Đề tài Thực trạng và giải pháp trong mô hình quản lý rác thải dựa vào cộng đồng ở xã Dương Nội, thành phố Hà Đông - Hà Tây

LỜI MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài. Thành phố Hà Đông nằm ở cửa ngõ phía Tây Nam thủ đô Hà Nội đầu mối của nhiều tuyến giao thông đường bộ, đường sắt quan trọng. Trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, nền kinh tế của tỉnh Hà Tây nói chung và của thành phố Hà Đông nói riêng đã và đang phát triển nhanh chóng, mức sống của nhân dân ngày càng được nâng cao. Song bên cạnh đó tài nguyên thiên nhiên ngày càng bị khai thác triệt để, chất thải từ sản xuất công nghiệp, từ các hoạt động của các làng nghề, giao thông vận tải, các công trường xây dựng và từ sinh hoạt của nhân dân ngày càng nhiều, càng có tính nguy hại, đã và đang tác động mạnh mẽ đến môi trường, đã và sẽ làm cho chất lượng môi trường khu vực bị suy thoái, an toàn sức khoẻ cộng đồng và các hệ sinh thái ngày càng bị đe doạ. Vấn đề nổi cộm nhất hiện nay là các địa điểm để xử lý và chôn lấp các chất thải rắn, chất thải sinh hoạt của thành phố. Trong các quy hoạch của tỉnh về thành lập bãi chôn lấp rác thải tại một số khu vực, nhưng còn nhiều bất cập do công tác quản lý, quy hoạch xử lý chưa được triệt để, còn gây nhiều tác động xấu đến cuộc sống của dân cư xung quanh bãi chôn lấp. Rác thải là một trong những nguyên nhân trực tiếp gây ra ô nhiễm môi trường nếu chúng ta không biết quản lý một cách đúng đắn. Nhưng nếu chúng ta biết cách quản lý và tận dụng thì rác thải sẽ trở thành nguồn tài nguyên có giá trị thông qua việc tái chế, tái sử dụng, đồng thời tạo ra thu nhập cho người dân. Trong các chủ thể tham gia quản lý rác thải, cộng đồng có vai trò rất quan trọng. Xuất phát từ những vấn đề đó mà em đã quyết định chọn đề tài: Nghiên cứu mô hình quản lý rác thải dựa vào cộng đồng ở xã Dương Nội, thành phố Hà Đông, tỉnh Hà Tây.

doc62 trang | Chia sẻ: banmai | Lượt xem: 1905 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng và giải pháp trong mô hình quản lý rác thải dựa vào cộng đồng ở xã Dương Nội, thành phố Hà Đông - Hà Tây, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
M TẬP KẾT RÁC BÃI RÁC (Phường quản lý) (XNMTĐT quản lý) Giao nhận hợp lý, - Tái chế, tái sinh đảm bảo vệ sinh môi trường - Chôn lấp Xí nghiệp Môi trường Đô thị Tam Kỳ Chú thích Chỉ đạo Phối hợp VSMT phường thực hiện XNMTĐT Tam Kỳ thực hiện Tương quan giám sát Nguồn: Kinh tế chất thải – Tài liệu dành cho khóa đào tạo quản lý tổng hợp chất thải. NXB Chính trị Quốc gia, H., 2005. Trường hợp cộng đồng tham gia thu gom chất thải ở Thạch Kim, Thạch Hà, Hà Tĩnh. Hộp 1.2. Trường hợp cộng đồng tham gia thu gom chất thải ở Thạch Kim, Thạch Hà, Hà Tĩnh Thạch Kim (Thạch Hà, Hà Tĩnh) là một xã ven biển, nghề sản xuất chính là khai thác cá biển, chế biến hải sản, đóng và sửa chữa tàu thuyền, máy móc cơ khí và buôn bán dịch vụ. Bình quân thu nhập đầu người hàng năm đạt 1.600.000 đồng/người. Tuy nhiên, hiện tại số hộ dân trong diện đói nghèo của xã vẫn chiếm 17,6% và tỷ lệ tăng dân số hằng năm là 1,4%. Do đặc thù của nghề sản xuất này mà người dân nơi đây đang phải đối mặt với một thực trạng là môi trường sống ngày càng bị ô nhiễm hết sức nặng nề. Tính trung bình mỗi người dân một ngày thải ra 0,4kg rác, mỗi tháng đã có tới 120 tấn rác thải, đó là chưa kể tới một lượng lớn chất thải của nghề chế biến hải sản, dầu mỡ và phế thải trong quá trình phục vụ sản xuất kinh doanh. Số chất thải này không được Công ty Vệ sinh Môi trường của địa phương thu gom và vận chuyển tới nơi chôn lấp. Để giải quyết các vấn đề môi trường bức xúc của địa phương, sáng kiến lập ra một đội chuyên làm vệ sinh môi trường (VSMT) đã được Đảng bộ, Hội đồng Nhân dân, Ủy ban Nhân dân xã chấp nhận và nhân dân đồng tình ủng hộ. Đội VSMT có 9 người, (1 đội trưởng và 8 công nhân), hằng ngày bình quân mỗi ca làm việc liên tục từ 5 giờ sáng tới 8 giờ tối, vừa thu gom rác thải, phân loại để xử lý, vừa vận chuyển về bãi thải. Xã đã thu hút sự tham gia của cộng đồng dân cư vào chương trình này bắt đầu bằng việc nâng cao nhận thức của cộng đồng dân cư về nhiệm vụ và quyền lợi của mình trong công tác VSMT. Thông qua hệ thống loa truyền thanh địa phương, phát liên tục 3 buổi trong ngày, Đội VSMT xã phổ biến quy định của UBND Tỉnh Hà Tĩnh về bảo vệ môi trường ở địa phương và các văn bản pháp quy khác như Luật Bảo vệ môi trường và Nghị định 175/CP của Chính phủ về hướng dẫn thi hành Luật Bảo vệ môi trường, phổ biến quy chế của xã về bảo vệ môi trường. Trên cơ sở nhận thức được quyền lợi, nghĩa vụ và trách nhiệm của mình đối với bảo vệ môi trường ở xã. 1865 hộ dân đã ký cam kết về những việc cụ thể để bảo vệ môi trường, trong đó có việc đóng góp tài chính của mỗi hộ, với mức 3000 đồng/tháng vào Quỹ Vệ sinh Môi trường của xã. Bình quân mỗi tháng thu được trên 4 triệu đồng vào quỹ này. Ngoài ra, xã còn huy động được 14 triệu đồng của các thành viên trong đội VSMT và đầu tư thêm 25 triệu(1) cho hoạt động của đội. Với cách làm này, môi trường của Xã được cải thiện đáng kể, tạo việc làm cho 9 người trong đội VSMT và ý thức tự giác của người dân được nâng lên rõ rệt. (1) Số liệu từ Báo Khoa học và Phát triển số 11/2001 1.2.3. Những tồn tại trong hoạt động quản lý rác thải dựa vào cộng đồng ở Việt Nam. Cộng đồng còn bị hạn chế trong việc tham gia vào các khâu lập kế hoạch và giám sát trong các dự án, nhiều khi có lấy ý kiến người dân nhưng đó chỉ là hình thức, còn những tham gia đóng góp, tiếng nói của người dân vẫn chưa được chú ý đúng mức. Tính bền vững của sự tham gia cộng đồng chưa cao, các dự án sau khi hoàn thành các nhà tài trợ sau khi rút khỏi dự án thì hiệu quả hoạt động của dự án bị giảm xuống rõ rệt, thậm chí nhiều nơi dự án còn bị phá sản do không có sự giám sát thường xuyên của các cơ quan chính quyền và không được hỗ trợ kịp thời. Đa phần dân chúng trong các cộng đồng ở địa phương không có khả năng tiếp cận với các nguồn vốn đầu tư của chính quyền địa phương, và điểm này đã ảnh hưởng tới khả năng tham gia rộng rãi của họ vào các hoạt động quản lý môi trường. Mặt khác, sự phân cấp tài chính chưa diễn ra mạnh ở địa phương, vì thế chính quyền địa phương lại càng khó trong việc hỗ trợ hoạt động của cộng đồng. Sự phối hợp của chính quyền địa phương với các tổ chức cộng đồng chưa được thể chế hóa, nếp nghĩ, nếp làm cũng ảnh hưởng không nhỏ tới sự tham gia của cộng đồng. Vai trò của chính quyền địa phương chưa được thể hiện rõ, các cấp chính quyền địa phương còn thiếu hiểu biết về cách huy động cộng đồng tham gia, do đó việc tiến hành còn lúng túng và kết quả còn hạn chế. CHƯƠNG 2 NGHIÊN CỨU MÔ HÌNH QUẢN LÝ RÁC THẢI DỰA VÀO CỘNG ĐỒNG Ở XÃ DƯƠNG NỘI, THÀNH PHỐ HÀ ĐÔNG 2.1. GIỚI THIỆU VỀ XÃ DƯƠNG NỘI 2.1.1. Điều kiện tự nhiên 2.1.1.1. Vị trí địa lý Xã Dương Nội có vị trí liền kề với trung tâm thành phố Hà Đông, cách thủ đô Hà Nội 14 km về phía Tây, có đường tỉnh lộ 72 chạy qua. Dương Nội có diện tích đất tự nhiên là 585,31 ha, địa giới hành chính của xã được xác định như sau: Phía Bắc giáp xã An Khánh, huyện Hoài Đức. Phía Tây giáp xã La Phù và Đông La, huyện Hoài Đức, Phía Đông giáp xã Văn Khê thành phố Hà Đông và xã Đại Mỗ - Từ Liêm – Hà Nội. Phía Nam giáp xã Yên Nghĩa – Hà Đông. Xã Dương Nội hiện có dân số là 16070 người và trên 3565 hộ gia đình chia thành ba khu dân cư chính bao gồm ba thôn: La Dương, La Nội và Ỷ La. Tỷ trọng của xã Dương Nội so với thành phố Hà Đông: Diện tích tự nhiên Dân số trung bình Mật độ dân số 17,54% 11,5% 0,67 lần Địa hình Địa hình tương đối bằng phẳng, độ chênh lệch địa hình không quá lớn, tạo điều kiện để đa dạng hoá cây trồng, vật nuôi, luân canh được nhiều vụ trong năm. Khí hậu Chịu ảnh hưởng của khí hậu nhiệt đới gió mùa, có sự tương phản sâu sắc giữa mùa đông và mùa hè. Mùa đông ít mưa và đôi khi có sương muối, mùa hè thì mưa nhiều. Hàng năm chịu ảnh hưởng của 2 - 4 cơn bão. Nhiệt độ trung bình hàng năm xấp xỉ 230C, nhiệt độ cao nhất từ 35 - 390C, nhiệt độ thấp nhất khoảng 80C. Lượng mưa bình quân hàng năm khoảng 1500 - 1700 mm, lượng mưa tập trung cao độ trong mùa hè đạt từ 1250 - 1450 mm chiếm 82 - 86% tổng lượng mưa cả năm. Về gió mùa, chịu ảnh hưởng của 2 loại gió chính: gió Đông Nam và gió Đông Bắc, ngoài ra ở đây thỉnh thoảng chịu ảnh hưởng của những đợt gió Tây Nam. Độ ẩm không khí: Độ ẩm trung bình từ 75% đến 82%. 2.1.2. Dân số và lao động 2.1.2.1. Dân số Kết quả điều tra tình hình dân số của xã Dương Nội có những biến đổi nhanh. Bình quân tăng 248 người/năm. Bảng 2.1. Tình hình biến động dân số xã Dương Nội giai đoan 2003-2007 Chỉ tiêu ĐVT 2003 2004 2005 2006 2007 1. Dân số trung bình xã Dương Nội Người 14832 15115 15423 15747 16070 2. Mức gia tăng Người 270 296 320 331 311 Trong đó: - tăng cơ học Người 50 30 18 71 46 - tăng tự nhiên Người 220 266 302 260 265 3. Tỷ lệ phát triển dân số % 1,82 1,96 2,07 2,10 1,94 Trong đó: - tỷ lệ tăng dân số tự nhiên % 1,48 1,76 1,96 1,65 1,65 - tỷ lệ tăng dân số cơ học % 0,34 0,20 0,12 0,45 0,29 (Nguồn số liệu: UBND xã Dương Nội) Bảng 2.2. Tình hình dân số xã Dương Nội 2003 – 2007 Chỉ tiêu ĐVT 2003 2004 2005 2006 2007 1. Dân số trung bình xã Dương Nội Người 14832 15115 15423 15749 16070 2. Số người dưới 15 tuổi Người 4583 4544 4523 4526 4463 3. Số dân qua tuổi lao động Người 1943 2122 2325 2545 2736 4. Tổng số cặp kết hôn Cặp 87 152 158 77 153 5. Tổng số hộ Hộ 3333 3370 3454 3532 3565 6. Quy mô hộ Người/hộ 4.45 4.49 4.47 4.46 4.51 7. Mật độ dân số Người/km2 2533 2583 2637 2693 2746 (Nguồn số liệu: UBND xã Dương Nội) - Năm 2003 số nhân khẩu của xã Dương Nội mới là 14832 người, đến năm 2007 tổng số nhân khẩu của xã Dương Nội đã tăng lên là: 16070 người. Tổng số hộ cũng tăng lên hết sức đáng kể: Năm 2003 mới chỉ có 3333 hộ nhưng đến năm 2007 đã tăng lên là 3565 hộ hơn năm 2003 là 232 hộ. Tuy nhiên quy mô hộ lại ít có sự thay đổi: năm 2003 là 4,45 người/hộ, đến năm 2007 là 4,51 người/hộ. - Mật độ dân số xã Dương Nội có xu hướng tăng: Năm 2003 mật độ dân số là 2533 người/km2 và đến năm 2007 mật độ dân số đã tăng lên 2746 người/km2. - Tỷ lệ phát triển dân số không ổn định qua các năm. Năm 2003 là 1,82%, năm 2004 là 1,96%, năm 2005 là 2,07% đến năm 2007 là 1,94%. Có sự biến đổi không ổn định đó là do có sự biến đổi cơ học thường xuyên qua các năm. Trong đó tỷ lệ tăng dân số tự nhiên không ổn định và có xu hướng giảm năm 2003 là 1,48%, năm 2005 tăng khá cao lên đến 1,96%, đến năm 2006 và 2007 giảm xuống còn 1,65%, bình quân mỗi năm tăng tự nhiên là 263 người. Nhưng tỷ lệ tăng cơ học lại có xu hướng tăng năm 2003 là 0,34% đến năm 2006 là 0,45%, bình quân mỗi năm tăng cơ học là 43 người. Bình quân dân số xã Dương Nội giai đoạn 2003 – 2007 mỗi năm tăng 245 người. 2.1.2.2. Lao động - Xã Dương Nội có tất cả 3 thôn: Thôn La Dương, La Nội và thôn Ỷ La, dân cư ở gọn và tập trung thuận lợi cho việc quản lý và sinh hoạt của địa phương. - Số dân trong tuổi lao động của xã Dương Nội chiếm một tỷ lệ khá cao trong dân số xã. Số lao động qua đào tạo cũng chiếm một tỷ trọng đáng kể trong tổng số lao động của xã. Điều đó thể hiện xã có một nguồn lao động rất dồi dào và có chất lượng khá cao. Bảng 2.3. Thực trạng nguồn lao động xã Dương Nội 2003 – 2007 Chỉ tiêu ĐVT 2003 2004 2005 2006 2007 1. Dân số trung bình xã Dương Nội Người 14832 15115 15423 15749 16070 2. Số dân trong độ tuổi lao động Người 8306 8449 8575 8677 8870 % so với dân số trung bình % 56 55.9 55.6 55.1 55.2 3. Số dân dưới 15 tuổi Người 4583 4544 4523 4526 4463 % so với dân số trung bình % 30.9 30.1 29.3 28.7 27.8 (Nguồn số liệu: UBND xã Dương Nội) - Số dân trong độ tuổi lao động tăng đều qua các năm. Năm 2003 mới là 8306 người chiếm 56% dân số trung bình toàn xã, đến năm 2007 đã tăng lên là 8870 người chiếm 55,2% dân số trung bình toàn xã. Trung bình mỗi năm tăng 113 lao động. Đây là một lợi thế rất lớn cho xã để phát triển kinh tế sản xuất. - Cơ cấu lao động năm 2007 của xã Dương Nội: + Lao động trong nông nghiệp là 2768 người chiếm 31,2% tổng số lao động xã. + Lao động trong TTCN là 2794 người chiếm 31,5% tổng số lao động xã. + Lao động trong TMDV là 2794 người chiếm 31,5% tổng số lao động xã. + Lao động kết hợp là 514 người chiếm 5,8% tổng số lao động xã. - Số dân dưới 15 tuổi tương đối ổn định chiếm khoảng 30% tổng dân số, đây là một nguồn dự trữ lao động rất lớn cho xã trong tương lai. 2.1.3. Hiện trạng cơ sở hạ tầng 2.1.3.1. Hệ thống giao thông: Dương Nội là xã có hệ thống giao thông tương đối thuận lợi cho việc phát triển và giao lưu hàng hóa trên địa bàn, các tỉnh phía bắc nước ta như sau: - Có tuyến tỉnh lộ 72 chạy qua gần 3km với bề rộng 6m, lề đường mỗi bên 3m, diện tích đất giao thông thuộc tỉnh lộ 72 chiếm 3,5 ha. Trong những năm tới có kế hoạch nâng cấp và mở rộng. - Đường giao thông liên thôn 7,5 km trong đó: + Đường bê tông 3500m + Đường nhựa hóa 1500m + Đường cấp phối 2500m. - Đất giao thông trong khu dân cư nông thôn có tổng chiều dài là 24 km, các tuyến đường trong khu vực thôn xóm hiện nay đã được bê tông hóa trên 90%, số còn lại cơ bản đã được giải gạch, đá. - Đường giao thông liên thôn có chiều dài 7,5 km hiện nay được bê tông hóa, nhựa hóa khoảng gần 70%, còn lại 30% là đường cấp phối. Con đường này là huyết mạch xuống trung tâm xã, đi ra địa bàn Hà Nội, Hà Đông rất thuận lợi cho thông thương đi lại của nhân dân trong và ngoài xã. - Các tuyến đường chính trong hệ thống giao thông nội đồng đã được bê tông hóa. - Ngay từ năm 2000 UBND xã đã thông qua việc phân cấp quản lý các đường giao thông cho các đơn vị cùng có trách nhiệm chăm lo bảo dưỡng. - Từ năm 2000 đến nay xã và thôn đã nâng cấp đường bằng đá cấp phối là 1,5 km, mở rộng hoàn thành đường mới 248m, bê tông hóa hai tuyến đường 2538m, nhựa hóa tiếp nối đường 70 Đại Mỗ - La Nội dài 1049m. Các dự án thi công đều nằm trong kế hoạch thông qua HĐND xã, công khai dân chủ trước khi thi công. - Xã đã vận động tự tháo rỡ và cưỡng chế 283 trường hợp trả lại hành lang giao thông trên địa bàn, đảm bảo thông suốt các tuyến đường phục vụ nhu cầu đi lại và sản xuất. 2.1.3.2. Hệ thống thủy lợi: - Hệ thống thủy lợi chiếm 45 ha gồm các hạng mục sau: + Đất công trình như mương, rãnh tiêu trong khu dân cư chiếm 4,2 ha. + Còn lại 40,8 ha là đất mương máng, công trình thủy lợi phục vụ cho việc tưới tiêu trong sản xuất nông nghiệp. - Tổng chiều dài hệ thống kênh mương 26,5 km, đã cứng hóa 14,6 km chiếm 55%. - Toàn xã có 10 trạm bơm với tổng công suất là 9080 m3/h. Diện tích được tưới là 369,34 ha. - Xã còn có trạm bơm thôn Ỷ La do công ty thủy nông La Khê quản lý với công suất 5000 m3/h đảm bảo tiêu nước cho vùng trũng khi có úng ngập. Với tình hình kênh mương như hiện nay xã đã chủ động được việc cung cấp nước tưới cho sản xuất nông nghiệp. Trong tương lai cần kiên cố hóa các kênh mương chính, quan trọng, nâng cấp trạm bơm đảm bao cung cấp và tiết kiệm nước trong điều kiện bình thường, không bị phá hủy và tiêu thoát nước nhanh trong điều kiện lũ. 2.1.3.3. Điện: Mạng lưới điện đảm bảo đáp ứng 100% nhu cầu sử dụng cho sinh hoạt và sản xuất. Cả xã có 13 trạm biến áp với công suất 4450 KVA. Bước đầu đã đáp ứng được nhu cầu cho sản xuất và sinh hoạt của người dân. Các trạm biến áp được phân bố ở các thôn như sau: - Thôn La Dương có 4 trạm biến áp với tổng công suất là: 1310 KVA. - Thôn La Nội có 4 trạm biến áp với tổng công suất là: 1310 KVA. - Thôn Ỷ La có 5 trạm biến áp với tổng công suất là: 1830 KVA. Tổng chiều dài đường dây toàn xã là 31km, trong đó đường dây cao thế là 6km, đường dây hạ thế là 25km. Hiện tại xã đang xây dựng thêm 1 trạm biến áp có công suất lớn nhất từ trước tới giờ. Trạm biến áp này được đặt tại thôn La Nội với công suất là 600 KVA và được đầu tư xây dựng là 400 triệu. Có thê trạm biến áp này công suất điện toàn xã sẽ nâng lên là 5050 KVA. Hệ thống lưới điện trong toàn xã được phát triển mạnh trong những năm gần đây đã đáp ứng được nhu cầu sử dụng điện cho sinh hoạt và cho sản xuất trên địa bàn xã trong hiện tại. Nhưng việc phát triển hệ thống lưới điện thiếu quy hoạch, đây là tình trạng chung của hầu hết các xã, các địa phương trong cả nước. Tuy nhiên, để phục vụ tốt cho nhu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn trong giai đoạn mới thì xã Dương Nội cần phải quan tâm đầu tư hơn nữa cho hệ thống điện, quy hoạch bổ sung về nguồn điện và cải tạo lưới điện trong xã. 2.1.3.4. Hệ thống bưu chính viễn thông: Trong những năm gần đây hệ thống thông tin của xã phát triển đáng kể phục vụ tốt cho việc sản xuất kinh doanh và sinh hoạt của người dân. - Hệ thống bưu điện công cộng: Có 1 điểm bưu điện văn hóa xã, các điểm dịch vụ công cộng. - Hiện nay toàn xã có khoảng 1000 hộ sử dụng máy điện thoại cố định với tổng số 1210 máy. - Tỷ lệ sử dụng điện thoại (số máy/100 dân): 7,8 máy/100 dân. 2.1.3.5. Hệ thống cấp thoát nước: * Hệ thống cấp nước - Nguồn nước: + 100% số hộ dân cư của xã dùng nước giếng khoan. + Nước từ ao, hồ, sông, ngòi phục vụ cho sản xuất. - Chất lượng nước: Chất lượng nước chưa đảm bảo được cho việc sử dụng sinh hoạt của người dân. Vì hàm lượng sắt và hữu co còn quá cao. * Hệ thống thoát nước - Thoát nước trong sinh hoạt, nước bẩn, nước mưa chủ yếu thông qua hệ thống cống rãnh hiện có. - Trong những năm gần đây việc thoát nước trong khu dân cư còn gặp rất nhiều khó khăn, do việc diện tích ao hồ ngày càng bị thu hẹp, hệ thống thoát nước chưa hoàn chỉnh. Do đó khi có mưa lớn rất dễ gây ứ đọng, gây ảnh hưởng lớn đến môi trường sống của nhân dân. Để đảm bảo việc tiêu thoát nước trong thời gian tới xã cần có quy hoạch hệ thống thoát nước. 2.1.4. Hiện trạng phát triển kinh tế 2.1.4.1. Tăng trưởng kinh tế: Tổng giá trị gia tăng của xã Dương Nội năm 2007 đạt 311,25 tỷ đồng, thu nhập bình quân 19,37 triệu đồng/người/năm. Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân giai đoạn 2003 – 2007 đạt 15,7%/năm. Thu nhập bình quân của xã Dương Nội năm 2006 đạt 13,49 triệu đồng/người/năm. Giai đoạn 2003 – 2007 quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế của xã Dương Nội khá nhanh và theo xu hướng tích cực: Công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp – thương mại dịch vụ - Nông nghiệp. Năm 2006, tỷ trọng ngành công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp của Dương Nội là 44,33%, tỷ trọng thương mại dịch vụ tương đối cao 47,96%, tỷ trọng ngành nông nghiệp 7,71%. Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân của xã Dương Nội giai đoạn 2003 – 2007 tương đối cao 15,7%, trong đó nông nghiệp 2,9%, công nghiệp tiểu thủ công nghiệp 6,6% và thương mại dịch vụ 22,9%. Tổng giá trị gia tăng cao, năm 2007 đạt 311,25 tỷ đồng tăng 220,4% so với năm 2003, đến năm 2007 đạt 19,37 triệu đồng/người/năm. Tuy nhiên một số yếu tố phát triển tiền đề còn hạn chế, như khả năng ứng dụng công nghệ, năng lưc cạnh tranh và hàm lượng chất xám… Tiềm lực phát triển kinh tế của xã chưa phát huy hết. Hơn nưa xã Dương Nội trước đây là một xã thuộc huyện Hoài Đức mới được cắt chuyển sang thị xã Hà Đông theo NQ01/2006, vì vậy chưa khai thác được lợi thế của một đơn vị ngoại thị. Tốc độ tăng trưởng kinh tế cao nhưng thiếu tính bền vững, năng lực cạnh tranh kinh tế còn yếu, việc liên kết kinh tế địa phương và kinh tế đối ngoại còn nhiều khó khăn, hạn chế và chưa chủ động. Bảng 2.4. Một số chỉ tiêu kết quả, sản xuất xã Dương Nội Đơn vị: Tỷ đồng Chỉ tiêu 2003 2004 2005 2006 2007 Tốc độ tăng BQ (%) 1. Tổng giá trị sản xuất 393,40 446,50 481,00 540,50 795,50 Nông nghiệp 31,50 34,50 37,50 40,00 41,50 Công nghiệp – Tiểu thủ công nghiệp 221,90 222,00 223,50 245,50 326,00 Thương mại dịch vụ 140,00 190,00 220,00 255,00 428,00 2. Giá trị sản xuất (CĐ1994) 308,86 351,23 372,12 406,41 581,01 Nông nghiệp 27,25 29,59 30,75 31,33 30,98 Công nghiệp – Tiểu thủ công nghiệp 168,42 168,59 168,53 180,15 232.35 Thương mại dịch vụ 113,19 153,05 172,84 194,92 317,68 3. Tổng giá trị tăng thêm (GDP) 153,78 180,29 193,37 212,40 311,25 15,70 Nông nghiệp 13,19 14,44 15,04 15,35 15,22 2,90 Công nghiệp – Tiểu thủ công nghiệp 69,05 69,12 69,10 73,86 95,26 6,60 Thương mại dịch vụ 71,54 96,73 109,23 123,19 200,77 22,90 4. Tốc độ tăng hàng năm (%) 17,24 7,25 9,84 46,54 5. GDP bình quân đầu người (Triệu đồng/người/năm) 10,37 11,93 12,54 13,49 19,37 13,30 (Nguồn số liệu: UBND xã Dương Nội) 2.1.4.2. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế: Cơ cấu kinh tế của xã Dương Nội thể hiện đặc trưng của một đô thị đang phát triển với tốc độ khá cao, xu hướng tăng nhanh tỷ trọng thương mại dịch vụ, tỷ trọng nông nghiệp thấp và giảm mạnh. Giai đoạn 2003 – 2007, tỷ trọng nông nghiệp có xu hướng giảm mạnh, năm 2003 chiếm 8,82%, năm 2007 còn 5,33%. Sản xuất công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp năm 2003 chiếm tỷ trọng 54,53% và đến năm 2007 là 39,99%. Thương mại dịch vụ tỷ trọng năm 2003 đạt 36,65% và đến năm 2007 tăng lên 54,68%. Bảng 2.5. Cơ cấu kinh tế xã Dương Nội qua các năm (theo giá CĐ1994) Chỉ tiêu 2003 2004 2005 2006 2007 Tổng giá trị sản xuất (CĐ1994) (Tỷ đồng) 308,86 351,23 372,12 406,41 581,01 Cơ cấu kinh tế (%) 100 100 100 100 100 1. Nông nghiệp (%) 8,82 8,42 8,26 7,71 5,33 2. Công nghiệp – Tiểu thủ công nghiệp (%) 54,53 48,00 45,29 44,33 39,99 3. Thương mại dịch vụ (%) 36,65 43,58 46,45 47,96 54,68 Bảng 2.6. Cơ cấu kinh tế xã Dương Nội qua các năm (theo giá trị sản xuất) Chỉ tiêu 2003 2004 2005 2006 2007 Tổng giá trị sản xuất (Tỷ đồng) 393,40 446,50 481,00 540,50 795,50 Cơ cấu kinh tế (%) 100 100 100 100 100 1. Nông nghiệp (%) 8,01 7,73 7,80 7,40 5,22 2. Công nghiệp – Tiểu thủ công nghiệp (%) 56,41 49,72 46,47 45,42 40,98 3. Thương mại dịch vụ (%) 35,59 42,55 45,74 47,18 53,80 (Nguồn số liệu: UBND xã Dương Nội) 2.1.4.3. Hiện trạng phát triển các ngành: - Ngành nông nghiệp: Kinh tế nông nghiệp phát triển tương đối ổn định và toàn diện theo xu hướng tăng tỷ trọng chăn nuôi, giảm dần tỷ trọng trồng trọt. Tổng giá trị sản xuất nông nghiệp năm 2007 là 41,5 tỷ đồng tăng so với năm 2003 là 10 tỷ đồng, tốc độ tăng trưởng bình quân giai đoạn 2003 – 2007 là 2,9%/năm, trong đó trồng trọt giảm 0,5%/năm, chăn nuôi tăng 6,6%/năm. Tổng giá trị gia tăng năm 2007 đạt 15,22 tỷ đồng bằng 115,39% so với năm 2003, trong đó trồng trọt đạt 7,19 tỷ đồng bằng 97,72% so với năm 2003 và chăn nuôi đạt 8,03 tỷ đồng bằng 137,68% so với năm 2003. Cơ cấu trong nông nghiệp có sự chuyển biến theo hướng tích cực, tăng dần tỷ trọng chăn nuôi, giảm dần tỷ trọng trồng trọt. Năm 2003 cơ cấu chăn nuôi trong ngành nông nghiệp 40%, năm 2007 chiếm 48,43%. Sản xuất nông nghiệp tiếp tục chuyển đổi cơ cấu theo hướng đáp ứng yêu cầu của thị trường, nâng cao chất lượng giá trị và hiệu quả. Quá trình chuyển dịch kinh tế nông nghiệp phù hợp với xu hướng phát triển chung của thành phố Hà Đông với đặc điểm nông nghiệp ven đô. Đi đôi với việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi, thâm canh lúa chất lượng cao cần phải chú trọng đến việc thực hiện các dự án và giải pháp thâm canh và tăng năng suất. - Công nghiệp – Tiểu thủ công nghiệp: Sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp giai đoạn 2003 – 2007 đạt mức tăng trưởng cao, tốc độ tăng trưởng bình quân giai đoạn 6,6%/năm. Tổng giá trị sản xuất đến năm 2007 đạt 326 tỷ đồng tăng gần 104 tỷ đồng so với năm 2003. Tốc độ phát triển công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp năm 2007 tăng 137,96% so với năm 2003. Hiện nay nghề dệt truyền thống ở Dương Nội đã được phục hồi và được công nhận là làng nghề truyền thống vào năm 2001 ở cả ba thôn với trên 1200 khung dệt, trong đó có trên 10 máy dệt công nghiệp thế hệ mới phục vụ 60% số vải in nhuộm cho 24 xưởng trong xã hoạt động, 01 cơ sở dệt nhuộm hấp len. Bên cạnh nghề truyền thống các ngành nghề dịch vụ khác được chú trọng phát triển rất đa dạng và hoạt động có hiệu quả như sản xuất kinh doanh chế biến gỗ ở La Dương, hình thành các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh đa ngành nghề trên địa bàn xã. Đến năm 2007, theo thống kê của UBND xã có 57 cơ sở sản xuất kinh doanh, trong đó Công ty TNHH 16 đơn vị, Công ty Cổ phần 3 đơn vị, doanh nghiệp tư nhân 86 đơn vị, Cơ sở sản xuất Tiểu thủ công nghiệp 28 điểm sản xuất chuyên nghiệp. Thời gian qua sản xuất công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp đã đạt được những kết quả đáng khích lệ, tốc độ tăng trưởng cao, các cơ sở sản xuất ngày càng được đầu tư mở rộng sản xuất, các loại hình doanh nghiệp mở ra ngày càng nhiều. Tuy nhiên hoạt động sản xuất trên địa bàn vẫn tồn tại một số khó khăn: như yếu tố công nghệ, quy mô vốn, mặt bằng sản xuất, quy mô sản xuất, thiếu sự gắn kết, hợp tác và trình độ quản lý còn hạn chế đối với việc nâng cao năng lực cạnh tranh sản phẩm. - Thương mại dịch vụ: Lĩnh vực thương mại dịch vụ phát triển tương đối mạnh và ổn định. Hoạt động thương mại với nhiều thành phần kinh tế tham gia, trong đó khu vực thương mại tư nhân phát triển mạnh, chất lượng phục vụ từng bước được nâng cao. Hiện tại trên địa bàn xã có khoảng trên 230 hộ hoạt động kinh doanh thương mại thu hút khoảng 30% lao động trên địa bàn. Mạng lưới chợ có nguồn thu nhập tương đối ổn định và quan trọng cho nhân dân địa phương và nguồn thu ngân sách của xã, đây là nơi trao đổi hàng hóa tiêu dùng hàng ngày, là nơi tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, các đơn vị buôn bán nhỏ phục vụ nhu cầu nhân dân trong xã và vùng lân cận. Tuy nhiên việc cải tạo phát triển mạng lưới chợ thành nơi kinh doanh buôn bán dịch vụ phục vụ nhân dân và đáp ứng nhu cầu phát triển đô thị hiện nay còn gặp nhiều khó khăn do nguồn vốn đầu tư còn hạn hẹp. Hiện tại trên địa bàn xã có 5 chợ, trong đó có một chợ chính, 4 chợ tạm và một chợ nông sản. Tổng giá trị tăng thêm lĩnh vực kinh doanh thương mại dịch vụ năm 2003 đạt trên 71,54 tỷ đồng, đến năm 2006 là 123,19 tỷ đồng và đến năm 2007 đạt 200,77 tỷ đồng. Tốc độ tăng trưởng năm 2007 so với năm 2003 là 280,65%, tốc độ tăng bình quân giai đoạn 2003 – 2007 đạt 22,9%/năm. Tỷ trọng đóng góp thu nhập bình quân đạt giá trị rất cao, năm 2003 là 36,65%, năm 2007 đạt 54,68% tổng GDP toàn xã. - Hoạt động tài chính: + Quỹ tín dụng nhân dân: Hoạt động của quỹ tín dụng đảm bảo đúng quy định của Ngân hàng, điều lệ Hợp tác xã đảm bảo vốn cho sản xuất kinh doanh, góp phần phát triển kinh tế trong xã. Quỹ tín dụng nhân dân trong thời gian qua hoạt động có hiệu quả, kịp thời phục vụ nhu cầu vay tiền, tiền gửi cho các cơ sở sản xuất kinh doanh, các cá nhân hộ gia đình…, phối hợp với UBND xã thực hiện chủ trương xóa đói giảm nghèo đạt kết quả tốt. + Thu chi ngân sách: Trong giai đoạn vừa qua việc thu chi tài chính được Tài chính xã thực hiện đúng luật ngân sách, tận thu các nguồn thu tại xã, trên điều tiết, chi đúng chi đủ. Các nguồn thu chi hàng năm đều được ban tài chính xã kết sổ thông qua trình trước Hội đồng nhân dân xã tại các kỳ họp hàng năm. Thanh tra Tài chính ngân hàng hàng năm do cơ quan chuyên môn cấp trên thực hiện đã đánh giá hoạt động thu chi ngân sách xã đạt hiệu quả cao, đúng nguyên tắc, đúng quy định của luật Ngân sách Nhà nước. - Thu nhập và đời sống: Sau những năm đổi mới, tình hình kinh tế của xã được khởi sắc và có sự tăng trưởng, năm sau cao hơn năm trước, đời sống nhân dân ổn định. Thu nhập bình quân đầu người ngày càng tăng. Đời sống vật chất tinh thần của nhân dân xã Dương Nội hiện nay tương đối ổn định. Tuy nhiên về phát triển cơ sở hạ tầng kỹ thuật chưa cao, các công trình phúc lợi xã hội như nhà văn hóa, thư viện,… điều kiện sinh hoạt văn hóa thể dục thể thao còn hạn chế chưa đáp ứng được nhu cầu của nhân dân địa phương. 2.1.5. Thực trạng về phát triển xã hội 2.1.5.1. Sự nghiệp giáo dục và đào tạo Dương Nội là xã có truyền thống hiếu học và xác định được vị thế quan trọng của công tác trồng người trong thời kỳ đổi mới của đất nước nên sự nghiệp giáo dục của địa phương trong những năm vừa qua đã có nhiều chuyển biến tích cực, đạt được những thành tích đáng khích lệ. Mặc dù còn rất nhiều khó khăn về tài chính ngân sách nhưng để đảm bảo tốt cho việc dạy và học của các khối nhà trường địa phương đã đầu tư xây dựng và cố gắng đáp ứng được nhu cầu cơ bản của các khối nhà trường. Chất lượng giáo dục đạt được những kết quả đáng khích lệ. Các khối nhà trường luôn giữ vững danh hiệu nhà trường chuẩn quốc gia và là trường tiên tiến cấp tỉnh. 2.1.5.2. Về y tế và chăm sóc sức khỏe cộng đồng Xã có một trạm y tế nhưng chưa được xây dựng kiên cố với 6 giường bệnh đặt tại thôn La Nội, gần trung tâm xã thuận tiện cho việc khám chữa bệnh cho nhân dân trong xã. Đội ngũ nhân viên Y tế có 6 người (trong đó có 1 bác sĩ, 4 y sỹ, 1 y tá), đội ngũ cán bộ y tế thôn gồm 3 người. Trước mắt với đội ngũ cán bộ Y tế của xã về cơ bản đáp ứng được nhiệm vụ chăm sóc sức khỏe ban đầu cho nhân dân. Trạm y tế hàng năm tổ chức triển khai thực hiện tốt các chương trình y tế Quốc gia như tiêm chủng mở rộng, phòng chống bướu cổ, trẻ em suy dinh dưỡng. Làm tốt công tác phòng chống dịch bệnh, kịp thời phục vụ khám kiểm tra bệnh ban đầu cho nhân dân. Đội ngũ y tế xã được tăng cường thiết bị y tế, giường, trang bị được bổ sung đủ điều kiện cho trạm hoạt động. 2.1.5.3. Về văn hóa Xã Dương Nội là địa phương có truyền thống văn hóa, giàu lòng yêu nước và hiếu học. Có nhiều nét đẹp và phong tục tập quán làng quê. - Văn hóa – thông tin: Công tác tuyên truyền cổ động được quan tâm, quản lý sát sao. Xã có 2 đài truyền thanh và một điểm biểu diễn văn hóa. Đã kịp thời thông tin tuyên truyền đến người dân về chủ trương đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật Nhà nước, tình hình của địa phương, đặc biệt là tuyên truyền tốt về quy chế dân chủ ở cở sở và các chỉ thị, nghị quyết của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Có 2 cụm di tích lịch sử văn hóa: Đình chùa La Dương, đình chùa La Cả, miếu thờ… Các công trình văn hóa, di tích trong xã được bảo quản, tu bổ. Tổ chức đầy đủ các ngày kỉ niệm, ngày lễ của đất nước đảm bảo chặt chẽ đúng ý nghĩa, đáp ứng được nguyện vọng của tập thể và nhân dân. - Thể dục – thể thao: Các hoạt động văn hóa thể thao được thực hiện rộng khắp cả 3 thôn. Phong trào thể dục thể thao phát triển khá mạnh, được đông đảo các tầng lớp nhân dân tham gia như: Giao lưu bóng đá, cầu lông… - Chính sách xã hội: Xã phối hợp chặt chẽ cùng các tổ chức ban ngành đoàn thể tuyên truyền vận động nhân dân tích cực tham gia lao động sản xuất đồng thời làm tròn trách nhiệm đóng góp với Nhà nước và địa phương. Công tác xóa đói giảm nghèo luôn được xác định là một nhiệm vụ quan trọng, xây dựng quỹ hỗ trợ người nghèo trong sản xuất. Công tác chăm sóc sức khỏe ban đầu cho nhân dân có chuyển biến tốt, tỷ lệ suy dinh dưỡng ở trẻ em giảm, hoàn thành các chương trình y tế quốc gia, công tác khám chữa bệnh ngày càng được nâng cao. Tóm lại cùng với sự phát triển kinh tế văn hóa xã hội cũng được quan tâm phát triển. Trong những năm vừa qua đời sống nhân dân dần ổn định, thu nhập đầu người tăng. 2.1.5.4. Công tác an ninh – quốc phòng Lực lượng an ninh được củng cố cả về trình độ cũng như trang thiết bị đảm bảo đầy đủ phục vụ công tác giữ vững trật tự trị an, trật tự xã hội ổn định. Tham gia hội thao quốc phòng và đoạt giải nhất toàn đoàn. Chính quyền địa phương triển khai kế hoạch công tác an ninh, các kế hoạch, Chỉ thị, Nghị quyết của Chính phủ tới từng khu dân cư, các ban ngành đoàn thể xã nắm và thực hiện. Đẩy mạnh phong trào quần chúng bảo vệ an ninh tổ quốc, tăng cường tuyên truyền phòng ngừa và đấu tranh giải quyết các vi phạm. Nhìn chung công tác an ninh quốc phòng của địa phương được triển khai và thực hiện tương đối tốt và thu được nhiều kết quả rất đáng khích lệ. 2.2. GIỚI THIỆU MÔ HÌNH QUẢN LÝ RÁC THẢI DỰA VÀO CỘNG ĐỒNG Ở XÃ DƯƠNG NỘI 2.2.1. Giới thiệu mô hình Trước đây, xã Dương Nội cũng giống như nhiều xã ngoại thành khác, người dân sống chủ yếu dựa vào nông nghiệp. Cơ sở hạ tầng chưa phát triển, đời sống người dân còn gặp nhiều khó khăn. Khi kinh tế chưa phát triển, nhu cầu tiêu dùng hàng hóa và dịch vụ còn thấp do đó lượng rác thải ra hàng ngày không nhiều. Chính vì vậy họ thường tự xử lý bằng một số cách truyền thống như đốt, một số loại rác hữu cơ được ủ làm phân bón ruộng,… còn những người thiếu ý thức thì đổ rác ra mương, máng hoặc các bãi đất trống… Khi kinh tế ngày càng phát triển, nhu cầu tiêu dùng của người dân ngày càng gia tăng, kéo theo đó lượng rác thải ra ngày càng nhiều mà chưa có một hình thức quản lý thống nhất, gây ảnh hưởng đến đời sống của nhân dân trong xã. Điều này đòi hỏi cần phải có cách quản lý rác thải sao cho có hiệu quả, không gây tổn hại đến sức khỏe người dân và môi trường. Xuất phát từ thực tế đó, cùng với tâm tư nguyện vọng của nhân dân trong xã năm 2003 UBND xã Dương Nội đã họp bàn với đại diện nhân dân tổ chức thực hiện mô hình quản lý rác thải với sự tham gia của người dân. Nghiên cứu mô hình quản lý Mục tiêu của mô hình Mô hình này nhằm mục tiêu trước tiên và quan trọng nhất là tạo ra môi trường sống trong lành cho người dân xã Dương Nội. Tạo thu nhập cho một số người dân trong xã. Làm đẹp mỹ quan đường làng, ngõ xóm. Nâng cao nhận thức của người dân về bảo vệ môi trường nói chung và giữ gìn vệ sinh đường làng ngõ xóm nói riêng. Các hoạt động được tiến hành để thực hiện mô hình Để thực hiện mô hình này, UBND xã Dương Nội đã đứng ra triệu tập các trưởng thôn, xóm để bàn bạc, nhất quán thông qua những việc cần làm. Cả xã có 3 thôn được chia làm 14 xóm, mô hình này sẽ được thực hiện trên tất cả các thôn, xóm. UBND xã đã quyết định giao việc phụ trách và thu phí vệ sinh môi trường đến từng thôn xóm. Các xóm sẽ họp bàn rồi quyết định thành lập các tổ thu gom. Mỗi xóm có 1 tổ thu gom, mỗi tổ gồm 2 người. Theo nguyện vọng của người dân, xóm sẽ ưu tiên những gia đình có hoàn cảnh khó khăn, muốn kiếm thêm thu nhập. Người dân được tham khảo ý kiến về lượng rác thải ra, giờ thu gom rác, mức phí nộp, đóng góp ý kiến để hoàn thiện cách quản lý rác thải thông qua các buổi họp xóm. Người dân có trách nhiệm không thải đổ rác ra nơi công cộng; thực hiện phân loại rác, rác chứa trong sọt và để nơi thuận lợi trong nhà; giao rác cho người thu gom đúng thời gian, đúng phương thức; đóng tiền hàng tháng; phát hiện và tố giác hành vi thải đổ rác không đúng nơi quy định. Ban đầu xã sẽ bỏ vốn đầu tư trang thiết bị, bảo hộ lao động, các gia đình đầu tư xô, sọt đựng rác. Các xóm có trách nhiệm thu phí vệ sinh môi trường và duy trì hoạt động của tổ thu gom rác thải. Trong quá trình hoạt động, xóm nào có gặp khó khăn về kinh phí sửa chữa các trang thiết bị thì làm đơn lên UBND xã, xã sẽ xem xét và hỗ trợ. Rác thu gom sẽ được vận chuyển và đổ vào bãi rác do xã quy định, mỗi thôn có một bãi rác. Khi nào các bãi rác đầy, xã sẽ cho xe san ủi và chôn lấp. 2.2.2.3. Mô hình quản lý UBND xã Trưởng thôn Trưởng xóm Hộ dân Phân loại rác, chứa trong sọt để trong nhà Người thu Phân loại Bãi rác Chôn lấp Hình 2.1: Sơ đồ mô hình quản lý * Sự tham gia của UBND xã: UBND xã tham gia vào mô hình thông qua việc quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội xã Dương Nội, trong đó có việc quy định địa điểm các bãi rác của thôn, xóm, mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội – môi trường. UBND xã quản lý, giám sát hoạt động của mô hình thông qua các trưởng thôn, trưởng xóm. Kịp thời nhắc nhở người dân, những người thu gom nếu họ vi phạm các quy định. Đầu tư kinh phí mua các trang thiết bị lao động, bảo hộ lao động ban đầu cho mô hình hoạt động. Hỗ trợ các xóm gặp khó khăn về kinh phí sửa chữa cá trang thiết bị hỏng hóc trong quá trình hoạt động. Thông qua các buổi họp thôn, xóm tuyên truyền, nhắc nhở người dân cách phân loại rác và các kinh nghiệm ở những nơi đã thực hiện thành công mô hình quản lý rác thải dựa vào cộng đồng. * Sự tham gia của người dân địa phương: Người dân là người trực tiếp được hưởng lợi ích từ việc thực hiện mô hình này. Chính vì vậy, họ sẽ tích cực hơn trong việc phân loại rác tại nguồn cũng như giữ gìn vệ sinh nơi công cộng. Họ có thể tham gia vào việc quản lý, giám sát bằng cách nhắc nhở, tố giác những người thiếu ý thức, đổ rác không đúng nơi quy định. Giám sát những người thu gom rác, nếu có vi phạm xảy ra họ kịp thời báo cho trưởng xóm biết để kịp thời nhắc nhở. Người dân còn được tạo thêm thu nhập từ việc thực hiện mô hình khi tham gia vào vị trí người thu gom. Hàng tháng họ sẽ được trả một khoản thu nhập. Mặt khác, họ cũng có thêm khoản thu khác từ việc phân loại rác và bán lại những loại rác có thể tái chế, tái sử dụng. Họ được tham gia sinh hoạt để được học hỏi kiến thức về phân loại rác tại nguồn. Tham gia đóng góp ý kiến về khối lượng rác và thời gian thu gom để mô hình hoạt động phù hợp với từng thôn, xóm. 2.2.2.4 Lịch trình làm việc của tổ thu gom Tổ thu gom sẽ thu gom rác mỗi ngày một lần vào buổi sáng hoặc buổi chiều tùy vào quy định của từng xóm. Khi thu gom, người thu gom phải gõ kẻng cho người dân biết để đổ rác đúng thời gian, đúng quy định. Người thu gom sẽ quét dọn đường làng, ngõ xóm, các hộ gia đình có trách nhiệm quét dọn xung quanh gia đình mình. Hàng tuần, thôn, xóm sẽ tổ chức tổng vệ sinh một lần, các hộ gia đình có trách nhiệm tham gia. Tổ thu gom có trách nhiệm vận chuyển đến bãi đổ rác của thôn. CHƯƠNG 3 ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA MÔ HÌNH NHỮNG THUẬN LỢI, KHÓ KHĂN VÀ ĐỀ XUẤT MỘT SỐ GIẢI PHÁP, KIẾN NGHỊ NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA MÔ HÌNH. 3.1. ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA MÔ HÌNH 3.1.1. Hiệu quả kinh tế 3.1.1.1. Các khoản thu từ phí vệ sinh môi trường Căn cứ vào tình hình kinh tế - xã hội, mỗi năm mức thu phí vệ sinh môi trường của xã Dương Nội có khác nhau. Cụ thể như sau: Bảng 3.1. Mức phí vệ sinh môi trường ở xã Dương Nội từ 2003 - 2007 Đơn vị 2003 2004 2005 2006 2007 Mức phí/hộ Đồng 2000 2500 3000 4000 5000 Tổng số hộ Hộ 3333 3370 3454 3532 3565 Tổng thu Đồng 6666000 8425000 10362000 14128000 17825000 (Nguồn UBND xã Dương Nội) Số hộ gia đình trong xã ngày càng tăng, do đó lượng rác thải ra ngày càng nhiều. Nhu cầu thu gom, vận chuyển và xử lý rác thải cũng gia tăng. Do điều kiện kinh tế - xã hội thay đổi, mức thu phí cũng cần thay đổi theo thời gian. Ngoài ra, nhờ biết cách phân loại rác thải, người dân cũng như người thu gom rác thải có thêm thu nhập từ việc bán các loại rác thải có thể tái chế, tái sử dụng. 3.1.1.2. Các khoản chi phí trả người thu gom Người thu gom, vận chuyển rác thải được xóm lựa chọn, nếu không có nhu cầu làm việc, xóm có thể thay đổi. Thông qua các buổi họp xóm, người thu gom có thể yêu cầu được tăng thu nhập nếu cảm thấy khoản thu của mình quá thấp so với công việc đang làm. Tùy tình hình cụ thể, xóm sẽ xem xét và thay đổi sao cho phù hợp với hoàn cảnh hiện tại. Cụ thể như sau: Bảng 3.2. Chi phí trả cho người thu gom từ năm 2003 - 2007 Đơn vị 2003 2004 2005 2006 2007 Một người Đồng/tháng 200000 300000 350000 400000 500000 Tổng chi Đồng 5600000 8400000 9800000 11200000 14000000 (Nguồn UBND xã Dương Nội) Các khoản thu được từ phí vệ sinh môi trường sau khi chi trả cho người thu gom, phần còn lại sẽ được giữ lại làm quỹ để trang trải các chi phí phát sinh, như chi phí sửa chữa các trang thiết bị thu gom, thay thế đồ bảo hộ lao động cho người thu gom… Mô hình này hoạt động đã tiết kiệm được chi phí cho chính quyền xã trong việc thu gom, vận chuyển và xử lý rác thải, đem lại thu nhập cho một bộ phận người dân… 3.1.2. Hiệu quả xã hội Giúp cho người dân trên địa bàn xã thấy được vai trò và trách nhiệm to lớn của mình trong công tác bảo vệ môi trường nói chung và công tác thu gom, vận chuyển và xử lý rác thải nói riêng. Từ đó góp phần nâng cao ý thức tự giác của người dân trong các vấn đề có liên quan đến môi trường. Nhờ tiết kiệm được chi phí cho ngân sách của địa phương trong vấn đề môi trường mà chính quyền xã có thể dùng nguồn này đầu tư cho các lĩnh vực khác để cải thiện các điều kiện kinh tế - xã hội. Tạo việc làm và tăng thu nhập để cải thiện cuộc sống cho 28 lao động tham gia vào công tác thu gom, vận chuyển rác thải với mức thu nhập như trên (Bảng 3.2). 3.1.3. Hiệu quả môi trường Công tác vệ sinh đường làng, ngõ xóm được thực hiện tốt, với tổng số 14/14 xóm thực hiện. Khối lượng rác thải được thu gom 100% trên toàn xã. Cụ thể như sau: Bảng 3.3. Khối lượng rác thu gom từ 2003 – 2007 Đơn vị: tấn Năm 2003 2004 2005 2006 2007 Khối lượng rác 2673,84 3085,22 3420,17 3647,54 3951,91 (Nguồn UBND xã Dương Nội) Khối lượng rác thải được thu gom, vận chuyển, xử lý ngày càng gia tăng, từ 2673,84 tấn năm 2003 lên 3951,91 tấn năm 2007, tức là tăng 1278,07 tấn hay 147,8%. Do đó, ta thấy vai trò của cộng đồng trong việc quản lý rác thải ngày càng được khẳng định. Nhờ thực hiện mô hình quản lý rác thải dựa vào cộng đồng mà từng bước cải thiện môi trường tại các đường làng, ngõ xóm, giảm tới mức tối thiểu lượng rác thải tồn đọng trong ngày gây mất vệ sinh. Từ đó đem lại mỹ quan cho đường làng, ngõ xóm. 3.1.4. Những tồn tại từ mô hình cần giải quyết Để mô hình vận hành tốt cần có sự rõ ràng về các ranh giới như ranh giới về quyền lợi và nghĩa vụ của các bên tham gia, ranh giới về đối tượng quản lý… Trong mô hình quản lý rác thải cộng đồng ở xã Dương Nội đã có sự phân cấp rõ ràng tuy nhiên vẫn còn nhiều bất cập. Ngoài khu vực do cộng đồng đảm nhận thì một số đường làng, ngõ xóm, chất lượng vệ sinh môi trường chưa được đảm bảo: vẫn còn hiện tượng vứt rác bừa bãi, đổ rác ra mương máng… Một số lượng lớn bao bì như thuốc trừ sâu … sau khi sử dụng vứt trên đồng ruộng gây ảnh hưởng đến môi trường. Mức thu phí là như nhau giữa các hộ gia đình. Do đó, không khuyến khích các hộ giảm thiểu lượng rác thải thải ra môi trường. Mức thu phí qua các năm (từ 2000đ/hộ đến 5000đ/hộ) cho thấy các khoản thu này cũng chỉ đủ để trả công cho người lao động làm công tác vệ sinh môi trường, và tiền công này cũng chỉ ở mức thấp. Như vậy, không tạo được động lực để họ có trách nhiệm hơn với công việc. Do đó chi phí để xử lý rác thải chủ yếu dựa vào ngân sách của địa phương. Do trình độ của cộng đồng còn hạn chế, cộng thêm chưa được hướng dẫn đầy đủ nên việc xử lý rác thải của cộng đồng không đảm bảo đúng kỹ thuật, đây là một nguồn gây ô nhiễm không khí và nguồn nước ảnh hưởng đến sức khỏe người dân và năng suất lao động do chất lượng đất bị suy giảm. Qua các buổi họp thôn, xóm cũng có nhiều ý kiến được đưa ra nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của mô hình quản lý rác thải dựa vào cộng đồng nhưng không thể thu thập và thực hiện được toàn bộ ý kiến của dân cư. Phần vì kinh phí cho công tác bảo vệ môi trường còn hạn chế, phần vì những buổi họp xóm, thôn nhiều khi người dân vắng mặt nên không thực hiện những công việc mà thôn, xóm thông qua. 3.2. NHỮNG THUẬN LỢI, KHÓ KHĂN MÀ MÔ HÌNH GẶP PHẢI 3.2.1. Thuận lợi Xã Dương Nội có tất cả 3 thôn: Thôn La Dương, La Nội và thôn Ỷ La, dân cư ở gọn và tập trung thuận lợi cho việc quản lý và sinh hoạt của địa phương. Đồng thời cũng thuận lợi cho mô hình hoạt động, việc thu gom, vận chuyển và xử lý rác thải cũng tương đối dễ dàng. Xã có đảng bộ, chính quyền vững mạnh nên công tác chỉ đạo, quản lý kinh tế xã hội phát triển tốt, được người dân tin cậy. Đây là điều kiện thuận lợi cho việc phát triển kinh tế cũng như thực hiện mô hình quản lý rác thải dựa vào cộng đồng ở xã Dương Nội. Nhờ chính quyền xã đầu tư kinh phí ban đầu mua các trang thiết bị lao động như xe chở rác, xẻng, chổi, đồ bảo hộ lao động cho người thu gom rác thải mà việc thực hiện mô hình được tiến hành nhanh chóng. Chính điều đó lại khuyến khích người dân hơn, vì họ thấy được sự quan tâm của cán bộ và các cấp chính quyền đối với môi trường sống của người dân. Cán bộ xã nhiệt tình trong việc đôn đốc, nhắc nhở người dân thực hiện đúng quy định. Thông qua các buổi họp thôn, xóm các cán bộ tích cực tuyên truyền các kinh nghiệm của các địa phương khác đã thực hiện thành công mô hình quản lý rác thải dựa vào cộng đồng để nhân dân trong xã biết cách thực hiện. Mặt khác các buổi sinh hoạt thôn, xóm cũng giúp người dân hiểu biết thêm về cách phân loại rác ngay tại hộ gia đình. Nhân dân tích cực hưởng ứng việc thực hiện mô hình quản lý rác thải dựa vào cộng đồng vì lợi ích thiết thực và trước hết là đối với chính cộng đồng dân cư địa phương. Họ được sống trong môi trường trong lành nếu mô hình hoạt động có hiệu quả. Người được chọn làm công việc thu gom là người dân địa phương, họ sẽ am hiểu về cuộc sống, phong tục tập quán của địa phương mình. Ngoài ra, họ lại có thêm thu nhập từ việc thu gom rác thải. Chính vì lẽ đó, họ sẽ thấy được trách nhiệm và vai trò của mình đối với việc bảo vệ môi trường của chính nơi mình đang sinh sống. Hệ thống kết cấu cơ sở hạ tầng nói chung đã được xây dựng và bố trí họp lý trong khu dân cư nông thôn, rất thuận tiện cho việc thu gom, vận chuyển và xử lý rác thải. 3.2.2. Khó khăn Xã Dương Nội là một xã ngoại thành của thành phố Hà Đông, tiềm lực kinh tế của xã còn chưa mạnh, phát triển chưa thật bền vững, trình độ khoa học công nghệ còn lạc hậu. Xã còn nhiều vấn đề cần ưu tiên để đầu tư như xóa đói giảm nghèo, xây dựng cơ sở hạ tầng… cho nên kinh phí đầu tư cho công tác bảo vệ môi trường thực sự còn eo hẹp. Các trang thiết bị để thu gom, vận chuyển rác thải còn thô sơ, do đó thời gian thu gom rác thải kéo dài. Người dân chưa thực sự biết cách phân loại rác tại nguồn nên việc thực hiện mô hình này chưa thực sự hiệu quả. Một bộ phận dân chúng vẫn còn thiếu ý thức, họ vẫn đổ rác không đúng nơi quy định. Việc thực hiện mô hình vẫn chỉ là khuyến khích, nhắc nhở, động viên, chưa có một hình thức xử phạt nào. Do đó việc thực hiện mô hình vần chưa triệt để, còn nhiều thiếu sót. Xã mới chỉ có 3 điểm đổ rác tạm, hình thức xử lý rác thải là chôn lấp nên gây ra ô nhiễm môi trường, ảnh hưởng đến sức khỏe của người dân sống gần các bãi chôn lấp rác thải đó. 3.3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP, KIẾN NGHỊ NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA MÔ HÌNH. 3.3.1. Giải pháp 3.3.1.1. Về phía chính quyền dịa phương: - Chính quyền địa phương cần quan tâm hơn nữa đến công tác vệ sinh môi trường, đặc biệt là hoạt động của các tổ thu gom. Kịp thời có biện pháp hỗ trợ nếu các thôn, xóm có yêu cầu để mô hình được hoạt động thông suốt. - Trưởng thôn, trưởng xóm nên đứng ra tổ chức các lớp tập huấn cho người dân biết cách phân loại rác thải ngay từ hộ gia đình. Điều này sẽ giúp cho việc xử lý rác thải hiệu quả hơn, giảm gánh nặng cho người thu gom, do đó tiết kiệm chi phí xử lý chất thải. - Các phương tiện, thiết bị thu gom vận chuyển rác thải cần được đầu tư hơn nữa nhằm nâng cao năng lực của tổ thu gom. - Giám sát, quản lý công tác thu gom, vận chuyển rác thải của tổ thu gom, đồng thời đôn đốc, nhắc nhở người dân thực hiện nghiêm túc các quy định đã đề ra về vệ sinh môi trường. Có biện pháp xử lý kịp thời nếu xảy ra vi phạm. - Giải quyết các xung đột nếu xảy ra giữa các thành viên trong cộng đồng dân cư về vấn đề môi trường một cách kịp thời, tránh để kéo dài. - Tổ chức các cuộc thi tìm hiểu về môi trường giúp nhân dân hiểu rõ hơn về vai trò và các giá trị của môi trường sống, giúp họ nâng cao ý thức, trách nhiệm của mình. - Có hình thức khen thưởng kịp thời đối với các cá nhân có đóng góp cho hoạt động bảo vệ môi trường, các hộ gia đình thực hiện tốt. - Khi xem xét đến danh hiệu “Gia đình văn hóa” cần quan tâm đến yếu tố vệ sinh môi trường, điều này sẽ nâng cao ý thức của người dân. - Phân công trách nhiệm rõ ràng giữa cán bộ chính quyền địa phương và người dân trong quản lý hoạt động của mô hình này. Phối hợp với cộng đồng để cộng đồng phải được tham gia từ khâu lập kế hoạch, thực thi và giám sát hoạt động của mô hình. Như thế thì hoạt động của mô hình này mới đi vào lòng dân, mới có hiệu quả. 3.3.1.2. Về phía cộng đồng dân cư: - Cần nâng cao hơn nữa về vai trò của cộng đồng dân cư thông qua việc quản lý, giám sát các tổ thu gom, nhắc nhở họ thực hiện đúng quy định. - Các ý kiến của người dân sẽ được bàn bạc thông qua các buổi họp thôn, xóm, chính quyền địa phương nên khuyến khích người dân thảo luận về những vấn đề còn tồn tại trong công tác quản lý hoạt động của mô hình để từ đó tìm ra những giải pháp thích hợp và xác định những vấn đề cần ưu tiên hàng đầu. - Cộng đồng cũng phải ý thức được vai trò trách nhiệm của mình đối với công tác bảo vệ môi trường, phải tự hành động để giữ lấy môi trường sống trong lành. - Khi có những sai phạm đối với công tác bảo vệ môi trường, nếu người dân phát hiện nên báo ngay cho chính quyền địa phương biết để kịp thời ngăn chặn và giải quyết. 3.3.1.3. Giải pháp về tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức - Thông qua hệ thống loa đài truyền thanh của xã, các thông tin về kinh tế - xã hội và môi trường sẽ được truyền tải đến người dân một cách dễ dàng, dần dần sẽ ăn sâu vào ý thức của người dân. Do đó giải pháp này phải được thực hiện một cách thường xuyên. - Để huy động sự tham gia của các cộng đồng thì vấn đề giáo dục môi trường là cần thiết; giáo dục ở đây bao gồm cả giáo dục trong nhà trường và giáo dục ngoài xã hội. Giáo dục môi trường trong nhà trường đang được triển khai dưới sự chỉ đạo của Chính phủ trong kế hoạch từ nay đến 2010. Giáo dục môi trường trong nhà trường bao gồm từ việc đào tạo những cán bộ chuyên môn về các lĩnh vực có liên quan đến tài nguyên và môi trường, tại các trường đại học, cao đẳng đến việc đưa giáo dục môi trường vào các cấp, bậc và ngành học. Các chương trình giáo dục môi trường được triển khai rộng khắp dưới sự chỉ đạo của Chính phủ, có sự trợ giúp của một số tổ chức quốc tế. Giáo dục môi trường được tiến hành theo phương thức lồng ghép với các môn học như: đạo đức, tiếng Việt, lao động kỹ thuật, khoa học tự nhiên, khoa học xã hội, giảng dạy như một môn học chính khóa, và đưa vào các hoạt động ngoại khóa. - Tổ chức các cuộc thi tìm hiểu về môi trường, phân loại rác tại nguồn ở từng thôn, xóm và trên toàn xã. Thông qua đó, khen thưởng, biểu dương các cá nhân có thành tích tốt. 3.3.2. Một số kiến nghị Cần mở rộng mô hình quản lý rác thải dựa vào cộng đồng, đặc biệt đối với các làng, xã mà ở đó xí nghiệp môi trường đô thị không thể thực hiện được hoạt động thu gom, vận chuyển và xử lý rác thải. Các mô hình này hoạt động tốt vừa giúp bảo vệ môi trường, tiết kiệm chi phí mà lại nâng cao được ý thức của người dân. Thêm vào đó giúp tạo công ăn việc làm và tăng thu nhập cho một bộ phận dân cư. Nhà nước nên có những hỗ trợ về kinh phí, kỹ thuật cho các địa phương có thực hiện mô hình này trong việc xử lý rác thải nhằm giảm thiểu ô nhiễm môi trường. Người dân nên tham gia tích cực hơn nữa vào công tác bảo vệ môi trường ngay tại địa phương mình thông qua việc phân loại rác tại nguồn, thành lập các tổ dân lập thu gom rác thải. KẾT LUẬN Mô hình quản lý môi trường dựa vào cộng đồng đã được áp dụng ở nhiều nơi, do các điều kiện kinh tế - xã hội của các địa phương khác nhau là khác nhau nên các mô hình này cũng khác nhau để phù hợp với điều kiện của từng địa phương. “Mô hình quản lý rác thải dựa vào cộng đồng ở xã Dương Nội, thành phố Hà Đông, tỉnh Hà Tây” tuy mới chỉ thực hiện trong một thời gian ngắn nhưng đã đem lại hiệu quả rất thiết thực cho xã Dương Nội. Chính vì vậy chúng ta nên nhân rộng mô hình này ra các địa phương khác nhằm huy động được nguồn lực trong nhân dân để bảo vệ môi trường. Trong quá trình thực hiện mô hình này, các địa phương trong đó có xã Dương Nội cũng gặp không ít khó khăn. Do đó em đã mạnh dạn đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của mô hình. Mặc dù đã thực sự cố gắng nhưng bài viết của em chắc chắn còn nhiều hạn chế và thiếu sót. Em rất mong các thầy, các cô thông cảm và đóng góp ý kiến để bài viết của em hoàn thiện hơn. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Giáo trình kinh tế chất thải – GS.TS. Nguyễn Đình Hương chủ biên, NXB Giáo dục. 2. Giáo trình kinh tế và quản lý môi trường – Trường Đại học Kinh tế Quốc Dân – NXB Thống kê. 3. Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội xã Dương Nội giai đoạn 2006 – 2010 và định hướng đến năm 2020, UBND xã Dương Nội. 4. Báo cáo Môi trường thành phố Hà Đông. 5. Tạp chí Tài nguyên và môi trường. 6. Chỉ thị số 36/CT-TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam ngày 25-6-1998. 7. Quyết định số 256/2003/QĐ-TTg, ngày 3-12-2003 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược Bảo vệ môi trường quốc gia năm 2010 và định hướng đến năm 2020. 8. Quyết định số 22/2002/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ. 9. Nghị quyết 41/NQ-TW ngày 15/11/2004 của Bộ chính trị về chủ chương “đẩy mạnh xã hội hóa hoạt động bảo vệ môi trường”. 10. Luật bảo vệ môi trường 2005.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docK3013.DOC
Tài liệu liên quan