Đề tài Thực trạng và giải pháp thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam

Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI = Foreign Direct Investment) là hình thức đầu tư dài hạn của cá nhân hay công ty nước này vào nước khác bằng cách thiết lập cơ sở sản xuất, kinh doanh. Cá nhân hay công ty nước ngoài đó sẽ nắm quyền quản lý cơ sở sản xuất kinh doanh này. Tổ chức Thương mại Thế giới đưa ra định nghĩa như sau về FDI: Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) xảy ra khi một nhà đầu tư từ một nước (nước chủ đầu tư) có được một tài sản ở một nước khác (nước thu hút đầu tư) cùng với quyền quản lý tài sản đó. Phương diện quản lý là thứ để phân biệt FDI với các công cụ tài chính khác. Trong phần lớn trường hợp, cả nhà đầu tư lẫn tài sản mà người đó quản lý ở nước ngoài là các cơ sở kinh doanh. Trong những trường hợp đó, nhà đầu tư thường hay được gọi là "công ty mẹ" và các tài sản được gọi là "công ty con" hay "chi nhánh công ty". 2. Các hình thức FDI 2.1. Phân theo bản chất đầu tư 2.1.1. Đầu tư phương tiện hoạt động Đầu tư phương tiện hoạt động là hình thức FDI trong đó công ty mẹ đầu tư mua sắm và thiết lập các phương tiện kinh doanh mới ở nước nhận đầu tư. Hình thức này làm tăng khối lượng đầu tư vào. 2.1.2 Mua lại và sáp nhập Mua lại và sáp nhập là hình thức FDI trong đó hai hay nhiều doanh nghiệp có vốn FDI đang hoạt động sáp nhập vào nhau hoặc một doanh nghiệp này (có thể đang hoạt động ở nước nhận đầu tư hay ở nước ngoài) mua lại một doanh nghiệp có vốn FDI ở nước nhận đầu tư. Hình thức này không nhất thiết dẫn tới tăng khối lượng đầu tư vào.

doc19 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1803 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Thực trạng và giải pháp thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
I. GIỚI THIỆU CHUNG VỀ FDI 1. Định nghĩa Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI = Foreign Direct Investment) là hình thức đầu tư dài hạn của cá nhân hay công ty nước này vào nước khác bằng cách thiết lập cơ sở sản xuất, kinh doanh. Cá nhân hay công ty nước ngoài đó sẽ nắm quyền quản lý cơ sở sản xuất kinh doanh này. Tổ chức Thương mại Thế giới đưa ra định nghĩa như sau về FDI: Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) xảy ra khi một nhà đầu tư từ một nước (nước chủ đầu tư) có được một tài sản ở một nước khác (nước thu hút đầu tư) cùng với quyền quản lý tài sản đó. Phương diện quản lý là thứ để phân biệt FDI với các công cụ tài chính khác. Trong phần lớn trường hợp, cả nhà đầu tư lẫn tài sản mà người đó quản lý ở nước ngoài là các cơ sở kinh doanh. Trong những trường hợp đó, nhà đầu tư thường hay được gọi là "công ty mẹ" và các tài sản được gọi là "công ty con" hay "chi nhánh công ty". 2. Các hình thức FDI 2.1. Phân theo bản chất đầu tư 2.1.1. Đầu tư phương tiện hoạt động Đầu tư phương tiện hoạt động là hình thức FDI trong đó công ty mẹ đầu tư mua sắm và thiết lập các phương tiện kinh doanh mới ở nước nhận đầu tư. Hình thức này làm tăng khối lượng đầu tư vào. 2.1.2 Mua lại và sáp nhập Mua lại và sáp nhập là hình thức FDI trong đó hai hay nhiều doanh nghiệp có vốn FDI đang hoạt động sáp nhập vào nhau hoặc một doanh nghiệp này (có thể đang hoạt động ở nước nhận đầu tư hay ở nước ngoài) mua lại một doanh nghiệp có vốn FDI ở nước nhận đầu tư. Hình thức này không nhất thiết dẫn tới tăng khối lượng đầu tư vào. 2.2. Phân theo tính chất dòng vốn 2.2.1. Vốn chứng khoán Nhà đầu tư nước ngoài có thể mua cổ phần hoặc trái phiếu doanh nghiệp do một công ty trong nước phát hành ở một mức đủ lớn để có quyền tham gia vào các quyết định quản lý của công ty. 2.2.2. Vốn tái đầu tư Doanh nghiệp có vốn FDI có thể dùng lợi nhuận thu được từ hoạt động kinh doanh trong quá khứ để đầu tư thêm. 2.2.3. Vốn vay nội bộ hay giao dịch nợ nội bộ Giữa các chi nhánh hay công ty con trong cùng một công ty đa quốc gia có thể cho nhau vay để đầu tư hay mua cổ phiếu, trái phiếu doanh nghiệp của nhau. 2.3. Phân theo động cơ của nhà đầu tư 2.3.1. Vốn tìm kiếm tài nguyên Đây là các dòng vốn nhằm khai thác nguồn tài nguyên thiên nhiên rẻ và dồi dào ở nước tiếp nhận, khai thác nguồn lao động có thể kém về kỹ năng nhưng giá thấp hoặc khai thác nguồn lao động kỹ năng dồi dào. Nguồn vốn loại này còn nhằm mục đích khai thác các tài sản sẵn có thương hiệu ở nước tiếp nhận (như các điểm du lịch nổi tiếng). Nó cũng còn nhằm khai thác các tài sản trí tuệ của nước tiếp nhận. Ngoài ra, hình thức vốn này còn nhằm tranh giành các nguồn tài nguyên chiến lược để khỏi lọt vào tay đối thủ cạnh tranh. 2.3.2. Vốn tìm kiếm hiệu quả Đây là nguồn vốn nhằm tận dụng giá thành đầu vào kinh doanh thấp ở nước tiếp nhận như giá nguyên liệu rẻ, giá nhân công rẻ, giá các yếu tố sản xuất như điện nước, chi phí thông tin liên lạc, giao thông vận tải, mặt bằng sản xuất kinh doanh rẻ, thuế suất ưu đãi, v.v... 2.3.3. Vốn tìm kiếm thị trường Đây là hình thức đầu tư nhằm mở rộng thị trường hoặc giữ thị trường khỏi bị đối thủ cạnh tranh giành mất. Ngoài ra, hình thức đầu tư này còn nhằm tận dụng các hiệp định hợp tác kinh tế giữa nước tiếp nhận với các nước và khu vực khác, lấy nước tiếp nhận làm bàn đạp để thâm nhập vào các thị trường khu vực và toàn cầu. 3. Những nhân tố thúc đẩy đầu tư trực tiếp ra nước ngoài 3.1. Chênh lệch về năng suất cận biên của vốn giữa các nước Helpman và Sibert, Richard S. Eckaus cho rằng có sự khác nhau về năng suất cận biên (số có thêm trong tổng số đầu ra mà một nhà sản xuất có được do dùng thêm một đơn vị của yếu tố sản xuất) của vốn giữa các nước. Một nước thừa vốn thường có năng suất cận biên thấp hơn. Còn một nước thiếu vốn thường có năng suất cận biên cao hơn. Tình trạng này sẽ dẫn đến sự di chuyển dòng vốn từ nơi dư thừa sang nơi khan hiếm nhằm tối đa hóa lợi nhuận. 3.2. Chu kỳ sản phẩm Akamatsu Kaname (1962) cho rằng sản phẩm mới đầu được phát minh và sản xuất ở nước đầu tư, sau đó mới được xuất khẩu ra thị trường nước ngoài. Tại nước nhập khẩu, ưu điểm của sản phẩm mới làm nhu cầu trên thị trường nội địa tăng lên, nên nước nhập khẩu chuyển sang sản xuất để thay thế sản phẩm nhập khẩu này bằng cách chủ yếu dựa vào vốn, kỹ thụât của nước ngoài. Khi nhu cầu thị trường của sản phẩm mới trên thị trường trong nước bão hòa, nhu cầu xuất khẩu lại xuất hiện. Hiện tượng này diễn ra theo chu kỳ và do đó dẫn đến sự hình thành FDI. Raymond Vernon (1966) lại cho rằng khi sản xuất một sản phẩm đạt tới giai đoạn chuẩn hóa trong chu kỳ phát triển của mình cũng là lúc thị trường sản phẩm này có rất nhiều nhà cung cấp. Ở giai đoạn này, sản phẩm ít được cải tiến, nên cạnh tranh giữa các nhà cung cấp dẫn tới quyết định giảm giá và do đó dẫn tới quyết định cắt giảm chi phí sản xuất. Đây là lý do để các nhà cung cấp chuyển sản xuất sản phẩm sang những nước cho phép chi phí sản xuất thấp hơn. 3.3. Lợi thế đặc biệt của các công ty đa quốc gia Stephen H. Hymes (1960, công bố năm 1976), John H. Dunning (1981), Rugman A. A. (1987) và một số người khác cho rằng các công ty đa quốc gia có những lợi thế đặc thù (chẳng hạn năng lực cơ bản) cho phép công ty vượt qua những trở ngại về chi phí ở nước ngoài nên họ sẵn sàng đầu tư trực tiếp ra nước ngoài. Khi chọn địa điểm đầu tư, những công ty đa quốc gia sẽ chọn nơi nào có các điều kiện (lao động, đất đai, chính trị) cho phép họ phát huy các lợi thế đặc thù nói trên. Những công ty đa quốc gia thường có lợi thế lớn về vốn và công nghệ đầu tư ra các nước sẵn có nguồn nguyên liệu, giá nhân công rẻ và thường là thị trường tiêu thụ tiềm năng... ta dễ dàng nhận ra lợi ích của việc này! 3.4. Tiếp cận thị trường và giảm xung đột thương mại Đầu tư trực tiếp ra nước ngoài là một biện pháp để tránh xung đột thương mại song phương. (Ví dụ, Nhật Bản hay bị Mỹ và các nước Tây Âu phàn nàn do Nhật Bản có thặng dư thương mại còn các nước kia bị thâm hụt thương mại trong quan hệ song phương. Đối phó, Nhật Bản đã tăng cường đầu tư trực tiếp vào các thị trường đó. Họ sản xuất và bán ô tô, máy tính ngay tại Mỹ và châu Âu, để giảm xuất khẩu các sản phẩm này từ Nhật Bản sang. Họ còn đầu tư trực tiếp vào các nước thứ ba, và từ đó xuất khẩu sang thị trường Bắc Mỹ và châu Âu.) 3.5. Khai thác chuyên gia và công nghệ Không phải FDI chỉ đi theo hướng từ nước phát triển hơn sang nước kém phát triển hơn. Chiều ngược lại thậm chí còn mạnh mẽ hơn nữa. (Nhật Bản là nước tích cực đầu tư trực tiếp vào Mỹ để khai thác đội ngũ chuyên gia ở Mỹ. Ví dụ, các công ty ô tô của Nhật Bản đã mở các bộ phận thiết kế xe ở Mỹ để sử dụng các chuyên gia người Mỹ. Các công ty máy tính của Nhật Bản cũng vậy. Không chỉ Nhật Bản đầu tư vào Mỹ, các nước công nghiệp phát triển khác cũng có chính sách tương tự. Trung Quốc gần đây đẩy mạnh đầu tư trực tiếp ra nước ngoài, trong đó có đầu tư vào Mỹ. Việc công ty đa quốc gia quốc tịch Trung Quốc là Lenovo mua bộ phận sản xuất máy tính xách tay của công ty đa quốc gia mang quốc tịch Mỹ là IBM được xem là một chiến lược để Lenovo tiếp cận công nghệ sản xuất máy tính ưu việt của IBM. Hay việc TCL (Trung Quốc) trong sáp nhập với Thompson (Pháp) thành TCL-Thompson Electroincs, việc National Offshore Oil Corporation (Trung Quốc) trong ngành khai thác dầu lửa mua lại Unocal (Mỹ) cũng với chiến lược như vậy.) 3.6.Tiếp cận nguồn tài nguyên thiên nhiên Để có nguồn nguyên liệu thô, nhiều công ty đa quốc gia tìm cách đầu tư vào những nước có nguồn tài nguyên phong phú. Làn sóng đầu tư trực tiếp ra nước ngoài lớn đầu tiên của Nhật Bản vào thập niên 1950 là vì mục đích này. FDI của Trung Quốc hiện nay cũng có mục đích tương tự. II. TÁC ĐỘNG CỦA FDI 1. Tích cực 1.1. Bổ sung cho nguồn vốn trong nước Trong các lý luận về tăng trưởng kinh tế, nhân tố vốn luôn được đề cập. Khi một nền kinh tế muốn tăng trưởng nhanh hơn, nó cần nhiều vốn hơn nữa. Nếu vốn trong nước không đủ, nền kinh tế này sẽ muốn có cả vốn từ nước ngoài, trong đó có vốn fdi. 1.2. Tiếp thu công nghệ và bí quyết quản lý Trong một số trường hợp, vốn cho tăng trưởng dù thiếu vẫn có thể huy động được phần nào bằng "chính sách thắt lưng buộc bụng". Tuy nhiên, công nghệ và bí quyết quản lý thì không thể có được bằng chính sách đó. Thu hút FDI từ các công ty đa quốc gia sẽ giúp một nước có cơ hội tiếp thu công nghệ và bí quyết quản lý kinh doanh mà các công ty này đã tích lũy và phát triển qua nhiều năm và bằng những khoản chi phí lớn. Tuy nhiên, việc phổ biến các công nghệ và bí quyết quản lý đó ra cả nước thu hút đầu tư còn phụ thuộc rất nhiều vào năng lực tiếp thu của đất nước. 1.3. Tham gia mạng lưới sản xuất toàn cầu Khi thu hút FDI từ các công ty đa quốc gia, không chỉ xí nghiệp có vốn đầu tư của công ty đa quốc gia, mà ngay cả các xí nghiệp khác trong nước có quan hệ làm ăn với xí nghiệp đó cũng sẽ tham gia quá trình phân công lao động khu vực. Chính vì vậy, nước thu hút đầu tư sẽ có cơ hội tham gia mạng lưới sản xuất toàn cầu thuận lợi cho đẩy mạnh xuất khẩu. 1.4. Tăng số lượng việc làm và đào tạo nhân công Vì một trong những mục đích của FDI là khai thác các điều kiện để đạt được chi phí sản xuất thấp, nên xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài sẽ thuê mướn nhiều lao động địa phương. Thu nhập của một bộ phận dân cư địa phương được cải thiện sẽ đóng góp tích cực vào tăng trưởng kinh tế của địa phương. Trong quá trình thuê mướn đó, đào tạo các kỹ năng nghề nghiệp, mà trong nhiều trường hợp là mới mẻ và tiến bộ ở các nước đang phát triển thu hút FDI, sẽ được xí nghiệp cung cấp. Điều này tạo ra một đội ngũ lao động có kỹ năng cho nước thu hút FDI. Không chỉ có lao động thông thường, mà cả các nhà chuyên môn địa phương cũng có cơ hội làm việc và được bồi dưỡng nghiệp vụ ở các xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. 1.5. Nguồn thu ngân sách lớn Đối với nhiều nước đang phát triển, hoặc đối với nhiều địa phương, thuế do các xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài nộp là nguồn thu ngân sách quan trọng. Chẳng hạn, ở Hải Dương riêng thu thuế từ công ty lắp ráp ô tô Ford chiếm 50 phần trăm số thu nội địa trên địa bàn tỉnh năm 2006. Ta cũng có thể hình dung theo quy trình từ khi FDI vào để triển khai dự án cho đến khi đưa dự án vào hoạt động và tạo ra sản phẩm: Vốn từ nước ngoài vào: làm tăng tổng vốn đầu tư tại nước tiếp nhận (VN là nước đang phát triển, rất cần vốn cho đầu tư phát triển và tăng trưởng kinh tế) Xây dựng trụ sở, đầu tư cơ sở hạ tầng: cần lao động, nguyên vật liệu để xây dựng trụ sở, xí nghiệp; cần các trang thiết bị; cải thiện cơ sở hạ tầng… Đưa công nghệ sang: Tiếp thu công nghệ, chuyển giao công nghệ tiên tiến, hiện đại cho DN nước tiếp nhận Đưa chuyên gia sang: Lưu chuyển lao động từ DN FDI đến các DN nước tiếp nhận, chuyển giao bí quyết quản lý Thuê lao động: tạo công ăn, việc làm cho người lao động và đào tạo đội ngũ kỹ thuật. Sử dụng yếu tố đầu vào cho sản xuất từ nước tiếp nhận đầu tư: tạo sự liên kết giữa DN FDI và DN trong nước để sản xuất sản phẩm Sản xuất ra sản phẩm: góp phần đa dạng hóa sản phẩm và tăng kim ngạch xuất khẩu, góp phần thu ngân sách nhà nước và ổn định kinh tế vĩ mô. Cạnh tranh với các doanh nghiệp tại nước tiếp nhận đầu tư: tạo sức ép cạnh tranh trên thị trường, từ đó buộc các doanh nghiệp (DN) trong nước phải đầu tư đổi mới công nghệ để vươn lên đứng vững trên thị trường, từ đó năng suất sản xuất được cải thiện. Lợi nhuận từ DN FDI: có thể được tiếp tục đầu tư, mở rộng sản xuất. 2. Hạn chế Nhiều người quan niệm phiến diện rằng, cần phải thu hút FDI bằng mọi cách, mọi giá, và mọi loại hình FDI đều là tốt cho nền kinh tế. Một chiến lược thu hút FDI dựa trên một quan điểm sai lầm như vậy sẽ có hại cho sự phát triển của nền kinh tế trong dài hạn vì FDI không phải luôn là một liều thuốc mầu nhiệm cho phát triển kinh tế. Đôi khi, trong một số điều kiện và ở một số lĩnh vực, FDI có thể làm giảm tăng trưởng kinh tế và giảm phúc lợi xã hội, và chỉ làm lợi cho nhà đầu tư nước ngoài. Cụ thể hơn, ta hãy xét đến những kênh tác động của FDI lên nền kinh tế như sau: a. Chuyển giao công nghệ Mặt tích cực của FDI ở kênh này là điều hiển nhiên nhưng cũng chính thông qua kênh này, FDI có thể làm thui chột sự phát triển của ngành nghiên cứu và triển khai trong nước. Nếu Chính phủ không có biện pháp khuyến khích hợp lý đối với hệ thống nghiên cứu khoa học và triển khai trong nước thì sự có mặt của công nghệ nước ngoài thông qua FDI sẽ làm giảm nhu cầu về công nghệ phát triển ở trong nước, đẩy ngành nghiên cứu vào thế phá sản, lụi tàn, và kết cục chỉ là một sự phụ thuộc hầu như hoàn toàn vào công nghệ nước ngoài với chi phí nhiều lần đắt đỏ hơn các công nghệ trong nước. b. Hình thành vốn đầu tư và việc làm FDI cũng chính là một nguồn vốn đầu tư cho tăng trưởng kinh tế và tạo thêm việc làm. Tuy nhiên, nguồn vốn này có thật sự là một dấu cộng bổ sung cho tổng vốn đầu tư và tạo việc làm ở trong nước hay không lại là một vấn đề khác bởi vì luôn có rủi ro là FDI chảy vào nền kinh tế sẽ “cào bớt” nguồn vốn đầu tư trong nước, kết cục là làm cho tổng vốn đầu tư không thay đổi hoặc thậm chí giảm đi, góp phần làm giảm tốc độ tăng việc làm trong nước. Có 2 lý do chính cho tình trạng này. + Thứ nhất, FDI không phải chỉ hoàn toàn là vốn tự có của nhà đầu tư nước ngoài. Trong nhiều trường hợp, nhà đầu tư nước ngoài đầu tư và huy động vốn vào nước khác thông qua một số hình thức như phát hành cổ phiếu, trái phiếu v.v... Việc này không những làm giảm đi một phần đáng kể khối lượng vốn FDI danh nghĩa đăng ký, mà còn cạnh tranh trực tiếp với các doanh nghiệp nội địa trong việc thu hút vốn trong nước. Nếu chiến thắng thì đương nhiên nhà đầu tư nước ngoài làm giảm khối lượng vốn đầu tư mà lẽ ra nằm trong tay nhà đầu tư nội địa, và tức là làm giảm mức đầu tư và tiết kiệm trong nước, cũng chính là giảm số lượng việc làm tạo ra từ đây. + Thứ hai, thông thường doanh nghiệp FDI hiệu quả hơn doanh nghiệp trong nước với trình độ công nghệ và quản lý cao hơn. Vì vậy, trong cạnh tranh trực tiếp với các doanh nghiệp trong nước, doanh nghiệp FDI sẽ thường là người thắng cuộc, đẩy các doanh nghiệp nội địa vào phá sản, và tức là giảm thêm mức đầu tư, tiết kiệm, và tạo việc làm trong nước. c. Tác động lên thương mại quốc tế  FDI có thể tăng thêm hay làm giảm khối lượng trao đổi thương mại quốc tế tùy thuộc vào bản chất của một dự án FDI là tuân theo hay đi ngược lại lợi thế so sánh của nước đó trên trường quốc tế. Nếu mục đích của dự án FDI đó là khai thác lợi thế so sánh của một nước (địa lý, nhân công) thì FDI này sẽ có xu hướng sản sinh thêm trao đổi thương mại quốc tế của nước đó (tăng nhập khẩu nguyên liệu và xuất khẩu thành phẩm) và thúc đẩy tái cơ cấu nền kinh tế nước đó theo lợi thế so sánh. Ngược lại, nếu dự án đó nhằm khai thác thị trường nội địa được bảo hộ ở nước đó thì nó thường làm giảm thương mại (xuất khẩu) và đẩy các doanh nghiệp trong nước vào khó khăn do không cạnh tranh nổi, và không khuyến khích tái cơ cấu nền kinh tế theo lợi thế so sánh. d. Tác động lên tính cạnh tranh và hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp trong nước    Mặt tích cực của FDI là nhờ nó mà nhiều doanh nghiệp trong nước phải không ngừng đổi mới để nâng cao tính cạnh tranh nhằm trụ lại trong cuộc đua với doanh nghiệp FDI. Nhưng doanh nghiệp FDI còn có thể dùng đến những chiến lược kinh doanh xấu như phá giá, chèn ép, và chuyển giá ngầm trong nội bộ để đẩy các doanh nghiệp trong nước ra khỏi thị trường, nhằm giành độc quyền. Như vậy, chúng ta thấy rằng chỉ khi quản lý tốt để tránh được những tác động tiêu cực mang đến từ FDI như nói ở trên thì đây mới thực sự là một liều thuốc bổ cho tăng trưởng kinh tế. III. THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP THU HÚT VỐN ĐầU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM 1. Thực trạng về đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào Việt Nam Luật đầu tư nước ngoài của Việt Nam được ban hành vào ngày 29/12/1987. Từ năm 1988 đến cuối năm 2008 Việt Nam đã thu hút được khoảng 11.881 dự án với 95 tỷ USD, trong đó 77,6% là hình thức 100% vốn nước ngoài, 18,8% theo hình thức liên doanh, số còn lại theo hợp đồng hợp tác kinh doanh, BOT, công ty cổ phần và công ty quản lý vốn. Trong các dự án FDI đầu tư vào Việt Nam thì vốn đầu tư vào ngành công nghiệp, xây dựng chiếm 67%, dịch vụ là 22,3%, còn lại là nông lâm, ngư nghiệp. Tuy nhiên, tỷ lệ vốn thực hiện có phần thấp chiếm khoảng 45% (khoảng hơn 42 tỷ đồng) do những dự án mới được cấp phép trong một vài năm gần đây mới được giải  ngân một phần. Việc vốn FDI đưa vào Việt Nam để thực hiện dự án bằng khoảng một nửa vốn đăng ký là bình thường, có thể lý giải được. Ghi chú: Vốn đăng ký là tổng vốn đầu tư mà các bên (cả nước ngoài và Việt Nam) cam kết, hay hứa sẽ bỏ ra để thực hiện dự án được cấp phép. 1.1. Về tình hình thu hút FDI Từ năm 1988-1990: Đây là giai đoạn khởi đầu của đầu tư nước ngoài. Hoạt động đầu tư nước ngoài chưa có tác động rõ rệt đến tình hình kinh tế -xã hội nước ta. Khi đó, ngoài việc có được một luật đầu tư nước ngoài khá hấp dẫn và môi trường kinh doanh tự do thì các cơ quan nhà nước còn rất hạn chế trong việc thu hút đầu tư nước ngoài. Trong 3 năm này chỉ có 214 dự án được cấp phép với vốn đăng ký là 1,58 tỷ USD. Vốn thực hiện hầu như không đáng kể (vì các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài sau khi được cấp phép còn phải làm nhiều thủ tục cần thiết mới đưa được vốn vào nước ta). Giai đoạn 1991-1997: Đây là giai đoạn đầu tư nước ngoài tăng trưởng nhanh và góp phần quan trọng vào sự phát triển kinh tế của Việt Nam. Giai đoạn 1991-1995 có 16,244 tỷ USD vốn đăng ký với mức tăng trưởng hàng năm rất ngoạn mục. Năm 1991 là 1,275 tỷ USD thì năm 1995 là 6,6 tỷ USD, gấp 5,3 lần năm 1991. Vốn thực hiện trong cả 5 năm là 7,175 tỷ USD trong đó vốn nước ngoài là 6,08 tỷ USD, bằng 32% tổng vốn đầu tư của cả nước. Hai năm tiếp theo đầu tư nước ngoài tiếp tục tăng trưởng, thêm 13,29 tỷ USD vốn đăng ký và 6,129tỷ USD vốn thực hiện. …Đây là giai đoạn đầu tư nước ngoài sôi động với hàng trăm dự án được cấp mới. Bản đồ đầu tư nước ngoài thay đổi từng ngày trên đất nước ta. Tuy nhiên, có không ít dự án do đầu tư theo phong trào nên khi găp khủng hoảng trong khu vực đã không thể triển khai được. Do đó, số lượng dự án bị rút giấy phép trong giai đoạn này khá cao. Giai đoạn 1997-2000: Đây là giai đoạn suy thoái đầu tư nước ngoài. Vốn đăng ký bắt đầu giảm từ năm 1998 và giảm mạnh trong 2 năm tiếp theo. Nếu năm 1998 vốn đăng ký là 3,89tỷ USD thì năm 1999 chỉ còn bằng 40%, và năm 2000 là 2,018 tỷ USD. Sau khi đã đạt mức kỷ lục vào năm 1997 là 3,215 tỷ USD thì ba năm tiếp theo đã giảm sút rõ rệt. Nguyên nhân chính của sự giảm sút FDI là do tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế khu vực làm suy giảm dòng đầu tư mới vào khu vực và các nhà đầu tư có một cách nhìn thực tế hơn và làm cho nhiều dự án đã cấp phép nhưng không thể triển khai được. Từ năm 2001-2006: Từ năm 2001 dòng vốn FDI có xu hướng phục hồi chậm và bắt đầu từ năm 2004 đến nay dòng vốn FDI lại bắt đầu tăng trở lại. Vốn đăng ký năm 2001 là 2,592 tỷ USD, bằng 128% năm 2000. Hai năm tiếp theo vốn đăng ký giảm sút, năm 2002 là 1,621 tỷ USD, bằng 62,5% năm 2001, năm 2003 là 1,914 tỷ USD, xấp xỉ năm 2000. Vốn đăng ký năm 2005 là 6,8 tỷ USD, bằng 261% năm 2001. Đến năm 2006, vốn FDI đã tăng ngoạn mục và đạt 10 tỷ USD, tức tăng 149,1% so với năm 2005. Nguyên nhân của dòng vốn FDI tăng mạnh tại Việt Nam là do Việt Nam chính thức trở thành thành viên thứ 150 của Tổ chức Thương Mại Thế Giới WTO với những điều kiện thuận lợi cho thu hút FDI như: cam kết mở cửa thị trường dịch vụ, giảm thuế suất thuế nhập khẩu, giảm bảo hộ và xoá bỏ phân biệt đối xử quốc gia. Năm 2007 vốn FDI tăng đến 93,2% với mức đăng ký đạt 21,3 tỷ USD. Vốn FDI thực hiện  năm 2007 là 8 tỷ USD, chiếm 24,8% tổng đầu tư toàn xã hội. Năm 2008, mặc dù lạm phát tăng cao nhưng vốn FDI vẫn tăng gấp hơn ba lần với số vốn đăng ký, đạt mức kỷ lục từ trước đến nay. (Số cũ: đạt 60,3 tỷ USD, nếu tính cả số vốn tăng thêm trong các dự án đã thực hiện thì vốn FDI năm 2008 là 64 tỷ USD) Con số chính thức về thực hiện FDI trong năm 2008 vừa được Cục ĐTNN đưa ra; đó là 71,7 tỷ USD; trong đó: - cấp mới là 66,4 tỷ USD với 1.557 dự án; - tăng vốn là 5,2 tỷ USD với 397 dự án. Trong giai đoạn này: Nguồn FDI năm 2007, 2008 cam kết đầu tư cho Việt Nam rất lớn, việc mở rộng đầu tư của những doanh nghiệp FDI đang hoạt động sản xuất kinh doanh ở Việt Nam cũng cung cấp thêm lượng vốn không nhỏ. Năm 2008 mặc dầu lạm phát cao vào quý III và khủng hoảng tài chính cũng đã bắt đầu xuất hiện, tác động tiêu cực đến hệ thống ngân hàng các nước Âu Mỹ nhưng vốn thực hiện vẫn đạt 11,3 tỷ USD, chiếm 29,8% tổng vốn đầu tư toàn xã hội. Năm 2008, khi cả thế giới ngập tràn trong khủng hoảng tài chính, khi mỗi quốc gia phải gồng mình chống chọi với dòng chảy ra của nguồn vốn FDI thì cùng lúc đó, Việt Nam vẫn dễ dàng tạo nên một kỳ tích mới về thu hút FDI với hơn 64 tỷ USD vốn đăng ký. Từ năm 2006-2008: “Số vốn FDI đăng ký và thực hiện tăng kỷ lục trong cả ba năm, năm sau cao hơn năm trước, nên tỷ trọng FDI trong tổng vốn đầu tư xã hội tăng từ 14,9% năm 2005 lên 31,5% năm 2008. Điều này đã cho thấy, những nỗ lực để xây dựng hình ảnh một Việt Nam tốt đẹp trong mắt các nhà đầu tư trên toàn thế giới trong hơn 20 năm qua dường như đã mang lại thành quả cho đất nước đối với việc thu hút vốn. Điều này cũng phản ánh niềm tin của các nhà đầu tư nước ngoài vào môi trường kinh doanh minh bạch và thuận lợi hơn sau khi Việt Nam trở thành thành viên WTO.” Trong 9 tháng đầu năm 2009, theo số liệu của Bộ KHĐT, cả nước có 583 dự án mới được cấp GCNĐT với tổng vốn đăng ký 7,67 tỷ USD (trong tháng 9 là 2,05 tỷ USD). Tuy chỉ bằng 14,3 % so với cùng kỳ 2008 nhưng 7,67 tỷ USD đăng ký mới cũng là con số khá cao trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế hiện nay, thể hiện niềm tin của các nhà đầu tư vào khả năng phục hồi và tiềm năng phát triển của nền kinh tế Việt Nam. (tuy thấp về số lượng nhưng chất lượng lại rất đáng lạc quan) Lượng vốn cấp mới gần đây chững lại sau khi tăng đột biến trong những tháng đầu năm nhờ một dự án du lịch của nhà đầu tư Mỹ. Trong 9 tháng, số vốn đăng ký tăng thêm tại các dự án đang hoạt động là 4,86 tỷ USD, đưa tổng vốn đăng ký cả cấp mới và tăng vốn lên 12,54 tỷ USD. Bình quân đạt gần 1,4 tỷ USD/tháng. Giải ngân vốn FDI trong tháng 9 cũng đạt khoảng 700 triệu USD, đưa con số giải ngân trong 9 tháng đầu năm lên 7,2 tỷ USD, chỉ bằng 88,9% so với cùng kỳ năm 2008. Giải ngân vốn FDI từ đầu năm đến nay bình quân đạt 800 triệu USD/tháng. 1.2 Đặc điểm FDI ở Việt Nam Phân theo ngành: Lĩnh vực công nghiệp và xây dựng chiếm tỷ trọng lớn nhất chiếm 67% về số dự án và 60% tổng vốn đầu tư đăng ký. Tiếp theo là lĩnh vực dịch vụ chiếm 22,3% về số dự án và 34,3% về số vốn đầu tư đăng ký. Số còn lại thuộc lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp. (Lĩnh vực dịch vụ lưu trú vẫn xếp đầu trong các lĩnh vực được nhà đầu tư nước ngoài quan tâm, với 4,57 tỷ USD, tính cả cấp mới và tăng thêm. Lĩnh vực công nghiệp chế biến, chế tạo đã vượt bất động sản trong tháng 8 thì nay lại trở về vị trí quen thuộc ở cuối bảng xếp hạng. Những khó khăn từ thị trường có thể là nguyên nhân khiến các dự án đầu tư vào lĩnh vực này thiếu động lực để tăng tốc.) Phân theo hình thức đầu tư:- Hình thức 100% vốn nước ngoài chiếm 77,6% về số dự án và 61,6% về tổng vốn đăng ký; Liên doanh chiếm 18,8% về số dự án và 28,8% về tổng vốn đăng ký. Số còn còn lại đầu tư theo hình thức Hợp doanh, BOT, công ty cổ phần và công ty quản lý vốn. Phân theo nước: Đã có 82 quốc gia và vùng lãnh thổ có dự án đầu tư tại Việt Nam, trong đó các nước châu Á chiếm 66% tổng vốn đăng ký; các nước châu Âu chiếm 29% tổng vốn đăng ký; các nước châu Mỹ chiếm 4% vốn đăng ký. Riêng 4 nền kinh tế đứng đầu trong đầu tư vào Việt Nam theo thứ tự: Hàn Quốc, Singapore, Đài Loan và Nhật Bản đã chiếm 55% tổng vốn đăng ký. Phân theo địa phương: Các thành phố lớn, có điều kiện kinh tế xã hội thuận lợi thuộc các vùng kinh tế trọng điểm phía Nam và phía Bắc vẫn là những địa phương dẫn đầu thu hút ĐTNN, trong đó 5 địa phương dẫn đầu theo thứ tự như sau: - TP. Hồ Chí Minh chiếm 27,6% về số dự án và 20% tổng vốn đăng ký; - Hà Nội chiếm 11,6% về số dự án; 14,9% tổng vốn đăng ký; - Đồng Nai chiếm 10,5% về số dự án; 13,7% tổng vốn đăng ký; - Bình Dương chiếm 18,2% về số dự án; 10,0% tổng vốn đăng ký; - Bà Rịa –Vũng Tàu chiếm 1,8% về số dự án; 7,2% tổng vốn đăng ký; Tuy nhiên, tính chung 9 tháng qua, - Đã có 38 quốc gia, vùng lãnh thổ có dự án đầu tư tại Việt Nam. Đầu tư lớn nhất lần lượt là Hoa Kỳ, 3,95 tỷ USD; Samoa 1,7 tỷ USD; Đài Loan 1,36 tỷ USD. - Bà Rịa-Vũng Tàu tiếp tục là địa phương thu hút nhiều vốn FDI nhất trong 9 tháng với 6,66 tỷ USD. Tiếp đến là Bình Dương, Tp. HCM và Hà Nội với tổng vốn thu hút lần lượt là 2,45 tỷ USD; 1,14 tỷ USD và 383 triệu USD. 2. Nhận xét - Đánh giá 2.1. Mặt tích cực - Việt Nam đã công nhận một cách chính thức và rộng rãi rằng FDI đang ngày càng đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển của Việt Nam trên nhiều phương diện: vốn, công nghệ, nâng cao khả năng thanh toán quốc tế, phát triển xuất khẩu, tham gia vào các thị trường quốc tế, …. - Tạo nguồn đóng góp cho Ngân sách Nhà nước, trong giai đoạn 2001 - 2005 là khoảng 3,67 tỷ đô-la Mỹ, với mức tăng nộp ngân sách năm sau cao hơn năm trước. Năm 2006 đạt 1,4 tỷ USD, tăng 36,3% so với năm 2005.Năm 2007 đạt 1,55 tỷ USD, tăng 10% so năm 2007, Năm 2008 đạt 2 tỷ USD, tăng 29% so với năm 2007. - Bình quân trong thời kỳ 2001 – 2006 khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đã tạo việc làm thêm cho khoảng 11 vạn việc làm mỗi năm, đưa tổng số lao động trực tiếp của khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài tính đến cuối năm 2006 lên 1,13 triệu người. Ngoài ra khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài đã tạo ra khoảng vài triệu lao động gián tiếp trong 6 năm qua. Năm 2007, giải quyết 15 vạn lao động. Năm 2008 giải quyết 16 vạn người, tăng 6,7% so với năm 2007; - FDI đã giúp Việt Nam phát triển nhiều ngành công nghiệp và sản phẩm. Hiện nay, FDI chiếm 100% về khai thác dầu, sản xuất ô tô, máy giặt, tủ lạnh, máy điều hoà nhiệt độ, thiết bị văn phòng, … . FDI cũng chiếm 60% sản lượng thép tấm, 28% xi măng, 33% sản phẩm điện/điện tử, 76% thiết bị y tế. - FDI cũng đã giúp Việt Nam có một bước tiến lớn hơn vào các thị trường quốc tế, cải thiện tiềm năng xuất khẩu của Việt Nam. FDI chiếm một tỷ lệ đáng kể trong các ngành công nghiệp chủ đạo của Việt Nam, cụ thể là 42% công nghiệp giầy da, 25% trong may mặc và 84% trong điện tử, máy tính và các linh kiện. - FDI đã hỗ trợ Việt Nam một cách tích cực trong việc mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại để Việt Nam gia nhập ASEAN, ký kết thoả thuận chung với EU, bình thường hoá quan hệ và thoả thuận thương mại song phương với Mỹ. Trên cơ sở pháp lý đã hình thành, chúng ta đã phát huy được mặt tích cực của khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài, từ chỗ có vai trò không đáng kể đến nay đã “nổi lên như một điểm sáng” trong bức tranh toàn cảnh của nền kinh tế Việt Nam trên con đường chủ động hội nhập kinh tế quốc tế để phát triển vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh. 2.2. Mặt trái - Trong hai năm 2007 và 2008, Việt Nam phải nếm trải tiêu cực do dòng vốn nước ngoài đổ vào quá lớn. Dường như đấy chính là nguyên nhân đầu tiên dẫn đến tỷ lệ lạm phát cao trong năm 2008, do ngân hàng Nhà nước mất khả năng kiểm soát, thanh lọc, theo nhận định của World Bank. - Trong năm 2008, ước tính khoảng 30% tổng vốn đầu tư đã thực hiện nằm trong ngành bất động sản và khách sạn, so với 13% trong ngành công nghiệp nhẹ và 3% trong ngành nông nghiệp và thực phẩm. Những khu vực này không tạo được nhiều việc làm và có xu hướng khá thâm dụng nhập khẩu, gây áp lực lên cán cân thanh toán của Việt Nam. Thực trạng trên dẫn hệ luỵ là lạm phát hai con số, đã tác động trực tiếp đến chi phí sinh hoạt và tiền lương thực tế. - Phạm vi quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chủ yếu tập trung vào giai đoạn cấp phép, còn quản lý sau khi được cấp phép đi vào hoạt động lại bị coi nhẹ, thiếu quy định cụ thể phạm vi quản lý trong quá trình hoạt động, nên cơ quan nhà nước không nắm sát tình trạng kinh doanh của khu vực này. Do đó xảy ra tình trạng ô nhiễm môi trường, khai thác tài nguyên cạn kiệt,…mà Vedan là một ví dụ điển hình. - Do ảnh hưởng của suy thóai kinh tế làm một số nhà đầu tư không thực hiện đúng tiến độ dự án, thậm chí “tháo chạy” gây nên tình trạng quy họach treo làm ảnh hưởng đến đời sống của người dân. - Các doanh nghiệp này luôn tìm cách khai thác triệt để nguồn lao động rẻ, mà không chú trọng đào tạo trình độ và kỹ năng cho người lao động. Như vậy có thể kết luận có 7 nguy cơ tiềm ẩn trong nhiều dự án đầu tư mới đăng ký gần 3 năm qua tại Việt Nam. - Nguy cơ “thổi phồng” về vốn và lợi nhuận; - Nguy cơ sử dụng quá nhiều nguồn lực khan hiếm hoặc đang thiếu trầm trọng như đất đai, năng lượng, tài nguyên thiên nhiên; - Nguy cơ hủy hoại và gây ô nhiễm môi trường; - Nguy cơ không phù hợp với quy hoạch phát triển dài hạn, hoặc gây mất cân đối về cơ cấu trong quá trình phát triển dài hạn; - Nguy cơ sử dụng công nghệ lạc hậu, thải loại; - Nguy cơ “cướp vốn” của khu vực kinh tế tư nhân trong nước.; - Cuối cùng là nguy cơ thiếu hụt ngoại tệ và rủi ro tỷ giá. 3. Những hạn chế của Việt Nam trong việc thu hút vốn FDI Thứ nhất, tính không ổn định của các cơ quan quản lý nhà nước đối với kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài đang là vấn đề nổi cộm. Do Việt Nam chưa có kinh nghiệm trong quản lý nhà nước về đầu tư nước ngoài nên trong quá trình điều hành vĩ mô còn lúng túng, thiếu chủ động, còn nặng sự vụ hành chính, tạo ra kẽ hở gây nhiều tiêu cực đáng tiếc. Thứ hai là quản lý kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài chủ yếu bằng văn bản pháp luật, trong khi hệ thống pháp luật vẫn còn tình trạng chồng chéo, thiếu đồng bộ, không nhất quán về chủ trương, mâu thuẫn lẫn nhau, thậm chí có vấn đề còn bỏ ngỏ. Thứ ba là phạm vi quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chủ yếu tập trung vào giai đoạn cấp phép, còn quản lý sau khi được cấp phép đi vào hoạt động lại bị coi nhẹ, thiếu quy định cụ thể phạm vi quản lý trong quá trình hoạt động, nên cơ quan nhà nước không nắm sát tình trạng kinh doanh của khu vực này. Thứ tư Do chạy theo số lượng FDI, các địa phương sẵn sàng cạnh tranh không lành mạnh khiến cho nguồn tài nguyên thiên nhiên, sinh thái, du lịch vô giá của đất nước có thể bị bán rẻ. Hệ quả là phần lợi nhuận mang lại cho Việt Nam từ FDI không tương xứng với giá trị của nguồn tài nguyên vĩnh viễn bị mất đi. Để thu hút được nhiều vốn FDI vào địa phương mình, nhiều tỉnh đã tự ý “phá rào”, đưa ra các ưu đãi quá mức về thuế (đã biến tướng để tránh các quy định của Nhà nước về thuế), đất đai, lao động, làm thiệt hại quyền lợi đất nước. Thứ Năm là chưa có chiến lược tổng thể và quy hoạch cụ thể về đầu tư nước ngoài gắn kết với chiến lược phát triển kinh tế xã hội theo vùng, miền; gắn đầu tư nước ngoài với chiến lược an ninh quốc phòng, nhất là các khu vực nhạy cảm về bảo vệ an ninh quốc gia ở các đô thị và thành phố lớn trên phạm vi cả nước. Thứ Sáu: Các doanh nghiệp FDI đã và đang kêu ca rất nhiều về thực trạng thiếu lao động, đặc biệt là lao động quản lý và có kỹ năng, nhưng cho đến nay vấn đề này vẫn chưa được khắc phục. Ý thức, kỷ luật lao động Việt Nam còn kém, tâm lý dễ bị kích động, tình trạng đình công, lãng công làm nản lòng các nhà đầu tư. Thứ Bảy: Cơ sở hạ tầng yếu kém và quá tải cũng là một yếu tố làm nản lòng các nhà đầu tư. Tình trạng mất điện đột ngột không được báo trước, nhiều tuyến giao thông huyết mạch thường xuyên tắc nghẽn, hàng hóa bị ách tắc ở cảng... là những điều đã được phản ảnh đi phản ảnh lại nhiều lần nhưng vẫn chưa được cải thiện. Thứ Tám: Trong thời gian gần đây tình trạng phân biệt đối xử như chế độ hai giá điện, nước, điện thoại chi phí cho cư trú đi lại còn cao hơn so với các nước trong khu vực làm cho môi trường đầu tư vào Việt Nam thiếu hấp dẫn. Thứ chín: tình trạng tranh chấp kéo dài và triển khai dự án chậm chưa được xử lý dứt điểm cũng gây ảnh hưởng xấu đối với môi trường đầu tư. 4. Những thuận lợi của Việt Nam trong việc thu hút vốn FDI - VN nằm trong khu vực kinh tế năng động, an ninh chính trị ổn định. - VN có nguồn lao động dồi dào, giá nhân công rẻ. - Chính phủ VN đang nỗ lực chỉ đạo, điều hành các cơ quan quản lý hoạt động FDI từ Trung ương đến địa phương trong việc tạo môi trường đầu tư – kinh doanh hấp dẫn, cởi mở, minh bạch và thông thoáng, phù hợp phù hợp với thông lệ quốc tế và khu vực về giảm thiểu các khó khăn, vướng mắc cho nhà đầu tư. Đồng thời chính phủ có khả năng trong việc khống chế tỷ lệ lạm phát và quản lý tỷ giá hối đoái. - Đồng thời chính phủ tạo điều kiện thuận lợi cho các dự án đầu tư đã được cấp phép nhanh chóng đi vào hoạt động kinh doanh hiệu quả, phát huy tính tự chủ và tự chịu trách nhiệm của doanh nghiệp. - Chính phủ VN đang tiếp tục xây dựng, nâng cấp, hoàn thiện hệ thống kết cấu hạ tầng kỹ thuật, giao thông, cảng biển… bằng vốn đầu tư từ các nguồn khác (ODA, tư nhân…) bắt kịp tốc độ phát triển kinh tế đất nước, đáp ứng nhu cầu trước mắt và lâu dài. tiếp tục xây dựng, nâng cấp, hoàn thiện hệ thống kết cấu hạ tầng kỹ thuật, giao thông, cảng biển… bằng vốn đầu tư từ các nguồn khác (ODA, tư nhân…) bắt kịp tốc độ phát triển kinh tế đất nước, đáp ứng nhu cầu trước mắt và lâu dài. 5. Giải pháp thu hút FDI 5.1. Về môi trường pháp lý: Quản lý kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài chủ yếu bằng văn bản pháp luật, trong khi hệ thống pháp luật vẫn còn tình trạng chồng chéo, thiếu đồng bộ, không nhất quán về chủ trương, mâu thuẫn lẫn nhau, thậm chí có vấn đề còn bỏ ngỏ. Do đó, cần phải thực hiện: + Rà soát pháp luật, chính sách để sửa đổi, điều chỉnh hoặc loại bỏ các điều kiện không phù hợp cam kết WTO của Việt Nam và có giải pháp đảm bảo quyền lợi của nhà đầu tư. Theo dõi, giám sát việc thi hành pháp luật về đầu tư và doanh nghiệp để kịp thời phát hiện và xử lý các vướng mắc phát sinh. + Nghiên cứu, đề xuất chính sách vận động, thu hút đầu tư phù hợp tình hình thực tiễn đất nước cũng như thông lệ quốc tế. 5.2. Về công tác quản lý nhà nước : - Tăng cường cơ chế phối hợp quản lý ĐTNN giữa Trung ương với địa phương và các Bộ, ngành liên quan như việc phân cấp quản lý các dự án đầu tư nước ngoài. - Đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả công tác thanh tra, kiểm soát sau cấp phép nhằm hướng dẫn việc thực hiện đúng pháp luật và ngăn chặn các vi phạm pháp luật. - Tiếp tục rà soát các dự án để có hình thức xử lý phù hợp, hỗ trợ dự án nhanh chóng triển khai sau khi được cấp Giấy chứng nhận đầu tư. Thực hiện việc thu hồi Giấy chứng nhận đầu tư đối với các dự án không triển khai đúng tiến độ cam kết để dành quỹ đất cho các dự án mới. - Tập trung vào việc đẩy mạnh vốn giải ngân, giảm khoảng cách giữa vốn đăng ký và vốn thực hiện bằng cách tạo điều kiện thuận lợi về thủ tục hành chính, về giải phóng mặt bằng .v.v. giúp cho các dự án này triển khai nhanh chóng. - Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến rộng rãi các cam kết song phương và đa phương mà Việt Nam đã ký kết cho cơ quan quản lý nhà nước các cấp và các doanh nghiệp nhằm chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. 5.3. Về thủ tục hành chính : - Tiếp tục tập trung hoàn thiện cơ chế ‘liên thông-một cửa’ ở các cơ quan cấp giấy chứng nhận đầu tư và quản lý đầu tư. - Tăng cường năng lực quản lý ĐTNN của các cơ quan chức năng và cơ chế phối hợp, giám sát và kiểm tra hoạt động đầu tư; giải quyết kịp thời các thủ tục về đất đai, thuế, xuất nhập khẩu, hải quan,... nhằm tạo thuận lợi cho hoạt động ĐTNN, qua đó tăng thêm sức hấp dẫn của môi trường đầu tư Việt Nam. - Nâng cao trình độ toàn diện của đội ngũ cán bộ, công chức nhằm đảm bảo thực hiện nhiệm vụ theo quy định tại Luật Đầu tư và quy định mới về phân cấp quản lý ĐTNN. 5.4. Về kết cấu hạ tầng: - Tiếp tục huy động mọi nguồn lực trong và ngoài nước, trong đó ban hành quy chế khuyến khích tư nhân, đầu tư nâng cấp các công trình giao thông, cảng biển, dịch vụ viễn thông, cung cấp điện nước, phấn đấu không để xảy ra tình trạng thiếu điện cho hoạt động sản xuất kinh doanh. - Tập trung thu hút vốn đầu tư vào một số dự án thuộc lĩnh vực bưu chính-viễn thông và công nghệ thông tin để phát triển các dịch vụ mới và phát triển hạ tầng mạng. - Đẩy mạnh đầu tư vào các lĩnh vực (văn hóa-y tế-giáo dục, bưu chính-viễn thông, hàng hải, hàng không) đã cam kết khi gia nhập WTO. Xem xét việc ban hành một số giải pháp mở cửa sớm hơn mức độ cam kết đối với một số lĩnh vực dịch vụ mà nước ta có nhu cầu, 5.5. Về lao động, tiền lương và đào tạo nguồn nhân lực: - Ngăn ngừa tình trạng đình công bất hợp pháp, lành mạnh hóa quan hệ lao động, bao gồm: + Tiếp tục hoàn thiện luật pháp, chính sách về lao động, tiền lương phù hợp trong tình hình mới; tăng cường công tác kiểm tra, giám sát việc chấp hành pháp luật về lao động đối với người sử dụng lao động nhằm đảm bảo điều kiện làm việc và đời sống cho người lao động; + Nâng cao hiểu biết pháp luật về lao động thông qua phổ biến, tuyên truyền và giáo dục pháp luật cho người lao động, người sử dụng lao động trong các doanh nghiệp có vốn ĐTNN để đảm bảo chính sách, pháp luật về lao động và tiền lương được thực hiện đầy đủ, nghiêm túc. - Tiếp tục tăng cường công tác đào tạo và đào tạo lại nguồn nhân lực để đáp ứng nhu cầu phát triển trong giai đoạn mới, kể cả về cán bộ quản lý các cấp và cán bộ kỹ thuật. 5.6. Về xúc tiến đầu tư (XTĐT): - Tăng cường phối hợp hoạt động XTĐT giữa trung ương và địa phương. Các Bộ, ngành và Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh tiếp tục rà soát, cập nhật bổ sung danh mục kêu gọi đầu tư phù hợp với nhu cầu đầu tư phát triển và quy hoạch phát triển ngành, địa phương. - Chủ động tiếp cận và hỗ trợ các nhà đầu tư tiềm năng có nhu cầu đầu tư vào Việt Nam. Vận động đầu tư theo dự án và đối tác trọng điểm, tiếp cận và vận động các công ty, tập đoàn lớn có thực lực về tài chính- công nghệ cao đầu tư vào Việt Nam. 5.7. Giải pháp về thuế Để đảm bảo chính sách nhất quán mở cửa thị trường nói chung và thực hiện nghiêm túc các cam kết quốc tế, chính phủ Việt Nam đang tiếp tục hoàn thiện hệ thống chính sách pháp luật thuế theo hướng đồng bộ, cơ cấu hợp lý, khuyến khích đầu tư, xuất khẩu, đổi mới công nghệ, đồng thời hiện đại hoá công tác quản lý thuế, hải quan nhằm đảm bảo chính sách động viên GDP phù hợp với điều kiện Việt Nam và tiến dần tới thông lệ quốc tế. 6. Xu hướng nguồn vốn FDI vào VN Thời gian tới, VN sẽ nâng cao tính hấp dẫn của mình trong con mắt nhà đầu tư nước ngoài. Tương lai thu hút FDI vào VN sẽ ngày được cải thiện, bởi vì: + Sự gia nhập WTO của VN. + Trung Quốc đang thắng thế trong việc thu hút FDI so với ASEAN nói chung và VN nói riêng... Tuy nhiên sự nổi lên của Trung Quốc như một mảnh nam châm thu hút FDI không chỉ có nghĩa là các nước khác trong khu vực bị thua thiệt. Sự hấp dẫn tăng lên của Trung Quốc còn tạo ra một tác động tích cực có tác dụng kéo thêm FDI đến khu vực, ít nhất là để thỏa mãn nhu cầu nhập khẩu khổng lồ của Trung Quốc, do sản xuất (cả cho xuất khẩu) và tiêu dùng tăng lên. Và vì hàng rào thuế quan đã được hạ xuống nên các công ty đa quốc gia không cần phải thiết lập nhà máy ở Trung Quốc mà có thể chọn các địa điểm khác phù hợp hơn để sản xuất và sau đó nhập khẩu vào Trung Quốc. VN cũng sẽ là một trong những nước được hưởng lợi nếu nắm bắt được cơ hội này. + Bản thân sự hấp dẫn về qui chế thành viên WTO của một nước chỉ có tính ngắn hạn, và về dài hạn, điều hấp dẫn các công ty đa quốc gia chính là những yếu tố làm cho họ có thể phát huy được các lợi thế của họ so với các công ty bản địa, trong đó có lợi thế về công nghệ và quản lý và lợi thế về nội bộ hóa các giao dịch trong mạng lưới công ty thành viên. Điều này cũng sẽ đúng với VN và do đó rất có thể trong những năm đầu lượng FDI đổ vào VN sẽ tăng lên tương đối, nhưng sau đó lại giảm đi nếu VN không có những bước đi thích hợp nhằm làm tăng tính hấp dẫn của mình trong dài hạn, trong số đó có việc nâng cao chất lượng lực lượng lao động, cơ sở hạ tầng, mạng lưới cung cấp, các tổ chức thể chế hiệu quả, cải thiện tích cực môi trường kinh doanh, hạ chi phí giao dịch, phá giá nội tệ, khuyến khích vật chất hợp lý cho FDI vào một số ngành... Như đã biết, hiện nay nhiều mặt hàng Trung Quốc nói riêng và một số nước khác nói chung đang áp đảo các thị trường xuất khẩu của ta. Vì thế, trong tương lai, VN buộc phải có những biện pháp cải cách thị trường tích cực sau khi gia nhập WTO để giữ chân và thu hút thêm nguồn vốn FDI.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docFDI.doc
Tài liệu liên quan