Đề tài Thực trạng và giải pháp thúc đẩy hoạt động xuất khẩu hàng nông thủy sản của Việt Nam sang thị trường Trung Quốc dưới tác động của Chương trình thu hoạch sớm

Việc thành lập Khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc (ACFTA) với lộ trình cắt giảm thuế quan trong 10 năm để đạt mục tiêu tự do hoá thương mại vào năm 2015 đặt ra rất nhiều thách thức lớn đối với các doanh nghiệp Việt Nam, đồng thời cũng mở ra nhiều cơ hội kinh doanh đầy tiềm năng. Trong đó, Chương trình thu hoạch chính là những cơ hội và thách thức đầu tiên đối với nền kinh tế Việt Nam. Những năm gần đây, kim ngạch buôn bán hai chiều giữa Việt Nam và Trung Quốc luôn đạt mức tăng trưởng trên 25%, tuy nhiên tỷ trọng kim ngạch vẫn duy trì ở mức 10% tổng giá trị xuất nhập khẩu của Việt Nam. Trung Quốc hiện là đối tác thương mại quan trọng thứ 3 của Việt Nam sau Nhật Bản và Liên minh châu Âu nhưng nếu xét về cơ cấu thương mại, Việt Nam luôn ở trong tình trạng thâm hụt cán cân thương mại với Trung Quốc và có xu hướng tăng do tốc độ tăng giá trị nhập khẩu cao hơn nhiều so với tốc độ tăng xuất khẩu của Việt Nam. Tỷ lệ nhập siêu bình quân tăng trên 30% so với tổng kim ngạch nhập khẩu trong các năm 2001-2003 và tăng 43% trong năm 2003 trong khi xuất khẩu của Việt Nam sang Trung Quốc lại tăng không đáng kể và duy trì ở mức 9%. Điều này cho thấy khả năng tiếp cận thị trường của hàng hoá Trung Quốc vào Việt Nam ngày càng tăng với tốc độ cao, ngay cả khi chưa thực hiện ACFTA.

doc56 trang | Chia sẻ: Kuang2 | Lượt xem: 995 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng và giải pháp thúc đẩy hoạt động xuất khẩu hàng nông thủy sản của Việt Nam sang thị trường Trung Quốc dưới tác động của Chương trình thu hoạch sớm, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
t số mặt hàng nông sản tiêu thụ nội địa trong nhiều năm qua sẽ bị cạnh tranh và giảm dần hoặc mất thị trường ngay trên quê hương mình. Điều đó cũng dễ hiểu và chúng ta phải tiếp nhận nó như một việc bình thường, không phải chỉ đối với nước ta mà đối với tất cả các nước khác. Nhưng trước mắt, điều bất lợi này sẽ gây ra những tác động tiêu cực tạm thời cả trên lĩnh vực kinh tế - xã hội và chính trị. Những bất lợi phân tích trên đây phần lớn do nguyên nhân chủ quan gây ra nên có thể khắc phục được trong tương lai gần nếu chúng ta có quyết tâm và có các giải pháp kịp thời, đúng đắn. Nếu khắc phục tốt thì những bất lợi này có thể lại trở thành các lợi thế tiềm ẩn của hàng hóa nông sản xuất khẩu của nước ta nói riêng và cho tất các loại nông sản phẩm khác nói chung trong bối cảnh tự do hoá thương mại toàn cầu. Tóm lại, xét về tổng thể, hoạt động xuất khẩu nông sản của Việt Nam tuy đã đạt được nhiều thành tích đáng khích lệ và có nhiều lợi thế cần được khai thác, nhưng vẫn còn nhiều tồn tại và bất lợi. Những tồn tại và bất lợi này đều có sự liên quan chặt chẽ với nhau, vừa là nguyên nhân vừa là hậu quả của nhau, đòi hỏi phải được xử lý một cách dứt điểm, đồng bộ và toàn diện. Nền nông nghiệp Việt Nam đang trên đà phát triển và hòa nhập vào xu thế chung của nông nghiệp các nước trong khu vực và toàn cầu, tuy nhiên tiến trình này về mức độ và hiệu quả không chỉ phụ thuộc vào bản thân sự cố gắng của phía Việt Nam, mà còn phụ thuộc vào xu thế chung của thị trường hàng hóa nông sản thế giới. Trong định hướng phát triển nông nghiệp của mình vấn đề quan trọng được đặt ra là khả năng thực sự về mức độ đáp ứng của sản xuất - xuất khẩu đối với nhu cầu thế giới đến đâu, không chỉ về số lượng mà còn yêu cầu cao về chất lượng sản phẩm, đẹp về hình thức, phong phú và đa dạng về chủng loại và giá cả hợp lý nhằm tăng sức hấp dẫn đối với người tiêu dùng. Do vậy, nâng cao khả năng sản xuất, phát huy các lợi thế cạnh tranh của nông sản hàng hóa Việt Nam trên thị trường là vấn đề cốt lõi trong chiến lược phát triển nông nghiệp hướng ra xuất khẩu của Việt Nam, trước hết có thể tập trung vào các mặt hàng nông sản chủ yếu có nhiều lợi thế nhất. 1.5. Kinh nghiệm xuất khẩu nông thủy sản hàng hóa của Thái Lan sang Trung Quốc Giữa năm 2003, Thái Lan và Trung Quốc đã ký một bản thỏa thuận đẩy nhanh việc thực hiện EHP đối với hàng rau quả (nằm trong chương 7 và 8 của Biểu thuế xuất nhập khẩu). Theo thỏa thuận này, Trung Quốc và Thái Lan cắt giảm thuế quan đối với hàng rau quả xuống còn 0% kể từ ngày 1-10-2003 Sau đó, Thái Lan và Trung Quốc đã thống nhất việc tăng số lượng các mặt hàng cắt giảm thuế xuống còn 0% theo chương trình thu hoạch sớm của FTA Thái Lan-Trung Quốc sau khi chính thức thực hiện cắt giảm thuế quan đối với nông thủy sản từ 1/10/2003. Vì vậy, hàng nông thủy sản của Thái Lan bước đầu đã có lợi thế so với Việt Nam, đến khi thuế suất giảm xuống còn 0% cho hàng nông thủy sản Việt Nam vào năm 2006 thì hàng Thái Lan đã tràn ngập và có chỗ đứng vững chắc trên thị trường Trung Quốc.   Cuối năm 2003, Phó Thủ tướng Thái Lan Somkid đã dẫn một đoàn doanh nghiệp tới các đặc khu kinh tế ở phía Đông và Tây Trung Quốc để xúc tiến việc thâm nhập sản phẩm rau quả vào thị trường này. Theo đó, nước này muốn thực thi các thoả thuận tự do thương mại vùng với Trung Quốc về các mặt hàng nông thủy sản. Hai bên cũng đã ký thoả thuận tiêu chuẩn hoá về sản phẩm nông nghiệp, theo đó phía doanh nghiệp Thái Lan cam kết cung ứng hàng chất lượng cao thường xuyên cho Trung Quốc nhờ tiến trình công nghệ hoá sản phẩm. Để hàng tới các vùng phía Tây Trung Quốc có sức cạnh tranh hơn hàng Việt Nam và Myanmar, phía Thái Lan đã xây dựng, cải tạo tuyến đường thủy trên sông Mê Kông, nhờ đó giảm được chi phí vận chuyển so với vận tải đường bộ, Thái Lan cũng đã nghiên cứu phương án chuyên chở sản phẩm không chỉ bằng đường thuỷ mà bằng cả đường hàng không. Phía hàng không Thái Lan cũng đã có quyết định giao cho tư nhân tự đảm nhận vai trò chuyên chở hàng. Như vậy, các hình thức vận chuyển hàng nông thủy sản xuất khẩu của Thái Lan sang thị trường Trung Quốc rất linh hoạt, đáp ứng mọi yêu cầu vận chuyển các loại hàng hóa: mặt hàng tươi sống có thể vận chuyển nhanh chóng qua đường hàng không, còn những mặt hàng bảo quản lâu ngày có thể vận chuyển qua đường bộ và đường thủy. Trong khi đó, hình thức vận chuyển chủ yếu của các nhà xuất khẩu nông thủy sản Việt Nam chủ yếu vẫn là đường bộ, chi phí cao, không chủ động trong việc giao hàng. Về công tác xúc tiến xuất khẩu, tìm thị trường mới, Chính phủ Thái Lan đã có những hoạt động mạnh mẽ, quyết liệt, khẩn trương. Ngay từ cuối năm 2003, Thái Lan đã triệu tập các tham tán thương mại (ở 54 nước) hoạch định chiến lược xuất khẩu tới sáu khu vực trọng yếu là Mỹ La-tinh, châu Phi, Ấn Độ, Trung Đông, Đông Âu và Trung Quốc. Các tham tán thương mại phải liệt kê cho được 10 sản phẩm có tiềm năng xuất khẩu lớn ở các thị trường cũ và mới. Thủ tướng Thái Lan ông Thasksin Shinawatra đã đưa ra định hướng xuất khẩu là nhắm vào thị trường sơ khai đông dân và đối phó với rào cản phi thức thuế quan đang bùng phát, yêu cầu phải kiểm soát chặt chẽ hơn về tiêu chuẩn và chất lượng sản phẩm xuất khẩu. Cục Xuất khẩu Thái Lan còn hỗ trợ các doanh nghiệp tư nhân chi phí đi nước ngoài ký kết các hợp đồng thương mại, nhất là các thị trường trọng yếu dưới hai dạng hỗ trợ tham dự hội chợ quốc tế ở nước ngoài và tổ chức khảo sát thị trường. Đặc biệt, Thái Lan rất coi trọng công tác xúc tiến xuất khẩu qua hệ thống câu lạc bộ doanh nghiệp. Thí dụ: Câu lạc bộ doanh nghiệp ngành thực phẩm có khoảng 100 thành viên xác định chiến lược nâng cao chất lượng sản phẩm xuất khẩu theo tiêu chuẩn quốc tế. Họ lên kế hoạch lập các trung tâm bán hàng tại Trung Quốc, Ấn Độ và Trung Đông, đồng thời đã trực tiếp bán hàng tại Vân Nam, Trung Quốc. Họ đã lập hệ thống kho hàng ở Chiang Rai, quận nằm sát Trung Quốc, và sang năm nay xây kho hàng tại Vân Nam. Vấn đề họ lo giải quyết là hậu cần tại chỗ để giảm phí vận chuyển, hoặc chung nhau mua nguyên liệu để chế biến và bán tại chỗ thì có lợi hơn. Về hỗ trợ sản xuất, Chính phủ Thái Lan đã thông qua kế hoạch thành lập công ty liên doanh nhằm bổ sung nguồn vốn và hỗ trợ cho sản xuất nông nghiệp và chăn nuôi. Công ty này có chức năng hỗ trợ nông dân về tài chính trong quá trình canh tác, chăn nuôi, quản lý kinh doanh sản xuất và tiếp thị. CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU HÀNG NÔNG SẢN CỦA VIỆT NAM SANG THỊ TRƯỜNG TRUNG QUỐC DƯỚI LỘ TRÌNH THỰC HIỆN CỦA CHƯƠNG TRÌNH THU HOẠCH SỚM 2.1. Tình hình xuất khẩu hàng nông thủy sản của Việt Nam sang Trung Quốc 2.1.1. Kim ngạch xuất khẩu Trong giai đoạn 2000 – 2005, tổng kim ngạch xuất khẩu hàng nông thủy sản của Việt Nam sang thị trường Trung Quốc có xu hướng giảm xuống, không ổn định. Mặc dù chương trình EHP được mong đợi sẽ thúc đẩy mạnh xuất khẩu các mặt hàng nông thủy sản nhưng thực tế tổng kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng này so với trước khi thực hiện EHP (trước 2004) tăng không đáng kể, tuy chưa đạt được mức xuất khẩu cao nhất vào năm 2001 (436,429 triệu USD) nhưng có dấu hiệu phục hồi so với mức thấp nhất vào năm 2003 (218,372 triệu USD). Kim ngạch hiện đang ổn định ở mức khoảng 260 triệu USD trong 2 năm 2004 và 2005 nhưng nhìn chung vẫn thấp hơn mức trung bình giai đoạn 2000-2005 là hơn 311 triệu USD.(Bảng 2.1 và Biểu đồ 2.1) Bảng 2.1: Kim ngạch xuất khẩu hàng nông thủy sản của Việt Nam sang thị trường Trung Quốc Năm 2000 2001 2002 2003 2004 2005 Kim ngạch xuất khẩu nông thủy sản sang Trung Quốc 413.161 436.429 286.094 218.372 262.262 255.528 Tổng kim ngạch xuất khẩu nông thuỷ sản 1.902.336 2.354.987 2.504.973 2.754.608 3.008.940 3.471.000 Tỷ lệ (%) 21,72 18,53 11,42 7,93 8,72 7,36 Tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa sang thị trường Trung Quốc 1.536.391 1.417.415 1.518.330 1.883.112 2.735.496 3.256.000 Tỷ lệ (%) 26,89 30,79 18,84 11,60 9,59 7,85 Nguồn: trang thông tin thương mại – Bộ Thương mại Biểu đồ 2.1: Sự biến động của hàng nông thủy sản Việt Nam xuất khẩu sang thị trường Trung Quốc Nguồn: trang thông tin thương mại – Bộ Thương mại Tác động của EHP dường như không lớn nếu xét tới tỷ trọng xuất khẩu sang thị trường Trung Quốc của nông thủy sản Việt Nam, giảm tới gần 3 lần, từ 21,72% vào năm 2000 xuống còn 7,36 % vào năm 2005. Lý do dễ thấy nhất là tổng kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng này liên tục tăng qua các năm nhưng kim ngạch xuất khẩu sang Trung Quốc lại không tăng, thậm chí năm 2004 còn giảm so với 2003 điển hình như mặt hàng thủy sản: kim ngạch xuất khẩu các năm 2004 và 2005 tương ứng 48 và 60 triệu USD, giảm đi rất nhiều so với năm cao nhất là 2001 (243,5 triệu USD). Điều đó chứng tỏ EHP chưa thực sự hấp dẫn các nhà xuất khẩu nông thủy sản của Việt Nam vào thị trường Trung Quốc hơn các thị trường khác như Nhật Bản, Hoa Kỳ, EU (Bảng 2.1) Cũng như trên, tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu nông thủy sản trong xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường Trung Quốc ngày càng giảm, từ 26,89% vào năm 2000 xuống còn 7,85% vào năm 2005, nó cho thấy mặc dù nằm trong EHP, được hưởng mức thuế nhập khẩu ưu đãi hơn nhưng nông thủy sản xuất khẩu lại không tăng trưởng nhanh hơn các mặt hàng không được hưởng ưu đãi khác. (Bảng 2.1) Có nhiều nguyên nhân khác nhau cho việc suy giảm kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng nông thủy sản như giá xuất khẩu giảm, cơ cấu xuất khẩu của ta có sự thay đổi và Trung Quốc thay đổi chính sách thuế trong quá trình thực hiện cam kết WTO. 2.1.2. Cơ cấu xuất khẩu Trong cơ cấu hàng nông thủy sản Việt Nam xuất khẩu sang thị trường Trung Quốc, các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu gồm: thủy sản, rau quả, hạt điều, sữa và các sản phẩm sữa. Dưới đây là kim ngạch xuất khẩu và tỷ trọng của các mặt hàng trên trong cơ cấu xuất khẩu hàng nông thủy sản của Việt Nam sang thị trường Trung Quốc: Bảng 2.2: Kim ngạch xuất khẩu một số mặt hàng chủ yếu thuộc EHP sang thị trường Trung Quốc (đơn vị: 1.000 USD) 2000 2001 2002 2003 2004 2005 Hàng thủy sản 238.112 243.512 170.657 78.295 48.161 60.201 Hạt điều 54.783 28.840 37.546 53.494 76.540 96.625 Rau, củ, quả 120.266 164.070 77.873 86.578 137.560 98.700 Sữa và sản phẩm sữa 0 7 18 5 1 2 Tổng 413.161 436.429 286.094 218.372 262.262 255.528 Nguồn: trang thông tin thương mại – Bộ Thương mại Qua bảng trên có thể thấy kim ngạch xuất khẩu hàng thủy sản liên tục giảm từ năm 2000 đến 2004, tuy nhiên đã phục hồi đáng kể từ 2005; mặt hàng rau quả biến động bất thường, ngay sau khi đạt được mức cao nhất vào năm 2001 thì lại tụt xuống mức thấp nhất vào năm sau đó; duy chỉ có hạt điều tăng liên tục qua các năm. Với những biến động như trên, tỷ trọng xuất khẩu của hạt điều và rau quả đang dần chiếm ưu thế với tỷ trọng từng mặt hàng đạt gần 40%, trong khi thủy sản đánh mất vai trò chủ đạo khi giảm từ mức gần 60% vào năm 2000-2002 xuống còn trên 25% vào giai đoạn 2004-2005. Bảng 2.2: Kim ngạch xuất khẩu một số mặt hàng chủ yếu thuộc EHP sang thị trường Trung Quốc (đơn vị: %) 2000 2001 2002 2003 2004 2005 Hàng thủy sản 57,63 55,80 59,65 35,85 18,36 25,56 Hạt điều 13,26 6,61 13,12 24,50 29,18 37,81 Rau, củ, quả 29,11 37,59 17,22 39,65 52,46 38,63 Sữa và sản phẩm sữa 0 0 0.01 0 0 0 Tổng 100 100 100 100 100 100 Nguồn: trang thông tin thương mại – Bộ Thương mại Trong các mặt hàng nông thủy sản Việt Nam xuất khẩu sang thị trường Trung Quốc thì thủy sản, rau quả và điều là những mặt hàng chiếm tỷ trọng lớn nhất. Tình hình xuất khẩu thủy sản Theo Bộ Thủy sản, kim ngạch xuất khẩu thủy sản sang Trung Quốc liên tục giảm mặc dù EHP bắt đầu có hiệu lực. Trung Quốc là thị trường tiềm năng, thủy sản Việt Nam đã rất quan tâm đến quốc gia láng giềng khổng lồ này thông qua việc tham dự hội chợ, khảo sát thị trường. Tuy nhiên, đến nay khó khăn, vướng mắc khi xuất hàng vào Trung Quốc vẫn chưa được tháo gỡ. Đó chính là phương thức giao hàng và thanh toán nhiều rủi ro; vận chuyển khó khăn, chi phí vận chuyển đường bộ cao; thuế nhập khẩu cao (khoảng 30%); chưa có sơ sở hạ tầng đáp ứng yêu cầu chuyên ngành (chợ cá, kho lạnh...) gần biên giới để tranh thủ cơ hội xuất hàng. Do vậy, các doanh nghiệp lớn ngại xuất hàng vào thị trường này, chủ yếu là do tư thương, buôn bán nhỏ làm. Bên cạnh đó, trong khi kinh tế Trung Quốc ngày càng phát triển, thu nhập và đời sống cao hơn, nhu cầu thực phẩm ngon, bổ dưỡng tăng, thì doanh nghiệp Việt Nam vẫn chưa chú ý chặt chẽ đến chất lượng sản phẩm.  Phía đông và nam Trung Quốc giáp biển nên có nguồn hải sản lớn, phong phú. Cộng với sản lượng tôm thẻ chân trắng lớn nhất châu Á, nên giá tôm, cá của Trung Quốc rất rẻ. Tại Phúc Kiến, chợ thủy sản lớn thứ hai nước này, là chợ đầu mối chuyên đưa hàng về phía tây (đồi núi). Do đó, tại Móng Cái, Lạng Sơn, Thủy sản Việt Nam không thể xuất được sang Trung Quốc, mà ngược lại, thủy sản Trung Quốc còn đang thẩm thấu vào Việt Nam. Ta xuất khẩu thủy sản chủ yếu qua Hà Khẩu (Lào Cai), nhưng chỉ ở dạng nhỏ lẻ. Biểu đồ 2.2: Sự biến động của hàng thủy sản Việt Nam xuất khẩu sang Trung Quốc (Đơn vị 1000 USD) Nguồn: trang thông tin thương mại – Bộ Thương mại Mặt khác, từ năm 2003 đến nay, do ảnh hưởng của dịch bệnh SARS và dư âm của nó, việc xuất khẩu vào Trung Quốc cũng giảm mạnh. Từ 30/6/2004, Trung Quốc lại đưa ra những quy định mới về ghi nhãn, bao gói và chứng nhận về kiểm hàng, kiểm dịch. Nhãn hàng phải ghi rõ tên thông thường, phương thức khai thác. Hàng nhập khẩu sẽ bị trả lại hoặc tiêu hủy nếu không trùng khớp với giấy chứng nhận hay không đáp ứng yêu cầu về ghi nhãn. Những quy định trên cũng gây khó khăn trong việc xuất khẩu hàng thủy sản của Việt Nam. Tình hình xuất khẩu rau quả Trong giai đoạn từ 2000 đến nay, kim ngạch xuất khẩu rau củ quả không ổn định qua các năm, đạt đỉnh cao nhất vào năm 2001 (164 triệu USD) nhưng lại xuống thấp nhất một năm sau đó (hơn 77 triệu USD), từ 2001-2003: kim ngạch xuất khẩu rau củ quả bị sút giảm mạnh. Từ năm 2004 đến nay kim ngạch xuất khẩu rau quả đã có dấu hiệu phục hồi, năm 2005 đã đạt 98,7 triệu USD. Điều đó chứng tỏ xuất khẩu rau quả của Việt Nam đã giảm mạnh, nhất là tại thị trường Trung Quốc. Biểu đồ 2.3: Xu hướng biến động của hàng rau củ quả Việt Nam xuất khẩu sang Trung Quốc ( Đơn vị 1000 USD) Nguồn: trang thông tin thương mại – Bộ Thương mại Mặc dù có ưu thế do sự gần gũi về mặt địa lý giữa ta và Trung Quốc nhưng rau củ quả còn nhiều gặp khó khăn do chi phí vận chuyển tăng cao, phương tiện vận chuyển và bảo quản còn nhiều yếu kém gây ảnh hưởng đến chất lượng và tiêu chuẩn, bên cạnh đó, vấp phải sự cạnh tranh với các mặt hàng cùng loại của Thái Lan, Malaysia và các nước ASEAN khác. Trong những năm tới, Trung Quốc vẫn là thị trường có nhiều tiềm năng phát triển đối với rau củ quả xuất khẩu của Việt Nam, bởi thị trường này dễ thâm nhập, yêu cầu về chất lượng không quá cao, nhu cầu tiêu dùng của cư dân cũng rất đa dạng. 2.1.3. Phương thức thanh toán Hiệp định thanh toán và hợp tác giữa ngân hàng hai nước quy định: ''Mọi khoản thanh toán xuất nhập khẩu (XNK) giữa hai nước phải thực hiện thông qua ngân hàng và đồng tiền thanh toán là ngoại tệ tự do chuyển đổi, VND hoặc Nhân dân tệ (NDT)... Riêng đối với thanh toán XNK tại khu vực biên giới được thực hiện bằng đồng tiền khác do hai bên tự bàn bạc. Phương thức thanh toán do hai bên mua bán thoả thuận''. Nhưng thời gian qua, thanh toán XNK Việt - Trung chưa quy tụ được vào ngân hàng mà vẫn thực hiện dưới nhiều hình thức: hàng đổi hàng, thanh toán qua ngân hàng bằng bản tệ, thanh toán bằng tiền mặt ngoại tệ theo giấy phép do Ngân hàng Nhà nước cấp, thanh toán trực tiếp cho nhau bằng tiền mặt USD, NDT, VND, thanh toán qua tư nhân... Thanh toán XNK giữa hai nước qua ngân hàng bằng ngoại tệ tự do chuyển đổi mặc dù tăng nhanh về kim ngạch thanh toán qua các năm nhưng vẫn chiếm tỷ lệ thấp trong tổng kim ngạch XNK giữa hai nước. Một số ngân hàng hiện có doanh số thanh toán lớn là Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam, Ngân hàng Công thương Việt Nam và Ngân hàng Xuất nhập khẩu... Doanh số thanh toán bằng VND và NDT qua ngân hàng cũng tăng nhanh về kim ngạch thanh toán qua các năm nhưng vẫn chiếm tỷ lệ thấp trong tổng kim ngạch XNK giữa hai nước. Các ngân hàng thương mại đã bước đầu tổ chức và mở rộng hoạt động thu đổi NDT tại khu vực biên giới. Tuy nhiên, tỷ lệ thanh toán qua ngân hàng còn thấp, nếu tính cả thanh toán bằng ngoại tệ tự do chuyển đổi và thanh toán bằng VND và NDT thì doanh số thanh toán qua ngân hàng hàng năm mới đạt khoảng 34,3% so với tổng kim ngạch XNK giữa hai nước. Nhiều doanh nghiệp vẫn thực hiện thanh toán với nhau bằng tiền mặt hoặc qua tư nhân chuyển tiền, mạng lưới tư nhân làm thanh toán thay ngân hàng thanh toán XNK biên giới với Trung Quốc còn phổ biến. Một số ngân hàng thường bị động về nguồn NDT để đáp ứng cho nhu cầu thanh toán nhập khẩu, mặc dù các ngân hàng thương mại đã triển khai hoạt động NDT nhưng cơ chế còn cồng kềnh, kinh doanh thiếu linh hoạt, doanh số hoạt động còn chưa cao, ngoài ra đôi lúc còn gặp khó khăn trong việc tiêu thụ số NDT mặt thu được trong quá trình kinh doanh. Còn theo các doanh nghiệp, các ngân hàng thương mại vẫn chưa thực sự đáp ứng đầy đủ được nhu cầu thanh toán của họ: công nghệ thanh toán qua ngân hàng còn lạc hậu, luân chuyển chứng từ giữa ngân hàng thương mại hai nước còn thực hiện thủ công (cầm tay qua biên giới), hình thức thanh toán còn chưa phong phú và đa dạng, chủ yếu là thực hiện hối phiếu và chứng từ chuyên dùng biên mậu. Các ngân hàng kinh doanh NDT còn dè dặt, cầm chừng, chưa thực sự đáp ứng được nhu cầu thanh toán, mua bán NDT của các doanh nghiệp. Do ngại thực hiện thanh toán qua ngân hàng nên các ngân hàng không muốn cho vay vì sợ khó kiểm soát được luồng vốn chu chuyển, dễ xảy ra rủi ro, mất vốn. Điều này làm giảm vai trò của các ngân hàng thương mại trong hoạt động tín dụng phục vụ quan hệ thương mại hai chiều Việt - Trung. Nhiều doanh nghiệp vẫn chưa nắm được chủ trương thanh toán bằng bản tệ qua ngân hàng. Mặt khác, chính sách XNK của hai nước khác nhau, thậm chí thường trái ngược nhau gây khó khăn cho doanh nghiệp trong việc thanh toán qua ngân hàng. Nước nào cũng khuyến khích xuất những mặt hàng thuộc thế mạnh của nước mình và hạn chế nhập khẩu những mặt hàng của đối tác nên các doanh nghiệp rất khó triển khai thanh toán qua ngân hàng. Ví dụ: đối với mặt hàng cao su, kim ngạch xuất của Việt Nam sang Trung Quốc chiếm trên 40% kim ngạch xuất khẩu cao su của Việt Nam. Tuy nhiên, do Trung Quốc áp dụng hạn ngạch và chỉ định đầu mối nhập khẩu nên các doanh nghiệp của Trung Quốc gặp khó khăn trong việc nhập khẩu cao su của Việt Nam để cung ứng cho nhu cầu trong nước (nếu nhập khẩu ngoài hạn ngạch và thanh toán qua ngân hàng doanh nghiệp nhập khẩu của Trung Quốc phải chịu thuế 65-77%). Vì các doanh nghiệp Trung Quốc thường phải chọn hình thức XNK tiểu ngạch và không thực hiện thanh toán qua ngân hàng. Chợ tiền + doanh nghiệp = thương mại biên mậu Bộ Thương mại và ngành ngân hàng cũng cho rằng, một nguyên nhân quan trọng của tình trạng trên là do chúng ta chưa kiểm soát được các hoạt động mua bán dọc biên giới. Hàng chục năm nay mua bán biên mậu Việt - Trung vẫn chưa theo tập quán buôn bán quốc tế - không ký hợp đồng thương mại, hoặc có ký hợp đồng nhưng chỉ mang hình thức mà hầu như không ràng buộc trách nhiệm thực hiện. Hàng hoá được mua bán, trao đổi tại khu vực biên giới thường là những hàng hoá có chất lượng không theo phẩm cấp, tiêu chuẩn chất lượng cụ thể, đặc biệt là hàng tươi sống. Việc mua bán hàng hoá thường được thực hiện trực tiếp dưới hình thức buôn bán tiểu ngạch, chủ yếu thực hiện dưới hình thức thương nhân sau khi xem xét chất lượng hàng hoá, thoả thuận giá cả và thực hiện giao hàng, thanh toán tiền mặt. Bên cạnh đó, hiện tượng buôn lậu, lừa đảo, chiếm dụng vốn tồn tại phổ biến ở vùng biên giới nên các doanh nghiệp thường chọn phương thức thanh toán trao ngay bằng tiền mặt hoặc đặt cọc bằng tiền mặt trước khi giao hàng. Một số không nhỏ các doanh nghiệp đã cố tình không thực hiện thanh toán ngân hàng để buôn lậu, trốn thuế... Các doanh nghiệp này được sự hỗ trợ tích cực của một số thương nhân chuyên kinh doanh mua bán tiền ở chợ tiền biên giới. Chợ tiền này tồn tại trong một thời gian dài và đã có quan hệ truyền thống với một số doanh nghiệp và thương nhân trong nước, mua bán bản tệ (NDT, VND) và thậm chí USD cũng không đòi hỏi hoá đơn, giấy tờ... đã thu hút nhiều doanh nghiệp thanh toán thông qua tư nhân. Thêm nữa, chính sách của các bộ, ngành Việt Nam về hoạt động XNK tại khu vực biên giới vẫn còn chưa thống nhất, thiếu đồng bộ, chưa kịp thời và chưa sát với thực tế. Sự phối hợp giữa Trung ương địa phương trong quản lý tiền tệ, quản lý ngoại hối và quản lý XNK tại vùng biên giới còn thiếu chặt chẽ. Ví dụ: không cho phép các doanh nghiệp nhập khẩu của Trung Quốc được tính thuế theo giá ghi trên hợp đồng ngoại thương thực hiện thanh toán bằng VND và NDT qua ngân hàng hoặc còn thu phí đối với số tiền mặt các ngân hàng thương mại thu được phải chuyển ra nước ngoài tiêu thụ đã không khuyến khích được thanh toán qua ngân hàng và còn làm tăng chi phí hoạt động thanh toán XNK biên giới qua ngân hàng. Hiệp định thanh toán cũng như các văn bản hướng dẫn về thanh toán còn chưa cụ thể. Nhiều nội dung còn chưa được hướng dẫn gây lúng túng cho ngân hàng và doanh nghiệp khi áp dụng vào quá trình thanh toán. Đồng thời, việc cấp giấy phép cho tư nhân hoạt động đổi tiền ở một số địa phương còn chậm. Việc phối hợp giữa các ngành chức năng trên địa bàn để thực hiện chủ trương của Chính phủ còn chưa tốt, có những trường hợp tư nhân đổi tiền nhưng không có giấy phép hoặc thay ngân hàng thực hiện chức năng trung gian thanh toán nhưng vẫn chưa có biện pháp xử lý thích hợp. Đồng thời, việc kiểm soát cá nhân mở tài khoản ở nước ngoài và vận chuyển tiền mặt qua biên giới vẫn chưa được thực hiện một cách có hiệu quả. 2.2. Đánh giá, nhận xét về hoạt động xuất khẩu hàng nông thủy sản Việt Nam sang thị trường Trung Quốc dưới tác động của EHP 2.2.1. Những kết quả đạt được Kết quả đầu tiên có thể thấy được là kim ngạch xuất khẩu hàng nông thủy sản sang thị trường Trung Quốc có chiều hướng phục hồi và đi vào ổn định sau giai đoạn suy thoái từ 2001-2003, theo đó, kim ngạch năm 2004 lớn hơn năm 2003 là gần 44 triệu USD. Cơ cấu mặt hàng xuất khẩu đã có những thay đổi tích cực với các mặt hàng chủ lực như hạt điều, rau quả. Đặc biệt là sự tăng trưởng nhanh chóng cả về kim ngạch và tỷ trọng xuất khẩu của hạt điều, cho thấy tiềm năng lớn của thị trường Trung Quốc đối với mặt hàng này. Các hiệp định được ký kết giữa chính phủ hai nước Việt Nam – Trung Quốc như: như Hiệp định thương mại, Hiệp định mua bán hàng hóa tại vùng biên giới, Hiệp định về thành lập Uỷ ban hợp tác kinh tế, Hiệp định thanh toán, các hiệp định về giao thông, đường sắt, đường bộ, đường hàng không. Các hiệp định này được ký kết cùng với việc khai thông nhiều cặp cửa khẩu trên tuyến biên giới Việt-Trung đã tạo thuận lợi cho các ngành, địa phương và doanh nghiệp hai nước hợp tác trao đổi hàng hóa, mở ra một thời kỳ mới trong giao lưu kinh tế qua biên giới. đã góp phần tạo ra cơ chế pháp lý hoàn thiện hơn, giúp hạn chế các vướng mắc về thủ tục hành chính cũng như các hành vi gian lận thương mại, thúc đẩy hoạt động thương mại giữa hai nước nói chung và hoạt động xuất khẩu hàng nông thủy sản của Việt Nam nói riêng. Hình thức xuất khẩu chính ngạch, thanh toán thông qua ngân hàng đã được phổ biến rộng rãi hơn, qua đó đảm bảo sự tin cậy và quan hệ giao dịch lâu dài giữa doanh nghiệp của hai nước, cũng như tăng cường hiệu quả của công tác theo dõi, kiểm soát của các cơ quan thương mại và hải quan của hai nước. 2.2.2. Những hạn chế, tồn tại Kim ngạch hàng nông thủy sản xuất khẩu sang thị trường Trung Quốc không tăng như mong đợi, thậm chí kim ngạch năm 2005 đã giảm hơn 7 triệu USD, và thấp hơn rất nhiều so với mức trung bình của giai đoạn 2000-2005 là hơn 311 triệu USD. Điều đó chưa phản ánh đúng tiềm năng xuất khẩu hàng nông thủy sản dồi dào của Việt Nam với quy mô sản xuất lớn, chủng loại phong phú và điều kiện tự nhiên ưu đãi. Sức cạnh tranh của hàng Việt Nam vẫn thua kém các đối thủ chính trên thị trường Trung Quốc nhiều cả về giá cả, chất lượng và mẫu mã, đặc biệt là so với Thái Lan. Mặc dù có cơ cấu xuất khẩu tương đối giống nhau nhưng các mặt hàng của Thái Lan có hình thức, mẫu mã hấp dẫn hơn, chủng loại đa dạng hơn, chất lượng đảm bảo hơn và đáp ứng được các tiêu chuẩn về chất lượng và an toàn vệ sinh thực phầm của thị trường Trung Quốc. Bản thân hàng nông thủy sản Việt Nam chưa tạo được thương hiệu có uy tín trên thị trường Trung Quốc. Do đó, hàng nông thủy sản của Việt Nam khó tìm được chỗ đứng vững chắc tại thị trường này. Các doanh nghiệp xuất khẩu hàng nông thủy sản của Việt Nam và các cơ quan quản lý còn hạn chế trong nhận thức về EHP. Điều đó làm cho những lợi thế vốn có của hàng nông thủy sản Việt Nam trên thị trường Trung Quốc cũng như những lợi thế từ chương trình thu hoạch sớm không được khai thác hiệu quả, trực tiếp ảnh hưởng đến kết quả sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp và kim ngạch xuất khẩu của đất nước. Hình thức xuất khẩu hiện vẫn chủ yếu nhỏ lẻ, thông qua con đường biên mậu tiểu ngạch, nên quy mô xuất khẩu bị hạn chế, bị đối tác nắm quyền chủ động về giá cả cũng như số lượng hàng xuất khẩu, đồng thời khiến hoạt động xuất khẩu khó kiểm soát, việc cấp giấy chứng nhận xuất xứ (C/O) gặp nhiều trở ngại, cản trở cho việc tiếp cận với các điều kiện ưu đãi từ EHP của các doanh nghiệp xuất khẩu hàng nông thủy sản của Việt Nam. 2.2.3. Nguyên nhân của những hạn chế trong quá trình thực hiện EHP 2.2.3.1 Nguyên nhân khách quan - Do những ưu đãi lớn hơn của Trung Quốc đối với ASEAN 6 do gia nhập lộ trình sớm hơn đối với Chương trình thu hoạch sớm, cụ thể là Trung Quốc và Thái Lan đã ký hợp tác thương mại, thực hiện thuế suất nhập khẩu bằng 0% cho rau quả Thái, đã gây khó khăn lớn cho ngành rau quả Việt Nam vì không thể cạnh tranh bằng giá cả chứ chưa nói đến chất lượng.   - Do Trung Quốc có chính sách quản lý hoạt động biên mậu và quản lý xuất khẩu rất chặt chẽ và hạn chế như: Việc nhập khẩu hàng hoá bị hạn chế theo hạn ngạch hoặc giấy phép, chỉ định doanh nghiệp được phép nhập khẩu. Hình thức mua bán phổ biến từ trước đến nay vẫn là trao đổi và mua bán biên mậu không theo thông lệ quốc tế, sau khi gia nhập WTO và áp dụng tiêu chuẩn mới, tất cả mọi loại hàng hoá vào Trung Quốc phải qua đăng ký xuất xứ bằng tiếng Trung Quốc. Riêng đối với mặt hàng nông sản phải có nhãn hiệu công khai chất lượng hàng hoá, kiểm dịch thực vật và an toàn thực phẩm. - Do chịu sức cạnh tranh vốn đã rất mạnh của các đối thủ. Khó khăn thứ nhất là nông thủy sản Việt Nam vào Trung Quốc phải chịu thuế nhập khẩu cao hơn của Thái Lan kéo dài từ tháng 10/2003 đến đầu năm 2006, khi Trung Quốc cắt giảm thuế quan xuống 0% cho hàng Việt Nam. Xuất khẩu nông thủy sản vào Trung Quốc giảm mạnh là do chính sách thuế bất cập, điều này nằm ngoài tầm tay của doanh nghiệp. Nông thủy sản Việt Nam xuất khẩu vào Trung Quốc hiện đang chịu mức thuế 12-24%, trong khi hàng của Thái Lan xuất vào Trung Quốc ngay từ năm 2003 chỉ còn 5%; năm 2004 mức thuế bằng 0%. Hơn nữa, đến năm 2006, khi nông thủy sản Việt Nam vào Trung Quốc được hưởng thuế quan 0% thì lúc đó hàng cùng loại của Thái Lan đã chiếm lĩnh thị trường Trung Quốc. Trong khi đó, hàng của Thái Lan tương đồng với Việt Nam và thường lấn át hàng Việt Nam trên thị trường thế giới nhờ chất lượng, trình độ bảo quản, giống và khả năng tập trung nguồn hàng. Thứ hai là kể từ đầu năm 2004, Trung Quốc đã bãi bỏ ưu đãi thuế quan đối với hàng biên mậu. Trong khi nông thủy sản Việt Nam vào Trung Quốc chủ yếu bằng đường biên mậu qua biên giới Việt - Trung, trước đây được hưởng ưu đãi là giảm 50% thuế suất nhập khẩu, nay điều này không còn khi Trung Quốc là thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO). - Giữa Việt Nam và Trung Quốc chưa ký Hiệp định Kiểm dịch động, thực vật mà mới chỉ ký Hiệp định bảo đảm chất lượng hàng hóa xuất nhập khẩu và công nhận lẫn nhau nhưng hai bên vẫn chưa trao đổi danh mục hàng hóa theo tiêu chuẩn quốc gia để làm cơ sở tiến hành kiểm tra giám sát. 2.2.3.2. Nguyên nhân chủ quan - Chất lượng hàng xuất khẩu mặt hàng nông thủy sản Việt Nam khó có thể cạnh tranh được với hàng Trung Quốc, Thái Lan về chất lượng và mẫu mã. Nông thủy sản Việt Nam hiện chủ yếu là sơ chế thô và xuất bán thành phẩm. Chất lượng nguyên liệu cũng như chất lượng sản phẩm chế biến còn thấp. Do vậy mà nhiều doanh nghiệp Trung Quốc trước đây đã làm ăn với Việt Nam thì nay họ chuyển sang các đối tác khác như: Thái Lan, Ấn Độ...Nguyên nhân không phải do người nông dân mà là do hệ thống các cơ quan nghiên cứu khoa học và hệ thống khuyến nông không có sự quan tâm, hướng dẫn một cách bài bản quy trình kỹ thuật canh tác cho nông dân, bao gồm cách lựa chọn giống đến khâu chăm sóc, thu hoạch và bảo quản sau thu hoạch. Đây là hệ quả của lối sản xuất tuỳ tiện, canh tác theo tập quán cũ; quy mô sản xuất nhỏ lẻ, không đồng bộ, chất lượng giống không cao. - Tư duy và cách thức xuất khẩu chủ yếu theo phương thức tiểu ngạch mậu biên đã gây ra tình trạng thiếu ổn định và mức độ rủỉ ro cao cho dòng hàng xuất khẩu. - Doanh nghiệp Việt Nam chưa xây dựng được mạng lưới quan hệ tiêu thụ mang tính lâu dài và ổn định tại thị trường Trung Quốc, trong giao dịch mậu dịch thường rơi vào thế bị động.  - Quá trình tiếp nhận và phổ biến về Chương trình thu hoạch sớm trong nước thiếu hiệu quả. Hiện nay, có ít doanh nghiệp được hưởng ưu đãi thuế, đối với nhiều mặt hàng nông thủy sản của Việt Nam khi xuất sang Trung Quốc, đa số vẫn phải chịu mức thuế cũ, tỉ lệ các doanh nghiệp xin mẫu C/O form E (xuất xứ hàng hóa) để hưởng thuế suất ưu đãi khi xuất hàng sang Trung Quốc chỉ dưới 10%. Một trong những nguyên nhân chính là do thủ tục cấp C/O phía Việt Nam vẫn còn bất cập. Tại ba cửa khẩu Tân Thanh, Lào Cai và Móng Cái đều không có cơ quan cấp mẫu C/O, DN khi xuất các mặt hàng nằm trong danh mục ưu đãi muốn có được mẫu C/O về Hà Nội để đến Bộ Thương mại xin cấp. Đặc thù mặt hàng này phải xuất nhanh, quy mô nhỏ bé, vận chuyển xa làm tăng chi phí hàng hoá, nên không thể lần nào cũng về được Hà Nội xin giấy. Trong khi đó, phía Trung Quốc do cơ quan cấp C/O đặt ngay tại cửa khẩu nên gần như 100% hàng nhập từ Trung Quốc nếu nằm trong danh mục được cắt giảm đều được giảm thuế ưu đãi từ phía Việt Nam. CHƯƠNG III: DỰ BÁO VÀ GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY XUẤT KHẨU HÀNG NÔNG THỦY SẢN CỦA VIỆT NAM SANG THỊ TRƯỜNG TRUNG QUỐC DƯỚi TÁC ĐỘNG CỦA CHƯƠNG TRÌNH THU HOẠCH SỚM 3.1. Dự báo xuất khẩu hàng nông thủy sản của Việt Nam sang thị trường Trung Quốc Mặc dù gặp phải những khó khăn ban đầu trong quá trình thực hiện chương trình thu hoạch sớm nhưng chúng ta không thể phủ nhận lợi ích từ nó nói riêng và khu vực tự do thương mại ASEAN-Trung Quốc nói chung. Các lợi thế đó là: Thứ nhất, Việt Nam và Trung Quốc bước vào xu thế hội nhập ngày càng sâu rộng. Kinh tế tri thức, xu thế hội nhập và toàn cầu hoá sẽ đem đến nhiều cơ hội cho quan hệ thương mại giữa hai nước. Thứ hai, đối với Việt Nam, trong thời gian tới, Trung Quốc sẽ là thị trường đầy tiềm năng do Trung Quốc là thành viên chính thức của WTO; Trung Quốc là thị trường có sức mua lớn, dễ tính và đa dạng với 1,3 tỷ dân, có nơi có thu nhập rất cao (18.000 – 20.000 USD/người/năm), có nơi chỉ thu nhập rất thấp (250 – 300 USD/người/năm). Đây là thuận lợi rất cơ bản cho hoạt động XNK của Việt Nam vì hầu như hàng gì cũng có thể xuất khẩu sang Trung Quốc và nhập khẩu từ Trung Quốc về với những phẩm cấp hàng hoá khác nhau, giá cả khác nhau; Trung Quốc có thị trường nội tệ ổn định trong 10 năm qua. Thứ ba, xu hướng tích cực hợp tác đi đôi với cạnh tranh mạnh mẽ trong thế kỷ 21 là động lực thúc đẩy quan hệ ngoại thương Việt Nam - Trung Quốc phát triển theo hướng bền vững, toàn diện và sâu sắc hơn. Thứ tư, đối với Trung Quốc, Hiệp định Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ có hiệu lực mở ra nhiều cơ hội, thuận lợi và nhiều triển vọng mới. Thứ năm, Việt Nam đang đi những bước cuối cùng trên con đường dẫn vào Tổ chức Thương mại Quốc tế (WTO), mở ra cơ hội tiếp cận thị trường Trung Quốc nói riêng và thế giới nói chung, đồng thời tạo ra cơ chế hợp tác sâu hơn nữa với Trung Quốc trên bình diện quốc gia, khu vực và thế giới. Theo kết quả dự báo của một số công trình nghiên cứu của Bộ Thương mại đã công bố thì trong giai đoạn 2006-2010, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Trung Quốc sẽ đạt nhịp độ tăng bình quân từ 13 – 14% năm, cụ thể: năm 2006 là 3,4 tỷ USD, năm 2007 là 3,9 tỷ USD, năm 2008 là 4,4 tỷ USD, năm 2009 là 5,5 tỷ USD và năm 2010 là 6,2 tỷ USD. Theo dự đoán của Tổ chức Lương thực Thế giới (FAO), nhu cầu tiêu thụ rau củ quả trên thế giới tăng bình quân 3,6%/năm, trong khi cung vẫn chưa đủ cầu và chỉ tăng 2,8%/năm. Vì vậy đến năm 2010, Bộ thương mại đã đặt triển vọng xuất khẩu rau củ quả khoảng 700 triệu USD, hạt điều khoảng 1 tỷ USD, thủy sản khoảng 4 tỷ USD, trong đó, tỷ trọng xuất khẩu sang thị trường Trung Quốc chiếm phần quan trọng. 3.2. Giải pháp thúc đẩy xuất khẩu hàng nông thủy sản của Việt Nam sang thị trường Trung Quốc dưới tác động của Chương trình thu hoạch sớm 3.2.1. Giải pháp từ phía nhà nước - Cải cách hành chính: Kiến nghị các cơ quan quản lý nhà nước đổi mới cơ chế quản lý, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp tham gia xuất nhập khẩu, cụ thể là giải quyết những vướng mắc xung quanh việc cấp C/O mẫu E cho các doanh nghiệp. Học tập kinh nghiệm của Trung Quốc, các cơ quan cấp C/O nên đặt ngay tại các cửa khẩu, tránh tình trạng tập trung cấp tại một địa điểm, do đó số lượng hàng xuất khẩu vào Trung Quốc đều được cấp C/O và được giảm thuế ưu đãi, vừa giảm bớt thiệt thòi cho các doanh nghiệp, vừa nâng cao cơ hội thâm nhập sâu vào thị trường Trung Quốc. - Đổi mới trong sản xuất: Tăng cường đầu tư vào hệ thống các cơ quan nghiên cứu khoa học và hệ thống khuyến nông nhằm quan tâm, hướng dẫn một cách bài bản quy trình kỹ thuật canh tác cho người sản xuất, từ cách lựa chọn giống đến khâu chăm sóc, thu hoạch và bảo quản sau thu hoạch, tránh tình trạng sản xuất tuỳ tiện, canh tác theo tập quán cũ, quy mô sản xuất manh mún, nhỏ lẻ, không đồng bộ, chất lượng không cao. Khuyến khích sản xuất, tiêu thụ nông sản hàng hoá thông qua hợp đồng và thúc đẩy phong trào liên kết “4 nhà” gồm nhà sản xuất, nhà khoa học, nhà kinh doanh và nhà nước. Cụ thể, nhà sản xuất: tiếp nhận kỹ thuật mới, sáng tạo và đi đầu trong sản xuất sản phẩm chất lượng cao và an toàn theo yêu cầu thị trường; nhà kinh doanh: cung cấp yêu cầu của khách hàng cho nhà sản xuất, nhà khoa học, nhà nước để sản xuất ra sản phẩm theo yêu cầu khách hàng, góp phần cải tiến, nâng cao giá trị sản phẩm, chủ động sáng tạo phát triển và mở rộng thị trường; Nhà nước có trách nhiệm  đề ra chính sách thích hợp hỗ trợ kinh tế tập thể, tổ chức liên kết tạo ra sản phẩm chất lượng cao, an toàn đủ sức cạnh tranh; nhà khoa học: cung cấp kỹ năng, hướng dẫn nghiên cứu & phát triển và hỗ trợ huấn luyện, đào tạo, góp phần phát triển nền nông nghiệp bền vững. Đối với thủy sản, các cơ quan quản lý nhà nước cần tập trung phát triển đánh bắt xa bờ có thể dưới hình thức hỗ trợ ngư dân thông qua tín dụng ưu đãi, trợ giúp về kỹ thuật, phương tiện. Đối với nông sản, nhà nước cần tập trung hướng dẫn, quy hoạch phát triển các loại cây ăn quả có lợi thế như loại cây có múi gồm cam, quýt, bưởi; dứa, xoài, nhãn, vải, thanh long, sầu riêng, măng cụt, vú sữa; phát triển các giống cây ăn quả chất lượng cao, đặc sản ở các vùng như cam, quýt (Canh, Cần Thơ), bưởi (Phúc Trạch, Đoan Hùng, Năm Roi), Xoài cát (Vĩnh Long, Bến Tre, Tiền Giang), quýt hồng (Đồng Tháp). Bên cạnh đó, cũng cần đầu tư các vùng nguyên liệu cây ăn quả tập trung cho các nhà máy theo hướng chủ yếu là thâm canh, xây dựng các vườn giống đạt tiêu chuẩn quy định, sản xuất đủ giống tốt, có kiểm soát chất lượng; mở rộng việc áp dụng các tiến bộ kỹ thuật sạch bệnh, trái vụ, bảo quản và chế biến. - Xây dựng thương hiệu: Nhanh chóng xây dựng thương hiệu cho hàng nông thủy sản của Việt Nam theo các bước sau: Một là, cần nhanh chóng phối hợp với các bộ ngành và hiệp hội ngành hàng rà soát lại quy hoạch vùng, quy hoạch ngành gắn với điều kiện địa phương và dự báo thị trường trong nước và quốc tế để có chiến lược, định hướng phát triển phù hợp từng mặt hàng nông sản. Hai là, đẩy mạnh hơn nữa các chương trình xúc tiến thương mại, quảng bá sản phẩm trong và ngoài nước thông qua các hội chợ - triển lãm. Ba là, có chính sách đầu tư, hỗ trợ, khuyến khích các cá nhân, tổ chức đứng ra xây dựng thương hiệu cho sản phẩm của mình; hoàn thiện các văn bản pháp luật, tạo điều kiện để các đơn vị, cá nhân đăng ký thương hiệu cho sản phẩm của mình. Bốn là, để tạo dựng thương hiệu cho các mặt hàng nông sản, các cơ quan chức năng cần đẩy mạnh hơn nữa công tác nghiên cứu khoa học trong sản xuất giống cây trồng mới, phục hồi các giống đặc sản đang có nguy cơ thoái hóa; nghiên cứu các quy trình thâm canh tiên tiến nhằm tạo điều kiện để nông dân giảm giá thành sản xuất, đồng thời tăng năng suất, chất lượng và thu nhập. Nghiên cứu, thành lập quỹ bảo hiểm sản phẩm để người dân yên tâm đầu tư sản xuất, tránh tình trạng người dân tự chuyển đổi quy hoạch khi gặp thiên tai, dịch bệnh hoặc khi thị trường bất lợi. - Phát triển khu trung tâm thương mại: Tập trung khẩn trương xây dựng khu trung tâm thương mại tại khu vực biên giới Việt- Trung. Khu trung tâm Thương mại được xem như trung tâm chợ đầu mối hàng nông sản và các loại hàng hóa từ các nơi chuyển về đây để giao dịch xuất sang Trung Quốc. Khu trung tâm thương mại sẽ có các kho lạnh chứa hàng nông sản, thủy sản, kho ngoại quan, nhà máy sơ chế nông sản để nâng giá trị hàng Việt Nam, không để xảy ra tình trạng hàng lên đến nơi bằng mọi giá phải bán đổ, bán tháo. Đối với thủy sản, Bộ Thủy sản cần phối hợp với Bộ Giao thông Vận tải, các tỉnh giáp Trung Quốc như Lào Cai, Lạng Sơn đầu tư hệ thống toa xe lạnh, xe lạnh và xây dựng hệ thống kho lạnh phục vụ việc vận chuyển hàng thủy sản của Việt Nam sang tỉnh Vân Nam, Trung Quốc và từ đó tiếp tục thâm nhập sâu vào các tỉnh khu vực Tây Nam Trung Quốc như Tứ Xuyên, Quý Châu - Xúc tiến thương mại: Hiện nay, tỉnh Vân Nam, Quảng Tây và các tỉnh miền Tây Nam Trung Quốc là những địa phương không có biển nên nhu cầu tiêu thụ nông thủy sản cao đặc biệt là thủy sản vào mùa đông và các dịp lễ, tết; do vậy, cần chú ý công tác xúc tiến thương mại tại khu vực này. Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu Thủy sản (Vasep) và Bộ Thủy sản cần nghiên cứu tổ chức định kỳ một năm một lần Hội chợ sản phẩm thủy sản Việt Nam tại khu vực này nhằm quảng bá rộng rãi về tiềm năng thủy sản Việt Nam. Trong các mặt hàng thủy sản, cá da trơn là mặt hàng có thế mạnh xuất khẩu và Trung Quốc cũng có nhu cầu, do vậy cần tổ chức các đoàn xúc tiến thương mại để quảng bá, giới thiệu nhiều về mặt hàng này. Thiết lập kênh phân phối thông qua việc khuyến khích các công ty xuất khẩu thủy sản thành lập các văn phòng đại diện tại các địa phương có nhu cầu lớn về nhập khẩu thủy sản. - Hợp tác quốc tế: Tích cực đẩy mạnh cơ chế hợp tác giữa chính phủ, các bộ ngành và địa phương giữa Việt Nam và Trung Quốc nhằm đẩy mạnh quan hệ thương mại giữa hai nước. Một số thoả thuận liên quan đến hàng xuất khẩu của Việt Nam như kiểm dịch thuỷ sản và gạo, vệ sinh an toàn thực phẩm... được ký kết tạo điều kiện pháp lý và nâng cao giá trị cho hàng xuất khẩu của Việt Nam. Ngoài ra, việc xây dựng hành lang kinh tế Nam Ninh - Lạng Sơn - Hà Nội - Hải Phòng và vành đai kinh tế vòng quanh Vịnh Bắc Bộ cũng góp phần thúc đẩy thương mại tại các khu vực trên, đồng thời có tác động lan toả ra các tỉnh xung quanh, tạo ra một không gian hợp tác kinh tế rộng lớn giữa hai nước 3.2.2. Giải pháp từ phía doanh nghiệp - Tìm hiểu thị trường: Nâng cao khả năng nắm bắt và mức độ sử dụng những thông tin về thị trường Trung Quốc mà doanh nghiệp đang quan tâm. Đối với Việt Nam, Trung Quốc là một thị trường tiềm năng, vừa liền kề, vừa rộng lớn. Song sự khai thác thị trường này vẫn còn nhiều hạn chế. Tìm hiểu sâu sắc và đầy đủ hơn về đất nước và môi trường thương mại Trung Quốc, các doanh nghiệp Việt Nam sẽ có thêm cơ hội thâm nhập thị trường tiềm năng này. Thị trường Trung Quốc rộng lớn nhưng lại không đồng nhất. Sự chênh lệch về kinh tế giữa các khu vực đặc biệt rõ nét và nhu cầu tiêu dùng mang tính đa dạng cao. Các doanh nghiệp xuất khẩu phía Việt Nam cần phải đi sâu nghiên cứu những yêu cầu khác nhau của thị trường Trung Quốc để tìm kiếm những vùng thị trường, những lĩnh vực thương mại, những nguồn hàng và đối tác phù hợp với điều kiện kinh doanh của mình. Doanh nghiệp Việt Nam nên lấy sản phẩm ưu thế của mình phát triển thị trường phía Tây Trung Quốc, lợi dụng chính sách ưu đãi của Trung Quốc đối với khu vực phía Tây, mở mang quảng bá sản phẩm của Việt Nam. Vùng đất phía Tây Trung Quốc là trọng điểm kinh tế lớn của nước này với tổng thu nhập bằng 25% GDP, là thị trường có nhu cầu tương đối cao đối với sản phẩm của Việt Nam, nhất là hàng thuỷ sản và trái cây nhiệt đới. Thị hiếu tiêu dùng ở vùng này là: giá rẻ, chất lượng tốt và đặc biệt, bao bì phải hấp dẫn. Tìm hiểu thị trường Trung Quốc, doanh nghiệp cần biết rằng: Là một thành viên của WTO, kinh tế Trung Quốc đã hoà nhập với thế giới, muốn thâm nhập thị trường này một cách chắc chắn, lâu dài thì cần nắm vững hệ thống pháp luật mới của Trung Quốc, hiểu rõ Trung Quốc đã vận dụng các quy tắc và thể lệ của WTO như thế nào, đặc biệt là các tương quan pháp quy và chính sách như: Xuất nhập khẩu, biên mậu, kiểm nghiệm, kiểm dịch, tiêu chuẩn an toàn vệ sinh, tài chính tiền tệ... từ đó chuẩn bị các biện pháp ứng đối thích hợp cho việc xúc tiến thương mại với Trung Quốc. - Nâng cao chất lượng sản phẩm: Doanh nghiệp Việt Nam cần phải chú ý tới khâu chất lượng và bảo quản sản phẩm. Mặt hàng nông thủy sản của Việt Nam rất dồi dào, nhưng chủ yếu chưa qua chế biến, hoặc mới dừng ở khâu sơ chế. Vì vậy, giá hàng hóa nông sản phụ thuộc rất nhiều vào giá cả thị trường nông sản chung trên thế giới, mà mức giá này lại biến động mạnh trong thời gian qua. Để giảm thiểu rủi ro này, các doanh nghiệp kinh doanh, chế biến nông thủy sản cần tập trung vào việc xuất khẩu hàng đã qua chế biến, chú ý đến bao bì và đóng gói sản phẩm, xây dựng thương hiệu hàng nông thủy sản chế biến của Việt Nam. Đối với thủy sản, ngoài việc đầu tư nâng cao chất lượng, bao bì, mẫu mã cũng phải thay đổi nhằm phù hợp với các quy định của WTO và các tiêu chuẩn kiểm nghiệm, kiểm dịch của Trung Quốc đề ra; hơn nữa, cần đầu tư nâng cao sản lượng đánh bắt, tăng cường đánh bắt xa bờ, đảm bảo cung cấp nhiều và đều đặn. Bên cạnh đó cần phải đa dạng hóa sản phẩm, tránh tình trạng sản phẩm đơn điệu dễ gây ra sự nhàm chán đối với khách hàng. - Tăng cường tiếp cận thị trường: Các doanh nghiệp cần thực hiện việc tiếp thị mạnh mẽ vào các đầu mối cung cấp, chế biến lớn, hệ thống hoặc mạng lưới phân phối các sản phẩm nông sản, thuỷ hải sản của Trung Quốc. Chủ động thiết lập mạng lưới tiêu thụ hàng ổn định, lâu dài tại các thành phố lớn của Trung Quốc, cần tính tới khả năng lập cửa hàng giới thiệu và bán sản phẩm của Việt Nam tại Côn Minh, Nam Ninh, Quảng Châu, Thượng Hải. Các doanh nghiệp Việt Nam cũng có thể hợp tác với các doanh nghiệp Trung Quốc để chế biến rồi xuất khẩu sang Trung Quốc. - Xây dựng uy tín và độ ổn định cao: vì doanh nhân Trung Quốc rất coi trọng mặt uy tín và quan hệ thân quen. Do vậy, cần có sự phối hợp đồng bộ giữa các Bộ, ngành trong việc định hướng sản xuất mang tính lâu dài để có được quy hoạch sản xuất mang tính tổng thể cho các ngành sản xuất trong cả nước, đảm bảo nguồn cung hàng ổn định về lượng và giá cho đối tác. KẾT LUẬN Việc thành lập Khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc (ACFTA) với lộ trình cắt giảm thuế quan trong 10 năm để đạt mục tiêu tự do hoá thương mại vào năm 2015 đặt ra rất nhiều thách thức lớn đối với các doanh nghiệp Việt Nam, đồng thời cũng mở ra nhiều cơ hội kinh doanh đầy tiềm năng. Trong đó, Chương trình thu hoạch chính là những cơ hội và thách thức đầu tiên đối với nền kinh tế Việt Nam.  Những năm gần đây, kim ngạch buôn bán hai chiều giữa Việt Nam và Trung Quốc luôn đạt mức tăng trưởng trên 25%, tuy nhiên tỷ trọng kim ngạch vẫn duy trì ở mức 10% tổng giá trị xuất nhập khẩu của Việt Nam. Trung Quốc hiện là đối tác thương mại quan trọng thứ 3 của Việt Nam sau Nhật Bản và Liên minh châu Âu nhưng nếu xét về cơ cấu thương mại, Việt Nam luôn ở trong tình trạng thâm hụt cán cân thương mại với Trung Quốc và có xu hướng tăng do tốc độ tăng giá trị nhập khẩu cao hơn nhiều so với tốc độ tăng xuất khẩu của Việt Nam. Tỷ lệ nhập siêu bình quân tăng trên 30% so với tổng kim ngạch nhập khẩu trong các năm 2001-2003 và tăng 43% trong năm 2003 trong khi xuất khẩu của Việt Nam sang Trung Quốc lại tăng không đáng kể và duy trì ở mức 9%. Điều này cho thấy khả năng tiếp cận thị trường của hàng hoá Trung Quốc vào Việt Nam ngày càng tăng với tốc độ cao, ngay cả khi chưa thực hiện ACFTA.  Trong khi đánh giá tác động của việc thực hiện ACFTA đối với một số sản phẩm của Việt Nam, các cam kết tự do thương mại hàng hoá của ACFTA đang được các nước thành viên triển khai thực hiện, hầu hết các mặt hàng nông sản, thủy sản đã được thực hiện theo Chương trình thu hoạch sớm với lộ trình cắt giảm 3 năm 2004 -- 2006 xuống thuế suất 0% đối với ASEAN6 và Trung Quốc, 5 năm đối với Việt Nam (2004-2008). Toàn bộ các mặt hàng phi nông sản được cam kết theo Hiệp định thương mại hàng hoá với lộ trình cắt giảm thuế bắt đầu từ ngày 1/7/2005. Nhìn vào số liệu thống kê cùng với cơ cấu các mặt hàng xuất nhập khẩu giữa Việt Nam và Trung Quốc và lộ trình loại bỏ hàng rào thuế quan như vậy, các chuyên gia đánh giá rằng việc tham gia vào ACFTA một mặt sẽ tạo điều kiện cho hàng Việt Nam thâm nhập vào thị trường Trung Quốc, nhưng mặt khác cũng đặt ra những thách thức cạnh tranh rất lớn đối với nhiều ngành công nghiệp của Việt Nam, đặc biệt là các mặt hàng tương đồng với Trung Quốc sản xuất với trình độ phát triển cao hơn. Tuy nhiên, nếu Việt Nam có những chính sách khuyến khích đầu tư và thúc đẩy xuất khẩu các mặt hàng có lợi thế, như nhóm mặt hàng nông sản và thuỷ sản thì Việt Nam hoàn toàn có khả năng thu hẹp mức thâm hụt cán cân thương mại với nước này. Do đó, đứng trước những cơ hội và thách thức do ACFTA và Chương trình thu hoach sớm đem lại, Việt Nam cần có những điều chỉnh hợp lý và đồng bộ để tranh thu tốt nhất cơ hội này, nâng cao khả năng và hiệu quả xuất khẩu của nền kinh tế. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO I. CÁC GIÁO TRÌNH SỬ DỤNG Chủ biên PGS.TS Đỗ Đức Bình, TS. Nguyễn Thường Lạng. Giáo trình Kinh tế quốc tế. NXB Lao động –Xã hội năm 2004. Chủ biên TS. Nguyễn Thị Bằng. Kinh tế quốc tế. NXB Tài chính năm 2002. E. Wayne Nafziger. Kinh tế học các nước đang phát triển. NXB thống kê năm 1998. Kinh tế học cho Thế giới thứ ba. NXB Giáo dục năm 1998 Pauld Krugman, Maurice Obstfield. Kinh tế học quốc tế- Lý thuyết và thực tiễn. NXB Chính trị quốc gia năm 1996. II. DANH MỤC CÁC TRANG WEB ĐÃ SỬ DỤNG www. VnExpress. Net www. Vnn. Vn www.mot.gov www. DANH MỤC BẢNG BIỂU VÀ ĐỒ THỊ Bảng 1.1. Bảng mô tả danh mục hàng thuộc EHP Bảng 1.2: Lộ trình cam kết cắt giảm thuế của Trung Quốc (và các nước ASEAN 6) trong Chương trình Thu hoạch sớm Bảng 1.3: Lộ trình cam kết cắt giảm thuế của Việt Nam trong Chương trình Thu hoạch sớm Bảng 1.4. So sánh Lộ trình cắt giảm thuế Chương trình EH với Chương trình CEPT/AFTA của Việt nam Bảng 2.1: Kim ngạch xuất khẩu hàng nông thủy sản của Việt Nam sang thị trường Trung Quốc Biểu đồ 2.1: Sự biến động của hàng nông thủy sản Việt Nam xuất khẩu sang thị trường Trung Quốc Bảng 2.2: Kim ngạch xuất khẩu một số mặt hàng chủ yếu thuộc EHP sang thị trường Trung Quốc Biểu đồ 2.2: Sự biến động của hàng thủy sản Việt Nam xuất khẩu sang Trung Quốc Biểu đồ 2.3: Xu hướng biến động của hàng rau củ quả Việt Nam xuất khẩu sang Trung Quốc MỤC LỤC Trang LỜI CẢM ƠN 1 LỜI MỞ ĐẦU 2 CHƯƠNG I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ XUẤT KHẨU HÀNG HÓA VÀ TỔNG QUAN VỀ CHƯƠNG TRÌNH THU HOẠCH SỚM GIỮA AFTA VÀ TRUNG QUỐC 5 1.1 Lý luận chung về xuất khẩu hàng hóa 5 1.1.1. Các quan điểm về thương mại quốc tế và xuất khẩu hàng hóa 5 1.1.3. Vai trò của hoạt động xuất khẩu hàng hóa đối với một quốc gia 7 1.1.4. Các hình thức xuất khẩu 9 1.1.5. Các yếu tố ảnh hưởng tới hoạt động xuất khẩu 11 1.2. Tổng quan về chương trình thu hoạch sớm kí kết giữa AFTA và Trung Quốc 13 1.2.1 Giới thiệu chung về ACFTA và EHP 13 1.2.2. Những thuận lợi do EHP mang lại cho Việt Nam 18 1.2.3. Những thách thức từ việc thực hiện EHP đối với Việt Nam 20 1.2.4. Tác động của Chương trình Thu hoạch sớm với quan hệ thương mại Việt Nam-ASEAN 21 1.3. Vai trò của thị trường Trung Quốc đối với hàng nông thủy sản xuất khẩu của Việt Nam 22 1.4. Những lợi thế và hạn chế của hàng nông thủy sản Việt Nam khi xuất khẩu sang thị trường Trung Quốc 24 1.4.1. Những lợi thế của hàng nông thủy sản Việt Nam khi cạnh tranh trên thị trường Trung Quốc 24 1.4.2. Những bất lợi của hàng nông thủy sản Việt Nam khi cạnh tranh trên thị trường Trung Quốc 26 1.5. Kinh nghiệm xuất khẩu nông thủy sản hàng hóa của Thái Lan sang Trung Quốc 28 CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU HÀNG NÔNG SẢN CỦA VIỆT NAM SANG THỊ TRƯỜNG TRUNG QUỐC DƯỚI LỘ TRÌNH THỰC HIỆN CỦA CHƯƠNG TRÌNH THU HOẠCH SỚM 31 2.1. Tình hình xuất khẩu hàng nông thủy sản của Việt Nam sang Trung Quốc 31 2.1.1. Kim ngạch xuất khẩu 31 2.1.2. Cơ cấu xuất khẩu 33 2.1.3. Phương thức thanh toán 36 2.2. Đánh giá, nhận xét về hoạt động xuất khẩu hàng nông thủy sản Việt Nam sang thị trường Trung Quốc dưới tác động của EHP 40 2.2.1. Những kết quả đạt được 40 2.2.2. Những hạn chế, tồn tại 40 2.2.4. Nguyên nhân của những hạn chế trong quá trình thực hiện EHP 41 CHƯƠNG III: DỰ BÁO VÀ GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY XUẤT KHẨU HÀNG NÔNG THỦY SẢN CỦA VIỆT NAM SANG THỊ TRƯỜNG TRUNG QUỐC DƯỚi TÁC ĐỘNG CỦA CHƯƠNG TRÌNH THU HOẠCH SỚM 45 3.1. Dự báo xuất khẩu hàng nông thủy sản của Việt Nam sang thị trường Trung Quốc 45 3.2. Giải pháp thúc đẩy xuất khẩu hàng nông thủy sản của Việt Nam sang thị trường Trung Quốc dưới tác động của Chương trình thu hoạch sớm 46 3.2.1. Giải pháp từ phía nhà nước 46 3.2.2. Giải pháp từ phía doanh nghiệp 48 KẾT LUẬN 52 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 53 DANH MỤC BẢNG VÀ ĐỒ THỊ 54

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc9732.doc
Tài liệu liên quan