LỜI MỞ ĐẦU 1
CHƯƠNG I: TỔNG QUAN CHUNG VỀ LÝ THUYẾT XUẤT KHẨU HÀNG NÔNG SẢN VÀ CHƯƠNG TRÌNH THU HOẠCH SỚM GIỮA AFTA VÀ TRUNG QUỐC - VAI TRÒ QUAN TRỌNG CỦA THỊ TRƯỜNG TRUNG QUỐC 4
1.1 Lý thuyết về xuất khẩu hàng hóa nói chung 4
1.1.1. Các quan điểm về thương mại quốc tế và xuất khẩu hàng hóa 4
1.1.2 Các lý thuyết về thương mại quốc tế 4
1.1.2. Sự cần thiết của hoạt động xuất khẩu đối với nền kinh tế quốc dân 6
1.1.3. Vai trò của hoạt động xuất khẩu hàng hóa đối với một quốc gia 7
1.1.4. Các hình thức xuất khẩu 9
1.1.5. Các yếu tố ảnh hưởng tới hoạt động xuất khẩu 10
1.2 Tổng quan về chương trình thu hoạch sớm kí kết giữa AFTA và Trung Quốc 12
1.2.1 Giới thiệu chung về ACFTA và EHP 12
1.2.2 Những thuận lợi do EHP mang lại cho Việt Nam 16
1.3.3 Những thách thức từ việc thực hiện EHP đối với Việt Nam 18
1.3.4 Tác động của Chương trình Thu hoạch sớm với quan hệ thương mại Việt Nam-ASEAN 20
1.4 Vai trò của thị trường Trung Quốc đối với hàng nông thủy sản xuất khẩu của Việt Nam 21
1.5 Kinh nghiệm xuất khẩu nông thủy sản hàng hóa của Thái Lan sang Trung Quốc 23
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU HÀNG NÔNG SẢN CỦA VIỆT NAM SANG THỊ TRƯỜNG TRUNG QUỐC DƯỚI LỘ TRÌNH THỰC HIỆN CỦA CHƯƠNG TRÌNH THU HOẠCH SỚM 24
2.1 Tình hình xuất khẩu hàng nông thủy sản của Việt Nam sang Trung Quốc 24
2.1.1. Kim ngạch xuất khẩu 24
2.1.2. Phương thức mua bán 29
2.2. Đánh giá, nhận xét 33
2.2.1. Những lợi thế của hàng nông thủy sản Việt Nam khi cạnh tranh trên thị trường Trung Quốc 33
2.2.2. Những bất lợi của hàng nông thủy sản Việt Nam khi cạnh tranh trên thị trường Trung Quốc 35
2.2.3. Những hạn chế trong quá trình thực hiện EHP 38
2.2.4. Nguyên nhân của những hạn chế trong quá trình thực hiện EHP 38
CHƯƠNG III: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG KHAI THÁC CÁC THUẬN LỢI DO CHƯƠNG TRÌNH THU HOẠCH SỚM ĐEM LẠI NHẰM THÚC ĐẨY XUẤT KHẨU HÀNG NÔNG SẢN SANG TRUNG QUỐC 42
3.1 Định hướng xuất khẩu hàng nông thủy sản của Việt Nam sang thị trường Trung Quốc 42
3.2 Giải pháp thúc đẩy xuất khẩu hàng nông thủy sản của Việt Nam vào Trung Quốc dưới tác động của Chương trình thu hoạch sớm 43
3.2.1 Giải pháp từ phía nhà nước 43
3.2.2 Giải pháp từ phía doanh nghiệp 44
3.2.3. Giải pháp cụ thể đối với một số mặt hàng 47
KẾT LUẬN 50
69 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1868 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng và giải pháp thúc đẩy hoạt động xuất khẩu hàng nông thủy sản sang thị trường Trung Quốc, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
từ ngày 1-10-2003
Sau đó, Thái Lan và Trung Quốc đã thống nhất việc tăng số lượng các mặt hàng cắt giảm thuế xuống còn 0% theo chương trình thu hoạch sớm của FTA Thái Lan-Trung Quốc sau khi chính thức thực hiện cắt giảm thuế quan đối với nông thủy sản từ 1/10/2003.
Cuối 2003, Phó Thủ tướng Thái Lan Somkid đã dẫn một đoàn doanh nghiệp tới các đặc khu kinh tế ở phía Đông và Tây Trung Quốc để xúc tiến việc thâm nhập sản phẩm rau quả vào thị trường này. Theo đó, nước này muốn thực thi các thoả thuận tự do thương mại vùng với Trung Quốc về các mặt hàng nông thủy sản. Hai bên cũng đã ký thoả thuận tiêu chuẩn hoá về sản phẩm nông nghiệp, theo đó phía DN Thái Lan cam kết cung ứng hàng chất lượng cao thường xuyên cho Trung Quốc nhờ tiến trình công nghệ hoá sản phẩm. Để hàng tới các vùng phía Tây Trung Quốc có sức cạnh tranh hơn hàng Việt Nam và Myanmar, phía Thái Lan cũng đã nghiên cứu phương án chuyên chở sản phẩm không chỉ bằng đường thuỷ mà bằng cả đường hàng không. Nhằm linh hoạt trong chuyện kinh doanh, phía hàng không Thái Lan cũng đã có quyết định giao cho tư nhân tự đảm nhận vai trò chuyên chở hàng.
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU HÀNG NÔNG SẢN CỦA VIỆT NAM SANG THỊ TRƯỜNG TRUNG QUỐC DƯỚI LỘ TRÌNH THỰC HIỆN CỦA CHƯƠNG TRÌNH THU HOẠCH SỚM
2.1 Tình hình xuất khẩu hàng nông thủy sản của Việt Nam sang Trung Quốc
2.1.1. Kim ngạch xuất khẩu
Căn cứ theo số liệu thống kê năm 2002 và 2003 của Bộ Thương mại, mặt hàng có khả năng được hưởng lợi nhiều nhất trong Chương trình Thu hoạch sớm khi Chương trình được triển khai là thủy sản (Chương 3) với giá trị kim ngạch xuất khẩu tương ứng khoảng 173 triệu USD và 78 triệu USD; tiếp đến là các loại rau, củ, quả với giá trị kim ngạch xuất khẩu tương ứng 78 triệu USD và 86 triệu USD; hạt điều với giá trị kim ngạch xuất khẩu tương ứng 38 triệu USD và 53 triệu USD. Mặc dù chương trình EHP được mong đợi sẽ thúc đẩy mạnh xuất khẩu các mặt hàng nông thủy sản nhưng thực tế tổng kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng này so với trước khi thực hiện EHP (trước 2004) không gia tăng đáng kể, thậm chí có mặt hàng giảm mạnh như thủy sản: kim ngạch xuất khẩu các năm 2004 và 2005 tương ứng 48 và 60 triệu USD, thấp hơn rất nhiều so với năm cao nhất là 2001 (243,5 triệu USD). Bên cạnh đó, mặt hàng rau củ quả tuy có tăng nhưng không ổn định, năm 2004 vọt lên hơn 137 triệu USD nhưng sang năm 2005 lại còn 98,7 triệu USD, duy chỉ có hạt điều là có chiều hướng gia tăng ổn định với kim ngạch xuất khẩu tương ứng hai năm 2004, 2005 là 76,5 và 96,6 triệu USD.
Bảng 4: Kim ngạch xuất khẩu một số mặt hàng chủ yếu thuộc EHP sang thị trường Trung Quốc (đơn vị: 1.000 USD)
2000
2001
2002
2003
2004
2005
Hàng thủy sản
238.112
243.512
170.657
78.295
48.161
60.201
Hạt điều
54.783
28.840
37.546
53.494
76.540
96.625
Rau, củ, quả
120.266
164.070
77.873
86.578
137.560
98.700
Sữa và sản phẩm sữa
-
7
18
5
1
2
Tổng
413.161
436.429
286.094
218.372
262.262
255.528
Nguồn: trang thông tin thương mại – Bộ Thương mại
Tác động của EHP dường như không lớn nếu xét tới tỷ trọng xuất khẩu sang thị trường Trung Quốc của nông thủy sản Việt Nam. Lý do dễ thấy nhất là tổng kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng này liên tục tăng qua các năm nhưng kim ngạch xuất khẩu sang Trung Quốc lại không tăng, thậm chí năm 2004 còn giảm so với 2003. Điều đó chứng tỏ EHP chưa thực sự hấp dẫn các nhà xuất khẩu nông thủy sản của Việt Nam vào thị trường Trung Quốc hơn các thị trường khác như Nhật Bản, Hoa Kỳ, EU…
Bảng 5: Tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu sang thị trường Trung Quốc của nông thủy sản Việt Nam
2000
2001
2002
2003
2004
2005
Nông thủy sản (1000 USD)
446.623
459.923
303.141
232.058
202.764
255.528
Tổng kim ngạch XK (1000 USD)
1.902.336
2.354.987
2.504.973
2.754.608
3.008.940
3.471.000
Tỷ lệ (%)
23,48
19,53
12,1
8,42
6,74
7,36
Cũng như trên, tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu nông thủy sản trong xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường Trung Quốc ngày càng giảm, thấp nhất vẫn là năm đầu tiên thực hiện EHP (2004), nó cho thấy mặc dù nằm trong EHP, được hưởng mức thuế nhập khẩu ưu đãi hơn nhưng nông thủy sản xuất khẩu lại không tăng trưởng nhanh hơn các mặt hàng không được hưởng ưu đãi khác.
Bảng 6: Tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu nông thủy sản trong xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường Trung Quốc
2000
2001
2002
2003
2004
2005
Nông thủy sản (1000 USD)
446.623
459.923
303.141
232.058
202.764
255.528
Tổng kim ngạch XK (1000 USD)
1.536.391
1.417.415
1.518.330
1.883.112
2.735.496
3.256.000
Tỷ lệ (%)
29
32
20
12,3
7,4
7,85
Có nhiều nguyên nhân khác nhau cho việc suy giảm kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng nông thủy sản như giá xuất khẩu giảm, cơ cấu xuất khẩu của ta có sự thay đổi và Trung Quốc thay đổi chính sách thuế trong quá trình thực hiện cam kết WTO.
Tuy nhiên, 2 tỷ trọng trên nếu xét trong năm 2005 thì có thể thấy sự phục hồi so với năm 2004 (tương ứng tăng từ 6,74% lên 7,36% và 7,4% lên 7,85%), có thể do các nhà xuất khẩu nông thủy sản và các nhà quản lý Việt Nam đã rút kinh nghiệm từ năm đầu tiên thực hiện EHP.
Trong các mặt hàng chiếm tỷ trọng cao trong xuất khẩu nông thủy sản Việt Nam sang Trung Quốc thì thủy sản và rau củ quả là 2 mặt hàng chiếm tỷ trọng quan trọng nhất
Tình hình xuất khẩu thủy sản
Theo Bộ Thủy sản, kim ngạch xuất khẩu thủy sản sang Trung Quốc liên tục giảm mặc dù EHP bắt đầu có hiệu lực. Trung Quốc là thị trường tiềm năng, thủy sản Việt Nam đã rất quan tâm đến quốc gia láng giềng khổng lồ này thông qua việc tham dự hội chợ, khảo sát thị trường. Tuy nhiên, đến nay khó khăn, vướng mắc khi xuất hàng vào Trung Quốc vẫn chưa được tháo gỡ.
Đó chính là phương thức giao hàng và thanh toán nhiều rủi ro; vận chuyển khó khăn, chi phí vận chuyển đường bộ cao; thuế nhập khẩu cao (khoảng 30%); chưa có sơ sở hạ tầng đáp ứng yêu cầu chuyên ngành (chợ cá, kho lạnh...) gần biên giới để tranh thủ cơ hội xuất hàng. Do vậy, các doanh nghiệp lớn ngại xuất hàng vào thị trường này, chủ yếu là do tư thương, buôn bán nhỏ làm.
Bên cạnh đó, trong khi kinh tế Trung Quốc ngày càng phát triển, thu nhập và đời sống cao hơn, nhu cầu thực phẩm ngon, bổ dưỡng tăng, thì doanh nghiệp Việt Nam vẫn chưa chú ý chặt chẽ đến chất lượng sản phẩm.
Phía đông và nam Trung Quốc giáp biển nên có nguồn hải sản lớn, phong phú. Cộng với sản lượng tôm thẻ chân trắng lớn nhất châu Á, nên giá tôm, cá của Trung Quốc rất rẻ. Tại Phúc Kiến, chợ thủy sản lớn thứ hai nước này, là chợ đầu mối chuyên đưa hàng về phía tây (đồi núi). Do đó, tại Móng Cái, Lạng Sơn, Thủy sản Việt Nam không thể xuất được sang Trung Quốc, mà ngược lại, thủy sản Trung Quốc còn đang thẩm thấu vào Việt Nam. Ta xuất khẩu thủy sản chủ yếu qua Hà Khẩu (Lào Cai), nhưng chỉ ở dạng nhỏ lẻ.
Biểu đồ 2: Xu hướng biến động của hàng thủy sản Việt Nam xuất khẩu sang Trung Quốc (Đơn vị 1000 USD)
Mặt khác, từ năm 2003 đến nay, do ảnh hưởng của dịch bệnh SARS và dư âm của nó, việc xuất khẩu vào Trung Quốc cũng giảm mạnh. Từ 30/6/2004, Trung Quốc lại đưa ra những quy định mới về ghi nhãn, bao gói và chứng nhận về kiểm hàng, kiểm dịch. Nhãn hàng phải ghi rõ tên thông thường, phương thức khai thác. Hàng nhập khẩu sẽ bị trả lại hoặc tiêu hủy nếu không trùng khớp với giấy chứng nhận hay không đáp ứng yêu cầu về ghi nhãn. Những quy định trên cũng gây khó khăn trong việc xuất khẩu hàng thủy sản của Việt Nam.
Tình hình xuất khẩu rau củ quả
Trong giai đoạn từ 2000 đến nay, kim ngạch xuất khẩu rau củ quả tăng giảm liên tục, đạt đỉnh cao nhất vào năm 2001 (164 triệu USD) nhưng lại xuống thấp nhất một năm sau đó (hơn 77 triệu USD), từ 2001-2003: kim ngạch xuất khẩu rau củ quả bị sút giảm mạnh. Từ năm 2004 đến nay kim ngạch xuất khẩu rau quả đã có dấu hiệu phục hồi, năm 2005 đã đạt 98,7 triệu USD. Điều đó chứng tỏ xuất khẩu rau củ quả của Việt Nam đã giảm mạnh, nhất là tại thị trường Trung Quốc.
Mặc dù có ưu thế do sự gần gũi về mặt địa lý giữa ta và Trung Quốc nhưng rau củ quả còn nhiều gặp khó khăn do chi phí vận chuyển tăng cao, phương tiện vận chuyển và bảo quản còn nhiều yếu kém gây ảnh hưởng đến chất lượng và tiêu chuẩn, bên cạnh đó, vấp phải sự cạnh tranh với các mặt hàng cùng loại của Thái Lan, Malaysia và các nước ASEAN khác.
Trong những năm tới, Trung Quốc vẫn là thị trường có nhiều tiềm năng phát triển đối với rau củ quả xuất khẩu của Việt Nam, bởi thị trường này dễ thâm nhập, yêu cầu về chất lượng không quá cao, nhu cầu tiêu dùng của cư dân cũng rất đa dạng.
Biểu đồ 3: Xu hướng biến động của hàng rau củ quả Việt Nam xuất khẩu sang Trung Quốc ( Đơn vị 1000 USD)
2.1.2. Phương thức mua bán
Hiệp định thanh toán và hợp tác giữa ngân hàng hai nước quy định: ''Mọi khoản thanh toán XNK giữa hai nước phải thực hiện thông qua ngân hàng và đồng tiền thanh toán là ngoại tệ tự do chuyển đổi, VND hoặc Nhân dân tệ (NDT)... Riêng đối với thanh toán XNK tại khu vực biên giới được thực hiện bằng đồng tiền khác do hai bên tự bàn bạc. Phương thức thanh toán do hai bên mua bán thoả thuận''. Nhưng thời gian qua, thanh toán XNK Việt - Trung chưa quy tụ được vào ngân hàng mà vẫn thực hiện dưới nhiều hình thức: hàng đổi hàng, thanh toán qua ngân hàng bằng bản tệ, thanh toán bằng tiền mặt ngoại tệ theo giấy phép do Ngân hàng Nhà nước cấp, thanh toán trực tiếp cho nhau bằng tiền mặt USD, NDT, VND, thanh toán qua tư nhân...
Thanh toán XNK giữa hai nước qua ngân hàng bằng ngoại tệ tự do chuyển đổi mặc dù tăng nhanh về kim ngạch thanh toán qua các năm nhưng vẫn chiếm tỷ lệ thấp trong tổng kim ngạch XNK giữa hai nước. Một số ngân hàng hiện có doanh số thanh toán lớn là Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam, Ngân hàng Công thương Việt Nam và Ngân hàng Xuất nhập khẩu... Doanh số thanh toán bằng VND và NDT qua ngân hàng cũng tăng nhanh về kim ngạch thanh toán qua các năm nhưng vẫn chiếm tỷ lệ thấp trong tổng kim ngạch XNK giữa hai nước.
Các NHTM đã bước đầu tổ chức và mở rộng hoạt động thu đổi NDT tại khu vực biên giới. Tuy nhiên, tỷ lệ thanh toán qua ngân hàng còn thấp, nếu tính cả thanh toán bằng ngoại tệ tự do chuyển đổi và thanh toán bằng VND và NDT thì doanh số thanh toán qua ngân hàng năm 2002 mới đạt khoảng 34,3% so với tổng kim ngạch XNK giữa hai nước. Nhiều doanh nghiệp vẫn thực hiện thanh toán với nhau bằng tiền mặt hoặc qua tư nhân chuyển tiền, mạng lưới tư nhân làm thanh toán thay ngân hàng thanh toán XNK biên giới với Trung Quốc còn phổ biến.
Một số ngân hàng thường bị động về nguồn NDT để đáp ứng cho nhu cầu thanh toán nhập khẩu, mặc dù các ngân hàng thương mại đã triển khai hoạt động NDT nhưng cơ chế còn cồng kềnh, kinh doanh thiếu linh hoạt, doanh số hoạt động còn chưa cao, ngoài ra đôi lúc còn gặp khó khăn trong việc tiêu thụ số NDT mặt thu được trong quá trình kinh doanh.
Còn theo các doanh nghiệp, các ngân hàng thương mại vẫn chưa thực sự đáp ứng đầy đủ được nhu cầu thanh toán của họ: công nghệ thanh toán qua ngân hàng còn lạc hậu, luân chuyển chứng từ giữa ngân hàng thương mại hai nước còn thực hiện thủ công (cầm tay qua biên giới), hình thức thanh toán còn chưa phong phú và đa dạng, chủ yếu là thực hiện hối phiếu và chứng từ chuyên dùng biên mậu. Các ngân hàng kinh doanh NDT còn dè dặt, cầm chừng, chưa thực sự đáp ứng được nhu cầu thanh toán, mua bán NDT của các doanh nghiệp.
Do ngại thực hiện thanh toán qua ngân hàng nên các ngân hàng không muốn cho vay vì sợ khó kiểm soát được luồng vốn chu chuyển, dễ xảy ra rủi ro, mất vốn. Điều này làm giảm vai trò của các ngân hàng thương mại trong hoạt động tín dụng phục vụ Việt - Trung. Nhiều doanh nghiệp vẫn chưa nắm được chủ trương thanh toán bằng bản tệ qua ngân hàng.
Mặt khác, chính sách XNK của hai nước khác nhau, thậm chí thường trái ngược nhau gây khó khăn cho doanh nghiệp trong việc thanh toán qua ngân hàng. Nước nào cũng khuyến khích xuất những mặt hàng thuộc thế mạnh của nước mình và hạn chế nhập khẩu những mặt hàng của đối tác nên các doanh nghiệp rất khó triển khai thanh toán qua ngân hàng. Ví dụ: đối với mặt hàng cao su, kim ngạch xuất của Việt Nam sang Trung Quốc chiếm trên 40% kim ngạch xuất khẩu cao su của Việt Nam. Tuy nhiên, do Trung Quốc áp dụng hạn ngạch và chỉ định đầu mối nhập khẩu nên các doanh nghiệp của Trung Quốc gặp khó khăn trong việc nhập khẩu cao su của Việt Nam để cung ứng cho nhu cầu trong nước (nếu nhập khẩu ngoài hạn ngạch và thanh toán qua ngân hàng doanh nghiệp nhập khẩu của Trung Quốc phải chịu thuế 65-77%). Vì các doanh nghiệp Trung Quốc thường phải chọn hình thức XNK tiểu ngạch và không thực hiện thanh toán qua ngân hàng.
Chợ tiền + doanh nghiệp = thương mại biên mậu
Bộ Thương mại và ngành ngân hàng cũng cho rằng, một nguyên nhân quan trọng của tình trạng trên là do chúng ta chưa kiểm soát được các hoạt động mua bán dọc biên giới. Hàng chục năm nay mua bán biên mậu Việt - Trung vẫn chưa theo tập quán buôn bán quốc tế - không ký hợp đồng thương mại, hoặc có ký hợp đồng nhưng chỉ mang hình thức mà hầu như không ràng buộc trách nhiệm thực hiện.
Hàng hoá được mua bán, trao đổi tại khu vực biên giới thường là những hàng hoá có chất lượng không theo phẩm cấp, tiêu chuẩn chất lượng cụ thể, đặc biệt là hàng tươi sống. Việc mua bán hàng hoá thường được thực hiện trực tiếp dưới hình thức buôn bán tiểu ngạch, chủ yếu thực hiện dưới hình thức thương nhân sau khi xem xét chất lượng hàng hoá, thoả thuận giá cả và thực hiện giao hàng, thanh toán tiền mặt. Bên cạnh đó, hiện tượng buôn lậu, lừa đảo, chiếm dụng vốn tồn tại phổ biến ở vùng biên giới nên các doanh nghiệp thường chọn phương thức thanh toán trao ngay bằng tiền mặt hoặc đặt cọc bằng tiền mặt trước khi giao hàng.
Một số không nhỏ các doanh nghiệp đã cố tình không thực hiện thanh toán ngân hàng để buôn lậu, trốn thuế... Các doanh nghiệp này được sự hỗ trợ tích cực của một số thương nhân chuyên kinh doanh mua bán tiền ở chợ tiền biên giới. Chợ tiền này tồn tại trong một thời gian dài và đã có quan hệ truyền thống với một số doanh nghiệp và thương nhân trong nước, mua bán bản tệ (NDT, VND) và thậm chí USD cũng không đòi hỏi hoá đơn, giấy tờ... đã thu hút nhiều doanh nghiệp thanh toán thông qua tư nhân.
Thêm nữa, chính sách của các bộ, ngành Việt Nam về hoạt động XNK tại khu vực biên giới vẫn còn chưa thống nhất, thiếu đồng bộ, chưa kịp thời và chưa sát với thực tế. Việc triển khai thực hiện chính sách còn chưa kịp thời. Sự phối hợp giữa Trung ương địa phương trong quản lý tiền tệ, quản lý ngoại hối và quản lý XNK tại vùng biên giới còn thiếu chặt chẽ. Ví dụ: không cho phép các doanh nghiệp nhập khẩu của Trung Quốc được tính thuế theo giá ghi trên hợp đồng ngoại thương thực hiện thanh toán bằng VND và NDT qua ngân hàng hoặc còn thu phí đối với số tiền mặt các NHTM thu được phải chuyển ra nước ngoài tiêu thụ đã không khuyến khích được thanh toán qua ngân hàng và còn làm tăng chi phí hoạt động thanh toán XNK biên giới qua ngân hàng.
Hiệp định thanh toán cũng như các văn bản hướng dẫn về thanh toán còn chưa cụ thể. Nhiều nội dung còn chưa được hướng dẫn gây lúng túng cho ngân hàng và doanh nghiệp khi áp dụng vào quá trình thanh toán.
Đồng thời, việc cấp giấy phép cho tư nhân hoạt động đổi tiền ở một số địa phương còn chậm. Việc phối hợp giữa các ngành chức năng trên địa bàn để thực hiện chủ trương của Chính phủ còn chưa tốt, có những trường hợp tư nhân đổi tiền nhưng không có giấy phép hoặc thay ngân hàng thực hiện chức năng trung gian thanh toán nhưng vẫn chưa có biện pháp xử lý thích hợp. Đồng thời, việc kiểm soát cá nhân mở tài khoản ở nước ngoài và vận chuyển tiền mặt qua biên giới vẫn chưa được thực hiện một cách có hiệu quả.
2.2. Đánh giá, nhận xét
2.2.1. Những lợi thế của hàng nông thủy sản Việt Nam khi cạnh tranh trên thị trường Trung Quốc
Thứ nhất: So với các mặt hàng công nghiệp xuất khẩu như hàng dệt may, giầy da hay cơ khí, điện tử lắp ráp…thì trong cùng một lượng kim ngạch xuất khẩu thu về như nhau, tỷ lệ chi phí sản xuất có nguồn gốc ngoại tệ của hàng nông sản rất thấp, do đó thu nhập ngoại tệ ròng của hàng nông sản xuất khẩu sẽ cao hơn nhiều.
Ví dụ: Chi phí sản xuất hạt điều xuất khẩu có nguồn gốc ngoại tệ (phân bón, thuốc sâu bệnh và các loại hóa chất, xăng dầu…) chỉ chiếm từ 27 đến 73% giá trị xuất khẩu kim ngạch gạo. Điều đó có nghĩa là xuất khẩu hạt điều đã tạo ra từ 27 đến 73% thu nhập ngoại tệ thuần cho đất nước, chỉ số này đối với hàng dệt may xuất khẩu là khoảng 15 đến 20%.
Đây là lợi thế ban đầu của các nước nghèo, khi chưa có đủ nguồn ngoại tệ để đầu tư xây dựng các nhà máy lớn, khu công nghiệp để sản xuất - kinh doanh những mặt hàng tiêu tốn nhiều ngoại tệ.
Thứ hai: Ngành nông thủy sản là ngành sử dụng nhiều lao động vào quá trình sản xuất - kinh doanh. Đây là một ưu thế quan trọng hiện nay của ngành, vì hàng năm nước ta phải giải quyết thêm việc làm cho 1,4 triệu người bước vào tuổi lao động. Ví dụ, để trồng và chăm sóc 1 ha dứa hay 1 ha dâu tằm mỗi năm cần sử dụng tới 20 lao động. Trong khi đó, giá nhân công Việt Nam rẻ hơn các nước khác trong khu vực, phổ biến với mức 1- 1,2 USD/ngày công lao động như trong sản xuất lúa, cà phê. Hiện nay, một số công việc nặng nhọc như đánh bắt cá ngừ, thu hoạch mía hay thu hoạch lúa ở Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) với giá nhân công cao cũng mới chỉ là 2-2,5 USD/ngày công lao động, nhưng vẫn còn rẻ hơn so với Thái Lan từ 2-3lần. Tất nhiên lợi thế này sẽ không tồn tại lâu do sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước và thế giới.
Thứ ba: Điều kiện sinh thái tự nhiên của nhiều vùng nước ta rất thuận lợi cho việc phát triển sản xuất một số loại rau quả vụ đông có hiệu quả như cà chua, bắp cải, tỏi, khoai tây… Trong khi cũng vào thời gian này ở Trung Quốc đang bị tuyết dày bao phủ không thể trồng trọt được gì, nhưng những nơi này lại là thị trường tiêu thụ lớn và tương đối dễ tính. Các đối thủ cạnh tranh như Thái Lan, Philipin lại kém lợi thế hơn so với Việt Nam cả về điều kiện tự nhiên sinh thái, cả về kỹ năng, kinh nghiệm sản xuất và tính cần cù lao động của người nông dân trong việc trồng trọt các loại rau quả đó.
Thứ tư: Một số ít nông sản được thị trường Trung Quốc ưa chuộng như nhân hạt điều, dứa, lạc lại có thể trồng ở Việt Nam trên các đất bạc màu, đồi núi trọc (như điều) hay trên đất phèn, mặn (như dứa), lạc vụ 3 xen canh, nên không bị các cây trồng khác cạnh tranh, mà trên thực tế vẫn còn có khả năng mở rộng sản xuất.
Thứ năm: Trung Quốc vốn là thị trường truyền thống với quy mô lớn và tương đối dễ tính đối với các mặt hàng nông sản của Việt Nam. Mặt khác, trên các nước này hiện có một lượng doanh nhân và doanh nghiệp Việt Nam đang làm ăn phát đạt ở đó. Đây là một lợi thế lớn để nối lại thị trường tiêu thụ mà bấy lâu nay nước ta đã bỏ qua chưa khai thác có hiệu quả.
Thứ sáu: Nhiều tư liệu sản xuất dùng trong quá trình sản xuất nông, lâm nghiệp, thủy sản vẫn còn phải nhập khẩu, mà phần lớn lại nhập với giá cao hơn giá thế giới, chi phí để sản xuất các loại tư liệu đó trong nước rất cao. Do vậy mở cửa hội nhập kinh tế, tự do hóa thương mại sẽ làm cho giá nhập khẩu mặt hàng này rẻ hơn, làm cho giá thành sản xuất và chế biến các loại hàng nông, lâm, thủy sản của nước ta giảm xuống một lượng đáng kể do đó sẽ tạo thêm ưu thế cạnh tranh.
Thứ bảy: Thể chế chính trị ổn định, môi trường đầu tư và hệ thống pháp luật của Việt Nam ngày càng được cải thiện và điều chỉnh thích ứng dần với tiến trình tự do hóa thương mại trong khu vực và toàn cầu.
2.2.2. Những bất lợi của hàng nông thủy sản Việt Nam khi cạnh tranh trên thị trường Trung Quốc
Thứ nhất: Nhìn chung, tuy Việt Nam đã bước đầu hình thành các vùng sản xuất hàng hóa tập trung nhưng khối lượng hàng hóa còn nhỏ bé, thị phần trên thế giới thấp, chất lượng chưa đồng đều và ổn định.
Việt Nam chưa hình thành được các vùng chuyên canh sản xuất hàng tươi sống và vùng nguyên liệu tập trung cho các nhà máy chế biến lớn theo yêu cầu kỹ thuật và kinh tế. Gạo của Việt Nam chưa đảm bảo độ đồng nhất về quy cách chất lượng ngay trong từng lô gạo, bao bì đóng gói kém hấp dẫn và chưa có nhãn thương hiệu của doanh nghiệp mình trên vỏ bao bì. Điều đó làm cho giá xuất khẩu của nông sản Việt Nam thấp hơn các nước khác.
Thứ hai: Phần lớn các loại giống cây con hiện đang được nông dân sử dụng có năng suất và chất lượng thấp hơn so với các nước trên thế giới và các đối thủ cạnh tranh trong khối ASEAN. Trên địa bàn cả nước chưa hình thành được một hệ thống cung ứng giống cây con tốt cho người sản xuất, từ giống tác giả, giống nguyên chủng cho đến giống thương phẩm. Hầu hết người nông dân đã tự sản xuất giống cây con cho mình từ vụ thu hoạch trước hoặc mua giống trên thị trường trôi nổi mà không có sự đảm bảo về chất lượng, đặc biệt là giống các loại cây ăn quả, cây lương thực, cây rau… Năng suất lúa của Việt Nam chỉ bằng 61% năng suất lúa của Trung Quốc và thấp thua nhiều so với lúa của Nhật Bản, Italia, Mỹ. Năng suất cà chua của ta chỉ bằng 65% năng suất cà chua thế giới, cao su Việt Nam mới đạt năng suất 1,1 tấn/ha, so với năng suất thế giới là 1,5 - 1,8 tấn/ha - thấp hơn tới 30-40%.
Thứ ba: So với các đối thủ cạnh tranh, Việt Nam có công nghệ chế biến lạc hậu, chưa đảm bảo chất lượng sản phẩm theo yêu cầu tiêu dùng của các thị trường khó tính như Nhật Bản, EU, Bắc Mỹ. Mặt khác, kết cấu hạ tầng phục vụ cho việc vận chuyển, bảo quản dự trữ, bốc xếp hàng hóa nông sản, nhất là hàng tươi sống rất yếu kém nên giá thành sản phẩm và phí gián tiếp khác tăng nhanh. Ví dụ: Do công suất bốc xếp ở cảng Sài Gòn là 1000 tấn/ngày chỉ bằng 1/2 công suất cảng Băng Cốc (Thái Lan), cho nên cảng phí cho 1 tàu chở gạo 10000 tấn ở Việt Nam là 40000 USD, còn ở cảng Băng Cốc là 20000 USD, như vậy là chi phí tại cảng trong khâu bốc xếp của Việt Nam đã cao hơn gấp đôi so với cảng Băng Cốc.
Thứ tư: Năng lực quản lý sản xuất kinh doanh, chế biến và xuất khẩu nông sản chưa đáp ứng được yêu cầu trong điều kiện tự do hóa thương mại, đặc biệt là khâu marketing, dự tính dự báo thị trường. Mối liên kết kinh tế giữa các khâu sản xuất - chế biến - xuất khẩu, giữa khâu cung ứng vật tư đầu vào và tiêu thụ sản phẩm đầu ra, giữa khâu kỹ thuật với khâu kinh tế... chưa thiết lập được một cách vững chắc để đảm bảo sự ổn định về số lượng và chất lượng cũng như hiệu quả sản xuất kinh doanh hàng nông sản xuất khẩu theo yêu cầu của thị trường.
Thứ năm: Tuy chủng loại hàng hóa xuất khẩu của ta đa dạng hơn nhưng nhìn chung thì diện mặt hàng vẫn còn khá đơn điệu, chưa có sự thay đổi đột biến về chủng loại, về chất lượng, xuất khẩu chủ yếu vẫn dựa vào một vài mặt hàng chủ lực, truyền thống như gạo, cà phê, cao su, hải sản… mà phần lớn chúng đều tiềm ẩn nguy cơ tăng trưởng chậm dần do gặp phải những hạn chế mang tính cơ cấu như diện tích có hạn, năng suất có hạn, khả năng khai thác có hạn… và khả năng cạnh tranh ngày càng giảm dần.
Thứ sáu: Bộ máy quản lý hành chính Nhà nước vẫn còn quan liêu, trì trệ, chưa thông thoáng và bảo thủ đã làm nản lòng các nhà đầu tư kinh doanh trong và ngoài nước và làm tăng giá thành sản xuất và giá thành sản phẩm xuất nhập khẩu. Do vậy, lợi thế tiềm năng không thể phát huy hết được.
Thứ bảy: Trong quá trình tự do hóa thương mại, một số doanh nghiệp kinh doanh hàng nông, lâm, thủy sản làm ăn thua lỗ, không có khả năng cạnh tranh sẽ bị phá sản theo quy luật. Điều bất lợi này Việt Nam cũng phải chấp nhận một cách tự nhiên, bình thường theo vận hành của quy luật kinh tế thị trường. Một số mặt hàng nông sản tiêu thụ nội địa trong nhiều năm qua sẽ bị cạnh tranh và giảm dần hoặc mất thị trường ngay trên quê hương mình. Điều đó cũng dễ hiểu và chúng ta phải tiếp nhận nó như một việc bình thường, không phải chỉ đối với nước ta mà đối với tất cả các nước khác. Nhưng trước mắt, điều bất lợi này sẽ gây ra những tác động tiêu cực tạm thời cả trên lĩnh vực kinh tế - xã hội và chính trị.
Những bất lợi phân tích trên đây phần lớn do nguyên nhân chủ quan gây ra nên có thể khắc phục được trong tương lai gần nếu chúng ta có quyết tâm và có các giải pháp kịp thời, đúng đắn. Nếu khắc phục tốt thì những bất lợi này có thể lại trở thành các lợi thế tiềm ẩn của hàng hóa nông sản xuất khẩu của nước ta nói riêng và cho tất các loại nông sản phẩm khác nói chung trong bối cảnh tự do hoá thương mại toàn cầu.
Tóm lại, xét về tổng thể, hoạt động xuất khẩu nông sản của Việt Nam tuy đã đạt được nhiều thành tích đáng khích lệ và có nhiều lợi thế cần được khai thác, nhưng vẫn còn nhiều tồn tại và bất lợi. Những tồn tại và bất lợi này đều có sự liên quan chặt chẽ với nhau, vừa là nguyên nhân vừa là hậu quả của nhau, đòi hỏi phải được xử lý một cách dứt điểm, đồng bộ và toàn diện.
Nền nông nghiệp Việt Nam đang trên đà phát triển và hòa nhập vào xu thế chung của nông nghiệp các nước trong khu vực và toàn cầu, tuy nhiên tiến trình này về mức độ và hiệu quả không chỉ phụ thuộc vào bản thân sự cố gắng của phía Việt Nam, mà còn phụ thuộc vào xu thế chung của thị trường hàng hóa nông sản thế giới. Trong định hướng phát triển nông nghiệp của mình vấn đề quan trọng được đặt ra là khả năng thực sự về mức độ đáp ứng của sản xuất - xuất khẩu đối với nhu cầu thế giới đến đâu, không chỉ về số lượng mà còn yêu cầu cao về chất lượng sản phẩm, đẹp về hình thức, phong phú và đa dạng về chủng loại và giá cả hợp lý nhằm tăng sức hấp dẫn đối với người tiêu dùng. Do vậy, nâng cao khả năng sản xuất, phát huy các lợi thế cạnh tranh của nông sản hàng hóa Việt Nam trên thị trường là vấn đề cốt lõi trong chiến lược phát triển nông nghiệp hướng ra xuất khẩu của Việt Nam, trước hết có thể tập trung vào các mặt hàng nông sản chủ yếu có nhiều lợi thế nhất.
2.2.3. Những hạn chế trong quá trình thực hiện EHP
- Kim ngạch hàng nông thủy sản xuất khẩu sang thị trường Tung Quốc không tăng như mong đợi
- Tuy những mặt hàng có lợi thế của Việt Nam được cắt giảm thuế nhập khẩu mạnh nhất từ phía Trung Quốc nhưng do chịu sức ép của các đối thủ trong khu vực, tiêu biểu là Thái Lan nên không có sự tăng trưởng đáng kể trong kim ngạch xuất khẩu
- Sức cạnh tranh của hàng Việt Nam vẫn không được cải thiện nhiều cả về giá cả, chất lượng và mẫu mã
- Còn hạn chế trong nhận thức của nhà xuất khẩu Việt Nam và ngay cả các cơ quan quản lý về những lợi thế và thách thức do EHP mang lại.
- Các sản phẩm Việt Nam còn thiếu thương hiệu úy tín trên thị trường Trung Quốc
2.2.4. Nguyên nhân của những hạn chế trong quá trình thực hiện EHP
2.2.4.1 Nguyên nhân khách quan
- Từ những ưu đãi lớn hơn của Trung Quốc đối với ASEAN 6 do gia nhập lộ trình sớm hơn đối với Chương trình thu hoạch sớm, cụ thể là Trung Quốc và Thái Lan đã ký hợp tác thương mại, thực hiện thuế suất nhập khẩu bằng 0% cho rau quả Thái, đã gây khó khăn lớn cho ngành rau quả Việt Nam vì không thể cạnh tranh bằng giá cả chứ chưa nói đến chất lượng.
- Do Trung Quốc có chính sách quản lý hoạt động biên mậu và quản lý xuất khẩu rất chặt chẽ và hạn chế như: Việc nhập khẩu hàng hoá bị hạn chế theo hạn ngạch hoặc giấy phép, chỉ định doanh nghiệp được phép nhập khẩu. Hình thức mua bán phổ biến từ trước đến nay vẫn là trao đổi và mua bán biên mậu không theo thông lệ quốc tế, sau khi gia nhập WTO và áp dụng tiêu chuẩn mới, tất cả mọi loại hàng hoá vào Trung Quốc phải qua đăng ký xuất xứ bằng tiếng Trung Quốc. Riêng đối với mặt hàng nông sản phải có nhãn hiệu công khai chất lượng hàng hoá, kiểm dịch thực vật và an toàn thực phẩm.
- Do chịu sức cạnh tranh vốn đã rất mạnh của các đối thủ. Khó khăn thứ nhất là nông thủy sản Việt Nam vào Trung Quốc phải chịu thuế nhập khẩu cao hơn của Thái Lan kéo dài từ tháng 10/2003 đến đầu năm 2006, khi Trung Quốc cắt giảm thuế quan xuống 0% cho hàng Việt Nam. Xuất khẩu nông thủy sản vào Trung Quốc giảm mạnh là do chính sách thuế bất cập, điều này nằm ngoài tầm tay của doanh nghiệp. Nông thủy sản Việt Nam xuất khẩu vào Trung Quốc hiện đang chịu mức thuế 12-24%, trong khi hàng của Thái Lan xuất vào Trung Quốc ngay từ năm 2003 chỉ còn 5%; năm 2004 mức thuế bằng 0%. Thứ hai là kể từ đầu năm 2004, Trung Quốc đã bãi bỏ ưu đãi thuế quan đối với hàng biên mậu. Trong khi nông thủy sản Việt Nam vào Trung Quốc chủ yếu bằng đường biên mậu qua biên giới Việt - Trung, trước đây được hưởng ưu đãi là giảm 50% thuế suất nhập khẩu, nay điều này không còn khi Trung Quốc là thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO). Thứ ba là đến năm 2006, khi nông thủy sản Việt Nam vào Trung Quốc được hưởng thuế quan 0% thì lúc đó hàng cùng loại của Thái Lan đã chiếm lĩnh thị trường Trung Quốc. Trong khi đó, hàng của Thái Lan tương đồng với Việt Nam và thường lấn át hàng Việt Nam trên thị trường thế giới nhờ chất lượng, trình độ bảo quản, giống và khả năng tập trung nguồn hàng.
- Giữa Việt Nam và Trung Quốc chưa ký Hiệp định Kiểm dịch động, thực vật mà mới chỉ ký Hiệp định bảo đảm chất lượng hàng hóa xuất nhập khẩu và công nhận lẫn nhau nhưng hai bên vẫn chưa trao đổi danh mục hàng hóa theo tiêu chuẩn quốc gia để làm cơ sở tiến hành kiểm tra giám sát.
2.2.4.2 Nguyên nhân chủ quan
- Chất lượng hàng xuất khẩu mặt hàng nông thủy sản Việt Nam khó có thể cạnh tranh được với hàng Trung Quốc, Thái Lan về chất lượng và mẫu mã. Nông thủy sản Việt Nam hiện chủ yếu là sơ chế thô và xuất bán thành phẩm. Chất lượng nguyên liệu cũng như chất lượng sản phẩm chế biến còn thấp. Do vậy mà nhiều doanh nghiệp Trung Quốc trước đây đã làm ăn với Việt Nam thì nay họ chuyển sang các đối tác khác như: Thái Lan, Ấn Độ...Nguyên nhân không phải do người nông dân mà là do hệ thống các cơ quan nghiên cứu khoa học và hệ thống khuyến nông không có sự quan tâm, hướng dẫn một cách bài bản quy trình kỹ thuật canh tác cho nông dân, bao gồm cách lựa chọn giống đến khâu chăm sóc, thu hoạch và bảo quản sau thu hoạch. Đây là hệ quả của lối sản xuất tuỳ tiện, canh tác theo tập quán cũ; quy mô sản xuất nhỏ lẻ, không đồng bộ, chất lượng giống không cao.
- Tư duy và cách thức xuất khẩu chủ yếu theo phương thức tiểu ngạch mậu biên đã gây ra tình trạng thiếu ổn định và mức độ rủỉ ro cao cho dòng hàng xuất khẩu.
- Doanh nghiệp Việt Nam chưa xây dựng được mạng lưới quan hệ tiêu thụ mang tính lâu dài và ổn định tại thị trường Trung Quốc, trong giao dịch mậu dịch thường rơi vào thế bị động.
- Quá trình tiếp nhận và phổ biến về Chương trình thu hoạch sớm trong nước thiếu hiệu quả. Hiện nay, có ít doanh nghiệp được hưởng ưu đãi thuế, đối với nhiều mặt hàng nông thủy sản của Việt Nam khi xuất sang Trung Quốc, đa số vẫn phải chịu mức thuế cũ, tỉ lệ các doanh nghiệp xin mẫu C/O form E (xuất xứ hàng hóa) để hưởng thuế suất ưu đãi khi xuất hàng sang Trung Quốc chỉ dưới 10%. Một trong những nguyên nhân chính là do thủ tục cấp C/O phía Việt Nam vẫn còn bất cập. Tại ba cửa khẩu Tân Thanh, Lào Cai và Móng Cái đều không có cơ quan cấp mẫu C/O, DN khi xuất các mặt hàng nằm trong danh mục ưu đãi muốn có được mẫu C/O về Hà Nội để đến Bộ Thương mại xin cấp. Đặc thù mặt hàng này phải xuất nhanh, quy mô nhỏ bé, vận chuyển xa làm tăng chi phí hàng hoá, nên không thể lần nào cũng về được Hà Nội xin giấy. Trong khi đó, phía Trung Quốc do cơ quan cấp C/O đặt ngay tại cửa khẩu nên gần như 100% hàng nhập từ Trung Quốc nếu nằm trong danh mục được cắt giảm đều được giảm thuế ưu đãi từ phía Việt Nam.
CHƯƠNG III: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG KHAI THÁC CÁC THUẬN LỢI DO CHƯƠNG TRÌNH THU HOẠCH SỚM ĐEM LẠI NHẰM THÚC ĐẨY XUẤT KHẨU HÀNG NÔNG SẢN SANG TRUNG QUỐC
3.1 Định hướng xuất khẩu hàng nông thủy sản của Việt Nam sang thị trường Trung Quốc
Mặc dù gặp phải những khó khăn ban đầu trong quá trình thực hiện chương trình thu hoạch sớm nhưng chúng ta không thể phủ nhận lợi ích từ nó nói riêng và khu vực tự do thương mại ASEAN-Trung Quốc nói chung. Các lợi thế đó là:
Thứ nhất, Việt Nam và Trung Quốc bước vào xu thế hội nhập ngày càng sâu rộng. Kinh tế tri thức, xu thế hội nhập và toàn cầu hoá sẽ đem đến nhiều cơ hội cho quan hệ thương mại giữa hai nước.
Thứ hai, đối với Việt Nam, trong thời gian tới, Trung Quốc sẽ là thị trường đầy tiềm năng do Trung Quốc là thành viên chính thức của WTO; Trung Quốc là thị trường có sức mua lớn, dễ tính và đa dạng với 1,3 tỷ dân, có nơi có thu nhập rất cao (18.000 – 20.000 USD/người/năm), có nơi chỉ thu nhập rất thấp (250 – 300 USD/người/năm). Đây là thuận lợi rất cơ bản cho hoạt động XNK của Việt Nam vì hầu như hàng gì cũng có thể xuất khẩu sang Trung Quốc và nhập khẩu từ Trung Quốc về với những phẩm cấp hàng hoá khác nhau, giá cả khác nhau; Trung Quốc có thị trường nội tệ ổn định trong 10 năm qua.
Thứ ba, xu hướng tích cực hợp tác đi đôi với cạnh tranh mạnh mẽ trong thế kỷ 21 là động lực thúc đẩy quan hệ ngoại thương Việt Nam - Trung Quốc phát triển theo hướng bền vững, toàn diện và sâu sắc hơn.
Thứ tư, đối với Trung Quốc, hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ có hiệu lực mở ra nhiều cơ hội, thuận lợi và nhiều triển vọng mới.
Theo kết quả dự báo của một số công trình nghiên cứu của Bộ Thương mại đã công bố thì trong giai đoạn 2006-2010, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Trung Quốc sẽ đạt nhịp độ tăng bình quân từ 13 – 14% năm, cụ thể: năm 2006 là 3,4 tỷ USD, năm 2007 là 3,9 tỷ USD, năm 2008 là 4,4 tỷ USD, năm 2009 là 5,5 tỷ USD và năm 2010 là 6,2 tỷ USD. Theo dự đoán của Tổ chức lương thực thế giới (FAO), nhu cầu tiêu thụ rau củ quả trên thế giới tăng bình quân 3,6%/năm, trong khi cung vẫn chưa đủ cầu và chỉ tăng 2,8%/năm. Vì vậy đến năm 2010, Bộ thương mại đã đặt triển vọng xuất khẩu rau củ quả khoảng 700 triệu USD, hạt điều khoảng 1 tỷ USD, thủy sản khoảng 4 tỷ USD, trong đó, tỷ trọng xuất khẩu sang thị trường Trung Quốc chiếm phần quan trọng.
3.2 Giải pháp thúc đẩy xuất khẩu hàng nông thủy sản của Việt Nam vào Trung Quốc dưới tác động của Chương trình thu hoạch sớm
3.2.1 Giải pháp từ phía nhà nước
- Cải cách hành chính: Kiến nghị các cơ quan quản lý nhà nước đổi mới cơ chế quản lý, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp tham gia xuất nhập khẩu, cụ thể là giải quyết những vướng mắc xung quanh việc cấp C/O form E cho các doanh nghiệp. Học tập kinh nghiệm của Trung Quốc, các cơ quan cấp C/O nên đặt ngay tại các cửa khẩu, tránh tình trạng tập trung cấp tại một địa điểm, do đó số lượng hàng xuất khẩu vào Trung Quốc đều được cấp C/O và được giảm thuế ưu đãi, vừa giảm bớt thiệt thòi cho các doanh nghiệp, vừa nâng cao cơ hội thâm nhập sâu vào thị trường Trung Quốc.
- Phát triển khu trung tâm thương mại: Tập trung khẩn trương xây dựng khu trung tâm thương mại tại khu vực biên giới Việt- Trung. Khu trung tâm Thương mại được xem như trung tâm chợ đầu mối hàng nông sản và các loại hàng hóa từ các nơi chuyển về đây để giao dịch xuất sang Trung Quốc. Khu trung tâm thương mại sẽ có các kho lạnh chứa hàng nông sản, thủy sản, kho ngoại quan, nhà máy sơ chế nông sản để nâng giá trị hàng Việt Nam, không để xảy ra tình trạng hàng lên đến nơi bằng mọi giá phải bán đổ, bán tháo.
- Đổi mới trong sản xuất: Tăng cường đầu tư vào hệ thống các cơ quan nghiên cứu khoa học và hệ thống khuyến nông nhằm quan tâm, hướng dẫn một cách bài bản quy trình kỹ thuật canh tác cho người sản xuất, từ cách lựa chọn giống đến khâu chăm sóc, thu hoạch và bảo quản sau thu hoạch, tránh tình trạng sản xuất tuỳ tiện, canh tác theo tập quán cũ, quy mô sản xuất manh mún, nhỏ lẻ, không đồng bộ, chất lượng không cao.
- Hợp tác quốc tế: Tích cực đẩy mạnh cơ chế hợp tác giữa chính phủ, các bộ ngành và địa phương giữa Việt Nam và Trung Quốc nhằm đẩy mạnh quan hệ thương mại giữa hai nước. Một số thoả thuận liên quan đến hàng xuất khẩu của Việt Nam như kiểm dịch thuỷ sản và gạo, vệ sinh an toàn thực phẩm... được ký kết tạo điều kiện pháp lý và nâng cao giá trị cho hàng xuất khẩu của Việt Nam. Ngoài ra, việc xây dựng hành lang kinh tế Nam Ninh - Lạng Sơn - Hà Nội - Hải Phòng và vành đai kinh tế vòng quanh Vịnh Bắc Bộ cũng góp phần thúc đẩy thương mại tại các khu vực trên, đồng thời có tác động lan toả ra các tỉnh xung quanh, tạo ra một không gian hợp tác kinh tế rộng lớn giữa hai nước
3.2.2 Giải pháp từ phía doanh nghiệp
- Xây dựng thương hiệu: Nhanh chóng xây dựng thương hiệu cho hàng nông thủy sản của Việt Nam theo các bước sau:
Một là, cần nhanh chóng phối hợp với các bộ ngành và hiệp hội ngành hàng rà soát lại quy hoạch vùng, quy hoạch ngành gắn với điều kiện địa phương và dự báo thị trường trong nước và quốc tế để có chiến lược, định hướng phát triển phù hợp từng mặt hàng nông sản.
Hai là, đẩy mạnh hơn nữa các chương trình xúc tiến thương mại, quảng bá sản phẩm trong và ngoài nước thông qua các hội chợ - triển lãm.
Ba là, có chính sách đầu tư, hỗ trợ, khuyến khích các cá nhân, tổ chức đứng ra xây dựng thương hiệu cho sản phẩm của mình; hoàn thiện các văn bản pháp luật, tạo điều kiện để các đơn vị, cá nhân đăng ký thương hiệu cho sản phẩm của mình.
Bốn là, để tạo dựng thương hiệu cho các mặt hàng nông sản, các cơ quan chức năng cần đẩy mạnh hơn nữa công tác nghiên cứu khoa học trong sản xuất giống cây trồng mới, phục hồi các giống đặc sản đang có nguy cơ thoái hóa; nghiên cứu các quy trình thâm canh tiên tiến nhằm tạo điều kiện để nông dân giảm giá thành sản xuất, đồng thời tăng năng suất, chất lượng và thu nhập. Nghiên cứu, thành lập quỹ bảo hiểm sản phẩm để người dân yên tâm đầu tư sản xuất, tránh tình trạng người dân tự chuyển đổi quy hoạch khi gặp thiên tai, dịch bệnh hoặc khi thị trường bất lợi.
- Tìm hiểu thị trường: Nâng cao khả năng nắm bắt và mức độ sử dụng những thông tin về thị trường Trung Quốc mà doanh nghiệp đang quan tâm. Đối với Việt Nam, Trung Quốc là một thị trường tiềm năng, vừa liền kề, vừa rộng lớn. Song, sự khai thác thị trường này vẫn còn nhiều hạn chế. Tìm hiểu sâu sắc và đầy đủ hơn về đất nước và môi trường thương mại Trung Quốc, các doanh nghiệp Việt Nam sẽ có thêm cơ hội thâm nhập thị trường tiềm năng này.
Thị trường Trung Quốc rộng lớn nhưng lại không đồng nhất. Sự chênh lệch về kinh tế giữa các khu vực đặc biệt rõ nét và nhu cầu tiêu dùng mang tính đa dạng cao. Các doanh nghiệp xuất khẩu phía Việt Nam cần phải đi sâu nghiên cứu những yêu cầu khác nhau của thị trường Trung Quốc để tìm kiếm những vùng thị trường, những lĩnh vực thương mại, những nguồn hàng và đối tác phù hợp với điều kiện kinh doanh của mình. Doanh nghiệp Việt Nam nên lấy sản phẩm ưu thế của mình phát triển thị trường phía Tây Trung Quốc, lợi dụng chính sách ưu đãi của Trung Quốc đối với khu vực phía Tây, mở mang quảng bá sản phẩm của Việt Nam. Vùng đất phía Tây Trung Quốc là trọng điểm kinh tế lớn của nước này với tổng thu nhập bằng 25% GDP, là thị trường có nhu cầu tương đối cao đối với sản phẩm của Việt Nam, nhất là hàng thuỷ sản và trái cây nhiệt đới. Thị hiếu tiêu dùng ở vùng này là: giá rẻ, chất lượng tốt và đặc biệt, bao bì phải hấp dẫn.
Tìm hiểu thị trường Trung Quốc, doanh nghiệp cần biết rằng: Là một thành viên của WTO, kinh tế Trung Quốc đã hoà nhập với thế giới, muốn thâm nhập thị trường này một cách chắc chắn, lâu dài thì cần nắm vững hệ thống pháp luật mới của Trung Quốc, hiểu rõ Trung Quốc đã vận dụng các quy tắc và thể lệ của WTO như thế nào, đặc biệt là các tương quan pháp quy và chính sách như: Xuất nhập khẩu, biên mậu, kiểm nghiệm, kiểm dịch, tiêu chuẩn an toàn vệ sinh, tài chính tiền tệ... từ đó chuẩn bị các biện pháp ứng đối thích hợp cho việc xúc tiến thương mại với Trung Quốc.
- Nâng cao chất lượng sản phẩm: Doanh nghiệp Việt Nam cần phải chú ý tới khâu chất lượng và bảo quản sản phẩm. Mặt hàng nông thủy sản của Việt Nam rất dồi dào, nhưng chủ yếu chưa qua chế biến, hoặc mới dừng ở khâu sơ chế. Vì vậy, giá hàng hóa nông sản phụ thuộc rất nhiều vào giá cả thị trường nông sản chung trên thế giới, mà mức giá này lại biến động mạnh trong thời gian qua. Để giảm thiểu rủi ro này, các doanh nghiệp kinh doanh, chế biến nông thủy sản cần tập trung vào việc xuất khẩu hàng đã qua chế biến, chú ý đến bao bì và đóng gói sản phẩm, xây dựng thương hiệu hàng nông thủy sản chế biến của Việt Nam.
- Tăng cường tiếp cận thị trường: Các doanh nghiệp cần thực hiện việc tiếp thị mạnh mẽ vào các đầu mối cung cấp, chế biến lớn, hệ thống hoặc mạng lưới phân phối các sản phẩm nông sản, thuỷ hải sản của Trung Quốc. Chủ động thiết lập mạng lưới tiêu thụ hàng ổn định, lâu dài tại các thành phố lớn của Trung Quốc, cần tính tới khả năng lập cửa hàng giới thiệu và bán sản phẩm của Việt Nam tại Côn Minh, Nam Ninh, Quảng Châu, Thượng Hải. Các doanh nghiệp Việt Nam cũng có thể hợp tác với các doanh nghiệp Trung Quốc để chế biến rồi xuất khẩu sang Trung Quốc.
- Thay đổi cơ cấu hàng xuất khẩu: Cần tạo ra một cơ cấu hàng xuất khẩu phù hợp với thị trường Trung Quốc, nâng cao khả năng cạnh tranh, tạo ra các mặt hàng mới. Trung Quốc và Việt Nam có nhiều sản phẩm tương đồng nên việc mở rộng diện mặt hàng xuất khẩu sang nước này luôn là khó khăn. Các doanh nghiệp Việt Nam chỉ có thể khắc phục được khó khăn này khi cơ cấu sản xuất trong nước và cơ cấu hàng xuất khẩu thay đổi phù hợp với nhu cầu nhập khẩu của Trung Quốc.
- Xây dựng uy tín và độ ổn định cao: vì doanh nhân Trung Quốc rất coi trọng mặt uy tín và quan hệ thân quen. Do vậy, cần có sự phối hợp đồng bộ giữa các Bộ, ngành trong việc định hướng sản xuất mang tính lâu dài để có được quy hoạch sản xuất mang tính tổng thể cho các ngành sản xuất trong cả nước, đảm bảo nguồn cung hàng ổn định về lượng và giá cho đối tác.
3.2.3. Giải pháp cụ thể đối với một số mặt hàng
3.2.3.1. Đối với thủy sản
- Nâng cao chất lượng, bao bì, mẫu mã phù hợp với các quy định của WTO và các tiêu chuẩn kiểm nghiệm, kiểm dịch của Trung Quốc đề ra, đầu tư nâng cao sản lượng đánh bắt, đảm bảo cung cấp nhiều và đều đặn. Bên cạnh đó cần phải đa dạng hóa sản phẩm, tránh tình trạng sản phẩm đơn điệu dễ gây ra sự nhàm chán đối với khách hàng.
- Phải giải quyết tốt khâu đánh bắt xa bờ, tăng cường gia công chế biến để nâng cao chất lượng.
- Bộ Thủy sản phải phối hợp với Bộ Giao thông Vận tải, tỉnh Lào Cai đầu tư hệ thống toa xe lạnh, xe lạnh và xây dựng hệ thống kho lạnh phục vụ việc vận chuyển hàng thủy sản của Việt Nam sang tỉnh Vân Nam, Trung Quốc và từ đó tiếp tục thâm nhập sâu vào các tỉnh khu vực Tây Nam Trung Quốc như Tứ Xuyên, Quý Châu…
- Cá da trơn là mặt hàng có thế mạnh xuất khẩu và Trung Quốc cũng có nhu cầu, do vậy cần tổ chức các đoàn xúc tiến thương mại để quảng bá, giới thiệu nhiều về mặt hàng này. Thiết lập kênh phân phối thông qua việc khuyến khích các công ty xuất khẩu thủy sản thành lập các văn phòng đại diện tại các địa phương có nhu cầu lớn về nhập khẩu thủy sản.
- Hiện nay, tỉnh Vân Nam, Quảng Tây và các tỉnh miền Tây Nam Trung Quốc là những địa phương không có biển nên nhu cầu tiêu thụ hải sản rất cao đặc biệt là vào mùa đông và các dịp lễ, tết; do vậy, cần chú ý công tác xúc tiến thương mại tại khu vực này. Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu Thủy sản (Vasep) và Bộ Thủy sản nghiên cứu tổ chức định kỳ một năm một lần Hội chợ sản phẩm thủy sản Việt Nam tại khu vực này nhằm quảng bá rộng rãi về tiềm năng thủy sản Việt Nam.
3.2.3.2. Đối với hạt điều
- Điều chỉnh giảm thuế suất thuế nhập khẩu điều thô nhằm khuyến khích nhập khẩu điều thô từ châu Phi làm nguyên liệu phục vụ chế biến và xuất khẩu nhằm tận dụng nguồn nguyên liệu dồi dào cũng như những hạn chế về khả năng khai thác lợi thế của các nước thuộc khu vực này.
- Nâng cao hàm lượng chế biến hơn nữa đối với sản phẩm xuất khẩu, giảm xuất khẩu điều sơ chế, nhằm tăng giá trị xuất khẩu trên một đơn vị sản phẩm xuất khẩu.
- Cải thiện năng lực cung nguyên liệu trong nước trên cơ sở thực hiện các biện pháp khuyến khích và hỗ trợ nông dân mở rộng diện tích trồng điều, lựa chọn giống tốt, củng cố hệ thống cơ sở vật chất lưu kho và công nghệ chế biến.
- Các doanh nhiệp nghiên cứu việc đầu tư sang Lào, Campuchia để thâm canh cây điều nhằm tạo nguồn nguyên liệu ổn định cho xuất khẩu.
3.2.3.3. Đối với rau củ quả
- Tập trung phát triển các loại cây ăn quả có lợi thế như loại cây có múi gồm cam, quýt, bưởi; dứa, xoài, nhãn, vải, thanh long, sầu riêng, măng cụt, vú sữa. Phát triển các giống cây ăn quả chất lượng cao, đặc sản ở các vùng như cam, quýt (Canh, Cần Thơ), bưởi (Phúc Trạch, Đoan Hùng, Năm Roi), Xoài cát (Vĩnh Long, Bến Tre, Tiền Giang), quýt hồng (Đồng Tháp).
- Đầu tư các vùng nguyên liệu cây ăn quả tập trung cho các nhà máy theo hướng chủ yếu là thâm canh, xây dựng các vườn giống đạt tiêu chuẩn quy định, sản xuất đủ giống tốt, có kiểm soát chất lượng; mở rộng việc áp dụng các tiến bộ kỹ thuật sạch bệnh, trái vụ, bảo quản và chế biến.
- Khuyến khích tiêu thụ nông sản hàng hoá thông qua hợp đồng và thúc đồngẩy phong trào liên kết “4 nhà” gồm sản xuất, nhà khoa học, doanh nghiệp và nhà nước. Cụ thể, nhà sản xuất: tiếp nhận kỹ thuật mới, sáng tạo và đi đầu trong sản xuất sản phẩm chất lượng cao và an toàn theo yêu cầu thị trường; nhà kinh doanh: cung cấp yêu cầu của khách hàng cho nhà sản xuất, nhà khoa học, nhà nước để sản xuất ra sản phẩm theo yêu cầu khách hàng, góp phần cải tiến, nâng cao giá trị sản phẩm, chủ động sáng tạo phát triển và mở rộng thị trường; Nhà nước có trách nhiệm đề ra chính sách thích hợp hỗ trợ kinh tế tập thể, tổ chức liên kết tạo ra sản phẩm chất lượng cao, an toàn đủ sức cạnh tranh; nhà khoa học: cung cấp kỹ năng, hướng dẫn nghiên cứu & phát triển và hỗ trợ huấn luyện, đào tạo, góp phần phát triển nền nông nghiệp bền vững.
- Tổ chức các chợ đầu mối rau quả biên giới và thỏa thuận với phía Trung Quốc về cách thức mua bán, giá cả, số lượng và phối hợp, thúc đẩy hoạt động xuất khẩu theo đường chính ngạch.
KẾT LUẬN
Việc thành lập Khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc (ACFTA) với lộ trình cắt giảm thuế quan trong 10 năm để đạt mục tiêu tự do hoá thương mại vào năm 2015 đặt ra rất nhiều thách thức lớn đối với các doanh nghiệp Việt Nam, đồng thời cũng mở ra nhiều cơ hội kinh doanh đầy tiềm năng. Trong đó, Chương trình thu hoạch chính là những cơ hội và thách thức đầu tiên đối với nền kinh tế Việt Nam.
Những năm gần đây, kim ngạch buôn bán hai chiều giữa Việt Nam và Trung Quốc luôn đạt mức tăng trưởng trên 25%, tuy nhiên tỷ trọng kim ngạch vẫn duy trì ở mức 10% tổng giá trị xuất nhập khẩu của Việt Nam. Trung Quốc hiện là đối tác thương mại quan trọng thứ 3 của Việt Nam sau Nhật Bản và Liên minh châu Âu nhưng nếu xét về cơ cấu thương mại, Việt Nam luôn ở trong tình trạng thâm hụt cán cân thương mại với Trung Quốc và có xu hướng tăng do tốc độ tăng giá trị nhập khẩu cao hơn nhiều so với tốc độ tăng xuất khẩu của Việt Nam. Tỷ lệ nhập siêu bình quân tăng trên 30% so với tổng kim ngạch nhập khẩu trong các năm 2001-2003 và tăng 43% trong năm 2003 trong khi xuất khẩu của Việt Nam sang Trung Quốc lại tăng không đáng kể và duy trì ở mức 9%. Điều này cho thấy khả năng tiếp cận thị trường của hàng hoá Trung Quốc vào Việt Nam ngày càng tăng với tốc độ cao, ngay cả khi chưa thực hiện ACFTA.
Trong khi đánh giá tác động của việc thực hiện ACFTA đối với một số sản phẩm của Việt Nam, các cam kết tự do thương mại hàng hoá của ACFTA đang được các nước thành viên triển khai thực hiện, hầu hết các mặt hàng nông sản, thủy sản đã được thực hiện theo Chương trình thu hoạch sớm với lộ trình cắt giảm 3 năm 2004 -- 2006 xuống thuế suất 0% đối với ASEAN6 và Trung Quốc, 5 năm đối với Việt Nam (2004-2008). Toàn bộ các mặt hàng phi nông sản được cam kết theo Hiệp định thương mại hàng hoá với lộ trình cắt giảm thuế bắt đầu từ ngày 1/7/2005. Nhìn vào số liệu thống kê cùng với cơ cấu các mặt hàng xuất nhập khẩu giữa Việt Nam và Trung Quốc và lộ trình loại bỏ hàng rào thuế quan như vậy, các chuyên gia đánh giá rằng việc tham gia vào ACFTA một mặt sẽ tạo điều kiện cho hàng Việt Nam thâm nhập vào thị trường Trung Quốc, nhưng mặt khác cũng đặt ra những thách thức cạnh tranh rất lớn đối với nhiều ngành công nghiệp của Việt Nam, đặc biệt là các mặt hàng tương đồng với Trung Quốc sản xuất với trình độ phát triển cao hơn. Tuy nhiên, nếu Việt Nam có những chính sách khuyến khích đầu tư và thúc đẩy xuất khẩu các mặt hàng có lợi thế, như nhóm mặt hàng nông sản và thuỷ sản thì Việt Nam hoàn toàn có khả năng thu hẹp mức thâm hụt cán cân thương mại với nước này.
Do đó, đứng trước những cơ hội và thách thức do ACFTA và Chương trình thu hoach sớm đem lại, Việt Nam cần có những điều chỉnh hợp lý và đồng bộ để tranh thu tốt nhất cơ hội này, nâng cao khả năng và hiệu quả xuất khẩu của nền kinh tế.
Môc lôc
LỜI MỞ ĐẦU 1
CHƯƠNG I: TỔNG QUAN CHUNG VỀ LÝ THUYẾT XUẤT KHẨU HÀNG NÔNG SẢN VÀ CHƯƠNG TRÌNH THU HOẠCH SỚM GIỮA AFTA VÀ TRUNG QUỐC - VAI TRÒ QUAN TRỌNG CỦA THỊ TRƯỜNG TRUNG QUỐC 4
1.1 Lý thuyết về xuất khẩu hàng hóa nói chung 4
1.1.1. Các quan điểm về thương mại quốc tế và xuất khẩu hàng hóa 4
1.1.2 Các lý thuyết về thương mại quốc tế 4
1.1.2. Sự cần thiết của hoạt động xuất khẩu đối với nền kinh tế quốc dân 6
1.1.3. Vai trò của hoạt động xuất khẩu hàng hóa đối với một quốc gia 7
1.1.4. Các hình thức xuất khẩu 9
1.1.5. Các yếu tố ảnh hưởng tới hoạt động xuất khẩu 10
1.2 Tổng quan về chương trình thu hoạch sớm kí kết giữa AFTA và Trung Quốc 12
1.2.1 Giới thiệu chung về ACFTA và EHP 12
1.2.2 Những thuận lợi do EHP mang lại cho Việt Nam 16
1.3.3 Những thách thức từ việc thực hiện EHP đối với Việt Nam 18
1.3.4 Tác động của Chương trình Thu hoạch sớm với quan hệ thương mại Việt Nam-ASEAN 20
1.4 Vai trò của thị trường Trung Quốc đối với hàng nông thủy sản xuất khẩu của Việt Nam 21
1.5 Kinh nghiệm xuất khẩu nông thủy sản hàng hóa của Thái Lan sang Trung Quốc 23
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU HÀNG NÔNG SẢN CỦA VIỆT NAM SANG THỊ TRƯỜNG TRUNG QUỐC DƯỚI LỘ TRÌNH THỰC HIỆN CỦA CHƯƠNG TRÌNH THU HOẠCH SỚM 24
2.1 Tình hình xuất khẩu hàng nông thủy sản của Việt Nam sang Trung Quốc 24
2.1.1. Kim ngạch xuất khẩu 24
2.1.2. Phương thức mua bán 29
2.2. Đánh giá, nhận xét 33
2.2.1. Những lợi thế của hàng nông thủy sản Việt Nam khi cạnh tranh trên thị trường Trung Quốc 33
2.2.2. Những bất lợi của hàng nông thủy sản Việt Nam khi cạnh tranh trên thị trường Trung Quốc 35
2.2.3. Những hạn chế trong quá trình thực hiện EHP 38
2.2.4. Nguyên nhân của những hạn chế trong quá trình thực hiện EHP 38
CHƯƠNG III: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG KHAI THÁC CÁC THUẬN LỢI DO CHƯƠNG TRÌNH THU HOẠCH SỚM ĐEM LẠI NHẰM THÚC ĐẨY XUẤT KHẨU HÀNG NÔNG SẢN SANG TRUNG QUỐC 42
3.1 Định hướng xuất khẩu hàng nông thủy sản của Việt Nam sang thị trường Trung Quốc 42
3.2 Giải pháp thúc đẩy xuất khẩu hàng nông thủy sản của Việt Nam vào Trung Quốc dưới tác động của Chương trình thu hoạch sớm 43
3.2.1 Giải pháp từ phía nhà nước 43
3.2.2 Giải pháp từ phía doanh nghiệp 44
3.2.3. Giải pháp cụ thể đối với một số mặt hàng 47
KẾT LUẬN 50
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- BC2085.doc