình thức này có số dự án thấp nhất nhưng lại chiếm tỉ lệ vốn đầu tư cao nhất lên tới 87,85% tổng vốn đầu tư sang Lào, và chiếm 88,2% tổng vốn đầu tư của hình thức này ra nước ngoài. Như vậy Lào là quốc gia tiếp nhận khối lượng vốn đầu tư dưới hình thức 100% vốn Việt Nam cao nhất. Nhân tố nổi bật tạo nên điều này chính là dự án nhà máy thuỷ điện 273 triệu USD bằng toàn bộ vốn của Việt Nam. Như vậy đối với các dự án mà doanh nghiệp Việt Nam có đủ tiềm lực tài chính lớn mạnh hình thức mà họ lựa chọn sẽ là 100% vốn của mình nhằm đạt được quyền tự chủ trong việc ra các quyết định kinh doanh cũng như trực tiếp điều hành hoạt động của dự án. Hình thức liên doanh xếp thứ hai với 10,93% tổng vốn đầu tư nhưng lại đứng đầu về tổng số dự án. Rõ rang đây là hình thức đầu tư san sẻ rủi ro cũng như quyền lợi, do vậy các doanh nghiệp có tiềm lực vốn không đủ mạnh có thể đầu tư nhằm hạn chế rủi ro, từng bước thăm dò thị trường Lào. So với tổng vốn đầu tư cho hình thức liên doanh ra nước ngoài thì hình thức này tại Lào cũng khá phổ biến chiếm tới trên 50%. Hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh chiếm khối lượng vốn đầu tư khá khiêm tốn chỉ có 1% so với các hình thức khác và chiếm 2,89% vốn của hình thức này đầu tư ra nước ngoài. Sở dĩ như vậy là do chủ yếu hình thức này được áp dụng đối với các dự án thăm dò, khai thác dầu mỏ trong khi đó Lào không phải là quốc gia có được nguồn tài nguyên này. Hình thức 100% vốn Việt Nam chủ yếu được đầu tư vào các ngành công nghiệp. Lĩnh vực này ít được các doanh nghiệp Việt Nam đầu tư dưới hình thức liên doanh là vì đây là các ngành đòi hỏi vốn lớn, trình độ cao về khoa học công nghệ trong khi đó các doanh nghiệp của Lào thiếu năng lực về cả hai mặt trên, còn các doanh nghiệp Việt Nam đã dám đầu tư vào ngành này lại là các doanh nghiệp có tiềm lực về tài chính cũng như khoa học công nghệ. Trong khi đó lĩnh vực nông nghiệp lại thích hợp để tiến hành đầu tư liên doanh, vì đây là ngành đòi hỏi nhiều lao động, và là ngành mà các doanh nghiệp Lào có hiểu biết sâu sắc về điều kiện phát triển cũng như kinh nghiệm trong quản lý, sản xuất. Do vậy, doanh nghiệp Việt Nam sẽ nhận được nhiều lợi thế khi kinh doanh trong lĩnh vực này. III. Đánh giá thành tựu và tồn tại trong đầu tư của Việt Nam sang Lào 1. Kết quả Hoạt động đầu tư sang Lào trước hết đã góp phần tăng thu và đóng góp cho ngân sách. Các doanh nghiệp Việt Nam khi tiến hành đầu tư sẽ chuyển một khối lượng tiền để tiến hành đầu tư ban đầu, tương lai khi các dự án hoạt động hiệu quả tiền lại sẽ được chuyển về Việt Nam. Theo Nghị dịnh 22/1999/ NĐ – CP : lợi nhuận và các khoản thu nhập của doanh nghiệp Việt Nam ở nước ngoài phải được chuyển về nước trong thời hạn chậm nhất là 6 tháng kể từ khi kết thúc năm tài chính của nước tiếp nhận đầu tư. Doanh nghiệp nếu muốn tái đầu tư phải xin ý kiến của Bộ Kế hoạch và Đầu tư. Như vậy, khi lợi nhuận chuyển về nước, các doanh nghiệp sẽ tiếp tục đầu tư mở rộng sản xuất nâng cao năng lực tài chính, tăng hiệu quả hoạt động kinh doanh và mức tăng trưởng của ngành cũng như của chung nền kinh tế. Bên cạnh đó, một phần thu nhập đó sẽ đóng góp vào ngân sách nhà nước dưới dạng thuế, phí, lệ phí... Thứ hai: Vị thế của doanh nghiệp Việt Nam được khẳng định và nâng cao trên thị trường. Việt Nam đã đạt được vị thế là quốc gia đứng đầu về số dự án cũng như tổng vốn đầu tư tại Lào. Đây là thành tích đáng kể, khẳng định sự vững mạnh của doanh nghiệp Việt Nam trên thị trường Lào. Thông qua đầu tư sang Lào chúng ta đã tận dụng được các lợi thế so sánh của Lào, sản xuất và cung cấp hàng hoá với giá cả cạnh tranh, đáp ứng nhu cầu, thị hiếu tại đây đồng thời xuất khẩu một phần về Việt Nam phục vụ trong nước và một phần xuất sang các quốc gia khác. Nhờ đó, vị thế, uy tín cũng như thương hiệu của doanh nghiệp Việt Nam ngày càng được biết đến nhiều trên thị trường quốc tế. Thứ ba: Trình độ, kinh nghiệm quản lý của doanh nghiệp Việt Nam ngày càng được cải thiện. Mục tiêu của các doanh nghiệp Việt Nam khi tiến hành đầu tư là đạt được lợi nhuận. Chính vì vậy công tác quản lí vốn, quản lí nhân sự, quản lí sản xuất... phải được thực hiện nghiêm túc đặc biệt khi đầu tư sang một quốc gia khác với nhiều rủi ro hơn. Thông qua quá trình đầu tư sang Lào, các doanh nghiệp nhận thức rõ hơn về vai trò của công tác quản lý, do vậy tác động trở lại việc quản lý doanh nghiệp trong nước được tiến hành khoa học hơn. Đầu tư sang Lào, các doanh nghiệp cũng từng bước có được kinh nghiệm trong quản lý dự án tại nước ngoài, rất thuận lợi khi doanh nghiệp muốn mở rộng đầu tư sang thị trường mới. Thứ tư: Dòng vốn được sử dụng một cách hiệu quả hơn. Khi tiến hành đầu tư sang Lào, các doanh nghiệp phải chuẩn bị dự án hết sức kĩ càng dể có thể nhận được sự chấp thuận đầu tư của Lào, sau đó phải xin phép đầu tư từ phía Việt Nam. Dự án được thẩm định từ nhiều phía, đảm bảo tính khả thi theo nhiều quan điểm, tiêu chí đánh giá. Do vậy, nguồn vốn của doanh nghiệp Việt Nam đầu tư sang Lào cũng như ra nước ngoài được sử dụng có hiệu quả, không dàn trải bởi đầu tư ra nước ngoài được xem là chứa đựng nhiều rủi ro hơn trong nước nên các dự án được nghiên cứu tỉ mỉ và kĩ càng trước khi có quyết định đầu tư. Việt Nam và Lào là hai quốc gia có mối quan hệ đặc biệt, do vậy, khi đánh giá hiệu quả hoạt động đầu tư của các dự án sang Lào chúng ta cần phải xem xét đến hiệu quả kinh tế xã hội, chính trị, an ninh quốc phòng... Nhìn chung các dự án Việt Nam đầu tư sang Lào đều có ý nghĩa trong giải quyết công ăn việc làm cho cả nhân dân Lào và Việt Nam. Trong mỗi dự án các doanh nghiệp Việt Nam có thể chuyển lao động của mình sang làm việc tại Lào, đặc biệt là các dự án lớn, đòi hỏi nhiều nhân lực như: trồng, chế biến cao su, chế biến gỗ, xây dựng nhà máy thuỷ điện... Bên cạnh đó, các dự án đầu tư của Việt Nam sang Lào cũng đóng góp lớn trong việc duy trì mối quan hệ đối ngoại, hợp tác đặc biệt giữa hai quốc gia, tăng cường ảnh hưởng của Việt Nam tại Lào, tranh thủ sự ủng hộ của Lào trên trường quốc tế. Một số các dự án đầu tư của các địa phương giáp ranh hai nước cũng tạo góp phần củng cố an ninh trật tự vùng biên, đảm bảo ổn định chính trị trong nước, tạo thuận lợi thu hút đầu tư vào trong nước, phát triển kinh tế đồng thời cải thiện đời sống, xoá đói giảm nghèo, nâng cao trình độ phát triển kinh tế vùng biên. Nhiều doanh nghiệp Việt Nam khi đầu tư sang Lào đã chủ động tiến hành hoạt động kinh doanh một cách năng động, linh hoạt nắm bắt tình hình thực tế, sớm có điều chỉnh hoạt động phù hợp với thị trường Lào và thị trường xuất khẩu của Lào. Nhiều dự án được thị trường ưa chuộng và chấp nhận như: liên doanh thép VILEXIM, sản xuất mì ăn liền TOCOMTAP, sản xuất thức ăn tổng hợp bột và viên, chế biến kinh doanh dược phẩm... Còn lại, nhiều dự án do mới tiến hành đầu tư, chưa bước vào giai đoạn vận hành nên chưa thể phát huy hiệu quả. Trong tương lai, dự án nhà máy điện Xêkaman 3 hoàn thành, chúng ta sẽ mua điện, vận chuyển với chi phí thấp hoà vào mạng lưới điện quốc gia đáp ứng nhu cầu gia tăng nhưng nguồn cung cấp thiếu hụt như hiện nay; các dự án trồng cao sư sẽ tạo ra vùng nguyên liệu lớn phục vụ một số ngành công nghiệp trong nước hoặc một số dự án khai khoáng, sản xuất vật liệu xây dựng sé góp phần giúp các doanh nghiệp có được nguồn cung cấp đầu vào cho quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá. Tóm lại, đầu tư của Việt Nam sang Lào đã tạo ra một luồng sinh khí mới, năng lực mới cho nền kinh tế hai nước, đưa sản phẩm của hai nước hoà nhập với thị trường khu vực và thế giớ, tạo cơ sở vật chất cho quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước, tăng cường mối quan hệ hợp tác trên nhiều mặt giữa hai quốc gia. 2. Hạn chế và nguyên nhân 2.1 Số lượng và qui mô các dự án Qui mô vốn đầu tư của các doanh nghiệp bình quân khoảng trên 500.000 USD/dự án, tỉ lệ này còn rất thấp. Nguyên nhân trướctiên là do năng lực tài chính của doanh nghiệp Việt Nam còn yếu. Ngay trong nước, vốn góp của các doanh nghiệp vào liên doanh cũng rất nhỏ chủ yếu bằng đất đai, nhà xưởng...khi đầu tư sang Lào không thể góp bằng những tài sản trên được. Vì vậy, nhà đầu tưu Việt Nam khi vươn ra bên ngoài có thể đã lựa chọn lĩnh vực chưa phù hợp khi triển khai thấy chưa có lợi nhuận nên còn chần chừ. Thứ hai là do các doanh nghiệp Việt Nam còn thiếu kinh nghiệm khi đầu tư ra nước ngoài. Khi thực hiện đầu tư ra nước ngoài bên cạnh nghiên cứu các qui định, thủ tục của Việt Nam còn phải xem xét kĩ càng luật, lệ cũng như lợi thế, nhu cầu của nước tiếp nhận đầu tư. Đây không phải là việc đơn giản nhất là trong điều kiện hoạt động xúc tiến đầu tư của chúng ta còn hạn chế, chính điều này cũng gây ra tâm lý e dè, ngại ngần từ phía doanh nghiệp khi bỏ vốn. Thứ ba là doanh nghiệp khi xin cấp phép đâu tư ra nước ngoài còn mất nhiều thời gian, nhiều dự án xin cấp phép đầu tư kéo dài 2 năm như dự án Bệnh viện Chợ Rẫy tại Phnômpênh...Thậm chí, khi dự án nhận được giấy phép thì việc chuyển vốn đầu tư ra nước ngoài bị tắc nghẽn khiến việc triển khai nhiều dự án chậm so với kế hoạch làm nản lòng các nhà đầu tư. Cụ thể như công ty cổ phần cao su Việt Lào có giấy phép nhiều tuần nhưng cũng không thể tiến hành đầu tư sang Lào vì tiền vẫn còn nằm trong nước. Theo giấy phép đầu tư công ty này được đầu tư khoảng 22 triệu USD trồng 10.000 ha cao su tại tỉnh Champasak, mặc dù tiền đã chuyển đến ngân hàng liên doanh Lào Việt, chi nhánh tại thành phố Hồ Chí Minh, nhưng ngân hàng này chưa thể chuyển tiền sang Lào vì còn chờ giấy phép chuyển ngoại tệ từ ngân hàng nhà nước. Cao su Việt Lào phải chờ đợi trong tâm trạng lo ngại lỡ thời vụ sản xuất và tốn kém. Mặt khác, theo nghị định 22/ NĐ – CP ngày 4/4/1999, doanh nghiệp thành lập theo luật doanh nghiệp chỉ được phép đầu tư dưới 1 triệu USD bao gồm cả máy móc, thiết bị, nhà xưởng..., nếu muốn đầu tư nhiều hơn phải có sự đồng ý của Thủ tướng Chính phủ. Nếu doanh nghiệp hoạt động theo Luật doanh nghiệp chỉ được đầu tư dưới 1 triệu USD ra nước ngoài là không hợp lý bởi năng lực tài chính, công nghệ, khả năng huy động vốn của doanh nghiệp còn lớn hơn nhiều. Về thực tế, Lào là một quốc gia còn nghèo, họ rất cần vốn và khoa học công nghệ, tại sao chúng ta lại bỏ qua trong khi đây là thị trường phù hợp cho các doanh nghiệp Việt Nam. Với qui định như vậy nhiều doanh nghiệp chỉ dám mở đại lý phân phối hàng chứ không dám đầu tư vào xây dựng nhà xưởng, dây chuyền để tiến hành sản xuất. Công tác thẩm định cấp phép đầu tư và quản lý dự án đầu tư Nhìn chung quá trình thẩm định cấp phép các dự án đầu tư sang Làocòn chậm, qui trình chưa rõ ràng. Doanh nghiệp nước ngoài đầu tư vào Việt Nam được tạo điều kiện cấp phép trong vòng từ 30 – 40 ngày, còn doanh nghiệp Việt Nam khi đầu tư ra nước ngoài nói chung thủ tục còn rườm rà, mặc dù Nghị định 22 qui định không được quá 30 ngày nhưng trên thực tế thời gian này kéo dài hàng tháng, thậm chí hàng năm do chậm gửi lấy ý kiến từ các bộ, ngành, sau đó lại phải họp bàn vài lần rồi mới đi đến thống nhất. Hầu hết các doanh nghiệp đầu tư ra nước ngoài đều cho rằng “ thủ tục trong nước trói chân họ”. Đặc biệt, khi tiến hành đầu tư sang Lào, gần đây nhiều dự án có qui mô lớn xin được cấp phép, tuy nhiên thời gian thẩm định thường dài, cụ thể như dự án nhà máy điện Xêkaman 3 sau khi tiến hành xin ý kiến của các bộ, ngành lần một năm 2004 tới tận cuối năm 2005, dự án mới được cấp phép. Thời hạn thẩm định cấp giấy phép kéo dài không những ảnh hưởng đến tâm lý nhà đầu tư mà có thể làm lỡ mất cơ hội đầu tư, trong khi chúng ta đã xin được văn bản cho phép đầu tư do cơ quan có thẩm quyền cảu nước tiếp nhận đầu tư hoặc hợp đồng, thoả thuận với bên nước ngoài về dự án đầu tư. Tại sao dự án đã được chấp thuận ở nước bạn mà thời gian thẩm định và cấp phép trong nước lại phải kéo dài đến vậy? Điều này cần sớm được chấn chỉnh thì doanh nghiệp Việt Nam mới có thể hoạt động tốt, hiệu quả trên thị trường quốc tế. Công tác cấp phép đầu tư mặc dù được tiến hành khá lâu nhưng việc quản lý các dự án đầu tư sang Lào lại chưa được quan tâm một cách tương xứng, khó khăn do việc thực hiện chế độ báo cáo của các dự án chưa đầy đủ. Sự phối hợp giữa các cơ quan chức năng của Chính phủ như : Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam trong việc quản lý các dự án còn hạn chế, chưa thành lập được các đoàn thanh tra, kiểm tra, giám sát nhằm đánh giá hiệu quả hoạt động đầu tư sang Lào. Chủ yếu việc đánh giá dựa trên báo cáo của các doanh nghiệp, nhung các doanh nghiệp cũng không thực chiện chế độ báo cáo một cách nghiêm túc. Do vậy nhiều vướng mắc nảy sinh không kịp được điều chỉnh, khi các doanh nghiệp gặp các tranh chấp hay khó khăn cũng không thể nhận được sự hỗ trợ tối đa từ phía nhà nước. Cơ chế chính sách Mặc dù giữa Việt Nam và Lào đã có nhiều thoả thuận về ưu đãi tín dụng cho nhau khi tiến hành đầu tư. Tuy nhiên điều này vẫn chưa được thực hiện một cách đầy đủ. Bên cạnh đó rất ít ngân hàng chấp nhậ cho doanh nghiệp vay vốn để đầu tư bởi hai lí do: - Các ngân hàng thương mại không có cơ chế quản lý nguồn tiền vay của họ khi chưa có ngân hàng đại diện ở quốc gia mà doanh nghiệp đầu tư. Hiện nay, tại Việt Nam chỉ có ngân hàng BIDV là thiết lập mối quan hệ với Lào và cũng chỉ có ngân hàng liên doanh Lào Việt là ngân hàng đứng ra làm trung gian trong hoạt động đầu tư giữa Việt Nam và Lào, tuy nhiên tiềm lực của ngân hàng này không phải là lớn. - Ngân hàng nhà nước hiện nay chưa có qui định cụ thể về quản lý đồng tiền đầu tư ra nước ngoài. Do vây, các ngân hàng hết sức e dè, ngại ngần, lo sợ không bảo toàn vốn khi cho vay đầu tư tai môi trường mới. Bên cạnh đó, hệ thống pháp luật về đầu tu ra nước ngoài còn có nhiều hạn chế.Các qui định thiếu cụ thể, nhất quán, thủ tục phiền hà, can thiệp quá sâu vào quá trình hoạt động của doanh nghiệp. Qua thời gian thực hiện Nghị định 22 đã bộc lộ nhiều nhược điểm không còn phù hợp với thực tiễn như: - Qui định thiếu cụ thể, đồng bộ, nhất quán. Có không ít những điều khoản đến nay không còn phù hợp, không bao quát được sự đa dạng của các hình thức đầu tư ra nước ngoài. - Các thông tin về tình hình hoạt động của các dự án hầu như không đựoc cập nhật, do thiếu những văn bản cụ thể hướng dẫn và cơ chế kiểm soát hoạt động đầu tư ra nước ngoài. - Các văn bản pháp luật có liên quan đến đầu tư ra nước ngoài còn nhiều hạn chế, chưa lường hết được các vấn đề phát sinh trong trong quá trình thẩm định, cấp phép và triển khai dự án.. - Chưa có một cơ chế phối hợp cụ thể giữa cơ quan quản lý nhà nước với doanh nghiệp đầu tư ra nước ngoài, đặc biệt là khâu triển khai thực hiện dự án. - Thủ tục hành chính tuy đã có nhứng điều chỉnh tuy nhiên vẫn còn phức tạp, rườm rà, hiệu quả đầu tư còn chưa cao. Qui trình đăng kí thẩm định cấp giấy phép phức tạp, thủ tục điều chỉnh cấp giấy phép đầu tư chưa rõ ràng, gây mất nhiều thời gian của d oanh nghiệp. - Thủ tục chuyển tiền ra nước ngoài và lợi nhuận từ nước ngoài về nước còn gây nhiều bức xúc đối với các doanh nghiệp. Về phía Lào một số cơ chế chính sách cũng làm cản trở hoạt động đầu tư của các doanh nghiệp Việt Nam. Luật Đầu tư của Lào được ban hành 25/7/1988 nhằm khuyến khích việc thu hút đầu tư nước ngoài, mở rộng hệ thống ngân hàng, hoạt động tài chính, bảo hiểm…nhằm bảo đảm quyền lợi cho nhà đầu tư. Luật đầu tư nước ngoài thông thoáng về thủ tục nhưng qui trình thực hiện lại phức tạp, tình hình kinh tế xã hội Lào ổn định nhưng chính sách kinh tế lại chưa thực sự phù hợp. Bên cạnh đó việc thực hiện pháp luật chưa nghiêm cộng với nhiều lệ đã làm ảnh hưởng đến quá trình thực hiện đầu tư tại Lào. Việc đầu tư của Việt Nam sang Lào tuân theo cơ chế thị trường nhưng cung cách làm việc của các cơ quan chức năng Lào còn mang tính quan liêu, nhiều đầu mối, nhiều cửa, hạn chế lòng tin của các nhà đầu tư Việt Nam. Triển khai thực hiện dự án Lao động của Lào tuy rẻ nhưng trình độ kĩ thuật còn thấp, tác phong và trách nhiệm chưa nghiêm, gây lãng phí thời gian, tiền bạc, ảnh hưởng đến hiệu quả của dự án nhưng dự án lại chủ yếu hoạt động trong những ngành, lĩnh vực công nghệ chưa hiện đại, sử dụng nhiều lao động. Một số ngành, lĩnh vực chưa được quan tâm đúng mức như: đầu tư sản xuất các linh kiện điện tử, thiết bị bưu chính viến thông, các thiết bị công nghệ cao…Từ đó dẫn đến sản phẩm tạo ra chỉ mới có thể đáp ứng nhu cầu của Lào, Việt Nam, chưa xuất khẩu dang nước thứ ba do sản phẩm thiếu khả năng cạnh tranh trong khi phải đối mặt với áp lực cạnh tranh lớn từ Trung Quốc và Thái Lan. Lào với hơn 6 triệu dân không phải là thị trường có dung lượng lớn. Do vậy, mục tiêu sản xuất hàng hoá tại Lào là phải đem xuất khẩu. Do vậy muốn tăng cường hiệu quả hoạt động của dự án phải làm tốt khâu cải tiến mẫu mã và nâng cao chất lượng sản phẩm, dịch vụ. Ngoài ra chính năng lực quản lí điều hành của các nhà quản lý Việt Nam cũng là một hạn chế. Các nhà quản lý Việt Nam thiếu kinh nghiệm trong quản lý các dự án tại nước ngoài, nhưng đây là công việc phức tạp đòi hỏi không chỉ sự am hiểu chuyên môn mà còn cả về luật, lệ, ngôn ngữ, phong tục tập quán, lối sống của dân cư, người lao động Lào mới có thể điều hành và đáp ứng tốt nhu cầu của họ, phát huy hết khả năng của họ. Cần phải có thời gian để các nhà quản lý doanh nghiệp Việt Nam thích ứng được với thị trường Lào để có thể quản lý hiệu quả hoạt động đầu tư. Hạn chế khác Thứ nhất có thể nói đến tình trạng vốn thực hiện của các dự án đầu tư sang Lào còn thấp. Có nhiều lí do dẫn đến điều đó nhưng có thể kể đến một số nguyên nhân chủ yếu sau: - Doanh nghiệp thiếu các thông tin về nơi đầu tư, do vậy khi triển khai dự án thấy chưa phù hợp còn chần chừ, lưỡng lự giải ngân vốn. - Năng lực tài chính của doanh nghiệp còn yếu. - Doanh nghiệp chưa nhận được sự hỗ trợ của nhà nước. Hạn chế tiếp theo là về mặt nhận thức. Nhiều người cho rằng trong khi nguồn vốn trong nước còn thiếu phải huy động từ bên ngoài thì đầu tư sang Lào sẽ gây thiếu hụt nguồn vốn trong nước, đầu tư trong nước sẽ giảm sút…Tuy nhiên đây là quan điểm phiến diện. Chúng ta đang trong quá trình hội nhập. Đầu tư sang Lào là cơ hội, là xu thế tất yếu của các doanh nghiệp. Chúng ta không tiến hành tích cực sẽ muộn bởi “ không tận dụng được sân chơi toàn cầu mà các nước sẽ mở rộng cửa cho các doanh nghiệp Việt Nam khi tham gia tổ chức thương mại thế giới” Bên cạnh đó trong quá trình đầu tư sang Lào, doanh nghiệp cũng gặp không ít khó khăn do thiếu thông tin. Các daonh nghiệp mới bước vào kinh doanh quốc tế còn thiếu kinh nghiệm, do vậy việc tìm kiếm, xử lý thông tin có vai trò vô cùng quan trọng. Tuy nhiên, doanh nghiệp cong thiếu thông tin về thị trường Lào, các chính sách, ưu đãi, các hiệp định kí kết hàng năm giữa Chính phủ hai nước… doanh nghiệp vẫn chưa thấy được cơ quan cung cấp thông tin do vậy rất khó khăn trong việc ra quyết định đầu tư. Nhiều doanh nghiệp còn phàn nàn khi tiến hành làm ăn tại Lào không thể tìm được luật sư trong nước để tư vấn thủ tục, phải tìm thuê luật sư nước ngoài nên rất tốn kém, chưa biết kết quả thế nào đã phải trả trước ít nhất vài chục nghìn USD. Ngoài ra vấn đề tham nhũng cửa quyền trong cấp phép đầu tư từ cả hai phía cũng làm nản lòng các nhà đầu tư. CHƯƠNG II GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG ĐẦU TƯ CỦA VIỆT NAM SANG LÀO I. Quan điểm và phương hướng thu hút FDI của Lào Trong quá trình toàn cầu hoá nền kinh tế, đầu tư trực tiếp nước ngoài là hoạt động tất yếu của các doanh nghiệp nhăm mục đích thu lợi nhuận tối đa. Bên cạnh đó, đối với các nước đang phát triển, tích luỹ còn hạn hẹp thi nguồn vốn đầu tư nước ngoài là nguồn bổ sung quan trọng tạo sinh lực mới cho nền kinh tế. Nhận thức rõ vai trò và tầm quan trọng cảu đầu tư trực tiếp nước ngoài trong sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá, Đảng và nhà nước Lào đã đưa ra những quan điểm chủ yếu trong quá trình thu hút đầu tư nước ngoài như sau: 1. Quan điểm đảm bảo những nguyên tắc về mối quan hệ kinh tế xã hội Quan hệ chính trị tốt đẹp sẽ tạo điều kiện mở đường cho quan hệ kinh tế phát triển thuận lợi. Ngược lại, quan hệ kinh tế là cơ sở để thiết lập quan hệ chính trị. Giữa kinh tế và chính trị có mối quan hệ chặt chẽ nhưng phải lấy hiệu quả kinh tế xã hội làm thước đo hàng đầu. Trong việc thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài, nguyên tắc trên được cụ thể hoá như sau: - Xây dựng một nền chính trị ổn định, một Chính phủ mạnh, có tầm nhìn chiến lược. Điều này trước hết tạo cho nhà đầu tư niềm tin, sự an tâm về tài sản của mình khi đầu tư vào Lào. Mặt khác, đây cũng là môi trường nơi dự án hoạt động, môi trường vĩ mô có ổn định, mới có khả năng bảo toàn vốn và sinh lời. - Xây dựng một nền kinh tế mạnh, tăng trưởng cao, thu nhập dân cư đạt mức trung bình trở lên, sức mua khá, cơ sở hạ tầng hiện đại, pháp luật đồng bộ, thủ tục đơn giản, hệ thống tài chính tiền tệ đặc biệt là thị trường vốn hoạt động có hiệu quả, bộ máy quản lý và sử dụng vốn trong sạch. Tất cả các tiêu chí trên đều nhằm mục đích xây dựng một nền kinh tế cạnh tranh lành mạnh, tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư có thể dễ dàng thực hiện dự án, tiêu thụ sản phẩm. Điều này cũng khẳng định những nỗ lực và thiện chí của Lào trong việc thu hút FDI. - Trình độ dân trí cao, một xã hội có thái độ hoan nghênh và hợp tác với chủ đầu tư nước ngoài. Đầu tư trực tiếp nước ngoài bên cạnh việc đem lại lợi ích cho các quốc gia tiếp nhận đầu tư cũng tác động không nhỏ, tạo ra những thay đổi trong lối sống của nước tiếp nhận đầu tư. Chính vì vậy, có thể có những phản ứng đối với các nhà đầu tư nước ngoài từ phía dân chúng, thậm chí từ chính các doanh nghiệp trong nước. Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào quán triệt quan điểm hoan nghênh, chào đón các nhà đầu tư, giúp đỡ các nhà đầu tư đặc biệt là từ phía chính quyền, tạo điều kiện cho các nhà đầu tư thực hiện dự án. 2. Quan điểm đảm bảo hiệu quả kinh tế xã hội, đảm bảo môi trường sinh thái Mở rộng quan hệ hợp tác kinh tế đa dạng với các nước nhưng phát triển phải đảm bảo hiệu quả và lợi ích lâu dài của quốc gia. Trong sự phát triển kinh tế xã hội của các quốc gia, đầu tư theo chương trình, dự án là xu hướng phổ biến và là con đường duy nhất để nâng cao hiệu quả của hoạt động đầu tư. Theo quan điểm của Lào, thu hút vốn đầu tư nước ngoài là cần thiết để bổ sung cho nguồn vốn còn yếu và thiếu trong nước, góp phần phát triển kinh tế xã hội. Tuy nhiên, đầu tư nhằm thu lại lợi nhuận, mục tiêu của các nhà đầu tư nước ngoài là lợi nhuận. Vì vậy, trong quá trình đầu tư có thể vì chạy theo lợi nhuận mà các dự án có thể gây tổn hại đến môi trường. Do đó, quan điểm của Lào đó là phải chú trọng vấn đề bảo vệ môi trường sinh thái trong hoạt động đầu tư. Có như vậy mới đảm bảo phát triển bền vững, ổn định. Lào cũng đưa ra các căn cứ để đánh giá hiệu quả kinh tế xã hội của dự án, đó là : Dự án phải phù hợp với mục tiêu phát triển kinh tế xã hội. Dự án phải tạo ra nhiều hàng hoá, nhất là hàng hoá xã hội, chất lượng cao. giá cả phù hợp. Dự án tạo ra nhiều công ăn việc làm, nâng cao đời sống người lao động Dự án có tác động tịch cực phát triển kinh tế xã hội vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn. Dự án đóng góp nhiều cho ngân sách. 3. Quan điểm đảm bảo lợi ích các bên, lợi ích trước mắt và lợi ích lâu dài Đầu tư trực tiếp nước ngoài mang lại lợi ích không chỉ cho chủ đầu tư mà còn đóng góp cho ngân sách cũng như sự phát triển kinh tế xã hội nước tiếp nhận đầu tư. Nhà đầu tư muốn có lợi nhuận, nước chủ nhà muốn có vốn, hai điều này tồn tại song song. Thu hút và sử dụng FDI là một quá trình vừa hợp tác v ừa đấu tranh. Nếu tính toán, suy xét không kĩ càng, khi một dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài được cấp phép hoạt động có thể gây hậu quả khôn lường cho nền kinh tế xã hội Lào.Vì vậy, phải kiên quyết bảo vệ lợi ích hợp pháp của hai bên trên nguyên tắc “ cùng có lợi”. Tuy nhiên, Lào cũng sẵn sàng trả học phí cần thiết để thúc đẩy quá trình thu hút và sử dụng có hiệu quả FDI tại Lào. Muốn phát triển bền vững phải xét đến lợi ích lâu dài của dự án, muốn phát triển nhanh phải xét đến các lợi ích trước mắt. Kết hợp giữa lợi ích trước mắt và lợi ích lâu dài sẽ đảm bảo sự phát triển nhanh, bền vững của Lào, nhằm đưa Lào thoát khỏi tình trạng nghèo nàn, lạc hậu. 4. Đa dạng hoá các hình thức đầu tư nước ngoài, hướng đầu tư tập trung vào xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế. Lào là đất nước nghèo nàn, lạc hậu, giao thông vận tải hạn chế, nằm trong lục địa, không có đường sắt, đường biển, hệ thống giao thông vận tải chưa hoàn thiện. Chính điều này đã kìm hãm sự phát triển kinh tế của Lào. Do vậy, muốn thu hút đầu tư nước ngoài trước hết phải xây dựng và phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng. Trong điều kiện thiếu vốn như hiện nay, quan điểm của Lào là khuyến khích, ưu đãi cho các nhà đầu tư khi đầu tư vào cơ sở hạ tầng. Mặt khác để thu hút các nhà đầu tư cần phải đa dạng hoá các hình thức đầu tư để các nhà đầu tư có thể lựa chọn các hình thức đầu tư phù hợp với năng lực tài chình cũng như khả năng chấp nhận rủi ro. II. Định hướng cụ thể trong một số ngành và lĩnh vực 1. Nông nghiệp, lâm nghiệp - Khuyến khích mở rộng hợp tác kinh doanh để có khả năng sản xuất, chế biến các loại nông sản, khoáng sản nhằm mục tiêu xuất khẩu. - Khuyến khích đầu tư liên doanh phát triển các cây có giá trị cao và thị trường tiêu thụ, phát triển các liên doanh chăn nuôi, trồng rau và các sản phẩm nông nghiệp khác gần các trung tâm dân cư, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng nhất là ở các thành phố lớn ở Lào. - Khuyến khích hợp tác đầu tư nghiên cứu chuyền giao công nghệ, dịch vụ nông nghiệp, giống, thuốc thú y, thức ăn gia súc. - Khuyến khích hợp tác đầu tư thực hiện các dự án phát triển sản xuất nông nghiệp, thuỷ lợi và nông thôn phục vụ chương trình an ninh lương thực, bảo vệ môi trường. 2. Công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp - Khuyến khích hợp tác đầu tư phát triển các ngành công nghiệp, khu công nghiệp tập trung tại Lào, cùng nhau xây dựng cơ sở hạ tầng khu công nghiệp tại Lào để thu hút đầu tư nước ngoài. - Khuyến khích đầu tư qui hoạch, phát triển các công trình thuỷ điện trên lãnh thổ Lào, tiến tới hoà mạng năng lượng 3 nước Đông Dương. - Ưu tiên đầu tư cho các ngành công nghiệp cơ khí nhỏ, đóng thuyền, phương tiện vận tải, công cụ sản xuất, công nghiệp hoá chất, phân vi sinh, công nghiệp chế biến… - Khuyến khích mọi thành phần kinh tế hai nước hợp tác đầu tư vào lĩnh vực công nghiệp hàng tiêu dùng, sản xuất vật kiệu xây dựng mà thị trường Lào có nhu cầu, có sẵn nguyên liệu thay thế nhập khẩu. 3. Giao thông vận tải – Bưu chính viễn thông - Khuyến khích đầu tư xây dựng nâng cấp các tuyến đường nối liến hai nước qua các cửa khẩu quốc tê, quốc gia; hình thành tuyến đường bộ từ Lào ra cảng Vũng Áng và các cảng biển khác tại Việt Nam. - Khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia đầu tư sản xuất các phương tiện vận tải, phát triển hợp tác vận tải quá cảnh, liên doanh vận tải hàng hoá giữa hai nước và với nước thứ 3. - Hợp tác liên kết, liên doanh để năng tiềm lực kinh tế, sức mạnh cho các công ty tham gia nhận thầu, đấu thầu các công trình giao thông của hai nước với nước thứ 3. - Khuyến khích đầu tư cho cơ sở hạ tầng trong lĩnh vực sản xuất thiết bị viễn thông, trao đổi, buôn bán các mặt hàng phục vụ ngành bưu chính - viễn thông. III. Giải pháp tăng cường đầu tư của Việt Nam sang Lào 1. Giải pháp vĩ mô 1.1 Hoàn thiện hệ thống pháp luật về đầu tư ra nước ngoài Đầu tư ra nước ngoài vẫn còn là lĩnh vực mới mẻ đối với các doanh nghiệp Việt Nam. Nếu như không có văn bản qui định, hướng dẫn cụ thể, thống nhất, kịp thời các nhà đầu tư sẽ vô cùng lung túng, e ngại khi tiến hành đầu tư ra nước ngoài. Họ sẽ không thể biết được làm như thế nào để xin phép đầu tư, vốn góp theo tỷ lệ như thế nào, làm thể nào để chuyển tiền, lao động, máy móc, công nghệ… ra nước ngoài đầu tư. Do vậy để có một môi trường pháp lý đầy đủ, đồng bộ, tạo điều kiện cho chủ đầu tư dễ dàng đầu tư ra nước ngoài chúng ta cần tiến hành hoàn chỉnh các văn bản qui phạm pháp luật. Sự ra đời của Nghị định 22/1999/NĐ – CP đã tạo ra sự đột biến trong hoạt động đầu tư ra nước ngoài. Tuy nhiên, do điều kiện tình hình có nhiều thay đổi, Nghị định này có nhiều điểm không phù hợp, cản trở hoạt động đầu tư ra nước ngoài. Vì vậy, cần nhanh chóng sửa đổi Nghị định này, đồng thời nhanh chóng chuẩn bị thông tư hướng dẫn thực hiện, cụ thể. - Mở rộng phạm vi điều chỉnh của Nghị định, cho phép các doanh nghiệp liên doanh của Việt Nam với các nước khác đầu tư ra nước ngoài để tăng cường năng lực tài chính, công nghệ… - Nới rộng qui mô chó phép đầu tư ra nước ngoài mà không phải xin phép ý kiến của Thủ tường Chính phủ lên trên con số 1 triệu USD để các doanh nghiệp phát huy được tiềm lực tài chính cũng như khả năng huy động vốn của mình. Để Nghị định này được thực hiện tốt bên cạnh đó phải tiến hành xây dựng các văn bản pháp luật khác có liên quan đến đầu tư ra nuớc ngoài, và thực hiện một số biện pháp như: - Xây dựng chế độ chuyển tiền đồng Việt Nam sang Kíp Lào và ngược lại, không hạn chế việc cho ngân hang liên doanh Việt Lào chuỷen đổi tại ngân hang giữa tiền Việt và Kíp theo yêu cầu của doanh nghiệp. - Xây dựng các qui chế hướng dẫn chi tiết, cụ thể việc chuyển giao công nghệ ra nước ngoài. - Xây dựng các chế tài qui định cụ thể chế độ báo cáo tài chính của các doanh nghiệp, chế độ kiểm tra, đáng giá hoạt động của dự án đầu tư tại nước ngoài. - Trong quá trình ban hành các văn bản pháp luật đặc biệt cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa các ngành, địa phương để tránh các sai sót, chồng chẻo trái ngược nhau gây khó khăn cho nhà đầu tư. - Tiến hành thành lập các đoàn kiểm tra, giám sát để đánh giá hiệu quả, những vướng mắc trong hoạt động đầu tư ra nước ngoài để kịp thời điều chính các văn bản qui phạm một cách phù hợp. - Cải cách trong thủ tục hành chính trong thực hiện cấp phép đầu tư ra nước ngoài. Hệ thống pháp luật chính là cơ sở ban đầu hết sức quan trọng làm tiền đề cho doanh nghiệp có những quyết định đầu tư ra nước ngoài. Một hệ thống luật pháp về đầu tư ra nước ngoài thông thoáng, ưu đãi sẽ khuyến khích được các doanh nghiệp tích cực tham gia vào quá trình đầu tư quốc tế, nâng cao năng lực cũng như vị thế của doanh nghiệp. 1.2 Đơn giản hoá thủ tục đăng kí thẩm định và cấp phép đầu tư. Theo đánh giá hiện nay thủ tục đăng kí thẩm định và cấp phép đầu tư đang là vấn đề gây bức xúc với nhiều doanh nghiệp, làm chậm hoặc lỡ mất cơ hội kinh doanh của doanh nghiệp. Do vậy, cần đưa ra các biện pháp để các thủ tục này được tiến hành nhanh chóng, tạo niềm tin cho các nhà đầu tư. - Trước hết, cần mở rộng sự phân cấp cấp phép cho dự án đầu tư ra nước ngoài, giao cho địa phương thẩm quyền cấp phép đầu tư ra nước ngoài đặc biệt là trong tương lai khi khối lượng vốn cũng như số lượng vốn đầu tư ra nước ngoài tiếp tục gia tăng. - Thứ hai, tiến hành điều chỉnh qui trình thẩm đinh, giao công việc về chung một đầu mối xem xét, cấp phép không phải qua thẩm đinh, xin ý kiến từ nhiều cơ quan chức năng theo cơ chế chịu trách nhiệm tập thể như hiện nay. Trên cơ sở đăng kí cấp phép, cơ quan này sẽ quyết định cấp phép mà không phải lấy ý kiến từ các ban ngành địa phương, những dự án lớn, quan trọng chỉ lấy ý kiến một nơi là cơ quan ngân hang, hoặc cơ quan tài chính. - Thứ ba, tiến hành thành lập các đoàn kiểm tra, rà soát hệ thống các loại giấy phép, nội dung trong hồ sơ dự án, để xoá bỏ các loại giấy tờ không cần thiết nhằm tiết kiệm thời gian và chi phí cho doanh nghiệp Các biện pháp trên nếu được thực thi, thời gian thẩm định và cấp phép đầu tư sẽ rút ngắn lại không những giúp doanh nghiệp tận dụng được thời cơ kinh doanh mà còn tạo tâm lý an tâm cho doanh nghiệp. 1.3 Xây dựng các chính sách ưu đãi, hỗ trợ doanh nghiệp thực hiện đầu tư Các doanh nghiệp cần nhận được sự hỗ trợ thiết thực từ phía nhà nước khi tiến hành đầu tư sang Lào. Do vậy, nhà nước cần phải xây dựng các chính sách ưu đãi giúp đỡ doanh nghiệp, tạo điều kiện thuận lợi cho họ có thể tiến hành sản xuất kinh doanh cũng như thu lợi nhuận, cụ thể: - Hỗ trợ các doanh nghiệp trong vay vốn ưu đãi với lãi suất thấp để đầu tư sang Lào. - Nghiên cứu, ban hành danh mục các lĩnh vực đầu tư sang Lào có hiệu quả, được ưu đãi, khuyến khích như: + Dự án sản xuất hang hoá xuất khẩu. + Dự án nông lâm nghiệp, sản xuất chế biến các sản phâm từ nông lâm nghiệp và tiểu thủ công nghiệp. + Dự án công nghiệp chế biến, công nghiệp áp dụng công nghệ hiện đại, dự án nghiên cứu, phân tích khoa học và phát triển, dự án bảo vệ môi trường sinh thái. + Dự án liên quan đến phát triển nguồn nhân lực, tay nghề lao động và bảo vệ sức khoẻ người dân. + Dự án xây dựng cơ sở hạ tầng. + Dự án sản xuất nguyên vật liệu phục vụ cho ngành sản xuất công nghiệp quan trọng. + Dự án phát triển công nghiệp du lịch và dịch vụ. - Xây dựng các chính sách bảo lãnh, hỗ trợ của Chính phủ về vay vốn đầu tư, về các rủi ro trong kinh doanh và đầu tư tại Lào. - Xây dựng có chế chính sách khuyến khích các ngân hang thương mại mở chi nhánh, văn phòng đại diện tại Lào để hỗ trợ các doanh nghiệp thực hiện nghiệp vụ thanh toán, chuyển tiền phục vụ hoạt động đầu tư. - Giao nhiệm vụ cho đại sứ quán Việt Nam tại Lào thự hiện các công việc hỗ trợ cung cấp visa, hoàn thành các thủ tục đăng kí đầu tư tại Lào…để doanh nghiệp Việt Nam có thể hoạt động ổn định, lâu dài, và được bảo về quyền lợi, lợi ích trong các trường hợp có tranh chấp, khó khăn. - Thường xuyên tổ chức trao đổi, tiếp xúc với Chính phủ Lào kí các chương trình, hiệp định tạo ưu đãi cho Việt Nam trong quá trình đầu tư sang Lào về các mặt như: + Hỗ trợ trong thủ tục xuất nhập cảnh đối với các nhà đầu tư và lao động Việt Nam, tiến tới bãi bỏ thủ thị thực xuất nhập cảnh. + Giảm bớt thủ tục hành chính trong hoạt động xuất nhập khẩu khẩu, giảm thuế cho hang hoá của các dự án do Việt Nam sản xuất tại Lào xuất khẩu trở lại Việt Nam phục vụ nhu cầu trong nước phù hợp với công thức đầu tư chung của Việt Nam sang Lào là 3+2, bao gồm vốn, công nghệ và thị trường của Việt Nam với tài nguyên thiên nhiên và lao động của Lào. + Hỗ trợ giảm thuế sử dụng đất tại Lào vì hiện giờ đây là khoản phí khá cao. + Đơn giản hoá các qui định về sử dụng vật tư, thiết bị, lao động cũng như vận chuyển các thiết bị này qua biên giới phục vụ việc triển khai thực hiện dự án một cách hiệu quả, với chính sách thuế ưu đãi nhất. - Tiến hành rà soát, đánh giá lại các qui chế, thoả thuận hợp tác đã ban hành, tiến hành điều chỉnh, bổ sung cho phù hợp với điều kiện hợp tác mới, khắc phục những vướng mắc nảy sinh. Trong hoàn cảnh đầu tư ra nước ngoài còn là một hình thức mới mẻ, và đầu tư sang Lào là quốc gia được khuyến khích, các chính sách hỗ trợ sẽ giúp cho doanh nghiệp dễ dàng thích ứng với mội trường đầu tư tại Lào, thuận lợi trong tổ chức hoạt động sản xuất kinh doanh. 1.4 Tăng cường tổ chức công tác xúc tiến đầu tư giữa hai nước Khi tiến hành đầu tư tại bất kì một thị trường nào, công việc cần quan tâm hang đầu đó là phân tích, đánh giá thị trường. Thông qua công tác này chúng ta sẽ xác định được ngành, lĩnh vực hoạt động đầu tư có thể mang lại hiệu quả. Để tiến hành tốt công tác này chúng ta cần thực hiện tốt một số công việc. - Xây dựng và hoàn thiện hệ thống thông tin về văn bản qui phạm pháp luật, chính sách, lĩnh vực về đầu tư ra nước ngoài, thông tin về lĩnh vực, địa bàn khuyến khích đầu tư tại Lào, thông tin về hệ thống hiệp định kí kết hang năm giữa hai nước. Tiến tới thành lập và đưa vào hoạt động các trang Web riêng thông tin về hoạt động đầu tư sang Lào. - Tăng cường nghiên cứu tình hình kinh tế xã hội, thị trường, chính sách đầu tư của Lào để có thể đưa ra các hướng dẫn cụ thể định hướng các doanh nghiệp đầu tư tại Lào vào các lĩnh vực có hiệu quả, kịp thời điều chỉnh hoạt động của dự án phù hợp với luật lệ của Lào cũng như thông lệ quốc tế thông qua hoạt động của các cơ quan đại diện ngoại giao thương mại của Lào. - Tiến tới xây dựng ngân hàng thông tin liên quan đến đầu tư tại Lào bao gồm về các thông tin cơ bản cơ sở của đất nước Lào, các vấn đề pháp lí của Lào… để hỗ trợ các doanh nghiệp làm cơ sở ban đầu cho các doanh nghiệp muốn đầu tư vào Lào có cơ sở tham khảo. - Thường xuyên tổ chức các chương trình hội thảo, các chương trình đào tạo, hướng dẫn thủ tục, qui trình đầu tư sang Lào, giới thiệu, quảng bá các cơ hội đầu tư tại Lào để các doanh nghiệp có thể tham khảo, lựa chọn lĩnh vực đầu tư phù hợp. - Nâng cao chất lượng của hoạt động tư vấn đầu tư bằng cách hình thành nhiều tổ chức tư vấn đầu tư có đủ năng lực, hoạt động cạnh tranh nhằm nâng cao chất lượng dịch vụ tư vấnphục vụ tốt yêu cầu của nhà đầu tư với chi phí hợp lí. - Mở rộng hệ thống tư vấn không chỉ đơn thuần hướng dẫn thủ tục đầu tư sang Lào… mà còn thực hiện dịch vụ tư vấn hoạt động tài chính, tư vấn kĩ thuật, tư vấn giải quyết các tranh chấp trong hoạt động đầu tư. Làm tốt công tác xúc tiến đầu tư, nhà nước sẽ hỗ trợ cho doanh nghiệp trong tìm kiếm các cơ hội đầu tư có chất lượng cao, có được những kiến thức chung trong đầu tư ra nước ngoài cũng như sang Lào. 1.5 Tăng cường mối quan hệ đặc biệt Việt – Lào Mối quan hệ Việt – Lào là cơ sở tạo điều kiện cho hoạt động đầu tư của Việt Nam sang Lào được hưởng nhiều các ưu đãi hơn so với các quốc gia khác. Do vậy, tăng cường quan hệ Việt – Lào chính là tạo điều kiện ưu đãi ngày càng nhiều hơn cho các donh nghiệp Việt Nam hoạt động tại Lào. Một số công tác cần tiến hành nhằm thúc đẩy mối quan hệ giữa hai nước trong lĩnh vực đầu tư là: - Thường xuyên tổ chức các cuộc gặp gỡ, trao đổi, giữa hai Chính phủ, đánh giá kết quả hoạt động đầu tư, chỉ ra các vướng mắc trong hoạt động đầu tư. Từ đó tiến đến đàm phán, kí kết các hiệp định điều chỉnh, sửa đổi các điều khoản hợp tác đầu tư theo hướng ngày càng thông thoáng, ưu đãi hơn. - Tiến hành viện trợ cho Lào trong một số ngành và lĩnh vực nhằm mở đường cho hoạt động đầu tư trực tiếp sang Lào như: lĩnh vực cơ sở hạ tầng phục vụ việc lưu thông, vận chuyển hang hoá, lĩnh vực giáo dục đào tạo nâng cao chất lượng nguồn nhân lực phục vụ nhu cầu lao động có chất lượng cao của các doanh nghiệp Việt Nam khi đầu tư sang Lào. 2. Giải pháp vi mô 2.1 Tăng cường tìm hiểu môi trường đầu tư của Lào Muốn đầu tư có hiệu quả, các doanh nghiệp phải chủ động tìm kiếm cơ hội cũng như tìm hiểu môi trường vĩ mô, vi mô của Lào, từ đó thấy được những thuận lợi và khó khăn cũng như khả năng thâm nhập thị trường của doanh nghiệp mình. Như vậy mới có thể lựa chọn được lĩnh vực, địa bàn đầu tư phù hợp. Muốn làm được điều đó, doanh nghiệp cần phải: - Chủ động tìm kiếm thông tin qua các trang Web, các cơ quan đại diện kinh tế thương mại của Việt Nam, các doanh nghiệp đã có kinh nghiệm trong đầu tư tại Lào. - Thành lập bộ phận chuyên nghiên cứu thị trường, liên tục cập nhật các thông tin về hệ thống luật pháp, các thay đổi trong cơ chế, chính sách, hoạt động của thị trường vốn, thị trường lao động, thị trường tài chính tại Lào… - Tiến hành điều tra thị trường Lào một cách trực tiếp thông qua các chuyến đi thực tế tại Lào. - Thường xuyên tham gia các buổi hội thảo xúc tiến đầu tư của Lào, các chương trình tập huấn về đầu tư ra nước ngoài do Bộ Kế hoạch và Đầu tư tổ chức. Các kiến thức, thông tin mập mở, không đầy đủ về thị trường có thể gây cho doanh nghiệp những thiệt hại cũng như những tranh chấp không đáng có. Vì vậy đây là công tác cần chuẩn bị kĩ lưỡng đầu tiên trước khi trở thành nhà đầu tư nước ngoài tại Lào. 2.2 Hoàn thiện năng lực quản lí dự án Để thực hiện dự án một cách có hiệu quả, các doanh nghiệp phải từng bước nâng cao năng lực quản lí dự án trên tất cả các khâu: quản lí thời gian, tiến độ, chi phí, chất lượng...Muốn đạt được điều đó, doanh nghiệp cần tiến hành các biện pháp như: - Lập kế hoạch chi tiết, cụ thể cho các dự án, đảm bảo các nội dung trong dự án được thực hiện một cách đầy đủ. - Thường xuyên tổ chức công tác kiểm tra, giám sát thực hiện dự án. Đặc biệt quan trọng là nâng cao năng lực của các cán bộ quản lí dự án mới có thể đảm bảo cho dự án được thực hiện một cách hiêu quả. - Có kế hoạch tuyển dụng đội ngũ cán bộ quản lí dự án có trình độ chuyên môn. - Tiến hành tập huấn, đào tạo nâng cao năng lực quản lí dự án trong nước cũng như dự án tại nước ngoài. - Thường xuyên tổ chức học hỏi kinh nghiệm, mô hình quản lí dự án của các doanh nghiệp đầu tư ra nước ngoài. 2.3 Tăng cường năng lực tài chính và khoa học công nghệ Đầu tư sang Lào chúng ta không thể góp vốn hoặc mang những tài sản như: đất đai, nhà xưởng để góp vốn. Mặt khác Lào lại là một quốc gia có nền kinh tế kém phát triển, thiếu vốn trầm trọng cũng như khả năng về công nghệ hết sức hạn chế. Đầu tư sang Lào, các doanh nghiệp Việt Nam vì thế phải chủ động hoàn toàn về cả hai mảng này. Do đó, để đầu tư sang Lào có hiệu quả, các doanh nghiệp Việt Nam cần phải tăng cường năng lực tài chính cũng như khoa học công nghệ. Tăng cường năng lực tài chính sẽ giúp cho các dự án được tiến hành suôn sẻ, thuận lợi, đúng theo tiến độ, sớm đưa dự án vao giai đoạn vận hành. Điều này sẽ khắc phục được tồn tại hiện nay trong thực hiện các dự án tại Lào, đó là tỉ lệ vốn thực hiện còn rất thấp. Để làm được điều đó doanh nghiệp có thể thực hiện một số biện pháp như: - Lựa chọn kĩ càng cơ hội đầu tư, đầu tư có trọng tâm, trọng điểm để vốn đầu tư cho một dự án không thiếu hụt, chậm trễ. - Thực hiện các biện pháp huy động vốn thông qua các trung gian tài chính như ngân hang, qua thị trường vốn, hoặc kêu gọi các đối tác cùng hợp tác đầu tư sang Lào… - Quản lí có hiệu quả nguồn tài chính của doanh nghiệp, từng bước gia tăng qui mô vốn thông qua nguồn lợi nhuận trích lại. Do đặc điểm của Lào là nền kinh tế còn nghèo, khoa học công nghệ lạc hậu rất nhiều không chỉ so với thế giới mà còn so với Việt Nam. Các doanh nghiệp Việt Nam cần phải chủ động trong các dây chuyền sản xuất, có những cải tiến về khoa học công nghệ phù hợp với nước sở tại. Cụ thể nhiệm vụ của doanh nghiệp đó là: - Không ngừng học hỏi, cập nhật những tiến bộ về khoa học công nghệ trên thế giới để có thể làm chủ được công nghệ, có như vậy mới có thể quản lí tốt hệ thống công nghệ đầu tư tại Lào. - Có chính sách thu hút, đào tạo đội ngũ cán bộ quản lí công nghệ cho doanh nghiệp. - Đào tạo nguồn nhân lực tại Lào, những người tham gia trực tiếp vào sản xuất áp dụng các dây chuyền công nghệ của doanh nghiệp. - Thường xuyên nghiên cứu đổi mới công nghệ phù hợp với điều kiện sản xuất cũng như lao động Lào, đáp ứng được chất lượng, mẫu mã sản phẩm theo yêu cầu của thị trường tiêu thụ. 2.4 Xây dựng quan hệ hợp tác giữa các doanh nghiệp Việt Nam tại Lào Hiện nay các doanh nghiệp Việt Nam đầu tư sang Lào còn đơn thương độc mã mà chưa có sự phối hợp, giúp đỡ nhau trong quá trình sản xuất kinh doanh. Doanh nghiệp muốn hoạt động có hiệu quả trên thị trường quốc tế, nhất thiết cần tạo ra mối quan hệ hợp tác với nhau. Thông qua đó các doanh nghiệp có thể chia sẻ cho nhau về kinh nghiệm làm ăn, kinh nghiệm quản lí các dự án tại Lào, cũng như giúp đỡ lẫn nhau khi gặp những rủi ro, hoặc sự cố về tài chính, công nghệ, các tranh chấp…Để tạo được sợi dây liên kết này, các doanh nghiệp phải tổ chức được các hiệp hội kinh doanh tại Lào theo từng lĩnh vực và theo từng vùng lãnh thổ. Các hiệp hội phải được tổ chức hoạt động một cách khoa học mới có thể liên kết các doanh nghiệp lại với nhau tạo nên một khối vững mạnh và đoàn kết, nhằm nâng cao sức cạnh tranh cũng như vị thế của doanh nghiệp Việt Nam không chỉ tại Lào mà còn trên trường quốc tế. KẾT LUẬN Trong tiến trình hội nhập, đầu tư sang Lào nói riêng và đầu tư ra nước ngoài nói chung là một hướng đi đúng đắn đối với các doanh nghiệp Việt Nam nhằm từng bước nâng cao hình ảnh cũng như vị thế của doanh nghiệp Việt Nam trên trường quốc tế. Trong quá trình đầu tư sang Lào các doanh nghiệp Việt Nam đã gặt hái được không ít thành công và trở thành nhà đầu tư lớn nhất tại Lào xét về cả qui mô vốn cũng như số lượng các dự án đầu tư. Tuy nhiên đây vẫn là hình thức đầu tư mới mẻ đối với các doanh nghiệp Việt Nam. Do vậy việc tiến hành đầu tư đã gặp phải không ít vướng mắc từ phía cơ chế chính sách cũng như từ chính năng lực của doanh nghiệp. Nâng cao nhận thức về vai trò của đầu tư ra nước ngoài, cũng như thực hiện tốt các văn bản qui định về đầu tư ra nước ngoài và các thoả thuận hợp tác đầu tư giữa Việt Nam và Lào là cơ sở để các doanh nghiệp Việt Nam có được một môi trường ban đầu thuận lợi tiến hành đầu tư tại Lào. Các doanh nghiệp Việt Nam cần phải năng động, linh hoạt hơn nữa mới có thể hoạt động kinh doanh có hiệu quả trong môi trường đầu tư quốc tế TÀI LIỆU THAM KHẢO Tài liệu Đâu tư nước ngoài và chuyển giao công nghệ, TS. Nguyễn Hồng Minh ( 2005). Giáo trình Kinh tế đầu tư, TS. Từ Quang Phương ( 2004) Giáo trình Lập và Quản lí dự án, PGS.TS Nguyễn Bạch Nguyệt ( 2005). Thông tư số 05/2001/TT – BKH ngày 30 tháng 8 năm 2001 hướng dẫn hoạt động đầu tư ra nước ngoài của doanh nghiệp Việt Nam. Nghị định 22/1999/NĐ – CP ngày14 tháng 4 năm 1999 qui định về đầu tư ra nước ngoài của các doanh nghiệp Việt Nam. Luật khuyến khích đầu tư nước ngoài vào Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào ngày 14 tháng 4 năm 1994. Thoả thuận giữa Chính phủ nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam và Chính phủ nước Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào về việc tạo điều kiện thuận lợi cho người, phương tiện, hang hoá qua lại biên giới và khuyến khích phát triển hợp tác thương mại - đầu tư Việt Nam – Lào ngày 13 tháng 8 năm 2002. Hiệp định giữa Chính phủ nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam và Chính phủ nước Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào về khuyến khích và bảo hộ đầu tư ngày 14 tháng 1 năm 2006. Chương trình kế hoạch hợp tác Việt – Lào giai đoạn 2000 – 2010 Tạp chí nghiên cứu Đông Nam Á số tháng 4/2002; tháng 2/2004; tháng 3/2004. Tạp chí nghiên cứu quốc tế số 39, 46 năm 2003. Tạp chí công nghiệp tháng 3/2006. www.mpi.gov.vn www.vnexpress.net

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docB0021.doc
Tài liệu liên quan