Xuất khẩu tự doanh là hoạt động xuất khẩu độc lập và trực tiếp của một doanh
nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu trên cơ sở nghiên cứu kỹ thị trường trong và ngoài nước, tính toán đầy đủ chi phí đảm bảo kinh doanh xuất khẩu có lãi, đúng phương hướng, chính sách, pháp luật của quốc gia cũng như quốc tế.
Trong xuất khẩu tự doanh, doanh nghiệp phải đứng mũi chịu sào trước tất cả mọi việc. Doanh nghiệp phải xem xét một cách kỹ càng từ bước nghiên cứu thị trường, lo tìm kiếm nguồn hàng xuất khẩu đến việc ký kết hợp đồng và thực hiện hợp đồng vì doanh nghiệp phải tự bỏ vốn của mình ra, chịu mọi chi phí và rủi ro có thể xảy ra.
39 trang |
Chia sẻ: DUng Lona | Lượt xem: 1247 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng và giải pháp thúc đẩy xuất khẩu của Công ty dệt Minh Khai, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hiều chính sách nhằm xây dựng một môi trường đầu tư hấp dẫn, ổn định để thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Các doanh nghiệp ngày càng có điều kiện thuận lợi để liên doanh liên kết, mở rộng sản xuất. Hệ thống ngân hàng đã có nhiều thay đổi tích cực tạo điều kiện cho các doanh nghiệp vay vốn kinh doanh.
3. Pháp luật, chính sách, cơ chế.
Đây chính là những yếu tố quan trọng thuộc về môi trường bên ngoài tác động đến xuất khẩu. Sự thông thoáng, ổn định và dễ nhận biết( tính minh bạch) của yếu tố này sẽ tác động trực tiếp đến doanh nghiệp trong việc xây dựng chiến lược kinh
doanh, chủ động các phương án đàm phán và thực hiện tốt các hoạt động xuất khẩu.
Bên cạnh đó, vấn đề pháp luật, chính sách và cơ chế của nước nhập khẩu đang ngày càng khẳng định tác động quan trọng, thậm chí quyết định đến doanh nghiệp xuất khẩu. Nếu doanh nghiệp xuất khẩu không nắm bắt được sẽ có thể gây nên những tổn thất lớn bởi mỗi nước có các chính sách kinh tế khác nhau, hàng rào thuế quan được dựng lên nhiều khi rất phức tạp, gây khó khăn cho nước xuất khẩu, hạn ngạch phi quan thuế thì khắt khe và đa dạng. Mỗi thị trường khu vực, mỗi quốc gia thậm chí là các bang, vùng của một nước có những cơ chế chính sách khác nhau đối với một mặt hàng nhập khẩu.
4. Nội lực doanh nghiệp.
Trình độ tổng hợp và năng lực chuyên môn, nghiệp vụ cũng như kinh nghiệm kinh doanh của doanh nghiệp xuất khẩu tác động có tính chất quyết định đến kết quả và hiệu quả xuất khẩu. Từ yếu tố nội lực này, doanh nghiệp có điều kiện để nhận thức, vận dụng các quy luật và yếu tố khách quan, chủ động tổ chức kinh doanh và xuất khẩu có hiệu quả.
5. Các yếu tố khác.
Cũng cần lưu ý rằng hoạt động xuất khẩu của mỗi quốc gia cũng chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố khác như: điều kiện tự nhiên, kinh tế, chính trị, pháp luật, lịch sử, văn hoá, khoa học công nghệ, cạnh tranh... và các quan hệ kinh tế quốc tế giữa các quốc gia.
IV. Xuất khẩu hàng dệt may và vai trò của xuất khẩu mặt hàng này.
Dệt may là một ngành phát triển nhanh chóng và năng động. Đây là ngành sử dụng nhiều lao động vì thế chúng được coi là ngành mũi nhọn của các nước có nguồn lao động dồi dào và giá rẻ. Trong lĩnh vực kinh doanh này, ngành dệt may của khu vực Châu á - Thái Bình Dương chiếm khoảng 70% sản lượng của toàn thế giới. Trong đó ngành dệt may của khu vực châu á chiếm tới 60% sản lượng thế giới và đang tiếp tục phát triển với tốc độ cao. Tỷ trọng hàng dệt may xuất khẩu trong các nước này chiếm khoảng 10% tổng kim ngạch xuất khẩu, con số này ở Việt Nam là trên 20%. Đối với Việt Nam, dệt may chiếm một vị trí quan trọng trong nền kinh tế quốc dân, nó mang lại nhiều ngoại tệ và giải quyết công ăn việc làm cho hàng triệu lao động.
Là một ngành hàng có truyền thống lâu đời tại Việt Nam và là một ngành công nghiệp mũi nhọn đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế nước ta, sản xuất hàng dệt may tăng trưởng nhanh, kim ngạch xuất khẩu không ngừng gia tăng với nhịp độ cao, thị trường luôn mở rộng, tạo điều kiện cho kinh tế phát triển, góp phần cân bằng cán cân xuất nhập khẩu, thu hút ngày càng nhiều lao động và đóng góp ngày càng nhiều vào ngân sách.
Trong những năm gần đây, hàng may xuất khẩu của Việt Nam chủ yếu là sang thị trường Châu âu và Nhật Bản. Trong năm 1998, thị trường Châu âu đã chiếm 27,53 % tổng kim ngạch xuất khẩu. Xuất khẩu hàng may mặc của Việt Nam sang thị trường Mỹ còn quá nhỏ bé, mới chỉ đạt khoảng 2 % trong tổng giá trị hàng dệt may của ta tới tất cả các thị trường quốc tế. Trong khi đó thời gian gần đây, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam đến Nhật Bản đạt 15,67 % , trong đó giá trị hàng may mặc là 24,01 %.
Xuất khẩu hàng dệt may có ý nghĩa quan trọng đối với nước ta. Với tiềm năng nguyên liệu và sức lao động dồi dào, với vị trí đáng kể trong những mặt hàng xuất khẩu chủ lực truyền thống lâu nay, việc đẩy mạnh xuất khẩu và nâng cao hiệu quả xuất khẩu hàng dệt may có tác động thiết thực để tăng nhanh kim ngạch và hiệu quả xuất khẩu chung, góp phần tích cực giải quyết công ăn việc làm, phát triển kinh tế xã hội.
Chương II
Thực trạng hoạt động xuất khẩu
của Công ty dệt Minh Khai.
I. Giới thiệu khái quát về Công ty dệt Minh Khai.
1. Lịch sử hình thành và phát triển của Công ty dệt Minh Khai.
Công ty dệt Minh Khai được khởi công xây dựng từ cuối năm 1960 và đến năm 1974, được chính thức thành lập theo quyết định của UBND thành phố Hà Nội. Những năm tiếp theo, Công ty dần đi vào ổn định, hoàn thiện nhà xưởng, hiệu chỉnh lại máy móc thiết bị, đào tạo thêm lao động để tăng cường sản xuất. Nhiệm vụ chủ yếu lúc này của Công ty là sản xuất khăn mặt, khăn bông, khăn tắm phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng nội địa.
Từ năm 1981- 1989 là thời kỳ phát triển với tốc độ cao của Công ty, Công ty đã chuyển hướng để xuất khẩu là chủ yếu. Năm 1988, Công ty là doanh nghiệp đầu tiên ở miền Bắc được Nhà nước cho phép xuất khẩu trực tiếp ra nước ngoài. Đầu những năm 90, nền kinh tế nước ta chuyển mạnh sang cơ chế quản lý mới cùng với việc hệ thống XHCN sụp đổ ở Đông Âu và Liên Xô đã làm cho nhiều doanh nghiệp trong đó có Công ty dệt Minh Khai gặp nhiều khó khăn. Tuy nhiên, được sự giúp đỡ của Nhà nước cùng với sự nỗ lực của cán bộ công nhân viên, Công ty dệt Minh Khai đã đầu tư thêm nhiều trang thiết bị mới nhằm từng bước nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, chăm lo tốt đời sống CBCNV; cho đến nay Công ty đã từng bước khẳng định vị trí của mình là một doanh nghiệp nhà nước kinh doanh có hiệu quả trong công cuộc công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước.
2. Chức năng nhiệm vụ của Công ty dệt Minh Khai.
Công ty dệt Minh Khai ngay từ khi mới thành lập đã được Nhà nước giao cho thực hiện chức năng và nhiệm vụ chủ yếu là sản xuất và kinh doanh các sản phẩm ngành dệt phục vụ cho nhu cầu trong nước cũng như quốc tế, làm tốt công tác nhập
khẩu phục vụ cho nhu cầu sản xuất, góp phần nâng cao chất lượng hàng hoá, tăng thu ngoại tệ và phát triển kinh tế đất nước.
Với chức năng và nhiệm vụ trên, trong 30 năm qua, Công ty dệt Minh Khai đã phát huy mọi nguồn lực khắc phục khó khăn để không ngừng lớn mạnh và trưởng thành, đứng vững trên thương trường, góp phần thiết thực vào việc thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế-xã hội của đất nước.
3. Cơ cấu tổ chức hoạt động của Công ty dệt Minh Khai .
Công ty dệt Minh Khai tổ chức bộ máy quản lý theo một cấp, đứng đầu là Ban giám đốc chỉ đạo trực tiếp đến từng đơn vị thành viên, giúp việc cho giám đốc có các phòng ban nghiệp vụ. (Xem Sơ đồ tổ chức – Phụ lục)
Chức năng nhiệm vụ của các phòng ban:
- Ban giám đốc: gồm có giám đốc và hai phó giám đốc (PGĐ sản xuất và PGĐ kỹ thuật). Đây là cơ quan đầu não của Công ty chịu trách nhiệm đưa ra những định hướng phát triển và điều hành mọi hoạt động sản xuất kinh doanh.
- Phòng tài vụ: giúp giám đốc thống kê kế toán tài chính, kiểm tra giám sát tình hình thu chi tài chính, và hướng dẫn chế độ chi tiêu và hạch toán kinh tế.
- Phòng kế hoạch thị trường: là phòng nghiệp vụ tham mưu cho giám đốc trong công tác xây dựng và chỉ đạo thực hiện kế hoạch sản xuất kinh doanh xuất nhập khẩu, tổ chức thực hiện công tác tiêu thụ sản phẩm .
- Phòng tổ chức: giúp giám đốc xây dựng mô hình tổ chức sản xuất và quản lý với nhiệm vụ quản lý số lượng, chất lượng CBCNV, sắp xếp đào tạo đội ngũ CBCNV trong Công ty đáp ứng yêu cầu của nhiệm vụ sản xuất kinh doanh, thực hiện đầy đủ các chế độ chính sách của Nhà nước đối với người lao động
- Phòng kỹ thuật: nghiên cứu tham mưu giúp đỡ giám đốc về công tác quản lý sử dụng kế hoạch và biện pháp về dài hạn, ngắn hạn, áp dụng khoa học kỹ thuật
tiên tiến trong thiết kế chế tạo sản phẩm và đưa công nghệ mới vào sản xuất.
- Phòng hành chính y tế: thực hiện các công việc thuộc phạm vi hành chính, tổng hợp các giao dịch, văn thư và truyền đạt chỉ thị của giám đốc đến các phòng ban phân xưởng, tổ chức công tác khám chữa bệnh tại chỗ cho CBCNV.
4. Đặc điểm sản xuất kinh doanh
a. Đặc điểm sản phẩm dịch vụ.
Sản phẩm của Công ty là: khăn mặt, khăn tắm, màn tuyn, mang tính chất sử dụng nhiều lần, có tác dụng giữ gìn vệ sinh và bảo vệ sức khoẻ. Sản phẩm tiêu dùng cho cá nhân nên yêu cầu phải bền, mềm, thấm nước, mầu sắc mẫu mã phong phú, không phai màu, nhiều kích cỡ khác nhau, độ dày mỏng phù hợp.
Công ty đã không ngừng cải tiến, thiết kế ra những mẫu mới. Hiện nay cơ cấu sản phẩm của Công ty đã phong phú hơn rất nhiều và có đủ khả năng đáp ứng nhu cầu tiều dùng trong nước và thị trường xuất khẩu; có hai loại chủ yếu sau: Khăn bông các loại và màn tuyn.
* Với sản phẩm khăn bông Công ty sản xuất từ nguyên liệu sợi bông 100% nên có độ thấm nước cao, mềm mại và phù hợp với yêu cầu sử dụng của người tiêu dùng. Đây là nhóm sản phẩm chủ yếu của Công ty, chiếm tới 98% khối lượng sản phẩm của Công ty, bao gồm: khăn ăn, khăn rửa mặt, khăn tắm và bộ khăn dùng cho khách sạn bao gồm : khăn mặt, khăn tay, thảm chùi chân và áo choàng tắm; ngoài ra, công ty còn sản xuất các loại vải sợi bông sử dụng để may lót và may mũi giầy phục vụ cho các cơ sở may xuất khẩu như giầy Ngọc Hà, may X40
* Với sản phẩm màn tuyn: Công ty sản xuất 100% sợi PETEX đảm bảo cho màn tuyn có độ bền cao chống được oxy hoá gây ngả màu vàng. Loại sản phẩm này mới được đưa vào sản xuất trong Công ty hơn 10 năm, nên khối lượng sản xuất ra chỉ chiếm tỷ trọng khiêm tốn.
b. Phương thức sản xuất kinh doanh.
Công ty ký và thực hiện hợp đồng xuất khẩu trực tiếp. Với hình thức này, Công ty trực tiếp tiếp xúc với khách hàng ngoại. Khi có những thoả thuận trao đổi đi đến thống nhất về mẫu mã, số lượng sản phẩm, hai bên sẽ chính thức kí kết hợp đồng. Phần lớn mặt hàng khăn bông xuất khẩu của Công ty áp dụng phương thức này. Các mặt hàng khăn bông không đủ tiêu chuẩn xuất khẩu được tiêu thụ tại thị trường nội địa chiếm 10% nhưng kích thước, mầu sắc và mẫu mã sản phẩm không phù hợp với thị hiếu người tiêu dùng. Công ty chỉ có một vài sản phẩm sản xuất theo thiết kế phục vụ trong nước. Việc tiêu thụ chủ yếu thông qua các doanh nghiệp trung gian như: các Công ty thương mại trong và ngoài nước, các trung tâm thương mại, các siêu thị ở Hà nội và tư thương. Từ đó sản phẩm của Công ty được bán cho những người mua bán và bán lẻ tới tay người tiêu dùng.
Ngoài ra, đối với một số sản phẩm Công ty còn áp dụng nghiệp vụ uỷ thác xuất khẩu. Công ty xuất khẩu sản phẩm thông qua Tổng Công ty dệt may Vịêt Nam (Vinatex) và Công ty xuất khẩu thủ công mỹ nghệ (Artexport). Công ty cũng kí hợp đồng với các siêu thị ở Hà nội cung cấp các sản phẩm khăn bông để bán tại các siêu thị này với phương thức thanh toán “gối đầu”.
Mặt khác, Công ty cũng nhận sợi, hoá chất, thuốc nhuộm của khách hàng để tiến hành sản xuất sản phẩm cho khách hàng qua các hợp đồng gia công. Loại hợp đồng này đối với Công ty không nhiều, tùy thuộc vào yêu cầu của khách hàng nhận gia công, đơn giá gia công, thời hạn giao hàng, định mức tiêu hao nguyên vật liệu. Ngoài ra Công ty còn thực hiện hợp đồng nhận vốn ứng trước .
II. Phân tích thực trạng hoạt động XK của công ty.
1. Tình hình xuất khẩu của Công ty trong thời gian qua.
Đối với Công ty dệt Minh Khai, hoạt động xuất khẩu được coi là hoạt động quan trọng nhất của Công ty. Doanh thu xuất khẩu luôn chiếm tỷ trọng lớn, từ 80-85% tổng doanh thu hàng năm.
a. Phân tích tình hình xuất khẩu theo thị trường XK. (Xem bảng 1- Phụ lục)
* Thị trường Nhật Bản
Công ty đã thiết lập và duy trì mối quan hệ làm ăn với các khách hàng Nhật Bản từ năm 1983 cho tới nay và đây cũng là một trong những thị trường nhập khẩu hàng dệt may lớn nhất của Việt Nam. Công ty xuất khẩu sang Nhật Bản những sản phẩm khăn bông bao gồm khăn ăn, khăn mặt, khăn tắm, áo choàng tắm các loại phong phú về kiểu dáng và mẫu mã.
Giá trị kim ngạch xuất khẩu của Công ty sang thị trường này luôn chiếm một tỷ trọng cao nhất khoảng 90% trong tổng kim ngạch xuất khẩu của Công ty hàng năm. Tuy nhiên, mức tăng kim ngạch xuất khẩu trên thị trường Nhật Bản không ổn định. Sở dĩ có tình trạng như vậy là vì hiện nay Công ty đang vấp phải sự cạnh tranh gay gắt của các đối thủ cạnh tranh lớn mạnh trong lĩnh vực xuất khẩu hàng dệt may là Trung Quốc, Thái Lan, Indonesia Kim ngạch xuất khẩu sang thị trường Nhật Bản năm 2002 giảm xuống còn 4.038.000 USD tức là chỉ bằng 95% so với năm 2001 (4.240.000USD). Nguyên nhân là do có sự cạnh tranh về giá giữa các Công ty xuất khẩu hàng dệt may ở Việt Nam, các Công ty này liên tục tự giảm giá để cạnh tranh, giành quyền được ký hợp đồng xuất khẩu, nên giá xuất khẩu của Công ty giảm. Mặt khác các đối tác phía Nhật Bản khi đàm phán ký kết hợp đồng xuất khẩu thường đưa ra mức giá giao dịch rất rẻ là mức giá mà Trung Quốc xuất khẩu vào Nhật Bản để gây sức ép buộc Công ty phải giảm giá theo họ. Hơn nữa, chính phủ Nhật Bản hiện nay đang có ý định hạn chế nhập khẩu mặt hàng dệt nên Bộ Thương mại Việt Nam đã yêu cầu các công ty Việt Nam xuất khẩu sản phẩm dệt vào thị trường Nhật Bản phải hạn chế số lượng xuất khẩu để phía Nhật Bản không áp dụng biện pháp tự vệ tức là hạn chế nhập khẩu nữa.
* Các thị trường khác.
Bên cạnh Nhật Bản, Công ty còn xuất khẩu sang một số thị trường khác như Đan Mạch, Đài Loan, Hồng Kông nhưng chỉ chiếm tỉ lệ không đáng kể trong tổng kim ngạch xuất khẩu của Công ty.
Trở ngại lớn nhất của Công ty đối với việc đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu là khả năng cạnh tranh của Công ty. Các sản phẩm khăn bông của Trung Quốc mặc dù có chất lượng không cao hơn so với chất lượng sản phẩm của Công ty nhưng lại có lợi thế là giá xuất khẩu rẻ hơn. Trong khi đó để sản xuất khăn bông xuất khẩu, Công ty phải nhập nguyên liệu từ nước ngoài, hơn nữa phải đầu tư nhiều để đổi mới thiết bị công nghệ sản xuất nên chi phí giá thành sản phẩm tăng cao, làm cho sản phẩm của Công ty có giá bán cao. Đặc biệt là Trung Quốc vừa gia nhập vào Tổ chức thương mại thế giới(WTO) nên thuế xuất khẩu các sản phẩm của Trung Quốc cũng được giảm nhiều. Đây là một bất lợi lớn đối với toàn ngành dệt may Việt Nam cũng như đối với Công ty.
b. Phân tích tình hình xuất khẩu theo mặt hàng.(Xem bảng 2 – Phụ lục)
Từ khi Nhà nước chuyển đổi sang cơ chế thị trường, mặc dù gặp phải rất nhiều khó khăn song Công ty vẫn đứng vững trên thị trường, sản phẩm sản xuất ra đạt chất lượng tốt, màu sắc đẹp, độ bền cao. Mặt hàng xuất khẩu chính của Công ty gồm có: khăn ăn, khăn mặt, khăn tay, áo choàng tắm, thảm chùi chân, ga trải giường, khăn bếp...
Ngay từ khi chuyển đổi sang kinh doanh xuất khẩu là chính, Công ty dệt Minh Khai cũng xác định sản phẩm xuất khẩu chính của mình là khăn bông dệt các loại. Hàng năm, xuất khẩu sản phẩm này luôn mang lại cho Công ty nguồn lợi nhuận cao. Năm 2000 do có khó khăn về thị trường và tỷ giá hối đoái không ổn định nên kim ngạch xuất khẩu chỉ đạt 2.623.600 USD. Năm 2001 đạt 3.312.960 USD và giảm nhẹ vào năm 2002 nhưng năm vừa qua đã tăng với giá trị đạt tới 3.411.650 USD.
Sở dĩ nhóm sản phẩm này có giá trị xuất khẩu cao là do có sự đa dạng về kiểu dáng, mẫu mã, màu sắc phong phú...Một số loại sản phẩm còn được trang trí in hình động vật, hoa văn trang trí rất bắt mắt do đó rất hấp dẫn và được người tiêu dùng ưa chuộng. Hơn nữa, sản phẩm khăn bông lại có chất lượng tốt, khăn dày, thấm nước, độ mềm mại cao, tạo sự thoải mái khi sử dụng nên khả năng xuất khẩu các sản phẩm này là rất cao và tốc độ tiêu thụ cao.
áo choàng tắm là sản phẩm mới của Công ty trong những năm gần đây. Tuy mới được đưa vào sản xuất chưa lâu song giá trị kim ngạch xuất khẩu của mặt hàng áo choàng tắm cũng đã có một vị trí đáng kể khoảng 10% tổng kim ngạch xuất khẩu của Công ty. Đây là loại sản phẩm cao cấp tuy có giá thành cao nhưng chất lượng tốt nên rất được các khách hàng Nhật Bản, Châu á ưa chuộng. Năm 1999 giá trị xuất khẩu áo choàng tắm đạt 405.000 USD chiếm tỷ trọng 10% trong tổng kim ngạch xuất khẩu. Trong các năm tiếp theo, tỷ trọng này cũng chỉ dừng lại ở khoảng 10%. Đó là vì hiện nay Công ty mới chỉ sản xuất được 12 loại áo choàng tắm, kiểu dáng và mẫu mã còn thiếu đa dạng. Hơn nữa sản phẩm lại có giá bán cao phục vụ cho nhóm người tiêu dùng có thu nhập cao là chủ yếu nên chưa mở rộng được thị trường tiêu thụ.Vì vậy trong thời gian tới Công ty cần có hướng mở rộng thị trường xuất khẩu cho sản phẩm này.
Đối với sản phẩm màn tuyn, đây là mặt hàng mà Công ty chủ yếu tiêu thụ trong nước. Một bộ phận được xuất khẩu chủ yếu thông qua Đan Mạch rồi mới đưa sang thị trường Châu Phi. Việc xuất khẩu mặt hàng này được thực hiện theo chương trình phòng chống sốt rét của Liên Hợp Quốc nên kim ngạch xuất khẩu không cao. Giá trị kim ngạch xuất khẩu chỉ chiếm khoảng 15-20% tổng kim ngạch xuất khẩu.
c. Phân tích hoạt động xuất khẩu theo phương thức xuất khẩu. (Xem bảng 3)
Công ty tiến hành xuất khẩu sản phẩm ra nước ngoài theo hai phương thức là xuất khẩu trực tiếp và xuất khẩu qua trung gian .
Đối với xuất khẩu trực tiếp, Công ty áp dụng chủ yếu cho thị trường Nhật Bản. Hiện nay Công ty vẫn chưa có chi nhánh xuất khẩu đặt tại thị trường này để làm công tác thăm dò nghiên cứu thị trường và bán hàng do khả năng tài chính còn hạn chế. Trong những năm qua, tỷ trọng xuất khẩu theo phương thức này luôn đạt ở mức cao, trên 95% kim ngạch xuất khẩu; đồng thời tăng đều qua các năm, đặc biệt là năm 2002 giá trị xuất khẩu đạt 4.565.700USD.
Công ty đã tạo được mối thiện cảm cũng như tạo dựng được hình ảnh và uy tín với các khách hàng Nhật Bản nên rất được khách hàng tin tưởng, hàng năm luôn ký kết hợp đồng với số lượng lớn. Đối với những thị trường khác, Công ty chủ yếu sử dụng hình thức xuất khẩu qua trung gian. Điều đó giúp Công ty có thể tiếp cận và thâm nhập vào các thị trường này thông qua các nhà nhập khẩu trung gian hoặc các công ty thương mại trung gian. Tuy nhiên, kim ngạch xuất khẩu qua các doanh nghiệp trung gian năm sau lại giảm tương đối so với năm trước do công ty đang mở rộng phương thức xuất khẩu trực tiếp nhằm đạt lợi nhuận cao hơn. Đây là một xu hướng tích cực.
d. Phân tích tình hình kim ngạch xuất khẩu(KNXK) qua các năm.(Xem bảng 4)
Qua bảng 4 ta có thể thấy KNXK của Công ty tăng không đều. Năm 1999 giá trị KNXK của Công ty đạt 3.281.000 USD, tăng lên 4.050.000 USD vào 2000. Qua năm 2001 giá trị KNXK đã giảm xuống còn 3.748.000 USD. Các năm 2002, 2003 giá trị KNXK có tăng nhưng tốc độ tăng không cao, thậm chí năm 2003 đã giảm từ 4.640.000 xuống còn 4.315.000 USD. Nguyên nhân của tình trạng này là do sự cạnh tranh gay gắt của các đối thủ lớn trong lĩnh vực xuất khẩu hàng dệt may như Trung Quốc, Thái Lan, Indonexia
Đây là một bất lợi lớn đối với Công ty, nhưng nhìn chung có thể thấy năng lực sản xuất của Công ty còn nhiều tiềm tàng. Chất lượng, mẫu mã sản phẩm vẫn được đa số khách hàng rất ưa chuộng. Đó là cơ hội giúp Công ty phát triển sản xuất, là một trong những điều kiện thuận lợi để Công ty đẩy mạnh xuất khẩu trong những năm tiếp theo.
2. Chính sách giá xuất khẩu của Công ty
Giá cả có ảnh hưởng rất nhiều đến khả năng cạnh tranh của Công ty trên thị trường xuất khẩu. Hiện nay chính sách giá xuất khẩu mà Công ty dệt Minh Khai đang áp dụng là chính sách giá thống nhất trên mọi thị trường. Mặt khác Công ty xuất khẩu theo điều kiện FOB, chi phí cho sản phẩm xuất khẩu chủ yếu thay đổi theo khối lượng lô hàng xuất nên Công ty đã quyết định phải áp dụng chính sách giá này. Hơn nữa, khi áp dụng chính sách giá này, Công ty sẽ không phải tính toán nhiều lần điều đó tiết kiệm được thời gian và chi phí. Nhưng giá cả sản phẩm xuất khẩu của Công ty trở nên kém linh hoạt so với biến động giá cả trên thị trường. Việc áp dụng các chính sách giá này trở nên không thích hợp với các điều kiện thị trường do đó làm cản trở việc xuất khẩu sản phẩm của Công ty và không tối đa hóa được lợi nhuận cho Công ty.
Hiện nay mức giá xuất khẩu mà Công ty đang áp dụng cao hơn giá nội địa. Hơn nữa sản phẩm khăn bông tuy là sản phẩm thiết yếu nhưng lại khó xác định được khối lượng nhu cầu. Như vậy khó xác định được lợi nhuận, khả năng rủi ro cao và khó có thể cạnh tranh được với các đối thủ.
3. Kênh phân phối trên thị trường xuất khẩu của Công ty.
Công ty dệt Minh Khai chủ yếu thực hiện xuất khẩu sản phẩm khăn bông sang thị trường Nhật Bản với kênh phân phối được xây dựng như sau:
Công ty dệt Minh Khai
Nhà nhập khẩu
Người bán lẻ
Người tiêu dùng cuối cùng
Thành viên thứ nhất trong kênh phân phối là các nhà nhập khẩu Nhật Bản bao gồm các công ty thương mại ASAHI, ITOCHO, HOUEI, DAIEI, FUKIEN...đây là những nhà phân phối chính của Công ty. Sản phẩm khăn bông của Công ty tuy đã có những nhãn hiệu riêng nhưng để có thể tiêu thụ được trên thị trường Nhật Bản thì buộc phải sử dụng thương hiệu của các nhà phân phối này.
Thành viên thứ hai trong kênh phân phối là các nhà bán lẻ. Trên thị trường Nhật Bản đó là các siêu thị, các khách sạn, nhà hàng.
Với kênh phân phối này trong những năm qua Công ty dệt Minh khai đã từng bước xâm nhập vào thị trường Nhật Bản. Tuy nhiên đây cũng là yếu điểm của Công ty vì Công ty không trực tiếp nhận được thông tin từ người tiêu dùng cuối cùng.
III. Đánh giá hoạt động XK của Công ty dệt Minh Khai
1. Những thành tựu mà Công ty đạt được
Thứ nhất, sản phẩm của Công ty luôn được khách hàng thừa nhận là có chất lượng tốt. Đây là một lợi thế có ảnh hưởng quan trọng tới khả năng cạnh tranh của Công ty trên thị trường xuất khẩu.
Công ty dệt Minh Khai với mục tiêu kinh doanh là coi trọng chữ tín và luôn đặt vấn đề chữ tín lên hàng đầu, đáp ứng được nhu cầu của các khách hàng Nhật cả về chất lượng sản phẩm lẫn mẫu mã, giá và luôn đảm bảo giao hàng đúng hạn như trong hợp đồng quy định. Điều đó đã tạo nên danh tiếng và uy tín cho Công ty. Đồng thời ban lãnh đạo Công ty đã áp dụng thành công hệ thống quản lý chất lượng tiêu chuẩn ISO 9000 được tổ chức GLOBAL của Anh cấp chứng nhận hệ thống đạt tiêu chuẩn ISO quốc tế năm 2001.Từ đó đã phát huy tác dụng rất tích cực làm cho năng suất và chất lượng tăng lên. Mặt khác đó còn là kết quả của sự đoàn kết, tinh thần trách nhiệm cao của các cán bộ công nhân viên trong toàn Công ty.
Thứ hai, Công ty có nguồn nguyên vật liệu đầu vào cho sản xuất khá ổn định. Để đáp ứng cho nhu cầu của sản xuất và yêu cầu của khách hàng Công ty dệt Minh Khai trong những năm qua luôn phải nhập khẩu các nguyên liệu sợi bông, sợi polieste cùng các loại hoá chất, thuốc nhuộm... với khối lượng lớn từ các nước ấn độ, Pakixtan, Indonesia, Nhật Bản...Trong quá trình mua hàng Công ty đã xây dựng được mối quan hệ thân thiện với các nhà cung ứng đầu vào ở nước ngoài. Công ty đã tranh thủ được sự giúp đỡ của các bạn hàng, ký kết hợp đồng mua hàng với các điều khoản ưu đãi. Đây chính là điều kiện thuận lợi để Công ty có thể chủ động trong sản xuất kinh doanh, đáp ứng nhanh chóng kịp thời các đơn đặt hàng của các thị trường xuất khẩu.
2. Những mặt còn hạn chế.
a. Công tác marketing chưa hoàn thiện
Công tác marketing của Công ty hiện nay vẫn chỉ nằm ở tình trạng chung chung trong phòng Kế hoạch thị trường. Hoạt động điều tra nghiên cứu thị trường chỉ chủ yếu được tiến hành gián tiếp thông qua nghiên cứu các tài liệu sách báo về thị trường do Bộ Thương mại và các bạn hàng cung cấp, hoặc thông qua các thương vụ, các đại sứ quán. Hoạt động quảng cáo xúc tiến bán hàng chỉ đứng ở vị trí thứ yếu, Công ty không có các chương trình khuyến mãi, hoạt động quảng cáo trên báo và tạp chí chỉ xuất hiện trong một thời gian ngắn chưa đủ để tạo ra ấn tượng về sản phẩm cho khách hàng. Mặc dù có tham gia các hội chợ triển lãm giới thiệu sản phẩm của Công ty song hoạt động này cũng không thể tiến hành thường xuyên được vì tính chất không thường xuyên của các hội chợ triển lãm. Hơn nữa, Công ty không đủ kinh phí để có thể tham dự nhiều các hội chợ tại nước ngoài. Do đó hạn chế rất nhiều đến khả năng thu thập thông tin về thị trường cũng như khả năng cập nhật và xử lý thông tin chính xác.
b. Vốn kinh doanh thiếu và chưa được sử dụng hiệu quả.
Do thiếu vốn nên hoạt động marketing của Công ty dệt Minh Khai chưa thể phát huy tối đa. Hàng năm, Công ty chỉ được Nhà nước cấp cho khoảng 10-20% vốn, phần còn lại Công ty phải tự lo, chủ yếu là vay ngân hàng. Lợi nhuận hàng năm của Công ty do hoạt động xuất khẩu mang lại là chủ yếu nên Công ty không thể đầu tư nhiều vào hoạt động nghiên cứu thị trường cũng như các hoạt động khác của công tác marketing.
Hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật của Công ty mặc dù được cải tiến và nâng cấp rất nhiều song tới nay các thiết bị công nghệ dệt phục vụ cho sản xuất vẫn còn thiếu đồng bộ và còn lạc hậu. Nguyên nhân của sự hạn chế này cũng lại là do thiếu vốn. Để đầu tư đổi mới thiết bị và công nghệ, Công ty chủ yếu sử dụng vốn vay ngân hàng, chịu lãi suất cao, kèm theo thủ tục hành chính rườm rà nên khả năng đầu tư đổi mới công nghệ còn hạn chế.
c. Giá xuất khẩu thiếu tính cạnh tranh.
Mặc dù Công ty đã có rất nhiều cố gắng đầu tư nâng cao chất lượng máy móc thiết bị, tăng năng suất lao động của công nhân song việc nhập khẩu nguyên liệu từ
nước ngoài làm giá thành sản phẩm đầu ra cao. Hiện Công ty đang phải đối mặt với sự cạnh tranh gay gắt của các đối thủ lớn như Trung Quốc, ấn Độ, Pakistan, Indonesianên việc đẩy mạnh xuất khẩu gặp nhiều khó khăn. Phía Nhật Bản thường đưa ra mức giá thấp mà Trung Quốc áp dụng để gây sức ép buộc Công ty phải giảm giá ảnh hưởng tới hoạt động xuất khẩu.
d. Vấn đề thương hiệu của Công ty chưa được coi trọng.
Vấn đề thương hiệu hiện nay đang là vấn đề nhức nhối, là bài toán nan giải đối với các doanh nghiệp Việt Nam nói chung và các doanh nghiệp xuất khẩu hàng dệt may nói riêng.
Trong những năm qua, mặc dù Công ty đã củng cố và dần nâng cao được vị thế của mình trên thị trường Nhật Bản, sản phẩm đã trở nên quen thuộc đối với người tiêu dùng Nhật Bản; song điều đáng nói là do sản phẩm khăn bông của Công ty không phải trực tiếp đến với người tiêu dùng dưới thương hiệu của Công ty mà là của các nhà phân phối Nhật Bản. Điều này làm cho hoạt động xuất khẩu của Công ty luôn bị phụ thuộc vào các đơn đặt hàng từ các nhà phân phối Nhật Bản. Họ đặt hàng thì Công ty mới xuất khẩu. Đây là một yếu tố rất bất lợi đối với Công ty và là nguyên nhân dẫn tới việc Công ty bị các đối tác Nhật Bản gây khó dễ, tạo sức ép buộc phải giảm giá thành xuất khẩu.
e. Đội ngũ cán bộ thiếu kinh nghiệm chuyên môn.
Để có thể đứng vững được trong môi trường cạnh tranh khốc liệt như ngày nay thì yếu tố con người đóng vai trò rất quan trọng. Hiện nay Công ty dệt Minh Khai đang gặp khó khăn về nguồn nhân lực, đặc biệt là thiếu các cán bộ kinh doanh trẻ tuổi, có năng lực. Số lượng cán bộ kỹ thuật có trình độ cao trong Công ty còn quá ít so với quy mô hoạt động. Trong tương lai quy mô hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty có xu hướng tăng lên vì vậy việc bổ sung nhân lực cho công tác quản lý và kinh doanh là hết sức cần thiết.
3. Nguyên nhân của thực trạng.
Nguyên nhân chủ yếu của những tồn tại trong hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty có thể thấy qua các điểm sau:
- Công tác nghiên cứu thị trường tuy đã được quan tâm, nhưng vẫn còn nhiều hạn chế; đặc biệt là việc nghiên cứu, nắm vững các đặc điểm thị trường, chính sách, cơ chế, văn hoá, lịch sử của thị trường ngoài nước, kể cả thị trường Nhật Bản. Công ty không trực tiếp nghiên cứu tìm hiểu mà thông qua các công ty thương mại, đại sứ quánnên việc cập nhật thông tin thị trường còn yếu. Công ty chưa có bộ phận chuyên nghiên cứu thị trường mà Công ty xuất khẩu sang, để có sự điều chỉnh kịp thời theo thị hiếu của người tiêu dùng và biến động của thị trường.
- Công nghệ sản xuất còn lạc hậu so với các đối thủ cạnh tranh dẫn đến giá xuất khẩu còn cao, kém sức cạnh tranh.
- Trình độ đội ngũ cán bộ chưa đáp ứng nhu cầu xuất khẩu, thiếu những cán bộ trẻ năng động, đội ngũ công nhân tay nghề chưa cao còn thiếu tác phong công nghiệp trong sản xuất.
Chương III
Giải pháp thúc đẩy xuất khẩu
của Công ty dệt Minh Khai.
I. Định hướng phát triển của ngành dệt may Việt Nam đến năm 2010.
ở Việt Nam, dệt may là một ngành có truyền thống lâu đời, thu hút trên 1.6 triệu lao động, hàng năm đã có những đóng góp đáng kể vào tăng trưởng kinh tế, tạo công ăn việc làm và đặc biệt là đóng góp vào tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Có thể nói hơn 10 năm qua ngành dệt may nước ta đã có những bước phát triển mạnh mẽ, sản phẩm dệt may xuất khẩu nhiều năm liền đứng thứ hai trong số các mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam, kim ngạch xuất khẩu không ngừng tăng lên, chất lượng sản phẩm dệt may xuất khẩu được đánh giá cao trên thị trường thế giới, đóng vai trò quan trọng trong giai đoạn đầu của sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước.
Để có thể duy trì và phát huy những ưu thế đã đạt được của một ngành công nghiệp nhẹ mũi nhọn, ngành dệt may Việt Nam đã đưa ra định hướng phát triển ngành dệt may đến năm 2010 như sau:
- Ưu tiên phát triển các cơ sở sản xuất nguyên phụ liệu hoá chất phục vụ sản xuất, tiết kiệm ngoại tệ đồng thời tạo thế chủ động trong kinh doanh.
- Tăng cường phối hợp chặt chẽ giữa các cơ sở trồng bông, doanh nghiệp dệt, hoá chất, khuyến khích các thành phần kinh tế cùng phát triển.
- Chú trọng công tác thiết kế cho các sản phẩm dệt mới nhằm từng bước củng cố vững chắc uy tín, nhãn hiệu hàng dệt Việt Nam trên thị trường quốc tế.
- Tổ chức lại hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn quốc tế, tăng nhanh số lượng tạo bước nhảy vọt về chất lượng đối với các sản phẩm dệt may nhằm đáp ứng nhu cầu trong và ngoài nước.
- Chú trọng đầu tư chiều sâu trang thiết bị công nghệ cao, kỹ thuật tiên tiến
hiện đại để cân đối lại dây chuyền sản xuất cho đồng bộ. Bổ sung thay thế các thiết bị lạc hậu, cải tạo nâng cấp một số máy móc nhằm tăng năng suất, giảm chi phí, mở rộng mặt hàng, khắc phục ô nhiễm môi trường.
Ngành dệt may Việt Nam phấn đấu đến năm 2005 đạt kim ngạch xuất khẩu 5 tỷ USD và 7,5 tỷ USD vào năm 2010 với mức tăng trưởng bình quân hàng năm là 15%, tăng tỷ lệ nội địa hoá trong sản phẩm xuất khẩu lên 45-50%, tạo việc làm cho khoảng 2 triệu lao động xã hội với mức thu nhập bình quân 100USD/người/tháng.
II. Phương hướng phát triển của Công ty dệt Minh Khai thời gian tới.
Là một doanh nghiệp trực thuộc Tổng Công ty dệt may Việt Nam, Công ty dệt Minh Khai cũng đang từng bước thực hiện chiến lược tăng tốc với mục tiêu là hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao, không ngừng khẳng định vai trò của Công ty.
Căn cứ vào xu hướng phát triển chung của toàn ngành dệt, trên cơ sở nhiệm vụ được giao, dựa vào nội lực và ngoại lực, Công ty đã đề ra cho mình một hướng đi đúng đắn để mở rộng quy mô sản xuất, mở rộng thị trường xuất khẩu, nâng cao trình độ cán bộ công nhân viên, đáp ứng cho nhu cầu sản xuất trong tương lai nhằm đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu.
* Về chiến lược kinh doanh xuất khẩu .
Trên cơ sở chiến lược kinh doanh chung, Công ty đã đặt ra những kế hoạch để phát triển hoạt động kinh doanh xuất khẩu của nhằm thích ứng hơn nữa với cơ chế thị trường và phát triển đúng hướng. Công ty đặt ra phương châm cho hoạt động xuất khẩu là hoàn thành đúng thời hạn của các hợp đồng xuất khẩu, phấn đấu hạ giá thành sản xuất tới mức tối đa có thể. Công ty cũng đề ra mục tiêu quyết tâm giữ vững và củng cố hơn nữa thị phần của mình trên thị trường Nhật Bản.
Trên cơ sở đó, Công ty đề ra phương hướng phát triển sản xuất - xuất khẩu trong những năm tới như sau:
- Tăng vốn kinh doanh, mở rộng quy mô sản xuất phù hợp với tiềm năng cũng như yêu cầu của Công ty.
- Đầu tư chiều sâu cho máy móc thiết bị, nhập các dây chuyền công nghệ sản xuất hiện đại, bổ sung cho các thiết bị cũ, đáp ứng các yêu cầu sản xuất mới.
- Dần chuyển sang dùng nguyên vật liệu trong nước hoàn toàn thay cho việc phải nhập khẩu nguyên liệu sản xuất như hiện nay.
- Tiếp tục nâng cao chất lượng sản phẩm áp dụng bộ tiêu chuẩn ISO 9000 để có thể đáp ứng được yêu cầu của các khách hàng khó tính nước ngoài.
- Mở rộng thị trường xuất khẩu sang các thị trường khác như EU, Châu á, Mỹ ... bên cạnh đó tiếp tục củng cố và mở rộng xuất khẩu sang thị trường Nhật Bản.
- Xúc tiến quảng cáo, bán hàng rộng rãi, tham gia các hội chợ triển lãm trong và ngoài nước để giới thiệu sản phẩm, tìm kiếm các bạn hàng.
- Xây dựng một hệ thống kênh phân phối hoàn chỉnh bao gồm các cửa hàng và đại lý ở trong nước và ngoài nước.
- Tiếp tục bồi dưỡng nâng cao trình độ cho đội ngũ cán bộ kỹ thuật để nâng cao khả năng tiếp thu và ứng dụng nhanh các công nghệ sản xuất hiện đại để đưa vào vận hành sản xuất.
III. Một số giải pháp nhằm góp phần thúc đẩy hoạt động xuất khẩu của Công ty dệt Minh Khai.
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và phân tích thực trạng hoạt động xuất khẩu cũng như xu hướng, định hướng phát triển của Công ty dệt Minh Khai hiện nay, tôi xin mạnh dạn đưa ra một số giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu của Công ty trong thời gian tới như sau:
1. Tổ chức tốt công tác điều tra nghiên cứu thị trường.
Nghiên cứu thị trường là một việc làm hết sức cần thiết đối với bất kỳ một công ty kinh doanh nào đặc biệt là công ty kinh doanh xuất khẩu. Hiện nay công tác nghiên cứu thị trường của Công ty dệt Minh Khai vẫn còn yếu. Với nhiệm vụ chồng chất và số lượng nhân viên ít ỏi nên phòng Kế hoạch thị trường không thể thực hiện tốt công tác này .
Trong những năm tới để đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu Công ty cần có sự quan tâm đầu tư đúng đắn cho công tác này bằng các biện pháp cụ thể sau:
- Thành lập riêng một phòng/ ban chuyên nghiên cứu thị trường. Các nhân viên cán bộ trong phòng này phải là những người có năng lực, thông thạo nghiệp vụ và ngoại ngữ, có kinh nghiệm hiểu biết về thị trường trong nước và quốc tế. Bên cạnh đó Công ty phải tiến hành tuyển dụng thêm nhân viên và trang bị cho họ những kiến thức hiểu biết về thị trường, sản phẩm và đối thủ cạnh tranh của Công ty.
- Đầu tư thoả đáng cho công tác nghiên cứu thị trường bằng cách hàng năm Công ty trích một phần lợi nhuận để đầu tư cho hoạt động này. Đồng thời tổ chức tạo điều kiện cho các nhân viên thị trường có điều kiện đi khảo sát thị trường nước ngoài; tích cực tham gia các hội chợ triển lãm, đặc biệt là các hội chợ triển lãm tổ chức tại nước ngoài để giới thiệu sản phẩm đến người tiêu dùng, đồng thời đó cũng là dịp để Công ty có thể trực tiếp tiếp xúc với khách hàng và người tiêu dùng, bám sát nhu cầu và thị hiếu của người tiêu dùng.
2. Hoàn thiện kênh phân phối xuất khẩu trên thị trường truyền thống, mở rộng xuất khẩu sang các thị trường mới, đồng thời củng cố vững chắc thị trường nội địa.
a. Hoàn thiện kênh phân phối trên thị trường xuất khẩu truyền thống.
Thị trường xuất khẩu truyền thống của Công ty là Nhật Bản. Bằng những nỗ lực và cố gắng không ngừng phục vụ tốt yêu cầu của khách hàng, Công ty đã dần chiếm lĩnh được thị trường Nhật Bản, thị phần ngày càng tăng lên. Trong kế hoạch phát triển, Công ty xác định rõ Nhật Bản luôn là thị trường xuất khẩu truyền thống chủ lực của Công ty.
Hiện nay, hệ thống kênh phân phối của Công ty còn quá nhỏ bé, đơn giản, các nhà phân phối sản phẩm của Công ty luôn tìm cách ép giá buộc Công ty phải giảm giá xuất khẩu, nên hiệu quả và lợi nhuận mang lại cho Công ty chưa cao. Vì vậy đây là một bất lợi lớn trong việc đẩy mạnh xuất khẩu sang thị trường này.
Trong thời gian tới, bên cạnh việc xuất khẩu trực tiếp cho các nhà phân phối Nhật Bản, Công ty cần lập kế hoạch đầu tư, thành lập một số cửa hàng bán sản phẩm xuất khẩu của Công ty trực tiếp trên thị trường Nhật Bản. Đồng thời tích cực tìm kiếm mở rộng quan hệ bán hàng xuất khẩu với các nhà bán lẻ trên thị trường Nhật Bản là các cửa hàng, tạp hoá, siêu thị, khách sạn Nhật Bản. Hiện nay ở Nhật Bản đang phát triển cách thức bán hàng theo đơn đặt hàng, chọn hàng qua cataloge. Mẫu mã các sản phẩm giới thiệu trên cataloge nên thay đổi thường xuyên.
Công ty nên thành lập một đại lý bán hàng xuất khẩu của Công ty tại đây. Việc bán hàng xuất khẩu trực tiếp có thể sử dụng là lực lượng bán hàng của Công ty, hoặc người bán hàng là người Nhật Bản. Sử dụng lực lượng bán hàng xuất khẩu là người Nhật Bản sẽ góp phần thúc đẩy tiêu thụ sản phẩm của Công ty trên thị trường này.
b. Mở rộng xuất khẩu sang các thị trường mới.
Bên cạnh thị trường xuất khẩu truyền thống Nhật Bản, Công ty dệt Minh Khai cần có sự đầu tư nghiên cứu, bằng các chiến dịch quảng cáo, khuếch trương giới thiệu sản phẩm để thâm nhập và mở rộng thị trường xuất khẩu sang các thị trường tiềm năng khác. Dự định của Công ty trong thời gian tới là tìm cách thâm nhập thị trường Mỹ, đẩy mạnh xuất khẩu sang EU.
Để thực hiện mở rộng thị trường xuất khẩu sang Mỹ, EU thì các công việc Công ty cần phải làm là:
- Đầu tư chiều sâu cho công tác nghiên cứu thị trường.
- Không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm.
- Xúc tiến quảng cáo trên các phương tiện thông tin đại chúng như TV, đài, báo, tạp chí, các băng rôn khẩu hiệu, áp phích, quảng cáo trên mạng Internet.
- Tích cực tham gia các hội chợ triển lãm hàng tiêu dùng trên các thị trường Mỹ và EU nhằm giới thiệu sản phẩm của mình tới người tiêu dùng.
Các công việc nghiên cứu quảng cáo tham gia hội chợ triển lãm sẽ do các nhân viên phòng marketing đảm nhiệm.
c. Củng cố vững chắc thị trường tiêu thụ nội địa.
Những năm qua Công ty dệt Minh Khai chỉ chú trọng tới xuất khẩu, để ngỏ thị trường nội địa trong khi thị trường này đang có nhu cầu tiêu dùng ngày càng tăng các loại sản phẩm của Công ty. Vì vậy trong thời gian tới Công ty cần phải có sự quan tâm đầu tư đúng đắn tới thị trường nội địa. Hiện tại việc tiêu thụ sản phẩm khăn bông của Công ty trên thị trường nội địa mới chỉ dừng lại ở việc tiêu thụ trên một số tỉnh miền Bắc( chủ yếu là Hà Nội). Sản phẩm được tiêu thụ thông qua những người bán buôn, bán lẻ siêu thị, nhà hàng và qua hai cửa hàng giới thiệu sản phẩm, một ở Hà Nội và một ở Hải Phòng. Tuy nhiên cả hai cửa hàng này đều chưa được đặt ở ngay trung tâm thương mại và các khu đông dân nên hiệu quả bán hàng không cao. Ngoài ra, trong tương lai Công ty cần mở thêm một số đại lý tiêu thụ để tạo điều kiện thuận lợi cho các khách hàng ở xa có thể trực tiếp liên lạc với các đại lý. Mặt khác để giữ vững và củng cố vị trí của mình trên thị trường nội địa, Công ty cần tạo điều kiện cho quá trình mua hàng của khách hàng được nhanh chóng thuận lợi. Đối với những khách hàng mua với số lượng lớn thì Công ty có thể khuyến khích bằng cách hỗ trợ vận chuyển, hoặc áp dụng các biện pháp chiết khấu giảm giá đối với số lượng lớn, thanh toán nhanh hoặc đúng thời hạn.
3. Phấn đấu hạ giá thành sản phẩm, nâng cao năng lực cạnh tranh.
Đối với mọi doanh nghiệp kinh doanh thì biện pháp hạ giá thành sản phẩm nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh là một công việc tất yếu. Công ty dệt Minh Khai hiện nay đang phải cạnh tranh gay gắt trên thị trường trong nước và quốc tế do có các sản phẩm với chất lượng tốt nhưng giá bán còn cao. Vì vậy, Công ty có thể nghiên cứu, áp dụng các biện pháp hạ giá thành sản phẩm như sau:
- Giảm chi phí nguyên vật liệu bằng cách tăng số lượng nguyên liệu nội địa. Tăng ý thức trách nhiệm trong việc mua, vận chuyển và bảo quản nguyên vật liệu. Nâng cao trình độ tay nghề cho đội ngũ cán bộ công nhân để họ sản xuất tiết kiệm và đạt năng suất cao.
- Giảm chi phí cố định và hạ giá thành sản phẩm bằng cách tăng số lượng sản phẩm sản xuất ra. Hiện nay máy móc thiết bị của Công ty chưa hoạt động hết công suất, mới hoạt động 60% công suất nên đẩy giá thành sản phẩm của Công ty lên. Vì vậy, Công ty cần nhanh chóng tìm kiếm thị trường mới, khách hàng mới để máy móc thiết bị hoạt động hết công suất.
4. Đào tạo nhân lực, bồi dưỡng đội ngũ công nhân tay nghề cao tăng cường công tác bồi dưỡng, đào tạo cán bộ quản lý.
Xuất phát từ tình hình thực tế hiện nay của Công ty dệt Minh Khai là công nhân quen với lối làm việc cũ nên mặt yếu của họ là tác phong công nghiệp chưa có hoặc chưa rõ nét, trình độ tay nghề và tính kỷ luật chưa cao. Bởi vậy Công ty cần thường xuyên mở các lớp đào tạo, bồi dưỡng để nâng cao trình độ chuyên môn, tay nghề, tác phong làm việc của người lao động, giúp họ nhận thức được vai trò, vị trí của người công nhân trong nền kinh tế công nghiệp phát triển, nắm bắt kịp thời những thay đổi về công nghệ, thiết bị.
Công ty còn phải đồng thời bồi dưỡng đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý bằng cách cử cán bộ đi học nhằm nâng cao trình độ quản lý, đáp ứng nhu cầu của Công ty cũng như của thị trường, tuyển mới một số cán bộ kinh tế nhằm cân bằng với tầm quan trọng của Công ty, đào tạo đội ngũ chuyên gia thiết kế mẫu mã phù hợp với nhu cầu tiêu dùng của các vùng thị trường khác nhau về kiểu dáng, mầu sắc, kết cấu chất liệu hoa văn trang trí
IV. Một số kiến nghị.
1. Kiến nghị với Nhà nước.
Ngành dệt may là ngành kinh tế mũi nhọn của nước ta, chuyên sản xuất hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu, ngành này mang lại nhiều công ăn việc làm cho người lao động. Tuy nhiên Công ty dệt Minh Khai nói riêng và ngành dệt may nói chung đang gặp rất nhiều khó khăn trong môi trường cạnh tranh ngày càng khốc liệt, đặc biệt là từ khi Trung Quốc gia nhập WTO, phải đương đầu với nhiều thách thức mới là hàng Trung Quốc đã rẻ nay lại được cắt giảm thuế nên giá xuất khẩu càng rẻ. Vì vậy Nhà nước cần phải có nhiều biện pháp đồng bộ hỗ trợ, tháo gỡ khó khăn và thúc đẩy ngành dệt may phát triển trong đó tập trung vào các biện pháp sau:
- Có chính sách đầu tư thỏa đáng đối với ngành dệt may và chính sách ưu tiên cho ngành dệt may. Hiện nay ngành dệt may gặp rất nhiều khó khăn nhưng nguyên nhân chủ yếu là số máy móc thiết bị đã quá cũ và lạc hậu, không đủ vốn để đầu tư cho máy móc thiết bị, công nghệ mới. Vậy Nhà nước cần tăng vốn đầu tư cho ngành dệt may, có các chính sách ưu đãi đối với ngành như: giảm thuế VAT xuống còn 5%( thuế VAT hiện đang áp dụng là 10%), giảm thuế thu nhập doanh nghiệp xuống 25% bằng với thuế thu nhập doanh nghiệp đang áp dụng cho các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài; cho vay với lãi suất ưu đãi hơn và ngân hàng nên nới lỏng điều kiện cho vay, cho các doanh nghiệp trong ngành vay vốn trung và dài hạn nhiều hơn; cho phép các doanh nghiệp nhà nước trong ngành giữ lại nhiều lợi nhuận hơn để đầu tư phát triển. Mặt khác Nhà nước cần cải tiến thủ tục hành chính trong việc quản lý xuất nhập khẩu, hỗ trợ và tạo mọi điều kiện thuận lợi cho hoạt động XK được dễ dàng. Ngoài ra, Nhà nước nên phối hợp với các tổ chức Việt Nam ở nước ngoài môi giới khách hàng và tìm thị trường tiêu thụ sản phẩm cho các doanh nghiệp trong ngành dệt may; cung cấp những thông tin về thị trường XK.
- Có chính sách phát triển các ngành phụ trợ cho ngành dệt may. Hầu hết các doanh nghiệp trong ngành dệt may phải nhập nguyên liệu ở nước ngoài với giá cao. Vì vậy Nhà nước nên có chính sách phát triển các ngành trồng bông và các ngành chế biến sợi, ngành hóa chất phục vụ cho ngành dệt may.
- Có chính sách khuyến khích xuất khẩu và hạn chế nhập khẩu với một số sản phẩm nhất định trong một thời gian nhất định. Đối với những sản phẩm dệt may nào mà ta có thể sản xuất được thì Nhà nước có biện pháp thích hợp để điều hành hợp lý, một mặt không ảnh hưởng đến quá trình hội nhập nhưng mặt khác cũng phải bảo hộ thị trường trong nước phát triển lành mạnh, đúng với tinh thần phát triển kinh tế thị trường “có sự quản lý của Nhà nước”. Đồng thời, có biện pháp xử lý nghiêm minh các hoạt động nhập khẩu trái phép.
Tóm lại, nếu Nhà nước làm được các điều này chắc chắn sẽ giúp không chỉ cho Công ty dệt Minh Khai nói riêng mà còn cho cả ngành dệt may nói chung vượt qua những khó khăn này và ngày càng phát triển, có thể cạnh tranh được với các doanh nghiệp trên thế giới; các mặt hàng dệt may của Việt Nam ngày càng có chất lượng cao và có khả năng xuất khẩu với khối lượng lớn.
2. Đề xuất với Công ty.
Trong bối cảnh cạnh tranh gay gắt như hiện nay, Công ty dệt Minh Khai muốn đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu thì sự quan tâm giúp đỡ tạo mọi điều kiện thuận lợi của Nhà nước là hết sức cần thiết, song quan trọng hơn cả là Công ty phải dựa vào nội lực của chính mình. Với những khó khăn còn tồn tại hiện nay của Công ty thì việc áp dụng các giải pháp nhằm giải quyết các khó khăn cần phải được xem xét và triển khai thực hiện ngay. Cụ thể ở đây Công ty dệt Minh Khai cần phải:
- Nhanh chóng thành lập phòng marketing, tăng cường đầu tư cho các hoạt động điều tra nghiên cứu thị trường.
- Điều chỉnh lại chính sách giá mà hiện tại Công ty đang áp dụng. Vì chính sách giá này làm cho giá sản phẩm của Công ty trở nên cứng nhắc, không phân biệt giữa giá bán buôn và bán lẻ; đồng thời hạ giá thành sản phẩm xuất khẩu.
- Tích cực, tăng cường đầu tư hơn nữa cho việc đổi mới, sửa chữa máy móc thiệt bị nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm làm ra đáp ứng được yêu cầu của XK.
- Quan tâm hơn nữa tới môi trường làm việc và đời sống CBCNV trong Công ty, có các chính sách khuyến khích đãi ngộ hợp lý đối với nhân viên.
- Công ty cần có biện pháp nghiên cứu, chủ động để chuẩn bị các điều kiện cần thiết cho việc xuất khẩu hàng dệt may của mình từ 01- 01 – 2005, khi mà chế độ hạn ngạch hàng dệt may được bãi bỏ và nhất là khi Việt Nam đã chính thức trở thành thành viên của WTO. Theo tác giả, Công ty cần :
+ Xây dựng những chiến lược tiếp thị thích hợp, chủ động hơn trong khai thác và phát triển quan hệ với khách hàng.
+ Xây dựng chiến lược mặt hàng xuất khẩu thích hợp, trong đó lưu ý khai thác thế mạnh của mặt hàng xuất khẩu chủ lực hiện nay là khăn bông dệt các loại; phát triển các mặt hàng mới có tiềm năng( chẳng hạn sản phẩm áo choàng tắm), gắn chiến lược phát triển mặt hàng với chính sách giá cả hợp lý.
+ Tích cực thâm nhập sâu hơn vào các mạng lưới bán lẻ trên cả thị trường trong và ngoài nước.
+ Hợp tác, liên kết với các đối tác có năng lực tiếp thị trên thị trường nước ngoài; tận dụng lực lượng người Việt Nam ở nước ngoài để phát triển mạng lưới tiêu thụ sản phẩm.
Kết luận
Công ty dệt Minh Khai là một doanh nghiệp lớn và được coi là lá cờ đầu của ngành công nghiệp Hà Nội. Trong quá trình xây dựng và phát triển của mình, Công ty đã gặp rất nhiều khó khăn nhưng dưới sự lạnh đạo sâu sát sáng tạo của ban lãnh đạo và sự nỗ lực lao động hết mình của người lao động, Công ty đã dần thoát khỏi khó khăn. Từ khi chuyển đổi cơ chế, Công ty đã đầu tư máy móc thiết bị công nghệ mới nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm, mở rộng thị trường xuất khẩu và khẳng định uy tín của công ty trên trường quốc tế. Điều đó khiến những năm gần đây công ty thu được những kết quả hết sức khả quan trong hoạt động sản xuất kinh doanh, tăng trưởng ổn định và phát triển trong cơ chế mới.
Qua một thời gian thực tập và tìm hiểu đề tài này, em đã thu được những điều hết sức bổ ích. Với một số giải pháp nêu ra ở trên mà em thấy là thiết thực và có tính khả thi cao đối với công ty, em hy vọng sự đóng góp một phần ý kiến nhỏ bé của mình có thể giúp công ty phát triển đi lên vững mạnh hơn xứng đáng là đơn vị chủ lực của ngành dệt may Hà Nội.
Hoàn thành Luận văn tốt nghiệp này em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ của ban lãnh đạo cùng các phòng ban trong công ty và sự hướng dẫn tận tình của TS Trần Bích Lộc. Trong quá trình viết đề tài này không tránh khỏi những thiếu sót, vậy mong được sự góp ý của ban lãnh đạo các phòng ban, thầy cô giáo cùng các bạn sinh viên để em có thể làm tốt công việc sau này.
Sinh viên
Nguyễn Xuân Sơn
Mục lục
Lời mở đầu. 1
Chương I: Lý luận chung về xuất khẩu. 4
I. Khái niệm và vai trò của XK đối với nền kinh tế quốc dân 4
1. Khái niệm về xuất khẩu(XK) 4
2. Vai trò của xuất khẩu đối với nền kinh tế quốc dân 4
a. Xuất khẩu thúc đẩy phát triển kinh tế, giúp chuyển dịch cơ cấu kinh tế 4
b. Xuất khẩu tạo ra nguồn vốn, nguồn ngoại tệ lớn góp phần quan trọng
vào việc cải thiện cán cân thanh toán 5
c. Xuất khẩu có tác dụng tích cực đến việc giải quyết công ăn việc làm
và cải thiện đời sống cho người lao động 5
d. Hoạt động xuất khẩu là cơ sở để mở rộng và thúc đẩy sự phát triển
các mối quan hệ kinh tế đối ngoại của nước ta 6
e. Đối với nền kinh tế thế giới 6
II. Các hình thức xuất khẩu 7
1. Xuất khẩu uỷ thác 7
2. Xuất khẩu tự doanh 7
3. Xuất khẩu liên doanh 8
4. Xuất khẩu đổi hàng 8
5. Gia công quốc tế 8
6. Tạm nhập, tái xuất 8
III.Các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu 9
1. Thị trường 9
2. Nguồn hàng 9
3. Pháp luật, chính sách, cơ chế 9
4. Nội lực doanh nghiệp 10
5. Các yếu tố khác 10
IV.XK hàng dệt may và vai trò của XK mặt hàng này 10
Chương II : Thực trạng hoạt động xuất khẩu của Công ty dệt Minh Khai. 12
I. Giới thiệu khái quát về Công ty dệt Minh Khai 12
1.Lịch sử hình thành và phát triển của Công ty dệt Minh Khai 12
2.Chức năng nhiệm vụ của Công ty dệt Minh Khai 12
3.Cơ cấu tổ chức hoạt động của Công ty dệt Minh Khai 13
4.Đặc điểm sản xuất kinh doanh 14
a. Đặc điểm sản phẩm dịch vụ 14
b. Phương thức sản xuất kinh doanh 14
II. Phân tích thực trạng hoạt động XK của Công ty 15
1.Tình hình xuất khẩu của Công ty trong thời gian qua 15
a. Phân tích tình hình xuất khẩu theo thị trường xuất khẩu 15
b. Phân tích tình hình xuất khẩu theo mặt hàng 17
c. Phân tích tình hình xuất khẩu theo phương thức xuất khẩu 18
d. Phân tích tình hình kim ngạch xuất khẩu qua các năm 19
2.Chính sách giá xuất khẩu của Công ty 19
3.Kênh phân phối trên thị trường xuất khẩu của Công ty 20
III. Đánh giá hoạt động XK của Công ty dệt Minh Khai 20
1. Những thành tựu Công ty đã đạt được 20
2. Những mặt còn hạn chế 21
a. Công tác marketing chưa hoàn thiện 21
b Vốn kinh doanh thiếu và chưa được sử dụng hiệu quả 22
c. Giá xuất khẩu thiếu tính cạnh tranh 22
d. Vấn đề thương hiệu của Công ty chưa được coi trọng 22
e. Đội ngũ cán bộ thiếu kinh nghiệm chuyên môn 23
3. Nguyên nhân của thực trạng 23
Chương III : Giải pháp thúc đẩy hoạt động xuất khẩu của Công ty
trong thời gian tới. 25
I. Định hướng XK hàng dệt may Việt Nam đến năm 2010 25
II. Phương hướng phát triển của Công ty dệt Minh Khai thời gian tới 26
III. Một số giải pháp thúc đẩy hoạt động xuất khẩu của Công ty 27
1.Tổ chức tốt công tác điều tra nghiên cứu thị trường 27
2.Hoàn thiện kênh phân phối xuất khẩu trên thị trường truyền
thống, mở rộng xuất khẩu sang thị trường mới và củng cố vững
chắc thị trường nội địa 28
a. Hoàn thiện kênh phân phối trên thị trường xuất khẩu truyền thống 28
b. Mở rộng xuất khẩu sang các thị trường mới 29
c. Củng cố vững chắc thị trường tiêu thụ nội địa 30
3.Phấn đấu hạ giá thành sản phẩm 30
4.Đào tạo nhân lực, bồi dưỡng đội ngũ công nhân tay nghề cao,
tăng cường công tác bồi dưỡng, đào tạo cán bộ quản lý 31
IV. Một số kiến nghị 31
1.Kiến nghị với Nhà nước 31
2.Đề xuất với Công ty 33
Kết luận 35
Phụ lục
Danh mục tài liệu tham khảo
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 2398.doc