Đề tài Thực trạng và giải pháp thu hút FDI của nhật bản vào Việt Nam từ năm 1988 đến năm 2020

Vốn đầu tư có sự chuyển hướng từ công nghiệp sang ngành dịch vụ trong những năm gần đây, đặc biết là đầu tư vào lĩnh vực khách sạn – du lịch và xây dưng văn phòng – căn hộ là do Việt Nam trong những năm qua luôn là điểm đến thu hút khách du lịch đông đảo. Sự ổn định chính trị giúp cho Việt Nam có được môi trường hòa bình, là nơi an toàn cho các khách du lịch; vì thế việc các nhà đầu tư FDI đầu tư vào khách sạn – du lịch là điều tất nhiên. Mặt khác trong 10 năm qua Việt Nam, đặc biệt là các thành phố lớn như Hà Nội , TP Hồ Chí Minh luôn là những thành phố có giá thuê văn phòng vào bậc cao trên thế giới, chỉ xếp sau Thượng Hải, Trung Quốc. Mà đây là những thành phố thu hút lượng vốn FDI nhiều nhất ở Việt Nam. Mặt khác tại các thành phố lớn luôn có lượng dân cư đông, các dịch vụ nhà ở luôn ở tình trạng cung không đủ cầu. Vì thế các nhà đầu tư FDI đầu tư vào lĩnh vực xây dựng văn phòng và căn hộ nhằm để đáp ứng các nhu cầu trên.

doc75 trang | Chia sẻ: Dung Lona | Lượt xem: 1284 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng và giải pháp thu hút FDI của nhật bản vào Việt Nam từ năm 1988 đến năm 2020, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ao đưa vào sản xuất đáp ứng nhu cầu trong nước và xuất khẩu. Thứ hai, khuyến khích dự án đầu tư cho công nghệ chế biến thực phẩm, bảo quản sau thu hoạch để nâng giá trị sản phẩm, tạo ra thị trường tiêu thụ nông sản ổn định, đặc biệt xuất khẩu. Thứ ba, khuyến khích FDI tham gia đầu tư xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ nông, lâm nghiệp như các công trình thủy lợi, sản xuất phân bón, thuốc bảo vệ thực vật, hệ thống giao thông nội đồng... 2.4. Định hướng vùng: Trong những năm tới, dự báo vốn FDI Nhật Bản vẫn sẽ tập trung chủ yếu vào những địa phương có điều kiện thuận lợi về địa lý-tự nhiên, nhất là các vùng kinh tế trọng điểm. Để tăng cường thu hút đầu tư nước ngoài tại những vùng có điều kiện kinh tế xã hội còn khó khăn, thu hẹp dần khoảng cách về trình độ phát triển giữa các vùng, bên cạnh những ưu đãi của đối với FDI tại các vùng đó đòi hỏi phải tăng cường đầu tư xây dựng nhanh cơ sở hạ tầng kỹ thuật, đường giao thông, điện, nước ở các vùng kinh tế khó khăn bằng nguồn vốn nhà nước, vốn ODA và nguồn vốn tư nhân. Tập trung thu hút đầu tư vào các khu kinh tế, khu Công nghiệp đã được Chính phủ phê duyệt (như Chu Lai, Nhơn Hội) góp phần đẩy nhanh việc thu hẹp khỏang cách phát triển giữa các vùng). 3. Định hướng thu hút FDI Nhật Bản: Điều đầu tiên chúng ta cần biết Nhật Bản là quốc gia có vốn FDI thực hiện lớn trong số các quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư vào Việt Nam. Bên cạnh đó Nhật Bản cũng là nước cung cấp ODA nhiều nhất cho Việt Nam. Các tập đoàn xuyên quốc gia (TNCs) của Nhật Bản đang thực hiện chiến lược chuyển dịch đầu tư từ Trung Quốc sang một số nước khác trong khu vực theo mô hình “Trung Quốc + 1”, tạo cơ hội mới cho Việt Nam trong tăng cường thu hút đầu tư của Nhật Bản. Dưới đây là một số định hướng thu hút FDI của Nhật Bản vào Việt Nam 3.1 Thực hiện tốt chương trình hành động Sáng kiến chung Việt – Nhật: Thứ nhất, Việt Nam và Nhật Bản đang thực hiện Chương trình hành động Sáng kiến chung Việt – Nhật giai đoạn II nhằm giải quyết những vướng mắc, nâng cao khả năng cạnh tranh của môi trường đầu tư. Vì thế trong thời gian tới, cần tập trung xúc tiến đầu tư của Nhật Bản vào các dự án công nghệ cao, chuyển giao công nghệ và kỹ thuật tiên tiến. Thứ hai, tiến hành vận động đầu tư tại Nhật Bản theo hình thức mới, chọn các dự án trọng điểm để vận động các tập đoàn cụ thể của Nhật Bản đầu tư.Tổ chức cho đoàn doanh nghiệp hai nước thăm và tìm hiểu cơ hội đầu tư lẫn nhau. Thứ tư, thúc đẩy và hỗ trợ các dự án lớn của Nhật Bản hiện đang trong quá trình đàm phán hoặc hình thành dự án. Giải quyết tốt các vướng mắc cho các doanh nghiệp Nhật Bản hoạt động tại Việt Nam nhằm tạo thêm lòng tin của các nhà đầu tư Nhật Bản, đồng thời phối hợp chặt chẽ với Đại sứ quán Nhật Bản tại Việt Nam thực hiện tốt 44 điểm trong Sáng kiến chung Việt Nam về cải thiện môi trường đầu tư tại Việt Nam. 3.2 Tận dụng hiệu quả nguồn vốn FDI Nhật Bản: Trong thời gian tới cần thu hút nguồn FDI Nhật Bản trong những ngành công nghệ cao, sử dụng nhiều lao động, chuyển giao được những công nghệ tiên tiến. Bên cạnh đó nâng cao chất lượng tay nghề lao động và trình độ hấp thu công nghệ của lực lượng lao động Việt Nam để tạo sự hấp dẫn cho FDI Nhật Bản khi nguồn lao động vừa có chi phí rẻ lại chất lượng cao. 4. Thuận lợi và khó khăn trong việc thu hút FDI Nhật Bản: 4.1 Những thuận lợi trong việc thu hút FDI Nhật Bản: Thứ nhất, về tình hình kinh tế, chính trị, xã hội của nước ta được dự báo sẽ tiếp tục ổn định và phát triển toàn diện. Đặc biệt, những thành tựu to lớn và rất quan trọng của 17 năm đổi mới đã làm cho thế và lực của ta mạnh lên, cơ sở vật chất, kỹ thuật của nền kinh tế được tăng cường. Sự phát triển có nhiều triển vọng của nền kinh tế trong môi trường chính trị-xã hội cơ bản ổn định, môi trường hợp tác, liên kết kinh tế quốc tế có nhiều thuận lợi cùng với những tiềm năng lớn về tài nguyên, lao động của đất nước sẽ tạo nhiều điều kiện thuận lợi để tiếp tục phát huy nội lực và lợi thế so sánh, tranh thủ các nguồn ngoại lực, trong đó có ĐTNN để phục vụ sự nghiệp CNH-HĐH đất nước. Qua đó sẽ củng cố lòng tin và làm gia tăng mối quan tâm của các nhà đầu tư Nhật Bản đối với nước ta trong thời gian tới. Thứ hai, Việt Nam trở thành thành viên thứ 150 của tổ chức WTO đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc thu hút FDI Nhật Bản do môi trường pháp lý và thể chế kinh tế của nước ta được hoàn thiện hơn, thị trường xuất khẩu được mở rộng. Thứ ba, Việt Nam có nhiều yếu tố thuận lợi và còn nhiều dư địa để nâng cao tốc độ tăng trưởng kinh tế, nhất là trong lĩnh vực công nghiệp và dịch vụ để. Đây lại là những lĩnh vực mà các nhà đầu tư Nhật Bản rất quan tâm và ưa thích. Thứ tư, hoạt động xúc tiến đầu tư của cả nước được đúc kết qua thời gian với sự hỗ trợ về kinh phí của Chính phủ đã được nâng tầm cao hơn trước, tăng tính hiệu quả hơn so với các năm trước. Mối quan hệ giữa Việt Nam và Nhật Bản đang ngày càng tốt đẹp hơn qua thời gian. 4.2. Những khó khăn trong việc thu hút FDI Nhật Bản Thứ nhất, xu hướng đầu tư của Nhật Bản tại Việt Nam là hướng vào ngành dịch vụ và ngành công nghệ cao, trong khi ở Việt Nam, lĩnh vực này còn khá nhiều bất cập trong cả chính sách điều hành lẫn thực thi. Thứ hai, hệ thống cơ cở hạ tầng chưa đáp ứng nhu cầu của các nhà đầu tư Nhật Bản nói riêng và đầu tư nước ngoài nói chung. Ví dụ như sự quá tải về điện, nước, giao thông,.. Điều này nếu không giải quyết sẽ ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Thứ tư, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế nước ta còn thấp. Cơ cấu kinh tế dịch chuyển chậm, tích lũy nội bộ nền kinh tế còn thấp; các cán cân cân đối vĩ mô còn thiếu vững chắc. II. Giái pháp thu hút FDI của Nhật Bản vào Việt Nam và một só kiến nghị: 1. Giải pháp thu hút FDI của Nhật Bản vào Việt Nam: 1.1. Phát triển các ngành công nghiệp phụ trợ Điều đầu tiên có thể nhận thấy là một trong những mục tiêu của nhà đầu tư từ Nhật Bản nói riêng và các nhà đầu tư nước ngoài nói chung tại nước ta là tận dụng nguyên nhân lực với giá rẻ, nguồn nguyên vật liệu phong phú để sản xuất các mặt hàng với giá thành thấp hơn so vơi tại các nước ASEAN khác để xuất khẩu sang thị trường nước khác. Tuy nhiên họ đã đối mặt với việc phải giải quyết vấn đề nguyên vật liệu đầu vào. Cho tới nay, phần lớn những sản phẩm đầu vào đối vào thiết yếu đối với quá trình sản xuất, họ đều phải nhập khẩu từ cơ sở của ho tại các nước khác trong khu vực như Hàn Quốc, Hồng Kông Điều này đặc biệt trầm trọng trong một số lĩnh vực như công nghệ điện tử, lắp ráp và sản xuất ô tô, CN hóa chất Vi vậy cần phải xác định các ngành công nghiệp phụ trợ then chốt, trên cơ sở đó, có các chính sách ưu đãi thích hợp để hỗ trợ, khuyến khích phát triển. Cụ thể là cần hỗ trợ phát triển các nhà sản xuất nguyên liệu và phụ tùng trong nước, thu hút FDI vào ngành công nghệ phụ trợ nhằm tạo đà cho công nghiệp phụ trợ trong khu vực phát triển. Trong các dự án đầu tư nước ngoài hoạt động tại Việt Nam, cho dù họ bán sản phẩm ở thị trường nào ( trong nước hay ngoài nước) thì nhu cầu về mua sắm thị trường trong nước là vẫn rất cao. Đặc biệt với với những sản phẩm về chi tiết cơ khí và linh kiện điện tử. Nhật Bản đầu tư chủ yếu vào Việt Nam là những ngành công nghệ chế tạo như ô tô xe máy, điện tử. Những ngành này luôn đòi hỏi có các linh kiện phụ trợ đi kèm. Tuy nhiên thực tế ngành công nghiệp phụ trợ của chúng ta còn rất kém, chưa đủ để chúng ta có thể đáp ứng được yêu cầu của các nhà đầu tư Nhật Bản. Theo tính toán của các chuyên gia đối với một số ngành thì giá trị gia tăng trong sản xuất công nghiệp rơi vào công nghiệp phụ trợ tới 90-95% tuỳ theo tính chất kỹ thuật ngành. Nếu phân theo mức độ, vai trò tham gia vào chuỗi giá trị sản xuất thì ngành công nghiệp phụ trợ được chia làm 3 tầng: Tầng thứ nhất là hệ thống công nghiệp phụ trợ "ruột". Tức là những hãng được hãng chính bảo trợ và cung cấp tất cả những yêu cầu cơ bản nhất để tạo ra những chi tiết đặc trưng nhất của sản phẩm. Đây là khu vực mà theo nhận định của các chuyên gia, cơ hội tham gia của doanh nghiệp phụ trợ nội địa của Việt Nam không có. Hai tầng còn lại là hệ thống phụ trợ hợp đồng và thị trường. Tức là doanh nghiệp sản xuất ra sản phẩm linh kiện để bán trên thị trường hoặc tham gia các hợp đồng cung cấp. Với hai tầng này, các doanh nghiệp vừa và nhỏ cũng rất khó tham gia vào chuỗi này Thực tế, khi Việt Nam gia nhập WTO, hàng rào thuế quan giảm xuống và các chi tiết cùng linh kiện theo đó cũng được giảm thuế. Chi phí trở nên rẻ hơn, do đó các nhà đầu tư lắp ráp thường đi tìm mua các chi tiết linh kiện từ bên ngoài vào. Và như vậy, một lần nữa lại "bóp chết" cơ hội của doanh nghiệp vừa và nhỏ ở địa phương.   Khó khăn lớn nhất mà các doanh nghiệp vừa và nhỏ sản xuất các mặt hàng phụ trợ đang đối mặt chính là họ rơi vào tình thế sản xuất các linh kiện thụ động phải chờ sự chấp thuận của hãng lớn mặc dù bản thân họ rất linh hoạt. Hơn nữa, ở Việt Nam công nghiệp phụ trợ còn hết sức đơn giản, quy mô nhỏ lẻ, chủ yếu sản xuất các linh kiện chi tiết giản đơn, giá trị gia tăng thấp và có sự chênh lệch về năng lực phụ trợ giữa các doanh nghiệp vừa và nhỏ nội địa của Việt Nam với các yêu cầu của các hãng sản xuất toàn cầu Để sản xuất ra một chiếc ôtô, hãng Toyota cần có 1.600 nhà cung cấp các loại chi tiết, linh kiện. Hãng Meccedes cũng có khoảng 1.400 doanh nghiệp cung cấp. Như vậy, chỉ cần vài hãng lắp ráp cuối cùng nhưng họ cần hàng ngàn doanh nghiệp sản xuất trước đó. Một chuỗi các hoạt động của ngành công nghiệp phụ trợ này chủ yếu lại do các doanh nghiệp vừa và nhỏ đảm nhận. Họ gặp rất nhiều khó khăn khi tham gia vào chuỗi toàn cầu để đi đến sản phẩm cuôi cùng của các hãng. Xem ra, đây là con đường gập ghềnh và nhiều gian nan cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ nội địa làm phụ trợ để có thể bứt phá giữa yêu cầu cao của các hãng chính và thực trạng thấp kém của các doanh nghiệp vừa và nhỏ sản xuất các linh kiện. Các đây 2 năm tại Tp.HCM cũng đã tổ chức "hội chợ ngược" lần thứ nhất về công nghiệp phụ trợ mà ở đó các doanh nghiệp Nhật Bản tìm các nhà cung cấp Việt Nam. Tại hội chợ này, các hãng chính đến và đưa các linh kiện đặt hàng để tìm các doanh nghiệp trong nước của Việt Nam có khả năng sản xuất được thì ký hợp đồng tham gia vào chuỗi sản xuất. Đến nay, sau hai năm chưa hợp đồng nào được ký.  Để phát triển ngành công nghiệp phụ trợ ở Việt Nam, chúng ta cần có một số những biện pháp như: Thứ nhất, tạo ra các ưu đãi cần thiết cho các nhà đầu tư vào lĩnh vực công nghiệp phụ trợ, đặc biệt là hỗ trợ đi theo các hãng chính. Thứ hai, Chính phủ cần nhận diện lại vấn đề và tham gia tích cực vào cuộc chơi này bằng cách lập ra một cơ quan đầu mối để mối lái cho các doanh nghiệp cung cấp chi tiết linh kiện. Không nên chờ nhà đầu tư nước ngoài đến mở hội chợ ngược mà chính phủ phải vào cuộc cùng với các DN để cải thiện tình hình. Trên thực tế, nước láng giềng Thái Lan đã làm rất tốt việc này trong thời kỳ công nghiệp hoá của họ. Họ đã có một cơ quan nhà nước luôn theo dõi việc hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ để "chui" vào các hãng chính. Trong khi hiện nay, ở Việt Nam đến các cơ quan hiện hành, hỏi ai phụ trách việc hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ cũng khó có câu trả lời. Thứ ba. nỗ lực đầu tư, chuyển giao công nghệ, kỹ thuật từ các hãng chính cũng như các nhà cung cấp FDI bằng nhiều cách khác nhau như thông qua việc hợp đồng hợp tác kinh doanh, liên doanh,... Đồng thời chủ động tiếp nhận các công nghệ tiên tiến được chuyển giao từ các quốc gia phát triển. Thứ tư, tích cực xây dựng các quan hệ thông tin như tham gia các hội chợ, triển lãm và hội thảo chuyên đề về phát triển công nghiệp cung cấp cho các lĩnh vực khác nhau. Bên cạnh đó cần hoàn thiện hệ thống thông tin và cơ sở dữ liệu về công ty sản xuất phụ trợ, các nhà sản xuất hạ nguồn,.. Thứ năm, trong quá trình xây dựng khu công nghiệp và khu chế xuất cần xây dựng theo hướng phát triển ngành công nghiệp phụ trợ. Xây dựng KCN – KCX một cách có tập trung, có mục tiêu, trong đó có nhiều DN tư nhân có thể trở thành các nhà cung cấp cho các DN FDI là một hướng đi tích cực và thiết thực nhằm phát triển ngành công nghiệp phụ trợ. Các nhà đầu tư Nhật Bản thường có truyền thống đầu tư theo cộng đồng khép kín và có mạng lưới kinh doanh rộng khắp, mỗi DN đảm bảo một hoặc nhiều khâu trong cả một chu trình sản xuất. Các nhà cung cấp nhỏ đóng vai trò quan trọng trong mạng lưới sản xuất và kinh doanh. Vì vậy, để xây dựng và phát triển các ngành công nghiệp phụ trợ một cách bài bản, ngoài những ưu tiên khuyến khích trong nước, chúng ta cũng cần cân nhặc thu hút những nhà cung cấp nhỏ từ Nhật Bản bằng cách dành cho họ nhiều ưu đãi hơn về mọt mặt. Mục tiêu cần đạt được là họ sẽ xây dựng được một mạng lưới công ty vệ tinh đủ sức cung cấp NVL đầu vào với chất lượng đảm bảo, giá thành rẻ hơn so với việc nhập khẩu hoặc sản xuất tại các nước Asean khác. Muốn vậy chúng ta cần nghiên cứu, xem xét kỹ để đưa một số ngành công nghiệp phụ trợ quan trọng vào danh sách đặc biệt khuyến khích đầu tư. Việc thực hiện AFTA và làn sóng hàng Trung Quốc giá rẻ đang buộc các công ty Nhật Bản ở VIệt Nam cắt giảm chi phí và chuyển sản phẩm của họ sang những nước có giá trị gia tăng cao hơn. Để đáp ứng những nhu cầu này của các nhà thầu hàng đầu Nhật Bản, về dài hạn thì chính phủ Việt Nam cần đứng ra đỡ đầu cho các nhà sản xuất nguyên liệu và phụ tùng trong nước. 1.2.Cải thiện thủ tục giải ngân cho các dự án FDI Nhật Bản: Thứ nhất cần rút ngắn thời gian phê duyệt và thẩm định dự án. Hiện nay, quy định về trình tự và thủ tục xét duyệt dự án của phía Việt Nam và phía nước ngoài còn rườm rà, phải qua nhiều bước, nhiều cấp xét duyệt nên giai đoạn chuẩn bị dự án thường kéo dài. Đây chính là một trong những nguyên nhân làm cho tiến độ giải ngân nguồn vốn FDI trong thời gian qua chậm. Hơn nữa, thủ tục hành chính của các cơ quan Nhà nước còn chậm đổi mới, thiếu triệt để nên còn tình trạng chậm trễ ở mỗi khâu, đặc biệt là các khâu: thẩm định và phê duyệt nghiên cứu khả thi, phê duyệt để triển khai các hạng mục sử dụng vốn dư sau đấu thầu. Vì thế đã làm nản lòng không ít các nhà đầu tư FDI Nhật Bản. Do vậy, đòi hỏi phải đổi mới công tác thẩm định và phê duyệt dự án sao cho rút ngắn được thời gian mà vẫn đảm bảo được chất lượng của việc thẩm định, góp phần thúc đẩy giải ngân. Cần tinh giảm thủ tục hành chính, có sự phân cấp thẩm định rõ ràng để nâng cao hiệu quả hoạt động của bộ phận này. Có những quy định cụ thể về thời gian thẩm định, phê duyệt đối với từng loại dự án. Đồng thời, trong quá trình thẩm định nếu phát hiện những nội dung còn thiếu hay chưa phù hợp thì cơ quan thẩm định phải có trách nhiệm thông báo ngay cho người lập dự án để họ có biện pháp điều chỉnh kịp thời. Thứ hai, tiếp tục cải thiện thủ tục và trình tự giải ngân cho các dự án FDI đã quy định trong Nghị định 87/CP sao cho phù hợp với thông lệ quốc tế là trong vòng 56 ngày. Hiện nay trình tự và thủ tục thanh toán còn rườm rà, tốn nhiều thời gian. Đã có một số nhà thầu yêu cầu chủ dự án thanh toán trả chậm, điều này sẽ gây khó khăn lớn cho chủ dự án và thiệt hại cho Nhà nước. Đối với một số dự án do phải chờ phê duyệt bổ sung giá trị hợp đồng nên một số khối lượng đã hoàn thành không được giải ngân gây khó khăn cho nhà thầu. Thứ ba, ban hành chế độ, chính sách đặc thù riêng về thủ tục và trình tự giải ngân để đặc biệt đối xử với một số dự án gặp nhiều khó khăn song vẫn phải đảm bảo tính công bằng và minh bạch. Hiện nay, các quy định về thủ tục và trình tự giải ngân vẫn mang tính chung chung, chưa lường trước được những khó khăn của chủ đầu tư và Ban quản lý dự án. Thêm vào đó phải rà soát lại các thủ tục tài chính trong nước, đặc biệt là thủ tục rút vốn nhằm cải tiến thủ tục rút vốn theo hướng giảm phiền hà trong quá trình này. Quy định về việc mở một tài khoản riêng phục vụ công tác lập đề cương và xây dựng báo cáo tiền khả thi, báo cáo khả thi cho dự án, vì hiện nay nguồn kinh phí này hầu như không được cấp, ảnh hưởng rất nhiều đến tiến độ giải ngân nguồn vốn FDI. 1.3. Thực hiện tốt "Sáng kiến chung Việt – Nhật để cải thiện môi trường đầu tư: "Sáng kiến chung Việt Nam – Nhật Bản" được Việt Nam và Nhật Bản đi đến thông nhất và thực hiện vào năm 2003 để cải thiện môi trường đầu tư và nâng cao sức cạnh tranh của Việt Nam. Sáng kiến chung Việt – Nhật là nhằm tăng cường tính cạnh tranh của nền kinh tế thông qua việc thu hút FDI vào Việt Nam. Cho đến nay Việt Nam đã thực hiện tốt giai đoạn I với nội dung là xây dựng và thực hiện chiến lược đầu tư nước nước ngoài và đã thực hiện thành công. Bây giờ Việt Nam đang bước vào giai đoạn hai với nội dung là các chính sách và biện pháp cụ thể nhằm cải thiện môi trường đầu tư. Để thực hiện tốt Sáng kiến đã đưa ra, ta cần thực hiện một số biện pháp trước mắt: Thứ nhất, tăng cường hướng dẫn các bộ ngành liên quan thực hiện trách nhiệm của mình trong việc thực hiện các hoạt động trong khuôn khổ Sáng kiến. Thứ hai, tăng cường theo dõi, kiểm tra để có những biện pháp xư lý kịp thời trong quá trình thực hiện kế hoạch hành động. Việc giám sát cần được thực hiện 6 tháng 1 lần trong 2 năm và Ủy ban theo dõi sẽ xúc tiến thực hiện Kế hoạch hành động của Sáng kiến nếu việc thực hiện không đạt được như quy định trong Kế hoạch hành động. Việt Nam cần tiếp tục thực hiện sáng kiến chung Việt – Nhật giai đoạn II nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của nước ta. Rà soát các cam kết của Việt Nam trong khuôn khổ sáng kiến chung Việt – Nhật về cải thiện MTĐT và tăng năng lực cạnh tranh của Việt Nam để xây dựng, triển khai thực hiện của Bộ, ngành, tập trung vào các nhóm giải pháp đã cam kết liên quan đến xây dựng và thực hiện chiến lược XTĐT nước ngoài, rà soát lại các quy định pháp luật có liên quan đến đầu tư, nâng cao năng lực của các cơ quan thực thi. 1.4. Áp dụng các biện pháp nhằm thu hút các TNCs của Nhật Bản: Đi kèm với các TNCs thường là các công ty con, những nhà sản xuất linh kiện phụ trợ cho chính hãng. TNCs không chỉ giúp hiện đại hóa một ngành kinh tế mà tạo ra lợi thế cạnh tranh cho quốc gia đó bên cnahj những đóng góp cho xã hội. Hiện nay các TNCs của Nhật Bản đang có khuynh hướng chuyển R&D vào khu vực Châu á, đặc biệt là những nước đang phát triển. Dưới đây là một số biện pháp để thu hút các TNCs của Nhật Bản: Thứ nhất, hoàn thiện thể chế pháp lý về bảo hộ sở hữu trí tuệ và công nghệ. Các nhà đầu tư Nhật Bản và chình phủ Nhật đặc biệt quan tâm tới các vấn đề liên quan đến bảo hộ sở hữu trí tuệ và công nghệ. Vì vậy, chính phủ Việt Nam cần hoàn thiện hệ thống pháp luật về sở hữu trí tuệ. Chúng ta cần có các luật riêng để điều chỉnh từng đối tượng như Luật Sáng chế, Luật Sở hữu nhãn hiệu,... Thứ hai, xây dựng chiến lược quốc gia về vận động thu hút đầu tư từ các TNCs. Không chỉ tập trung vào các hoạt động trong bất kỳ chuyến tháp tùng nguyên thủ quố gia nào mà còn phải tiến hành đều đặn và có định hướng ngay trước, trong và sau lúc đó. Thứ ba, Việt Nam cần thực hiện điều chỉnh chỉnh sách quốc gia vừa thu hút FDI vào các ngành chế tạo và các ngành sơ chế lại, vừa thu hút được FDI vào phát triển ngành dịch vụ. Đồng thời tích cực tham gia vào các hiệp định song phương, khu vực và đa phương nhằm tăng tính hấp dẫn để thu hút FDI phục vụ CNH – HĐH và cả dịch vụ hóa đất nước bằng một số biện pháp như: tự do hóa đầu tư ( đặc biệt trong lĩnh vực dịch vụ ), xóa bỏ những quy định hạn chế hoặc gây trở ngại cho đầu tư và các ngành, mở cửa ngành dịch vụ cho FDI kể cả dịch vụ liên quan đến cơ sở hạ tầng, đưa ra các chính sách ưu đãi về thuế,... 1.5. Hỗ trợ các DN Nhật Bản trong việc thực hiện sản xuất kinh doanh ở Việt Nam: Giúp đỡ các nhà đầu tư trong quá trình hoàn thành thủ tục và thành lập doanh nghiệp ở Việt Nam là một điều cần thiết, đặc biệt khi môi truờng pháp lý tại đất nước ta chưa hoàn thiện. Thông qua những hoạt động hỗ trợ này, chúng ta có thể đảm bảo rằng nhà đầu tư Nhật sẽ tăng cường đầu tu tại Việt Nam hơn nữa. Thứ nhất, giúp các DN tháo gỡ những vướng mắc vượt qua những khó khăn để tạo niềm tin thúc đẩy họ đầu tư vào Việt Nam nhiều hơn nữa bằng cách đơn giản hoá các thủ tục đầu tư, tạo mối liên kết thông tin giữa Việt Nam với cá nhà đầu tư Nhật Bản thông qua các chương trình, hội thảo giới thiệu về môi trường đầu tư. Thứ hai, tạo mọi điều kiện để triển khai DA một cách nhanh nhất, miễn giảm tiền thuê đất, có ưu đãi về thuế thu nhập DN, đồng thời nhanh chóng hoàn thuế khi DN tạm ứng đất, có ưu đãi về thuế thu nhập DN, đồng thời nhanh chóng hoàn thuế khi DN tạm ứng trước tiền thuế GTGT để tạo điều kiện khi DN có nguồn vốn để hoạt động kinh doanh, sản xất Ngoài ra cần có những hướng phát triển các ngành công nghiệp quan trọng trong thời gian tới bao gồm ngành công nghiệp điện và điện tử, ngành công nghiệp ô tô và xe máy. 1.5.1 Phát triển ngành công nghiệp điện và điện tử: Trong quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước, ngành công nghiệp điện và điện tử đựoc coi là một trong những ngành công nghiệp quan trọng nhất. Quan điểm này đựoc củng cố từ những kinh nghiệm từ những nước láng giềng đã phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ, cung cấp linh kiện cho các nhà lắp ráp và là ngành không thể thiếu trong quá trình phát triển ngành công nghiệp. Tuy nhiên ngành công nghiệp điện và điện tử tại Việt Nam còn rất nhiều yếu kém và hiện nay việc tìm ra một cách phát triển ngành công nghiệp là cực kỳ quan trọng. 1.5.2. Phát triển ngành công nghiệp ô tô và xe máy: Đây là một ngành thế mạnh của Nhật Bản và thực tế đây là ngành mà FDI Nhật Bản đầu tư tập trung nhất tại Việt Nam. Hơn nữa, ngành công nghiệp sản xuất ô tô đựoc công nghận là ngành công nghiệp then chốt ở các nước phát triển nhất, nơi có các ngành công nghiệp phụ trợ lớn và góp phần làm tăng GDP và tạo ra nhiều việc làm. Ở Việt Nam ngành công nghiệp ô tô là ngành công nghiệp có trỉên vọng với chinh sách mở rộng đầu tư hiện tại và htu hút các ngành công nghiệp phụ trợ có vốn FDI. Việt Nam và Nhật Bản nên liên kết hợp tác để sản xuất bộ phận quan trọng nhất của ô tô xe máy là động cơ. Để thúc đấy 3 ngành trên thì chính phủ Việt Nam nên thực hiện một số giải pháp sau: Một là, điều tra khảo sát thực tế tình hình sản xuất các phụ tùng linh kiện chủ yếu. Hai là, có chính sách phát triển côgn nghiệp ổn định, chính sách thuế và nhập khẩu rõ ràng. Ba là, chính sách thúc đẩy các ngành công nghiệp phụ trợ và mở rộng tỷ lệ nội địa hoá. Các biện pháp phát triển sản xuất, kế hoạch tập trung sản xuất các phụ tùng linh kiện nhập khẩu với số lượng lớn và CGCN nhằm xúc tiến việc nội địa hoá các phụ tùng linh kiện này. Bốn là, sửa đổi thuế nhập khẩu cho phụ tùng xe máy, xe ô tô. Chính phủ Việt Nam xem xét lại việc phân nhóm phụ tùng linh kiện và thuế suất nhập khẩu trên danh mục thuế XNK hiện hành. Đồng thời thực hiện các biện pháp ưu đãi cho XK. 1.6. Đẩy mạnh hoạt động vận động, XTĐT và quảng bá hình ảnh Việt Nam đến các nhà đầu tư Nhật Bản: Thứ nhất, chính phủ cần đẩy mạnh hơn các hoạt động xúc tiến đầu tư của Nhật Bản vào Việt Nam. Tiến hành xây dựng hệ thống các Trung tâm XTĐT của Bộ Kế hoạch và Đầu tư tại các khu vực: xây dựng hệ thống các văn phòng của Bộ Kế hoạch và Đầu tư đảm trách vai trò như một trung tâm xúc tiến đầu tư tại các vùng kinh tế trong cả nước. Đồng thời các trung tâm xúc tiến tại các khu vực phải được kết nối để đảm bảo thông tin được cập nhật và luôn được chia sẽ giữa các văn phòng trung tâm và các văn phòng khu vực nhằm đạt được hiệu quả nhờ tín thống nhất và liên kết giữa các địa phương.\ Tiếp tục tăng cường và đổi mới công tác vận động XTĐT. Cùng với việc tổ chức các cuộc hổi thảo giới thiệu về môi trường đầu tư chung tại các địa bàn và đối tác đã được nghiện cứu và xác định qua kinh nghiệm về vấn để đầu tư tại NHật Bản vừa qua, cần tăng cường vận động trực tiếp các tập đoàn lớn đầu tư vào các DA cụ thể. Bên cạnh đó, tổ chức các cuộc hội thảo chuyên ngành, hoặc lĩnh vực tại các địa bàn có thế mạnh với sự tham gia của các cơ quan chuyên ngành. Thứ hai, tăng cưòng quảng bá hình ảnh Việt Nam tới Nhật Bản.Tiếp tục triển khai kết quả vận động đầu tư tại Việt Nam trong khuôn khổ chuyến thăm hữu nghị chính thức Nhật Bản của Thủ tướng Chính phủ. Tổ chức giao lưu văn hoá giữa hai bên Việt Nam và Nhật Bản. Thứ ba, duy trì cơ chế dối thoại thuờng xuyên giữa lãnh đạo chính phủ, các Bộ, ngành với các nhà đầu tư Nhật Bản nhằm phát hiện và xử lý kịp thời các khó khăn, vướng mắc của các dự án đang hoạt động, bảo đảm các dự án hoạt động hiệu quả, đúng tiến độ. 1.7. Sử dụng hợp lý nguồn vốn ODA của Nhật Bản để hỗ trợ và tạo điều kiện tốt hơn cho việc thu hút FDI Nhật Bản: ODA của Nhật Bản được ưu tiên tập trung vào năm lĩnh vực tại Việt Nam bao gồm: phát triển nguồn nhân lực và xây dựng thể chế, phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế, nông nghiệp và phát triển nông thôn, y tế và giáo dục. Cơ sở hạ tầng có hiện đại, trình độ lao động cao thì mới có thể thu hút nhiều hơn vốn FDI Nhật Bản nói riêng và FDI nói chung. Trong những năm qua Nhật Bản luôn đứng đầu trong danh sách các nhà tài trợ cho Việt Nam. Nhưng thời gian qua đã có những tình trạng tham nhũng của các can bộ ảnh hưởng đến lòng tin của các nhà tài trợ cho Việt Nam. Để tiếp tục thu hút ODA Nhật Bản nhiều hơn cần: Thứ nhất, tạo điều kiện để cho các DN của Nhật Bản tham gia vào các dự án ODA do Chính phủ tài trợ là một biện pháp giúp họ có được những thuận lợi do được hỗ trợ về tài chính từ phía chính phủ khi thâm nhập vào thị trường Việt Nam, đồng thời đó là cơ hội để chúng ta mở rộng các quan hệ với các cơ quan, tổ chức KT-XH. Thứ hai, cần chú trọng công tác xây dựng và ban hành văn bản pháp luật theo hướng tạo sự thông thoáng và thuận lợi hơn cho việc tiếp nhận và giải ngân các nguồn vốn ODA. 2. Một số kiến nghị để tăng cường thu hút FDI nói chung: Trọng tâm của công tác quản lý của nhà nước về đầu tư nước ngoài trong những năm tới chính là việc tháo gỡ các vướng mắc, hỗ trợ các dự án đã được cấp giấy chứng nhận đầu tư trong những năm trước đó đi vào triển khai và giải ngân. Dưới đây là một số các công việc mà Chính phủ cần lưu ý: 2.1. Về hệ thống pháp luật và chính sách Thứ nhất, xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chương trình thu hút và sử dụng FDI đến năm 2010 và tầm nhìn 2020. Trên cơ sở chiến lược dài hạn, phải xây dựng được các chương trình, kế hoạch đồng bộ, ăn khớp, cụ thể hóa cho từng giai đoạn. Trong đó xác định rõ những ngành, lĩnh vực, địa bàn trọng điểm cần tập trung khuyến khích thu hút FDI và hệ thống giải pháp phù hợp nhằm tạo ra bước chuyển biến mạnh mẽ trong nhận thức và hành động của các ngành, các cấp, tạo ra sức bật mới trong thu hút và sử dụng FDI. Trước mắt phải rà soát để bổ sung, hoàn thiện danh mục dự án quốc gia, của các bộ, ngành và địa phương kểu gọi nguồn FDI trong những năm sắp tới. Bên cạnh đó cần phải có sự phối hợp chặt chẽ giữa các bộ, ngành, địa phương trong việc xem xét, điều chỉnh cho thích hợp trên cơ sở tuân thủ các quy định của quy hoạch. Thứ hai, về việc ban hành các văn bản pháp luật : tiếp tục rà soát, bổ sung, hoàn thiện hệ thống pháp luật về đầu tư, đặc biệt là hoạt động FDI ở Việt Nam nhằm đảm bảo thực sự hấp dẫn, thông thoáng, rõ rang nhất quán, minh bạch và ổn định và có tính cạnh tranh cao. Hơn nữa phải tính tới các yếu tố phù hợp với thông lệ quốc tế và lộ trình hội nhập kinh tế quốc tê, kể cá các cam kết với WTO. Thứ ba, đổi mới và hoàn thiện các chính sách có liên quan đến hoạt động FDI, nâng cao tính cạnh tranh của môi trường kinh doanh. Nhanh chóng thực hiện việc giảm chi phí đầu tư. Chính sách đất đai phải hướng đến việc tạo điều kiện thuận lợi, bình đẳng và minh bạch cho doanh nghiệp FDI, nhất là việc triển khai dự án sản xuất kinh doanh. Thực hiện cải cách hệ thống thuế hiện hành có liên quan đến FDI tại Việt Nam theo hướng tạo ra sự thông thoáng cho nhà đầu tư. Chính sách, pháp luật thuế hiện hành được sửa đổi bổ sung theo hướng giảm mức điều tiết nhưng mở rộng đối tượng chịu thuế,đảm bảo nghĩa vụ thuế công bằng, bình đẳng hơn giữa các thành phần kinh tế, giữa doanh nghiệp trong nước và người nước ngoài; thực hiện đúng các cam kết hợp tác, hội nhập kinh tế quốc tế và lộ trình cắt giảm thuế nhập khẩu theo CEPT / AFTA, WTO Thứ tư, điều chỉnh mức chịu thuế thu nhập cao hơn cho người lao động làm việc tại các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam để khuyến khích người Việt Nam đảm nhận các vị trí cao, vị trí quản lý và chuyên môn cao. Đó chính là cơ hội tốt để nâng cao trình độ cho người lao động, để có thể tự đảm trách công việc có hiệu quả khi chuyển giao các doanh nghiệp cón vốn ĐTNN dưới mọi hình thức và thành phần kinh tế. Thứ năm, đổi mới tổ chức, hoạt động và nâng cao năng lực của các cơ quan thực thi pháp luật. Trước hết cần phải bổ sung, hoàn thiện hệ thống trọng tài, tòa án kinh tế đáp ứng yêu cầu làm trọng tài, phán xử kịp thời các tranh chấp, vi phạm trong các quan hệ kinh tế, tránh tình trạng hình sự hóa các quan hệ kinh tế. Đảm bảo cho mọi công dân, người lao động, nhà đầu tư nước ngoài được tiếp cận một cách dễ dàng với các cơ quan tư pháp nói chung và với hệ thống tòa án nói riêng, đặc biệt là các dịch vụ hỗ trợ pháp lý để đáp ứng đầy đủ nhu cầu tiếp cận thông tin pháp luật, nhu cầu được bảo vệ bằng pháp luật đối vơi các cơ quan, tổ chức, nhà đầu tư nước ngoài, góp phần nâng cao tính hiệu lực, hiệu quả và vai trò của pháp luật đối với hoạt động FDI. Thứ sáu, thực hiện bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ, Cần hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật về bảo hộ công nghệ và sở hữu trí tuệ, nhất là nhãn hiệu hàng hóa. Có sự phân công trách nhiệm cụ thể của từng cơ quan, từng cấp trong hoạt động bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ. Xây dựng và thực hiện chương trình đào tạo về lĩnh vực này cho nhà sản xuất kinh doanh, xây dụng các tổ chức tư vấn về sở hữu trí tuệ. Khuyến khích thành lập các công ty luật, các trung tâm tư vấn về sở hữu trí tuệ, để từ đó có điều kiện phổ biến cũng như giáo dục cho các doanh nghiệp về vấn đề quyền sở hữu trí tuệ. Hơn nữa chính các nhà kinh doanh, các doanh nghiệp phải có ý thức trong vấn đề này, tránh tình trạng biết mà vân vi phạm. 2.2.Về thủ tục hành chính : Thứ nhất, tiếp tục tập trung hoàn thiện cơ chế liên thông-một cửa ở các cơ quan cấp giấy chứng nhận đầu tư và quản lý đầu tư. Tăng cường năng lực quản lý ĐTNN của các cơ quan chức năng và cơ chế phối hợp, giám sát và kiểm tra hoạt động đầu tư; giải quyết kịp thời các thủ tục về đất đai, thuế, xuất nhập khẩu, hải quan,... Đồng thời, Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh ban hành các văn bản về quản lý ĐTNN trên địa bàn theo hướng minh bạch, rõ ràng về đầu mối, thời gian giải quyết hồ sơ đối với nhà đầu tư, đầu mục hồ sơ cấp GCNĐT... nhằm tạo thuận lợi cho hoạt động ĐTNN, qua đó tăng thêm sức hấp dẫn của môi trường đầu tư Việt Nam. Thứ hai, thực hiện từng bước minh bạch hoá chính sách, thủ tục đầu tư; công khai hoá các bước của quá trình cấp Giấy chứng nhận đầu tư lên mạng Thứ ba, cải cách thủ tục hành chính thông qua việc đẩy mạnh việc triển khai phân cấp quản lý nhà nước về đầu tư nước ngoài giữa các cơ quan quản lý nhà nước ở trung ương và địa phương. Giảm dần sự tham gia trực tiếp của cơ quan quản lý trung ương vào xử lý các vấn đề cụ thể, mà thay vào đó là nhiệm vụ giám định đầu tư và hậu kiểm được tăng cường, chú trọng vào công tác hướng dẫn, kiểm tra, giám sát việc thực hiện chính sách pháp luật của các địa phương. Tập trung hướng dẫn, theo dõi thực hiện quy định mới về thủ tục đầu tư, cải cách thủ tục hành chính theo cơ chế một của một đầu mối ở Trung ương và địa phương. Kiên quyết xử lý nghiêm khắc và tiêu cực, vô trách nhiệm của cán bộ có liên quan đến hoạt động đầu tư. Giải quyết kịp thời các vấn đề vướng mắc pháp sinh do thủ tục hành chính gây ra, giúp các doanh nghiệp triển khai dự án thuận lợi; khuyến khích đầu tư chiều sâu, mở rộng sản xuất để đạt hiệu quả kinh tế - xã hội cao hơn. 2.3 Về quản lý nhà nước trong hoạt động ĐTNN : - Các Bộ/ ngành/ UBND cấp tỉnh tiếp tục triển khai thực hiện nghiêm túc Chỉ thị số 15/2007/CT-TTg ngày 22/6/2007 của Thủ tướng Chính phủ về một số giải pháp chủ yếu nhằm thúc đẩy ĐTNN vào Việt Nam. Triển khai ngay các nhiệm vụ được giao tại văn bản số 3237/CP-QHQT ngày 20/5/2008 nhằm thực có hiệu quả túc Chỉ thị nêu trên. - Rà soát, kiểm tra, điều chỉnh quy hoạch sử dụng đất một cách hiệu quả, nhất là đối với các địa phương ven biển nhằm đảm bảo phát triển kinh tế và môi trường bền vững. - Tập trung vào việc thực hiện các hoạt động giải ngân vốn FDI đã được quy định tại Quyết định số 505/QĐ-BKH ngày 25/4/2008 của Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư nhằm giảm khoảng cách giữa vốn đăng ký và vốn thực hiện : Phối hợp hỗ trợ, thúc đẩy nhanh việc giải ngân vốn đăng ký của các dự án đã được cấp GCNĐT, đặc biệt chú trọng công tác thúc đẩy triển khai các dự án quy mô vốn đầu tư lớn được cấp GCNĐT trong năm 2006 và năm 2007 (tạo điều kiện thuận lợi về thủ tục hành chính, về giải phóng mặt bằng...). Hỗ trợ,giám sát các dự án đã/đang cấp GCNĐT triển khai đúng tiến độ đề ra. - Ban hành chế độ báo cáo thống kê áp dụng cho các doanh nghiệp có vốn ĐTNN và bên hợp doanh nước ngoài thay thế Thông tư số 01/LB ngày 31/3/1997 để làm căn cứ cho các cơ quan quản lý ĐTNN địa phương và doanh nghiệp thực hiện. Triển khai thực hiện Quyết định số 305/2005/QĐ-TTg ngày 24/11/2005 của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành hệ thống chỉ tiêu thống kê quốc gia của các doanh nghiệp ĐTNN. - Phối hợp triển khai tốt việc xây dựng hệ thống quản lý thông tin ĐTNN theo Quyết định số 43/2008/QĐ-TTg ngày 24/3/2008 của Thủ tướng Chính phủ. 2.4 . Về các hoạt động xúc tiến đầu tư - Nghiêm túc triển khai đúng nội dung, tiến độ Chương trình XTĐT quốc gia 2008 ban hành kèm theo Quyết định số 505/QĐ-BKH ngày 25/4/2008 của Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư, trong đó, Bộ Tài chính cần xác định và thông báo sớm cho các cơ quan chủ trì phần kinh phí chính thức dành cho Chương trình này. - Tăng cường công tác đào tạo bồi dưỡng cán bộ làm công tác xúc tiến đầu tư nói riêng và quản lý đầu tư nói chung. Vận động và phối hợp với các tổ chức quốc tế hỗ trợ mở các lớp đào tạo về xúc tiến và quản lý ĐTNN. - Tiếp tục kết hợp các hoạt động xúc tiến đầu tư kết hợp các chuyến thăm và làm việc tại các nước của lãnh đạo cấp cao Đảng, Quốc hội, Chính phủ nhằm quảng bá môi trường đầu tư Việt Nam. Phối hợp chặt chẽ và nâng cao hiệu quả hoạt động xúc tiến đầu tư- thương mại- du lịch. - Khẩn trương triển khai việc thành lập các bộ phận xúc tiến đầu tư tại các địa bàn trọng điểm theo kế hoạch. - Tiếp tục bảo trì, nâng cấp trang thông tin website giới thiệu về ĐTNN (ngoài tiếng Anh bổ sung thêm tiếng Hoa và tiếng Nhật). - Chủ trì phối hợp với các Bộ, ngành triển khai thực hiện chương trình sáng kiến chung Việt Nam – Nhật Bản giai đoạn III vè cải thiện môi trường đầu tư Việt Nam.Tiếp tục kết hợp các hoạt động xúc tiến đầu tư với các chuyến viếng thăm và làm việc tại các nước của lãnh đạo cấp cao Đảng, Quốc hội, Chính phủ nhằm quảng bá môi trường đầu tư Việt Nam. Phối hợp chặt chẽ và nâng cao hiệu quả hoạt động xúc tiến đầu tư – thương mại – du lịch. 2.5. Chú trọng công tác đào tạo cán bộ, đào tạo phát triển nguồn nhân lự, cải thiện mối quan hệ giữa người lao động và các công ty nước ngoài Một trong những điều mà Việt Nam thu hút các nhà đầu tư nước ngoài nói chung và Nhật Bản nói riêng là nguồn nhân lực nước ta dồi dào, bên cạnh chi phí nhân công tại Việt Nam thấp hơn hẳn so với các nước trong khu vực như Malaysia, Singapore,.. Vì thế chú trọng công tác đào tạo cán bộ, phát triển nguồn nhân lực, nâng cao nhận thức người lao động là điều cần thiết nhằm thu hút các nhà đầu tư Nhật Bản vào Việt Nam. Thứ nhất, chúng ta cần đẩy nhanh việc triển khai kế hoạch tổng thể về đào tạo nhằm nâng tỷ lệ lao động qua đào tạo lên 40% vào năm 2010. Theo để, ngoài việc nâng cấp đầu tư hệ thống các trường đào tạo nghề hiện có lên ngang tầm khu vực và thế giới, sẽ phát triển thêm các trường đào tạo nghề và trung tâm đào tạo từ các nguồn vốn khác nhau. Tăng cường quản lý nhà nước về đào tạo, dạy nghề, về lao động việc làm và thị trường lao động. Hoàn thiện khung pháp lý, nhất là sửa đổi bộ luật Lao động năm 2010 đảm bảo phù hợp với thông lệ và cam kết quốc tế trong hội nhập; tăng cường thanh tra, kiểm tra việc chấp hành pháp luật lao động tại doanh nghiệp; đẩy mạnh cải các h hành chính theo hướng minh bạch, công khai, đơn giản, phân cấp mạnh và nâng cao trách nhiệm của chính quyền địa phương , thực hiện cơ chế một cửa nhằm tạo thuận lợi cho hoạt động của doanh nghiệp. Tăng cường tuyên truyền, phổ biến pháp luật lao động nhằm nâng cao nhận thức và ý thức trách nhiệm của người lao động và người sử dụng lao động trong việc chấp hành nghiêm pháp luật lao động. Thứ hai, phát triển và đổi mới cơ bản đào tạo, dạy nghề theo định hướng nhu cầu của thị trường lao động, đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế, của các nhà đầu tư nước ngoài và yêu cầu việc làm của người lao động; chuyển từ dạy nghề trình độ thấp sang trình độ cao theo 3 cấp trình độ, nhất là trung cấp nghề, cao đẳng nghề và cao đẳng, đại học kỹ thuật, công nghệ. Đa dạng hóa các cơ sở đào tạo, dạy nghề, đặc biệt coi trọng đào tạo, dạy nghề trong các doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp lớn, doanh nghiệp đầu tư nước ngoài và liên kết giữa các cơ sở đào tạo, dạy nghề với doanh nghiệp là chủ yếu; các cơ sở đào tạo, dạy nghề phải xuất phát từ nhu cầu của các doanh nghiệp, kể cả doanh nghiệp đầu tư nước ngoài, của thị trường lao động để tổ chức đào tạo, dạy nghề cho phù hợp. Đa dạng hóa các ngành nghề đào tạo, trình độ đào tạo, phương thức đào tạo, đảm bảo cơ cấu ngành nghề đào tạo, trình độ đào tạo đáp ứng yêu cầu của doanh nghiệp, đặc biệt là các ngành nghề mới, kỹ năng mới khi áp dụng khoa học, kỹ thuật và công nghệ mới vào sản xuất của doanh nghiệp nểi chung, doanh nghiệp đầu tư nước ngoài nểi riêng. Quy hoạch mạng lưới các cơ sở đào tạo, dạy nghề đảm bảo đào tạo, dạy nghề và cung cấp đủ lao động lành nghề tại chỗ cho các doanh nghiệp, nhất là ở các đô thị lớn, các vùng kinh tế trọng điểm, các khu công nghiệp, khu chế xuất, khắc phục mất cân đối cung – cầu về lao động lành nghề hiện nay, giảm sức ép di chuyển lao động giữa các vùng. Thứ ba, phát triển thị trường lao động đồng đều trên phạm vi cả nước. Hoàn thiện thể chế thị trường lao động theo hướng tiếp cận với chuẩn mực chung của quốc tế về đào tạo, dạy nghề, về lao động, việc làm, phù hợp với các thông lử và cam kết quốc tế của Việt Nam trong hội nhập. Thiết lập hệ thống kết nối giữa các cơ sở đào tạo, dạy nghề với doanh nghiệp, người sử dụng lao động; phát triển hệ thống dự báo cầu về lao động đối với từng ngành, lĩnh vực và địa phương , hệ thống thông tin thị trường lao động để gắn đào tạo, dạy nghề với doanh nghiệp, người sử dụng lao động. Phát triển mạnh hệ thống giao dịch của thị trường lao động áp dụng công nghệ thông tin nối mạng, xây dựng 3 trung tâm giới thiệu việc làm lớn, trọng điểm ở 3 vùng (Bắc, Trung, Nam). Hạn chế tiến tới chấm dứt sự can thiệp không hợp lý của Nhà nước vào thị trường lao động; thực hiện lộ trình thống nhất một mức lương tối thiểu đối với lao động trong các loại hình doanh nghiệp không phân biệt theo thành phần kinh tế và chế độ sở hữu (doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp đầu tư nước ngoài), làm cơ sở để các bên thỏa thuận về tiền lương phù hợp với quan hệ cung – cầu lao động trên thị trường và khả năng chi trả của doanh nghiệp; nới lỏng các quy định về tuyển dụng lao động đối với doanh nghiệp ĐTNN. Thứ tư, xây dựng quan hệ lao động lành mạnh, đồng thuận trong các doanh nghiệp trên cơ sở đảm bảo hài hòa lợi ích giữa nhà nước, người sử dụng lao động và người lao động nhằm giảm thiểu tranh chấp lao động và đình công, nhất là trong các doanh nghiệp ĐTNN. Nhà nước ban hành cơ chế, chính sách, luật pháp tạo khuôn khổ pháp lý bình đẳng giữa các bên trong quan hệ lao động; thúc đẩy cơ chế đối thoại, thương lượng, thỏa thuận giữa các bên về quan hệ lao động, trước hết là về tiền lương, thời giờ làm việc và các điều kiện làm việc khác, theo đúng nguyên tắc thị trường để ký kết hợp đồng lao động cá nhân, thỏa ước lao động tập thể trong doanh nghiệp và ngành. Nghiên cứu hướng dẫn doanh nghiệp thực hiện trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp trong quá trình hội nhập. Thứ năm , thực hiện các giải pháp nhằm đưa Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Lao động vào thực tế cuộc sống để ngăn ngừa tình trạng đình công bất hợp pháp, lành mạnh hóa quan hệ lao động theo tinh thần của Bộ luật Lao động, bao gồm: Tiếp tục hoàn thiện luật pháp, chính sách về lao động, tiền lương phù hợp trong tình hình mới; tăng cường công tác kiểm tra, giám sát việc chấp hành pháp luật về lao động đối với người sử dụng lao động nhằm đảm bảo điều kiện làm việc và đời sống cho người lao động. Nâng cao hiểu biết pháp luật về lao động thông qua phổ biến, tuyên truyền và giáo dục pháp luật cho người lao động, người sử dụng lao động trong các doanh nghiệp có vốn ĐTNN để đảm bảo chính sách, pháp luật về lao động và tiền lương được thực hiện đầy đủ, nghiêm túc. 2.6. Đa dạng hoá hình thức đầu tư: Việc đa đạng hóa hình thức đầu tư sẽ mở rộng được đối tượng đầu tư nước ngoài tại Việt Nam.Việc đa dạng hóa hình thức đầu tư cần được nghiên cứu, triển khai theo các hướng chính sau: Một là, cho phép nhà đầu tư nước ngoài được đầu tư gián tiếp. Cần nghiên cứu, ban hành chính sách cho phép các nhà ĐTNN được phép đầu tư gián tiếp vào Việt Nam thông qua việc cho phép mua cổ phần của các doanh nghiệp Việt Nam, thành lập các doanh nghiệp cổ phần có vốn ĐTNN và cho phép các doanh nghiệp có vốn ĐTNN được phát hành trái phiếu để huy động vốn ở trong nước và nước ngoài. Theo hướng đó, cần đổi nới lỏng hạn chế về tỷ lệ sở hữu của nhà ĐTNN trong các doanh nghiệp Việt Nam lên mức trên 30% như hiện nay và mở rộng lĩnh vực nhà ĐTNN được phép tham gia mua cổ phần của. Trên cơ sở đánh giá kết quả thí điểm việc chuyển đổi một số doanh nghiệp có vốn ĐTNN sang hoạt động theo hình thức công ty cổ phần cần nghiên cứu cho phép thànhlập các công ty cổ phần có vốn ĐTNN nhằm tạo thêm kênh thú hút vốn ĐTNN, bổ sung thêm cho hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn trước đây. Hai là, cho phép thành lập Công ty hợp danh. Đối với một số lĩnh vực kinh doanh tính chất chuyên môn, nghiệp vụ cao như tư vấn pháp luật, kiểm toán, tư vấn tài chính., công ty hợp danh là hình thức được áp dụng phổ biến trên thế giới. Tại Việt Nam, một số doanh nghiệp có vốn ĐTNN thuộc các lĩnh vực trên đã được cấp giấy phép đầu tư, tuy nhiên dưới hình thức công ty TNHH. Để góp phần nâng cao chất lượng một số loại dịch vụ thiết yếu, bảo đảm lợi ích của người tiêu dùng, cần nghiên cứu cho phép thành lập doanh nghiệp hợp danh có vốn ĐTNN (như quy định của Luật Doanh nghiệp) để đưa vào Luật Doanh nghiệp chung. Ba là, cho phép các công ty nước ngoài mở chi nhánh tại Việt Nam. Luật Thương mại đã cho phép thương nhân nước ngoài có đủ điều kiện được thành lập Chi nhánh thương mại theo mục đích, phạm vi và thời hạn quy định trong Giấy phép (như mua, bán hàng hóa, đại diện cho thương nhân, gia công hàng hóa, giám định hàng hóa, đại lý, quảng cáo, giao nhận hàng hóa...); Luật Ngân hàng và các tổ chức tín dụng cũng đã cho phép thành lập Chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam Tuy nhiên, hình thức này chưa có trong Luật Đầu tư nước ngoài. Để mở rộng hình thức thu hút ĐTNN phù hợp với thông lệ quốc tế, nhất là tranh thủ tiềm lực của các công ty xuyên quốc gia, cần nghiên cứu bổ sung các quy định cho phép thành lập chi nhánh của Công ty nước ngoài tại Việt Nam. Bốn là, cho phép thành lập Công ty quản lý vốn (Holding Company). Một số tập đoàn kinh tế lớn đã đầu tư cùng lúc nhiều dự án ĐTNN tại Việt Nam. Tuy nhiên, theo quy định của pháp luật hiện hành, mỗi doanh nghiệp có vốn ĐTNN có cùng một chủ đầu tư có bộ máy điều hành riêng, hoạt động kinh doanh độc lập. Để nâng cao hiệu quả kinh doanh, tăng sức cạnh tranh, giảm những chi phí không cần thiết..., cần khẩn trương nghiên cứu cho phép các tập đoàn lớn thành lập công ty quản lý vốn, điều phối và hỗ trợ các dự án đầu tư của họ tại Việt Nam. 2.7. Đẩy mạnh quá trình đổi mới phát triển kinh tế và hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam: Nhằm gia tăng sức hút đối với FDI của Nhật Bản nói riêng và FDI trên thế giới nói chung. Chúng ta cần tiếp tục đổi mới, cải cách kinh tế, tạo ra sự phát triển năng động của nền kinh tế. Sự phát triển kinh tế của Việt Nam, nói như ngài đại sứ Nhật Bản Takeshi Nakamura, chính là sức hấp dẫn đối với các nhà đầu tư. Việc phát triển kinh tế không chỉ tạo ra cơ hội đầu tư mà còn tăng thu nhập mở rộng nhu cầu. Điều này rất có ý nghĩa đối với các nhà đầu tư nước ngoài nhằm vào sản phẩm phục vụ thị trường Việt Nam. Đổi mới phát triển kinh tế chính là giữ vững sự ổn định kinh tế vĩ mô, duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế, kiềm chế lạm phát và ổn định tiền tệ, giá cả. Phát triển mạnh nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước với sự tham gia của các thành phần kinh tế, trong đó một mặt phải củng cố kinh tế quốc dân theo hướng hiệu quả, đồng thời phải phát triển mạnh kinh tế tư nhân dưới nhiều hình thức. Thứ nhất cần dịch chuyển cơ cấu kinh tế cho phù hợp với sự phát triển của phân công lao động quốc tế. Một cơ cấu kinh tế mới chỉ nên tập trung phát triển mạnh các ngành và lĩnh vực mà Việt Nam có lợi thế so sánh. Thứ hai là thiết lập một thị trường thông tin công bằng đối với mọi thành viên trong xã hội, đảm bảo quyền thông tin của mọi người dân và các doanh nghiệp trong nền kinh tế. Mở cửa về thông tin trong và ngoài nước, nhất là thông tin kinh tế, thị trường, văn hoá, xã hội, khoa học công nghệ dưới mọi hình thức. Thứ ba là cải cách lại hệ thống giá cả ở Việt Nam, tránh hiện tượng phân biệt mức giá giữa doanh nghiệp trong nước với doanh nghiệp nước ngoài. Đồng thời Chính phủ Việt Nam phải hạn chế cho phép các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào các mắt hàng có hiện tượng bão hoà trên thị trường. Hội nhập quốc tế là vấn đề rất cần thiết khi thực hiện đổi mới phát triển kinh tế. Hội nhập quốc tế chính là tạo ra những mối quan hệ với các nước trên thế giới, tham gia vào các tổ chức quốc tế nhằm tận dụng những nguồn lực bên ngoài phục vụ cho sự phát triển kinh tế đất nước. Trong các nguồn lực bên ngoài đó có nguồn vốn FDI. Trong những năm đầu của thế kỷ 21 này vấn đề hội nhập cần dược xúc tiến mạnh hơn. Việc tham gia vào khu vực mậu dịch tự do ASEAN, việc đàm phán tiến tới gia nhập WTO sẽ là những nhân tố rất quan trọng cho việc gia tăng đầu tư nước ngoài, trong đó có đầu tư trực tiếp của Nhật Bản vào Việt Nam.Trong xu thế toàn cầu hoá hiện nay, không đổi mới, không hội nhập thì không những không thu hút được FDI mà nền kinh tế cũng khó có thể phát triển. Đất nước sẽ tụt hậu so với thế giới - đó là nguy cơ lớn nhất và cũng là lý do thúc đẩy quá trình hội nhập và mở cửa, qua đó thu hút FDI, biến ngoại lực thành nội lực để phát triển nền kinh tế nước nhà. Trong quá trình đổi mới và phát triển kinh tế phải thật quan tâm đến phát triển và hoàn thiện thị trường tài chính, đặc biệt là việc cải tổ hệ thống tài chính, hệ thống ngân hàng, luật tài chính, luật ngân hàng cho phép các ngân hàng hoạt động đúng chức năng của nó, có các điều luật quy định rõ ràng về kinh doanh tiền tệ trên thị trường tiền tệ, làm cho hoạt động tài chính của ta phù hợp với xu hướng chung của khu vực và thế giới. 2.8. Đẩy mạnh cải thiện cơ sở hạ tầng phục vụ sản xuất và sinh hoạt nhằm góp phần nâng cao tính cạnh tranh của môi trường đầu tư Việt Nam: Để thực hiện tốt mục tiêu phát triển kinh tế mà Đại hội Đảng X đề ra, trong thời gian tới chúng ta phải nhanh chóng cải thiện cơ sở hạ tầng đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH đất nước. Theo dó ưu tiên các cơ sở hạ tầng kinh tế như: Hệ thống giao thông vận tải, điện nước, viễ thông, thông qua huy động cao độ các nguồn lực tài chính của Nhà nước và tranh thủ khai thác sử dụng nguồn vốn ODA. Muốn vậy, cần tập trung giải quyết một số vấn đề sau: Thứ nhất là nâng cao năng lực vận tải và lưu thông: trong thương mại quốc tế , vận tải biển đóng vai trò trung tâm chiếm trên 80 % lượng hàng hoá vận chuyển. Dù rằng, vận tải trong nước phần nhiều là bằng đường bộ nhưng đối với các trường hợp cự li dài thì vận tải biển là chủ yếu. Lượng hàng hoá vận chuyển bằng đường sắt vẫn còn ít. Về quy chế liên quan đến đầu tư, ngành vận tải là một trong những ngành mà doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài chưa được phép tham gia. Cần cải tạo hệ thống cảng biển, nâng cao hiệu quả hoạt động đặc biệt của các cảng như Hải Phòng, Vũng Tàu. Thêm nữa cần tiến hành nâng cấp hệ thống đường bộ cả nước, cải tiến sâu sắc các hoạt động của ngành hàng không Việt Nam, cần hiện đại hóa sân bay Nội Bài, Đà Nẵng, Tân Sơn Nhất nhằm đáp ứng các chuyến bay trong nước và quốc tế, mặt khác đảm bảo độ an toàn cho các chuyến bay, cải thiện hệ thống giao thông đô thị và chú trọng phát triển mạng lưới giao thông ở các vùng nông thôn, vúng sâu vùng xa; cần hợp tác với các nước láng giềng để mở rộng hệ thống giao thông quốc tê, cụ thể mở các tuyến đường sang cá nước Lào, Trung Quốc,... Nhìn chung, chất lượng vận tải của các doanh nghiệp Việt Nam còn thấp, chưa đáp ứng được yêu cầu vận tải chất lượng cao của các doanh nghiệp Nhật Bản. Do đó, chúng ta cần kích cầu, tăng chất lượng dịch vụ vận tải của các doanh nghiệp xe tải, đường sắt, đường biển trong nước. Việc cho phép doanh nghiệp vận tải 100% vốn nước ngoài tham gia vào thị trường vận tải sẽ góp phần thúc đẩy thị trường đầy tiềm năng này. Thứ hai là cải thiện hạ tầng viễn thông: một vấn đề mà các doanh nghiệp Nhật Bản gặp phải là giá điện thoại quốc tế tại Việt Nam cao hơn các nước trong khu vực. Điều này làm gia tăng chi phí cho các nhà đầu tư Nhật Bản nói riêng và các nhà đầu tư nước ngoài nói chunh. Cước điện thoại quốc tế và khu vực đang có xu hướng giảm giá nên Việt Nam cần định giá tương ứng. Do đó, trong thời gian tới, Chính Phủ Việt Nam cần phải tiếp tục giảm giá cước viễn thông quốc tế tới mức trung bình trong khu vực. Mặt khác cần mở rộng mạng lưới internet trên toàn quốc, đặc biệt là các vùng kinh tế trọng điểm Thứ ba là cải tạo và xây dựng mới các công trình cung cấp điện nước và đảm bảo đủ cho sinh hoạt và sản xuất, đồng thời cũng phải điều chỉnh giá điện nước hợp lý. Nhà nước ta cần xây dựng hiện đại các công trình phục vụ sản xuất, các công trình công cộng và các khu vui chơi giải trí nhằm đáp ứng nhu cầu giải trí không chỉ cho người dân trong nước mà cả những người nước ngoài. Mục lục Trang

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc2221.doc
Tài liệu liên quan