Về nguyên liệu: Tiếp tục đầu tư cho sản xuất bông, sợi tổng hợp trên cơ sở đảm bảo hiệu quả kinh tế và tính cạnh tranh trên thị trường. Đầu tư phát triển bông vải trên cơ sở quy hoạch lại các vùng trồng bông: điều kiện tự nhiên, thổ nhưỡng, khả năng phát triển cơ sở hạ tầng về t¬ới tiêu và khả năng huy động tài chính. Nghiên cứu khả năng sản xuất các sản phẩm hoá dầu phục vụ cho dệt may thay thế cho nhập khẩu.
Chú trọng khâu sản xuất, nhuộm, hoàn tất vải và phụ liệu cung cấp cho may xuất khẩu. Sản xuất vải và phụ liệu phụ liệu phục vụ cung cấp tại chỗ cho may xuất khẩu là khâu yếu nhất và cần được ưu tiên V.danh mục tài liệu tham khảo
33 trang |
Chia sẻ: ndson | Lượt xem: 1423 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng và giải pháp về đầu tư đổi mới công nghệ ngành dệt may Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n trị nhưng nếu đúng thời điểm sẽ là giải pháp đúng đắn làm tăng kết quả và hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp.
Việc lựa chọn áp dụng phương pháp đổi mới công nghệ cụ thể gắn với chu kỳ sống của công nghệ, khả năng sáng tạo của lực lượng nghiên cứu, khả năng đầu tư cho nghiên cứu, chi phí đầu tư đổi mới công nghệ và đặc biệt là quan điểm tính toán và đánh giá hiệu quả kinh doanh.
4Chuyển giao công nghệ
Trong điều kiện chưa đủ trình độ sáng tạo công nghệ mới thì việc nghiên cứu chuyển giao công nghệ giữ vai trò quan trọng đối với quá trình đổi mới công nghệ của doanh nghiệp. Nội dung chủ yếu của chuyển giao công nghệ bao gồm:
Xác định thời điểm cần đưa công nghệ mới vào áp dụng. Thời điểm này phụ thuộc vào chu kỳ sống và tác dụng của công nghệ hiện tại đối với sản xuất, khả năng về tài chính gắn với việc đổi mới công nghệ, sự sẵn sàng đổi mới của các nhà quản trị cao cấp…
Nghiên cứu và dự báo về các nhân tố tác động đến công nghệ mới: thị trường sản phẩm, tình trạng cạnh tranh, khả năng về các nguồn lực…
Đánh giá tính thích hợp của công nghệ mới về kỹ thuật, kinh tế và khả năng tài chính để lựa chọn công nghệ tối ưu
Tìm kiếm thông tin cụ thể về thị trường công nghệ mới, về các đối tác đang có ý định chuyển giao công nghệ, về các rào cản có thể trong quá trình chuyển giao…
Các nghiên cứu tiếp theo là nghiên cứu dự án tuân theo các yêu cầu về nghiên cứu đầu tư hay liên doanh tuỳ theo cách thức chuyển giao mà doanh nghiệp lựa chọn.
2.Chỉ tiêu đánh giá hiệu quả đổi mới công nghệ
2.1.Chỉ tiêu định lượng
Tỷ trọng máy móc thiết bị đuợc hiện đại hoá (Ihd)
Ihd = (DGhd/vốn đầu tu đổi mới công nghệ trong kỳ)*100%
DGhd = Ghd1 = Ghd0: mức gia tăng máy móc thiết bị hoạt động trong kỳ
Ghd1: giá trị máy móc thiết bị hiện đại kỳ báo cáo
Ghd0: giá trị máy móc thiết bị hiện đại kỳ gốc
Chỉ tiêu gia tăng năng suất lao động (Iw)
Chỉ tiêu này phản ánh mức độ tăng truởng về năng suất lao động của doanh nghiệp nhờ ĐMCN và nó đuợc tính bằng tỷ lệ giữa mức gia tăng năng suất lao động với vốn đầu tu ĐMCN trong kỳ
Iw = (Dw/vốn đầu tu đổi mới công nghệ trong kỳ)*100%
Trong đó D=w1- w0: mức gia tăng năng suất lao động
Chỉ tiêu phản ánh hiệu quả ĐMCN tác dụng đến mức gia tăng lợi nhuận (Iln)
Iln = (DLN/vốn đầu t đổi mới công nghệ trong kỳ)*100%
Mức tăng lợi nhuận đuợc tính bằng DLN = LN1 - LN0
2.2.Chỉ tiêu định tính
Các chỉ tiêu định tính phản ánh khái quát, rất khó luợng hoá nhung lại phản ánh những biến động quan trọng về chất đối với kinh tế xã hội, doanh nghiệp, cơ cấu lao động, trình độ lao động….do đổi mới công nghệ đem lại. Để đánh giá tác dụng của đổi mới công nghệ tới chất luợng của nền kinh tế, chúng ta dùng một số các chỉ tiêu sau:
-Số công ăn việc làm mới đuợc tạo nhờ đổi mới công nghệ
-Trình độ quản lý đuợc nâng lên, cung cấp sản phẩm đa dạng hoá, phuơng pháp, kỹ thuật được cải tiến….
-Tăng thị phần cũng nhu uy tín của doanh nghiệp do giảm giá thành, nâng cao chất luợng sản phẩm
-Đóng góp của đổi mới công nghệ trong việc thực hiện các mục tiêu, chỉ tiêu phát triển kinh tế xã hội của đất nuớc, các ngành kinh tế.
Thực tế việc phân chia chỉ tiêu định tính và chỉ tiêu định luTợng chỉ mang tính chất tuơng đối vì một số chỉ tiêu định tính có thể luợng hoá đuợc trong khi có những chỉ tiêu định luợng lại gặp khó khăn trong thống kê số liệu.Chính vì vậy, để đánh giá chính xác, toàn diện về thực trạng và hiệu quả đổi mới công nghệ chúng ta cần kết hợp cả hai chỉ tiêu định tính và định lượng
II.TỔNG QUAN VỀ NGÀNH DỆT MAY
1.Vai trò và vị trí của ngành dệt may trong nền kinh tế
Dệt may vẫn là một trong những ngành có tiềm năng xuất khẩu cao và sẽ giữ vững vai trò này trong 10 năm tới.
Trong giai đoạn 2000-2004, Dệt may tuy tốc độ phát triển không đều song luôn giữ ở mức hơn 8% và ngày càng mở rộng quy mô, phát triển từ 16.089 chiếm tỷ trọng ngày càng tăng trong GDP cả nước, tăng từ 5.88% năm 2000 lên 6.55% năm 2002 và có những bước đột phá vào 2 năm 2003 và 2004. Đến 2004 Dệt may Việt Nam đã chiếm đến 8.04% tổng sản phẩm quốc nội. Mặc dù tỷ trọng Dệt may so với giá trị sản xuất công nghiệp và công nghiệp chế biến không tăng rõ nét như so với GDP nhưng Dệt may cũng vẫn khẳng định vị trí của mình trong công nghiệp cũng như công nghiệp chế biến với tỷ trọng hàng năm lần lượt trên 7.5% và 9.5%.
Trong giai đoạn 31/12/2000 -31/12/2004 kim ngạch xuất khẩu Dệt may tăng 231.8%, tương đương mức tăng bình quân 23.4%/năm. Điều này cho thấy Dệt may vẫn xứng đáng là “mũi nhọn xuất khẩu” của nước ta.
Việt Nam hiện là ngành sử dụng nhiều lao động nhất, khoảng gần 2tr lao động, gần 5% trong tổng lực lượng lao động toàn quốc. Đối với một đất nước có nguồn lao động dồi dào như nước ta (40.8055tr lao động, giải quyết công ăn việc làm là điều khó khăn, do đó Dệt may không những đóng vai trò quan trọng trong khía cạnh kinh tế mà còn trong khía cạnh xã hội. Với gần 2000 doanh nghiệp và hàng chục nghìn cơ sở nhỏ của các thành phần kinh tế như tạo công việc trồng bông, trồng dâu-nuôi tằm, Dệt may đã giải quyết việc làm cho những đối tượng có thu nhập thấp, đối tượng đang được nhà nước đặc biệt quan tâm.
Như vậy trong điều kiện nước ta hiện nay, ngành Dệt may vẫn đóng vai trò chiến lược trong phát triển kinh tế bởi chính sự đóng góp tích cực của ngành.
2. Đặc điểm của ngành dệt may
Là ngành truyền thống ở Việt Nam. Trong bối cảnh của nền kinh tế tuy đang tiến hành CNH- HĐH song vẫn còn mang nét nông nghiệp lạc hậu, ngành dệt may Việt Nam có những đặc điểm cơ bản như:
4Sự phân bố rộng
Ngành dệt may được phân bố và phát triển trên toàn vùng lãnh thổ Việt Nam, từ Bắc đến Nam và phân bố thành 3 khu vực: miền Bắc, miền Trung , miền Nam trong đó:
Bảng 1: phân bố các doanh nghiệp dệt may trong cả nước
Khu vực
Số tỉnh, thành phố
Tổng số DN
DNNN
DNTN
DN ĐTNN
Hội vien VITAS
Miền Bắc
25
285
140
106
39
112
Miền Trung
16
58
30
19
9
27
Miền Nam
20
688
61
324
303
312
∑
64
1031
231
449
351
451
4Thu hút nhiều lao động và yêu cầu trình độ không cao
Với gần 2000 doanh nghiệp dệt may thuộc các thành phần kinh tế, dệt may tạo công ăn việc làm cho 2tr lao động, trong đó 80% là lao động nữ(chưa kể số lao đông sản xuất nguyên liệu,trồng bông, trồng bông, trồng dâu nuôi tằm...). Một trong những khó khăn đối với ngành là nguồn nhân lực. Đối với lao động trực tiếp sản xuất, phần lớn là người ngoại tỉnh, lao động phổ thông (hơn 60%), trình độ văn hoá thấp, trình độ khi vào doanh nghiệp là dưới cơ bản. Hầu hết các doanh nghiệp phải tự đầu tư công nghệ trước khi đưa vào dây chuyền sản xuất.
Tuy nhiên, một thế mạnh của lao động ngành dệt may là trẻ, dễ đào tạo khi có điều kiện. Bên cạnh đó, lực lượng lao động quản lý cũng có trình độ chuyên môn thấp, hầu hết trưởng thành từ sản xuất. Do vậy kinh nghiệm được hình thành, tích luỹ ở mỗi doanh nghiệp một khác chất lượng cũng không đều.Với trình độ trên các doanh nghiệp sẽ gặp nhiều khó khăn trong quản lý, tổ chức sản xuất như:
-Nhận thức về pháp luật, chính sách lao động, nội quy kỷ luật, khoa học công nghệ tiên tiến.
-Trình độ văn hoá và tay nghề của cán bộ quản lý hạn chế dẫn đến tổ chức sản xuất kém hiệu quả, năng suất thấp, chất lượng sản phẩm kém.
4Sản phẩm mang tính tổng hợp
Dệt may và ngành nghề công nghiệp có sự kết hợp chặt chẽ cuả ngành công nghiệp dệt và công nghiệp may, hai ngành này có mối quan hệ hữu cơ với nhau tuy nhiên mỗi ngành lại có công nghệ riêng và tạo rất nhiều sản phẩm khác nhau, phục vụ tiêu dùng như sợi, vải lụa, vải bạt, vải màn, quần áo dệt kim, len, khăn...Nói chung những sản phẩm chính của dệt may Việt Nam đều có sự tăng lên về số lượng và cải thiện về chất lượng.Sản phẩm dệt may rất phong phú và đa dạng về chủng loại, quy cách chất liệu được đưa ra thị trường.
Chính sự đa dạng về chủng loại, mẫu mã khiến các doanh nghiệp không thể đào tạo vào tất cả các sản phẩm. Doanh nghiệp phải có sự lựa chọn sản phẩm chính và công nghệ thích hợp.
4Thị trường tiêu thụ ngày càng khắt khe.
-Thị trường trong nước:
Thị trường trong nước gồm thị trường nông thôn và thị trường thành thị. Hai thị trường này khác biệt nhau khá lớn về nhu cầu hàng dệt may.
Thị trường nông thôn chiếm ~80% dân số song lại có thu nhập bình quân đầu người thấp, nhu cầu của thị trường này là bền, chắc, phục vụ tại chỗ và quan trọng là giá cả phải chăng. Tại thị trường nay doanh nghiệp dệt may ít có chỗ đứng, không phải do chất lượng mà giá cả. Hàng Trung Quốc nhập lậu vào Việt Nam, tuy chất lượng không bằng nhưng giá thấp hơn.
Thị trường thành thị yêu cầu chủ yếu là kiểu dáng, mẫu mốt, giá cả không là vấn đề cốt lõi. Nhưng trên thị trường này hàng dệt may vẫn có chỗ đứng chưa vững chắc. Ngoài một số doanh nghiệp có sự đầu tư khá cao về thiết kế, tìm hiểu thị hiếu người tiêu dùng và đã xây dựng được thương hiệu như Nhà Bè, May 10, Việt Thy...thì đa số các doanh nghiệp còn lại chưa tạo được hình ảnh với người tiêu dùng.Một phần lớn thị trường này là các sản phẩm dệt may Trung Quốc cao cấp, Hàn Quốc, Hồng Kông.
-Thị trường xuất khẩu
Hàng dệt may đã tìm được đường đi đến các thị trường trên thế giới, song việc xác lập một chỗ đứng chắc chắn trên các thị trường ấy không phải dễ dàng. Sóng gió đến với các doanh nghiệp vào cuối 2000 - đầu 2001, khi hầu như toàn ngành dệt may thiếu đơn đặt hàng, các doanh nghiệp buộc phải đặt giá gia công 30-40% đến mức không còn lợi nhuận. Trong khi đó thị trường EU là thị trường truyền thống, hàng dệt may Việt Nam phải cạnh tranh gay gắt với các nhà xuất khẩu lớn khác là Trung Quốc. Không chỉ với Trung Quốc hàng dệt may Việt Nam còn phải cạnh tranh với hàng dệt may từ nhiều nước khác, nhất là khi EU bãi bỏ hạn ngạch nhập khẩu hàng dệt may của các nước thành viên của Tổ chức Thương mại Thế giới WTO. Trên các thị trường truyền thống năm 2002 hàng dệt may Việt Nam tuy đã phục hồi, dẫn đến sự tăng trưởng 3% song vẫn rất chậm chạp. thị trường Hồng Kông có tốc độ tăng trưởng cao, kim ngạch tuyệt đối vẫn tăng chưa đáng kể so với các thị trường lớn khác. Thị trường Mỹ tuy đã có những tín hiệu lạc quan thông qua việc xuất khẩu những lô hàng tương đối lớn của Dệt Thành Công, Dệt Thắng Lợi, May Việt Tiến, May Phương Đông…song không phải là dễ tính. Theo đánh giá của các chuyên gia trong tương lai gần, Việt Nam chưa thể hy vọng kim ngạch xuất khẩu sẽ tăng đột biến vào thị trường này
Bảng 2: kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam 1995-2002
Năm
1995
1996
1997
1998
1999
2000
2001
2002
KNXK
850
1.150
1.500
1.451
1.764
1.892
1.962
1.050
Nguồn: Tổng công ty dệt may VN
III.THỰC TRẠNG ĐẦU TƯ ĐỔI MỚI CÔNG NGHỆ CỦA NGÀNH DỆT MAY VIỆT NAM
1.Khái quát về thực trạng sản xuất kinh doanh ngành dệt may (2001-2005)
1.1.Thực trạng sản xuất kinh doanh ngành dệt may (theo số liệu của tổng công ty dệt may VN tới 31/12/2005)
1.1.1.Ngành dệt may Việt Nam
Ngành dệt may có gần 2000 doanh nghiệp, trong đó 307 doanh nghiệp Nhà nước, 1170 doanh nghiệp tư nhân và 470 doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, tạo công ăn việc làm cho gần 2tr lao động, giá trị sản xuất ~29.144 tỷ đồng(chiếm 10% công nghiệp chế biến) và kim ngạch xuất khẩu đạt 4.386 tr đôla(chiếm 16.5% kim ngạch xuất khẩu cả nước)
Hình vẽ
1.1.2.Tổng công ty dệt may Việt Nam-Vinatex
Trong tổng công ty dệt may Việt Nam hiện nay ngành kéo sợi chiếm 7%, sản phẩm dệt chiếm 50% và nhuộm hoàn tất chiếm trên 7% năng lực ngành dệt Việt Nam và sản phẩm may chiếm khoảng 30-35% năng lực toàn ngành may. Cho nên vai trò cuả Vinatex có tác động rất lớn đến chiến lược của ngành dệt may Việt Nam. Nhà nước đã đặt trọng trách vô cùng nặng nề lên vai Vinatex trong việc tập hợp lực lượng cùng các doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài, các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, các liên doanh mà Vinatex đang chi phối hoặc tham gia cổ phần để phát huy sức mạnh toàn ngành, đảm bảo mục tiêu mà ngành dệt may đã đề ra đến năm 2010.
1.2.Thực trạng về năng lực thiết bị, công nghệ sản xuất
Ngành dệt may là một trong những ngành công nghiệp có lịch sử phát triển lâu đời nhất nước ta. Trong quá trình phát triển, việc đầu tư nhiều giai đoạn làm cho thiết bị và công nghệ ngành dệt may rất đa dạng. Hiện nay, vẫn còn những cơ sở sử dụng những thiết bị được sản xuất từ những năm 1930-1940.
Theo đánh giá chung của Bộ công nghiệp, phần lớn giá trị máy móc thiết bị sản xuất công nghiệp chỉ còn 30% so với giá trị ban đầu đã lạc hậu hơn 30 năm. Đối với ngành dệt may, thiết bị máy móc cũ khá nhiều, 45% thiết bị máy móc cần phải nâng cấp và 30% cần thay thế. Trình độ công nghệ của từng lĩnh vực trong dệt may lại không đồng đều, lĩnh vực dệt kim và may mặc có trình độ công nghệ khá trong khi đó công nghệ kéo sợi chủ yếu từ lạc hậu đến trung bình, phần lớn máy móc dệt thoi ở mức công nghệ trung bình.
-Thiết bị công nghệ kéo sợi
Chủ yếu là trung bình và lạc hậu, 10% thiết bị được đầu tư từ các nước có trình độ tiên tiến( Tây Âu và Nhật Bản) và sử dụng trong vòng 5 năm gần đây,11% thiết bị đã được sử dụng từ 5-10 năm được đầu tư từ Tây Âu, Ấn Độ, Nhật Bản,33% thiết bị được sử dụng từ 10-20 năm chất lượng trung bình và tuỳ thuộc vào trình độ quản lý sử dụng của doanh nghiệp.
Thiết bị công nghệ may mặc
Những năm đầu tiên phát triển, ngành công nghiệp dệt may tổ chức may dây chuyền bằng các máy may đạp chân, dần dần được trang bị bằng máy may công nghiệp của Trung Quốc, Liên Xô, Cộng hòa liên bang Đức, Hunggary.Ngành may liên tục mở rộng đầu tư sản xuất và đổi mới công nghệ để đáp ứng yêu cầu chất lượng thị trường thế giới ngày càng nâng cao. Đặc biệt trong vòng 5 năm trở lại đây, cùng với viếc mở rộng thị trường Hoa Kỳ, ngành may đã phát triển khá nhanh và đầu tư lượng khá lớn thiết bị máy móc mới. Hiện nay, toàn ngành có 1446 doanh nghiệp may với ~750000 máy may các loại và trình độ công nghệ đánh giá chung là khá. Lĩnh vực may đổi mới trên 90% thiết bị và công nghệ. Phần lớn thiết bị các công đoạn cắt, may, hoàn tất sản phẩm và sản xuất phụ kiện may... được nâng cấp, đổi mới. Một số công ty đã áp dụng công nghệ tin học vào một số khâu trong sản xuất để nâng cao chất lượng sản phẩm.
-Thiết bị công nghệ in nhuộm
Đối với lĩnh vực này, chất lượng sản phẩm không chỉ phụ thuộc vào thiết bị mà còn phụ thuộc vào công nghệ, bao gồm: hoá chất, thuốc nhuộm, quy trình công nghệ...Không có thiết bị máy móc tốt thì không có sản phẩm tốt nhưng không có công nghệ cao thì cũng không có vải in nhuộm chất lượng cao được. Có thể nói máy móc tốt chỉ chiếm 50% còn công nghệ và bí quyết nghề in nhuộm chiếm tới 50% còn lại trong chất lượng sản phẩm.Thiết bị tẩy, nhuộm, in hoa và hoàn tất chủ yếu nằm ở các DNNN và hầu như 100% đều phải nhập ngoại.
-Thiết bị công nghệ dệt kim
Dệt kim là một trong những mặt hàng chủ yếu xuất khẩu đi Mỹ nên có lợi thế về nguồn vốn đầu tư hơn lĩnh vực dệt thoi và kéo sợi.Lĩnh vực dệt kim đã được nâng cấp được tỷ lệ lớn thiết bị dệt.Những năm gần đây, tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu của dệt may nước ta sang Mỹ cao góp phần thúc đẩy dệt kim tăng trưởng khá (trung bình hơn 12%/năm). Chính vì thế trình độ công nghệ của ngành dệt kim được đánh giá ở mức trung bình khá.
1.3.Thực trạng về nguồn nhân lực dệt may
Ngành dệt may Việt Nam hiện đang sử dụng gần 2tr lao động trong các dây chuyền công nghiệp. Tuy nhiên chất lượng lao động lại đặt ra nhiều vấn đề đối với các doanh nghiệp dệt may, nguồn nhân lực trình độ chưa cao , khả năng đào tạo nguồn nhân lực lại hạn chế
1.3.1 thực trạng cơ cấu nguồn lực dệt may
Dệt may là ngành đòi hỏi khéo léo, chăm chỉ nên cơ cấu có sự khác biệt rõ giữa tỷ trọng nam và nữ. Trong toàn ngành dệt may, lao động nam ngành dệt chiếm 5,72%, nam ngành may chiếm 17,30% ; trong khi đó lao động nữ ngành dệt chiếm 12,8% và nữ ngành may chiếm 64,7%.Có thể thấy tỷ lệ lao động nữ ngành dệt gấp đôi lao động nam; trong ngành may thì sự chênh lệch càng lớn, lượng lao động nữ gấp ba lần lao động nam. Điều này yêu cầu các doanh nghiệp ngành dệt may phải tổ chức làm việc hợp lý, phù hợp với điều kiện sức khoẻ của nữ giới.
Một thực trạng đáng buồn của ngành dệt may Việt Nam là thu hút lượng lao động lớn nhưng chất lượng không cao. Trong ngành dệt, lượng lao động qua đào tạo chỉ chiếm 35,1%, trình độ cao đẳng, đại học và trên đại học chiếm 7%. Trong ngành may, tỷ lệ lao động qua đào tạo còn thấp hơn, chỉ chiếm 18,24% tổng số lao động, trình độ cao đẳng, đại học và trên đại học cũng chỉ dừng lại ở mức 4,16%. Nguồn nhân lực hạn chế về trình độ là một cản trở rất lớn để các doanh nghiệp dệt may tiến hành đổi mới công nghệ. Những công nghệ, thiết bị mới chỉ phát huy hiệu quả khi có lực lượng lao động làm chủ được công nghệ. Không những thế, độ bền của thiết bị cũng bị phụ thuộc vào việc những người lao động vận hành máy móc, việc tu sửa, bảo dưỡng thường xuyên của doanh nghiệp, ý thức bảo vệ tài sản chung của doanh nghiệp...Mặc dù, trình độ ban đầu của lực lượng lao động tham gia vào các doanh nghiệp dệt may còn thấp song tuổi đời của họ còn khá trẻ nên việc đào tạo và đào tạo lại sẽ không gặp nhiều khó khăn. Trong lĩnh vực may, lao động có độ tuổi dưới 30 chiếm đến 64,2%. Lao động dưới 30 tuổi và 34,4% lao động từ 31-40 tuổi.Lực lượng lao động trẻ lại chính là đối tượng cần được đào tạo nhất vì họ chính là tương lai của doanh nghiệp, nhưng lại thiếu kinh nghiệm, chưa phải là những người thợ lành nghề. Lao động trẻ rất cần sự hướng dẫn của những thế hệ đi trước, đặc biệt trong tình trạng đa số các doanh nghiệp vẫn chọn hình thức tự đào tạo.
Thực trạng cơ cấu nguồn lực của dệt may Việt Nam phản ánh rõ đặc trưng của ngành: phần lớn là lao động nữ, độ tuổi lao động trẻ và trình độ còn thấp. Tuy nhiên, trong tình hình cạnh tranh ngày càng gay gắt ở cả thị trường trong nước và ngoài nước thì các doanh nghiệp dệt may phải đầu tư ngay vào lực lượng lao động, để lực lượng này trở thành nguồn lực công nghệ.
Điều đáng quan tâm trong nguồn nhân lực của các doanh nghiệp dệt may là nguồn nhân lực công nghệ. Họ là một trong những nhân tố quan trọng không những quyết định sự thành công trong hoạt động sản xuất kinh doanh mà còn là hạt nhân của quá trình đổi mới công nghệ ở doanh nghiệp. Đồng thời do hạn chế về trình độ nên năng lực của họ mới chỉ dừng lại ở vận hành và tiếp thu công nghệ một cách thụ động, chưa phát huy được vai trò sáng tạo và đổi mới công nghệ.
1.3.2.Khả năng đào tạo nguồn lực công nghệ ngành dệt may
Trong khi chiến lược phát triển ngành dệt may rất quy mô thì công tác chuẩn bị nhân lực cho ngành lại chưa được các ngành các cấp quan tâm. Ở cấp đại học, hầu như chưa chú ý khôi phục việc đào tạo kỹ sư ngành dệt may; trình độ cao đẳng và trung cấp mới có hai trường của Tổng công ty dệt may Việt Nam trước đây được nâng cấp, số lượng đào tạo chưa được nhiều. Hiện nay toàn ngành dệt may chỉ có 4 trường đại học với năng lực mỗi năm khoảng 2000 công nhân, không thể đáp ứng được yêu cầu của các doanh nghiệp thậm chí khi về doanh nghiệp phải tự chấp nhận tự đào tạo lại. Chính vì thế, các nhà máy, công ty may vẫn lựa chọn phương thức tự đào tạo tại doanh nghiệp. Vì đào tạo không có bài bản nên số lao động thay thế hàng năm chất lượng không cao, năng suất lao động thấp. Do đó, để hoàn thành các đơn hàng bắt buộc doanh nghiệp phải tuyển dụng nhiều lao động, thực hiện 3 ca và 4 kíp.
Ngành dệt may có lực lượng lao động dồi dào, dễ đào tạo, giá rẻ nhưng năng suất lao động còn thấp. Hàng triệu lao động nhưng chủ yếu là tự đào tạo, thiếu bài bản nên tình trạng thiếu lao động có tay nghề tiếp tục phổ biến. Số lượng công nhân có tay nghề cao còn thấp, số cán bộ quản lý, cán bộ kỹ thuật được đào tạo đúng với thực tiễn càng hiếm hơn. Các cơ sở đào tạo chưa đáp ứng được yêu cầu của các doanh nghiệp. Tăng cường đào tạo và nâng cao chất lượng nguồn lao động nhằm giúp họ trở thành những người làm chủ công nghệ thực sự là một giải pháp có hiệu quả.
2.Thực trạng về đầu tư đổi mới công nghệ ngành dệt may giai đoạn 2001-2005
2.1.Khối lượng vốn đầu tư cho đổi mới công nghệ
Trong ngành dệt may, xét về cơ cấu vốn đầu tư phát triển thì có thể nói vốn đầu tư cho máy móc thiết bị, đổi mới công nghệ chiếm tỷ trọng lớn, thường từ 50-70% trong tổng số vốn đầu tư toàn ngành. Vốn đầu tư cho đổi mới công nghệ ngành dệt may cũng có xu hướng ngày càng tăng lên cùng với vốn đầu tư phát triển ngành nói chung.
Bảng3: Vốn đầu tư đổi mới công nghệ của Vinatex
Năm
Tổng mức đầu tư
Vốn đầu tư ĐMCN
Tỷ trọng(%)
2000
2.066,8
1.126,0
54,48
2001
3.157,0
1.774,0
56,19
2002
2.111,8
1.036,0
48,89
2003
1.245,3
598,0
48,02
2004
1.514,6
709,6
46,85
2005
1.863,4
808,9
43,41
Tổng cộng
11.948,9
6.052,5
TB:50,65
Giai đoạn 2000-2005, vốn đầu tư đổi mới công nghệ của Vinatex là 6.052,5 tỷ đồng chiếm 50% trong tổng số vốn đầu tư. So với giai đoạn 1996-2000, với tổng số vốn đầu tư là 7.335 tỷ đồng, đầu tư đổi mới công nghệ chiếm 91% tổng số vốn đầu tư. Sự giảm tỷ trọng đầu tư cho đổi mới công nghệ của Vinatex cũng là thực trạng chung của ngành dệt may Việt Nam. Giai đoạn 1996-2000 toàn ngành tập trung mạnh mẽ mọi tiềm lực để đầu tư hiện đại hoá và đổi mới máy móc thiết bị để nâng cao năng lực sản xuất. Cho nên đến giai đoạn 2000 đến nay, ngành dệt may không phải đầu tư nhiều vốn để đổi mới công nghệ mà bắt đầu đầu tư chiều sâu cho sản xuất.
Theo báo cáo kết quả khảo sát về đổi mới công nghệ tại 64 doanh nghiệp dệt may Việt Nam trong 3 năm từ 2001-2003 (trong đó, có 53 doanh nghiệp cung cấp thông tin thông tin tài chính về đổi mới công nghệ), mức đầu tư đổi mới công nghệ của các doanh nghiệp đã được cải thiện hơn những năm trước đây khá nhiều.
Tính lượng vốn đầu tư đổi mới công nghệ trung bình cho mỗi doanh nghiệp dệt may trong 3 năm là 5,09 tỷ đồng, tuy nhiên lượng vốn đầu tư cụ thể lại rất khác nhau ở mỗi doanh nghiệp bất kể thành phần kinh tế là Nhà nước , tư nhân hay 100% vốn nước ngoài mà chủ yếu dựa vào hiệu quả sản xuất kinh doanh của từng doanh nghiệp.
Trung bình mỗi doanh nghiệp dệt may giành ra 2,9% doanh thu để đầu tư vào đổi mới công nghệ; song lại có sự khác biệt rất xa ở mỗi doanh nghiệp. Không tính những doanh nghiệp mới đi vào hoạt động thì có 12 doanh nghiệp có tỷ lệ đầu tư đổi mới công nghệ trên tổng doanh thu cao trên 5%, Tổng công ty dệt Đông Nam(29,81%), công ty dệt kim Đông Xuân(25%),công ty dệt nhuộm vải Phước Thịnh(24,61%), công ty dệt 8/3(11,2%), công ty dệt may Hà Nội (9%)... Trong đó, chỉ có công ty Phước Thịnh là đầu tư liên tục và đều đặn qua 3 năm. Các doanh nghiệp còn lại chủ yếu do mua máy móc thiết bị, công nghệ tại một thời điểm nên tỷ lệ trung bình trong 3 năm bị đẩy cao lên.
Như vậy, xét về quy mô vốn đầu tư đổi mới công nghệ của toàn ngành hay của từng doanh nghiệp dệt may đều cho thấy có sự tăng lên. Đây là một tín hiệu đáng mừng cho trình độ khoa học công nghệ của ngành dệt may.
2.2.Phương thức đầu tư đổi mới công nghệ
Hiện nay đa số các doanh nghiệp kết hợp một số phương thức đổi mới công nghệ để tạo hiệu quả cao, rất ít doanh nghiệp chỉ sử dụng một phương thức đổi mới công nghệ. Trong đó, phương thức tự tổ chức nghiên cứu triển khai thường được tiến hành song song với vịêc mua công nghệ mới nhằm nâng cao hiệu quả ứng dụng và vận hành công nghệ.
Qua khảo sát về đổi mới công nghệ tại 64 doanh nghiệp dệt may làm dẫn chứng. Theo khảo sát này cho thấy phương thức mà các doanh nghiệp dệt may sử dụng để đổi mới công nghệ vẫn đa số mang tính khép kín, sự liên doanh liên kết với bên ngoài đã có nhưng còn ít. Phương thức các doanh nghiệp sử dụng nhiều nhất là mua công nghệ từ nguồn ngoài nước và bắt chước, thiết kế lại theo mẫu, 54% số doanh nghiệp tham gia khảo sát đều lựa chọn hai phương thức này. Đây cũng là đặc trưng nổi bật của một ngành công nghiệp mang tính gia công và phụ thuộc vào đối tác nước ngoài về công nghệ, nguyên liệu và mẫu mã sản phẩm
Bảng4: Phương thức thực hiện đổi mới công nghệ của 64 doanh nghiệp dệt may Việt Nam
STT
Phương thức
Tỷ lệ DN
tiến hành
1
Tự tổ chức NC&TK trong nội bộ DN
32%
2
Hợp tác với các cơ quan khoa học trong nước
26%
3
Hợp tác với các cơ quan khoa học nước ngoài
5%
4
Bắt chước, thiết kế lại theo mẫu
54%
5
Mua công nghệ từ nguồn trong nước
20%
6
Mua công nghệ từ nguồn ngoài nước
54%
7
Liên kết, liên doanh với các DN trong nước
20%
8
Liên kết, liên doanh với các DN ngoài nước
23%
9
Thuê tư vấn trong nước
18%
10
Thuê tư vấn nước ngoài
3%
2.3.Nguồn vốn đầu tư đổi mới công nghệ
4Nguồn vốn trong nước
Trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội, ngành dệt may là một trong những ngành chủ đạo và ưu tiên phát triển, song nguồn vốn ngân sách đầu tư cho ngành và đầu tư cho đổi mới công nghệ chiếm tỷ trọng rất ít ỏi. Dù nguồn vốn này tăng lên qua các năm nhưng vẫn không vượt quá 0,6% lượng vốn đầu tư đổi mới công nghệ của Vinatex.
Nguồn vốn tự có và vốn khấu hao cơ bản của doanh nghiệp dệt may khá nhỏ bé so với lượng vốn cần huy động sản xuất kinh doanh cũng như đổi mới công nghệ. Thực tế này là do hiệu quả sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp chưa cao, tiềm lực còn nhỏ bé nên khả năng tích luỹ thấp.
4Nguồn vốn đầu tư nước ngoài
Trong giai đoạn 1991-1996 đầu tư nước ngoài vào ngành dệt đạt 985, 76 triệu $ với tổng số dự án là 58, trong đó dưới hình thức liên doanh, hợp danh có tổng vốn đầu tư là 126, 77 triệu$ chiếm 12,86%. Cùng thời kỳ, đầu tư nước ngoài vào ngành may là 88 dự án với tổng số vốn đầu tư là 189, 46 triệu $, hình thức liên doanh, hợp danh chiếm 35,13% và hình thức 100% vốn nước ngoài chiếm 64,87%
2.4. Nội dung đầu tư đổi mới công nghệ
Trong 5 năm qua số lượng máy móc thiết bị của toàn ngành có sự tăng lên đáng kể. Thiết bị kéo sợi nồi cọc toàn ngành đã tăng lên gấp đôi từ 1.050.000 cọc sợi năm 2000 lên 2.200.000 cọc sợi năm 2004.
4Thiết bị kéo sợi
Thiết bị công nghệ kéo sợi của ngành được nâng cấp theo từng giai đoạn cụ thể với lượng vốn đầu tư khác nhau. Trong giai đoạn này nhiều dự án đầu tư về sợi đã đưa vào vận hành sản xuất như nhà máy sợi mới 26.000 cọc sợi của công ty dệt Thành Công, công ty dệt Chiến Thắng, dệt Nha Trang
Vào năm 2004 ngành dệt có 2.215.000 cọc sợi (15000 rô to), trong đó đầu tư mới gần 500.000 cọc sợi, sản xuất 220.000 tấn sợi /năm. tiểu ngành kéo sợi đã sản xuất được nhiều chủng loại sản phẩm có chất lượng khá đáp ứng yêu cầu kỹ thuật và góp phần nâng cao năng suất lao động toàn ngành. Tuy nhiên, theo đánh giá chung của các chuyên gia thì trình độ công nghệ cuả tiểu ngành vẫn ở mức trung bình và lạc hậu do đó cần đầu tư hơn nữa để cải thiện tình hình.
4Thiết bị, công nghệ dệt thoi
Giai đoạn 1996 đến nay toàn ngành đã có khoảng hơn 6000 thiết bị mới được đầu tư với lượng vốn lên tới 78, 5 triệu $. Việc đầu tư đổi mới và hiện đại hoá trang thiết bị dệt thoi đã phát huy tác dụng mạnh mẽ, hiện tại tiểu ngành có 16.750 máy dệt, sản xuất 700 triệu m2 vải, 30.000 tấn khăn bông các loại.
4Thiết bị, công nghệ ngành may
Trong giai đoạn 1996T-2004, toàn ngành lại tiếp tục đầu tư cho máy móc thiết bị ngành may. tính đến năm 2004 toàn ngành có771.447 máy may các loại, phân bổ phần lớn ở các doanh nghiệp Nhà nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. trong khi đa, tại các doanh nghiệp tư nhân số máy may rất ít, chỉ khoảng 250 doanh nghiệp là có từ 400 đến 1000 máy may còn lại hơn 300 doanh nghiệp chỉ hầu hết là 100 đến 400 máy.
3.Một số kết luận từ thực trạng
3.1.Đánh giá kết quả
Trong năm 2005 toàn ngành đã thực hiện và triển khai được nhiều dự án đổi mới công nghệ nhờ đó hàng dệt may nước ta trên thị trường thế giới cũng có chỗ đứng vững chắc hơn. Mặc dù hàng dệt may của ta chưa rẻ và đa dạng mẫu mã như nước bạn Trung Quốc song nhiều nước bạn hàng đều có nhận xét là có chất lượng khá tốt. Rõ ràng việc đầu tư đổi mới công nghệ mang lại kết quả cuối cùng là sức mạnh của hàng dệt may tăng lên, song các doanh nghiệp vẫn còn hạn chế trong công tác này.
3.2.Hạn chế và nguyên nhân
Những hạn chế trong đầu tư đổi mới công nghệ:
lượng vốn đầu tư đổi mới công nghệ còn thấp
đầu tư đổi mới công nghệ vẫn còn thiếu đồng bộ
Hiệu quả của vốn đầu tư đổi mới công nghệ còn thấp
Nguyên nhân:
Khó khăn về vốn đầu tư
Thiếu chiến lược đào tạo nguồn nhân lực công nghệ
Ngành công nghệ phụ trợ còn yếu
3.3.Những bài học kinh nghiệm
Không nhất thiết các công trình đầu tư mới là phải có công nghệ thật hiện đại mà phải tuỳ theo yêu cầu của mặt hàng và thị trường để lựa chọn cho thích hợp:
Công nghệ lựa chọn phải là công nghệ từ tiên tiến trở lên nghĩa là sau khi đưa vào sản xuất từ 4-5 năm công nghệ đó vấn chưa lạc hậu
Công nghệ lựa chọn phải đảm bảo được các yêu cầu đề ra của sản xuất và chất lượng sản phẩm, năng suất, giá thành sản phẩm.
Công nghệ lựa chọn phải phù hợp với trình độ quản lý của ta, tránh đầu tư công nghệ quá hiện đại khi ta chưa đủ người quản lý và điều hành
Công nghệ lựa chọn phải phù hợp với khả năng tiền vốn đầu tư
Công nghệ lựa chọn phải sạch, không gây ô nhiễm môi trường
IV. GIẢI PHÁP
1. Phuơng huớng đổi mới của ngành dệt may đến năm 2010
1.1.Định huớng và quy hoạch phát triển ngành dệt may đến năm 2010
Nhanh chóng tái cơ cấu các doanh nghiệp dệt may Nhà nước, chuyển đổi hình thức sở hữu, phát triển dệt may trên cơ sở mở rộng cho mọi thành phần kinh tế cùng tham gia, cùng có lợi.
Ưu tiên thu hút các nhà đầu tư có vốn và có công nghệ cao tập trung phát triển nguyên phụ liệu cho ngành may xuất khẩu và các ngành công nghiệp khác.
Ưu tiên các dự án đầu tư phát triển dệt may đáp ứng được các mục tiêu của nền kinh tế, đó là chuyển dịch kinh tế, thu hút lao động, phát triển sản phẩm mới có giá trị tăng cao, gia tăng giá trị xuất khẩu.
Phát triển dệt may kết hợp với bảo vệ môi trường bền vững, nghiên cứu phát triển và đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao nhằm góp phần nhanh chóng đưa dệt may Việt Nam hội nhập vững vàng dệt may thế giới và khu vực.
1.2.Phuơng huớng đầu tu đổi mới công nghệ ngành dệt may đến năm 2010
Phương hướng, mục tiêu và nội dung đổi mới công nghệ
Chiến luợc đuợc chỉ ra rằng các doanh nghiệp nên đầu tư phát triển dệt may theo huớng chuyên môn hoá cao theo loại công nghệ. Có nhu vậy mới tạo ra bước nhảy vọt về chất luợng sản phẩm. Mỗi doanh nghiệp cần thíêt phải đi chuyên sâu và làm chủ đuợc một vài loại công nghệ để tạo ra những mặt hàng mới chất luợng cao. Xây dựng mối cung cầu giữa các doanh nghiệp trên cơ sở hợp tác thơng mại.
4Lĩnh vực kéo sợi
Hiện nay công nghệ kéo sợi kiểu nồi khuyên vẫn là loại công nghệ cho phép sản xuất sợi có chất luợng cao, với gam sản phẩm và phạm vi sử dụng rộng. Tuy nhiên, đây là phuơng pháp kéo sợi đắt tiền, chi phí cao, nhung nó vẫn tồn tại nhu là phuơng pháp kéo sợi tối uu. Bên cạnh đó, công nghệ kéo sợi OE rô-to hoặc kéo sợi thổi khí là những phuơng pháp kéo sợi rất kinh tế. Năng suất kéo sợi của hai phuơng pháp này lớn gấp 8-10 lần so với phuơng pháp cọc nồi. Chính vì vậy, cần chú trọng đầu tu phát triển 2 loại phuơng pháp này trong những năm tới, nhằm nâng cao tỷ trọng của chúng có thể đạt tới 30-35% của toàn ngành kéo sợi.
4Lĩnh vực dệt vải
Dệt thoi vẫn còn tồn tại ở nhiều doanh nghiệp, song trên thế giới ngày nay hầu nhu không còn chất luợng thấp, năng suất thấp và ô nhiễm môi truờng. Từ lâu trên thế giới đã chuyển sang máy dệt không thoi nhu dệt kiếm, dệt thổi khí, dệt phun nuớc, dệt thoi kẹp. Đó là những phuơng pháp dệt cho năng suất và chất luợng cao, linh hoạt.
4Lĩnh vực dệt kim
Sản phẩm dệt kim ngày càng đuợc nguời tiêu dùng ua chuộng, đặc biệt là sản phẩm dệt kim từ bông hoặc tử các vật liệu mới, sử dụng rộng rãi trong lĩnh vực thể thao và dịch vụ. Trong quá trình đổi mới công nghệ, các doanh nghiệp nên chú trọng đến các dây chuyền sản xuất T – shirt, Polo – shirt, quần áo lót nam nữ, sản phẩm dùng cho thể thao, truợt tuyết, hoặc áo dệt kim mài lông, có vòng lông,…
4Lĩnh vực in hoa, nhuộm và hoàn tất
Đây là công đoạn công nghệ khó khăn, phức tạp và khó làm chủ nhất, và cũng là khâu quyết định nhiều nhất đến chất luợng và ngoại quan của vải thành phẩm. Chính vì vậy, các doanh nghiệp nên uu tiên lựa chọn thiết bị sản xuất từ Tây Âu hoặc Nhật Bản để đảm bảo chất luợng bền vững và ổn định lâu dài. Các thiết bị mang nhãn mác châu Âu, nhung chế tạo tại các nuớc đang phát triển nhu Trung Quốc, ấn Độ, Thổ Nhĩ Kỳ hoặc Mêhicô có thể chấp nhận đuợc, song doanh nghiệp phải thận trọng khi xem xét, phân tích từng bộ phận hoặc cấu hình của thiết bị.
4Lĩnh vực may mặc
Lĩnh vực may mặc của nuLớc ta vẫn còn gia công là chủ yếu. Vấn đề lại không phải do công nghệ yếu mà do nguồn nhân lực còn kém về trình độ. Do đó thời gian sắp tới, các doanh nghiệp may cần chú trọng đến nâng cao chất luợng nguồn nhân lực để nguời lao động trở thành lực luợng làm chủ công nghệ.
Nhu cầu vốn đầu tNu cho đổi mới công nghệ đến năm 2010
Ngành dệt may là một ngành công nghiệp mũi nh? n xuất khẩu của đất nuớc, góp phần quan trọng vào GDP nhung do còn thiếu vốn và trình độ công nghệ ở mức trung bình trong khu vực nên việc đầu tu đổi mới công nghệ cần phải có tính toán và chọn lọc kỹ càng.
Theo quy hoặch tổng thể phát triển ngành dệt may Việt Nam đến năm 2010, ngành đặt ra mục tiêu là cổ phần hoá đa số các doanh nghiệp may, khuyến khích mạnh các thành phần kinh tế tham gia đầu tu vào ngành may. Kinh tế Nhà nuớc chi làm nòng cốt, gánh đỡ, đảm đuơng những mặt hàng đặc chủng, khó khăn, kém hiệu quả nhằm phục vụ là chính. Cơ cấu huy động vốn của ngành may trong giai đoạn tới sẽ thay đổi thành:
Thành phần kinh tế Nhà nuớc: 10 – 20%
Thành phần kinh tế tu nhân: 60 – 70%
Đầu tu nuớc ngoài, liên doanh: 20%
Kế hoạch đầu tu 2005 – 2010 của ngành may có tổng vốn đầu t 2.059 tỷ đồng, trong đó có đầu tu mới 1.794 tỷ đồng và đầu tu chiều sâu 265 tỷ đồng.
Ngành dệt đuợc đánh giá là yêu cầu luợng vốn đầu tu lớn, do đó thành phần đầu tu nuớc ngoài rất đuợc khuyến khích và có dự kiến tỷ trọng nguồn vốn cho từng lĩnh vực:
Các công trình sợi, dệt đòi hỏi luợng vốn lớn, trình độ thiết bị, công nghệ, quản lý yêu cầu cao, nhu các máy kéo sợi cao cấp, dệt và hoàn tất vải may somi, vải tissor len, … nên dành cho đầu t nớc ngoài khoảng 75%, phía Việt Nam 25%.
Các công trình dệt kim tròn, dệt khăn bông công đoạn ngắn, vốn trung bình, phía Việt Nam cũng đã có đợc những kinh nghiệm nhất định, chỉ nên dành cho đầu tu nuớc ngoài từ 30-40%, phía Việt Nam 60-70%.
Các công trình vốn đầu tu thấp, công đoạn ngắn, nhu dệt bít tất, dệt màn tuyn, rèm hoa…tự nuớc ta đảm nhiệm 100%, không phải dựa vào nuớc ngoài.
Theo tổng công ty dệt may Việt Nam, để đảm bảo đuợc các chỉ tiêu của ngành dệt may đến 2010, thì luợng vốn đầu tu lên đến 3.045 triệu $ toàn ngành bao gồm từ khâu nguyên liệu; dệt nhuộm; may mặc; nhà máy phụ tùng, cơ khí; thuơng mại, dịch vụ nghiên cứu và triển khai và đào tạo. Trong đó, dự kiến khoảng 1432 triệu $ giành cho đầu tu đổi mới công nghệ. Tỷ trọng này giảm xuống là do mục tiêu trong giai đoạn tới là ngành dệt may sẽ tự nghiên cứu và triển khai một số dây chuyền thiết bị trong nuớc. Tuy nhiên đây cũng là luợng vốn không nhỏ đối với ngành dệt may do đó đòi hỏi cùng với nỗ lực của các doanh nghiệp thì nhà nuớc cũng có những hỗ trợ kịp thời vể nguồn vốn.
2.Giải pháp đầu tư đổi mới công nghệ của ngành dệt may giai đoạn 2005-2010
2.1.Giải pháp huy động vốn đầu tư
Nhu cầu vốn đầu tu cho phát triển ngành dệt may là rất lớn, dự kiến khoảng 3 triệu $. Để huy động vốn có hiệu quả thì yêu cầu các doanh nghiệp phải sửa đổi ngay từ cách sử dụng vốn và cách thức hoạt động của doanh nghiệp, cụ thể nhu sau:
-Các doanh nghiệp phải sử dụng hiệu quả nguồn vốn tự có, vốn khấu hao để lại, vốn phát sinh từ bán hoặc cho thuê các thiết bị không sử dụng, bán giảm giá hàng tồn kho, huy động nguồn vốn nhàn rỗi từ cán bộ công nhân viên, người lao động.
-Trong 10-15 năm tới, thị trường chứng khoán là giải pháp quan trọng để các doanh nghiệp dệt may nói chung và doanh nghiệp xuất khẩu hàng dệt may nói riêng huy động vốn. Do đó, các doanh nghiệp cần tiến hành ngay các nghiên cứu, áp dụng các hình thức phát hành trái phiếu, cổ phiếu để huy động vốn cho đổi mới công nghệ.
-Để tăng tính hiệu quả trong hoạt động sản xuất kinh doanh cũng như hiệu quả của đầu tư công nghệ thì đẩy mạnh quá trình đa dạng hoá sở hữu và tạo sự liên kết về vốn giữa các thành phần kinh tế thông qua cổ phần hoá, giao, bán, khoán kinh doanh, cho thuê doanh nghiệp ngành dệt may cũng là một giải pháp đáng kể.
-Nhà nuớc nên có chính sách cũng nhu bản thân các doanh nghiệp khuyến khích, kêu gọi đầu tu cả trong ngoài nuớc; kêu gọi vốn đầu tu từ các kiều bào ở nuớc ngoài.
-Phát huy hiệu quả hoạt động của công ty tài chính dệt may, tăng vốn pháp định để tăng khả năng cho các doanh nghiệp dệt may vay trung và dài hạn, đa dạng hoá khách hàng, điều chỉnh lãi suất phù hợp để huy động vốn…
-Đẩy mạnh hoạt động thuê tài chính. Đây là giải pháp hấp dẫn đối với các doanh nghiệp thiếu vốn. Thuê tài chính là hình thức đầu t tín dụng trung hạn và dài hạn bằng hiện vật đối với các doanh nghiệp thiếu vốn, trên cơ sở lựa chọn các máy móc, thiết bị phù hợp với yêu cầu sử dụng của mình. Kết thúc thời gian thuê, bên thuê có thể mua lại các máy móc, thiết bị này theo giá thoả thuận.
-Các doanh nghiệp dệt may Việt Nam nên phát triển uy tín, thuơng hiệu và chất luợng sản phẩm và dùng chính uy tín, thuơng hiệu của mình để thuê những thiết bị công nghệ của nuớc ngoài và vay tín dụng nuớc ngoài với lãi suất thấp hơn.
-Cần có sự điều chỉnh bổ sung về chính sách hỗ trợ, lãi suất cho vay, đối tuợng nhận hỗ trợ của tín dụng đầu tư phát triển và tín dụng xuất khẩu của Nhà nớc cho phù hợp với quy định của WTO. Để có đuợc sự hỗ trợ từ Nhà nuớc cho các dự án đầu tu có trọng điểm, ngành dệt may cần sớm hoàn thành quy hoạch qua đó cần có sự đồng ý của Chính phủ về danh mục các dự án đuợc vay vốn đầu tư.
2.2. Lựa chọn giải pháp công nghệ phù hợp
4Công nghệ nhập
Để có được mặt hàng chất luợng cao, đẩy nhanh xuất khẩu và cạnh tranh đuợc với thị truờng trong khu vực thì nhất thiết ta phải nhập những công nghệ và thiết bị tiên tiến đạt đuợc các điều kiện sau:
-Các bí quyết công nghệ mới.
-Các thiết bị công nghệ nâng cao sức cạnh tranh của mặt hàng, tăng năng suất lao động, tạo mặt hàng mới hoặc tăng giá trị đầu vào của nguyên liệu mà Vịêt Nam cha thể chế tạo đuợc.
-Các thiết bị công nghệ đòi hỏi thời kỳ ấp ủ dài và chi phí lớn nếu tự làm trong nước.
Trong vấn đề nhập công nghệ mới thì điều quan trọng là phải chọn đúng đuợc công nghệ ta đang cần và có thể đẩy mạnh đuợc sản xuất phát triển đồng thời phải tổ chức tiếp thu và làm chủ đuợc các công nghệ nhập. Từ nay đến năm 2010 là giai đoạn cần coi trọng công nghệ nhập đ? tạo buớc phát triển đột phá cho ngành, đặc biệt là những áp dụng khoa học về nguyên liệu mới, vật liệu mới và các lĩnh vực còn bỏ trống.
Các doanh nghiệp nên có sự lựa chọn kỹ càng, chủ động tìm kiếm hoặc thông qua công ty tu vấn. Các doanh nghiệp phải chuẩn bị và đáp ứng mọi điều kiện, tiền đề cần thiết giúp cho việc đa công nghệ mới vào sản xuất nhanh chóng, duy trì và khai thác có hiệu quả. Nhiều chuyên gia kinh tế cho rằng không nên nhập những thiết bị và công nghệ có khoảng cách quá xa về trình độ so với công nghệ hiện đại của ngành do điều này có thể dẫn đến việc công nhân không làm chủ đuợc công nghệ nhập và làm việc đầu tu công nghệ không hiệu quả. Đồng thời các doanh nghiệp phải tổ chức tốt các đơn vị thẩm định, kiểm tra khi nhập công nghệ, tránh truờng hợp công nghệ nhập đã cũ kĩ, lạc hậu.
Bên cạnh việc quản lý công nghệ nhập hiệu quả, các doanh nghiệp còn phải chú ý việc tổ chức tốt đội ngũ cán bộ, công nhân để tiếp thu tốt các công nghệ nh? p. Từ đó có thể tổ chức sản xuất ổn định, tiến tới công nhân làm chủ công nghệ để phát triển sản xuất. Doanh nghiệp cũng nên tự sản xuất một số phụ tùng thay thế để phát huy hết công suất của thiết bị và khả năng của công nghệ để tạo ra sản phẩm có gía trị cao.
4Công nghệ nội sinh
Các doanh nghiệp cố gắng có thể tự tạo ra một số công nghệ tiên tiến thay cho nhập ngoại.
-Đẩy mạnh hoạt động khoa học của các Viện nghiên cứu, các trung tâm thông tin, tu vấn để nâng cao, bổ sung kiến thức, thông tin KHCN cho cán bộ quản lý, KHKT làm nền tảng cho công nghệ nội sinh.
-Những công nghệ, thiết bị cần mở rộng, cải tiến để nâng cao năng suất chất luợng mà Việt Nam có thể tự giải quyết đuợc.
-Phục hồi, nâng cao các kỹ thuật, công nghệ cổ truyền, mặt hàng truyền thống để tạo ra sản phẩm đặc thù của Việt Nam.
-Các công nghệ xử lý bảo vệ môi truờng.
-Nâng cao trình độ công nghệ quản lý.
-Đẩy mạnh hoạt động mẫu mốt để sớm hoà nhập đuợc với khu vực và thế giới với định huớng thời trang Việt Nam là kết hợp hài hòa bản sắc dân tộc và xu huớng thời trang thế giới.
Việc chuyển giao công nghệ không nên chỉ dừng lại ở những doanh nghiệp có vốn đầu tu trực tiếp nuớc ngoài mà nên thực hiện ở mọi thành phần kinh tế. Những doanh nghiệp, có nhiều vốn có thể nhập thiết bị công nghệ cao để sản xuất hàng xuất khẩu. Đồng thời, doanh nghiệp lớn lại chuyển giao các thiết bị công nghệ hiện tại cho một số cơ sở nhỏ để củng cố, cải tiến nâng cao thành công nghệ nội sinh. Việc này sẽ tiết kiệm không nhỏ chi phí ĐMCN và tạo ra thị truờng chuyển giao công nghệ sôi động liên tục trong toàn ngành.
2.3. Tạo môi truờng thuận lợi để phát triển công nghệ
Để tạo một môi truờng công nghệ thuận lợi cho ngành dệt may cần có sự nỗ lực của nhiều bên liên quan, bao gồm: Nhà nuớc, cơ quan chủ quản ngành dệt may và bản thân các doanh nghiệp. Một số việc rất cần thiết để tạo cơ sở công nghệ nhu:
Tạo các cơ sở kỹ thuật của ngành đủ mạnh để đồng hoá công nghệ nhập và công nghệ nội sinh.
Hình thành một thị truờng công nghệ dệt may sôi động bằng cách đẩy mạnh quá trình cổ phần hoá, đồng thời có chính sách khen thuởng kịp thời hoạt động khoa học công nghệ, chính sách khuyến khích bảo trợ hoạt động khoa học công nghệ, chính sách tài trợ sáng tạo, trợ giá áp dụng tiến bộ khoa học công nghệ, chính sách đào tạo cán bộ khoa học công nghệ.
2.4. Giải pháp quản lý ngành
2.4.1 Giải pháp tổ chức khu vực doanh nghiệp dệt may Việt Nam
Nhà nuNớc cần có chính sách hình thành các liên kết kinh tế giữa các doanh nghiệp dệt may Việt Nam theo hai phuơng huớng chủ yếu sau:
Thứ nhấtT, hình thành cơ chế chính sách để khuyến khích và tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tự phát triển, tích tụ, tập trung vốn, sử dụng các nguồn lực của mình để sáp nhập, mua lại các doanh nghiệp khác; đầu tư chi phối, góp vốn, mua cổ phần (toàn bộ hoặc một phần vốn điều lệ t) và bằng các biện pháp khác để hình thành các mối liên kết bền chặt và phát triển thành tập đoàn kinh tế hoặc một dạng liên kết có tổ chức, sau đó tiếp tục sử dụng các tiềm lực đó để đầu tu mở rộng quy mô sản xuất, lĩnh vực hoạt động và đầu tư thâm nhập, thôn tính các doanh nghiệp khác để phát triển tập đoàn kinh tế.
Thứ hai , tạo khuôn khổ thể chế để các doanh nghiệp dệt may Việt Nam đang có vốn góp ở nhiều doanh nghiệp khác hoặc các doanh nghiệp dệt may đã có sẵn mối quan hệ nội bộ theo kiểu tập đoàn kinh tế. Tuy nhiên, việc chuyển đổi phải qua một số khâu, buớc nhằm tạo điều kiện cho các doanh nghiệp đầu tu, chi phối lẫn nhau, hình thành liên kết chặt chẽ kinh tế với sự hỗ trợ của các quy định pháp lý, cơ chế, chính sách của Nhà nuớc.
Theo phương thức này, Nhà nước cần phải đẩy mạnh và kiên quyết trong việc sắp xếp, tổ chức lại; nghiên cứu để xác định lĩnh vực chủ đạo, doanh nghiệp thực hiện vai trò đầu tàu của các doanh nghiệp sắp xếp lại.
2.4.2.Hình thành tập đoàn dệt may Việt Nam
Hình thành một số tập đoàn dệt may để tập hợp lực luợng, tạo sức mạnh nâng cao khả năng cạnh tranh thông qua lợi thế kinh tế quy mô. Quá trình này đựơc thực hiện với nguyên tắc sau:
Một là, không dùng giải pháp hành chính thuần tuý để ghép nối mà chủ yếu sử dụng các giải pháp cơ chế, chính sách để thúc đẩy đầu tu, liên kết, góp vốn, mua cổ phần giữa các doanh nghiệp. Biện pháp hành chính chỉ sử dụng để thúc đẩy việc sắp xếp, chuyển đổi hình thức sở hữu hoặc hình thức pháp lý của doanh nghiệp, nhằm bổ trợ cho các giải pháp kinh tế và thể chế.
Hai là, phát triển các loại hình doanh nghiệp dệt may đã sở hữu, hỗn hợp giữa các thành phần kinh tế với nhau, giữa trong nuớc và nuớc ngoài, bao gồm sở hữu nhà nuớc, sở hữu tập thể, sở hữu cá nhân và các hình thức sở hữu khác. Không hình thành các liên kết thuần sở hữu nhà nuớc bởi ngành dệt may không thuộc lĩnh vực Nhà nuớc phải nắm 100% sở hữu.
Ba là, phát triển tập đoàn có sự liên kết của các doanh nghiệp thành viên dới những hình thức pháp lí khác nhau nh công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty liên doanh, …Không nên duy trì loại hình công ty nhà nuớc 100% sở hữu của Nhà nuớc.
Bốn là, mở rộng và thu hút các thành phần kinh tế cùng liên kết. Các hình thức mở rộng liên kết bao gồm:
Thu hút đầu tu của các thành phần kinh tế khác vào tập đoàn kinh tế bằng các giải pháp cổ phần hóa, giao, bán doanh nghiệp thành viên.
Thành lập mới doanh nghiệp thành viên duới hình thức công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn… có cổ phần, vốn góp của các thành phần kinh tế.
Mua cổ phần, góp vốn vào các doanh nghiệp khác tới mức chi phối để trở thành doanh nghiệp thành viên tập đoàn.
Tạo điều kiện cho cá doanh nghiệp khác tham gia tập đoàn duới hình thức hợp đồng liên kết và ràng buộc pháp lý (có hoặc không có vốn góp, mua cổ phần).
Phát triển cá hình thức liên kết đa dạng trong tổ chức tập đoàn, nhung trọng tâm là liên kết kinh tế và đầu tu chi phối lẫn nhau.
Năm là, đa dạng hoá về ngành nghề và lĩnh vực hoạt động của các tập đoàn dệt may Việt Nam. Tập đoàn dệt may hoạt động với lĩnh vực chủ lực là các sản phẩm dệt may nhng có mở rộng ra các hoạt động khác. Các ngành nghề liên quan chặt chẽ và hỗ trợ cho chuyên ngành dệt may, tạo thành liên kết kinh tế mang tính dây chuyền và liên hợp. Trong đó, sự hỗ trợ của các chuyên ngành khác cho chuyên ngành dệt may phải đa dạng, bao gồm hỗ trợ về kỹ thuật, công nghệ, lao động, nguyên vật liệu đầu vào, thị trờng, bán hàng, tài chính… Bên cạnh đó tập đoàn không nên chỉ bao gồm các doanh nghiệp độc lập có cùng chức năng hoạt động, sản xuất và kinh doanh cùng một hoặc một số loại mặt hàng giống nhau, dẫn đến hậu quả là các doanh nghiệp trong cùng một tập đoàn cạnh tranh, kìm hãm nhau, đồng thời dẫn đến độc quyền không cần thiết.
2.5.Đào tạo nguồn lực
Để tạo ra những công nghệ mới, chuyển giao vào sản xuất đa sản phẩm phát triển thì cần có những cơ sở nghiên cứu KHCN mạnh về đội ngũ cán bộ và đầy đủ cơ sở vật chất. Hệ thống các giải pháp về nguồn nhân lực gồm:
-Nhà nuớc và ngành dệt may tập trung nguồn lực để xây dựng cơ sở nghiên cứu và cơ sở đào tạo vững mạnh về cán bộ và cơ sở vật chất để thực hiện đuợc nhiệm vụ chiến luợc của ngành về nhu cầu KHCN. Nhà nuớc và ngành cũng giao nhiệm vụ nghiên cứu KHCN dệt may cho các cơ sở nghiên cứu và đào tạo để các đơn vị tự khẳng định vai trò, vị trí của cơ sở trong hoạt động của ngành.
-Mở rộng hệ thống chuyên ngành dệt may. Xây dựng mới truờng đào tạo cán bộ quản lý kinh tế - kỹ thuật chuyên ngành dệt may với các nội dung tập trung cho quản lý sản xuất, quản lý chất luợng, phát triển sản phẩm, thuơng hiệu và kỹ năng bán hàng…Việc thiết lập và đua vào hoạt động tổ chức đào tạo mới này phải căn cứ trên cơ sở các yêu cầu và tiềm năng trong tuơng lai, trong đó giải quyết các vấn đề khó khăn trong hệ thống đào tạo: thiếu tài liệu về quản lý trong lĩnh vực dệt may, đào tạo những chuyên gia đào tạo, bổ sung các thiết bị đào tạo.
-Phải có sự liên kết, hợp tác của các cơ sở đào tạo, nghiên cứu và sản xuất kinh doanh thì các mục tiêu KHCN của ngành mới thực hiện tốt. Doanh nghiệp phối hợp với các truờng đại học nhu Bách Khoa HN, Bách Khoa TP.HCM để có chuơng trình đào tạo phù hợp với những dự án đầu tu chiều sâu. Các doanh nghiệp và truờng đào tạo cần có chính sách khuyến khích sinh viên theo học những ngành thuộc lĩnh vực dệt may và chú trọng phát triển đội ngũ thiết kế thời trang. Sự hợp tác chỉ thực sự hữu hiệu khi có quy chế hoạt động, chế độ, chính sách đối với cán bộ KHCN thật thông thoáng, hoà nhập mang tính khách quan và có sự gắn bó về trách nhiệm và quyền lợi rõ ràng.
-Ngành dệt may cũng nhu doanh nghiệp cần hợp tác với nuớc ngoài mở truờng đào tạo kỹ su, công nhân lành nghề cho ngành dệt may. Bên cạnh đó, cần đầu tu nâng cao khả năng đào tạo, cơ sở vật chất cho giảng dạy và thực hành.
-Mở thêm các loại hình đào tạo, bồi duỡng khác thuờng xuyên nhằm nâng cao trình độ cho cán bộ đuơng chức, cập nhật kiến thức và thông tin mới nhất của ngành dệt trong nuớc và ngoài nuớc. Việc bổ túc theo chuyên đề nhằm bồi dỡng cán bộ đương chức về kỹ thuật, công nghệ cần thiết cho công tác hiện tại hoặc để giải quyết theo yêu cầu của một vấn đề chuyên môn cần tháo gỡ. Đồng thời cần khuyến khích các kỹ su ngành khác học thêm bằng thứ hai về dệt may để nâng cao kiến thức và phục vụ ngành.
-Để mở rộng thị truờng xuất khẩu cũng nhu việc mua bán trên thị truờng quốc tế, việc đào tạo những chuyên gia pháp luật, những nguời có khả năng am hiểu kinh doanh quốc tế, có đầy đủ trình độ để tu vấn và hỗ trợ trong hợp tác và kinh doanh quốc tế
2.6.Các giải pháp khác
Bên cạnh những giải pháp trên còn một số giải pháp khác nhu: Cải thiện việc cung ứng nguyên vật liệu, phụ liệu cho ngành dệt may thay thế cho việc nhập khẩu để nâng cao giá trị gia tăng cho sản phẩm, đồng thời chủ động hơn về mặt nguyên vật liệu trong cơ chế thị truờng
Về nguyên liệu: Tiếp tục đầu tu cho sản xuất bông, sợi tổng hợp…trên cơ sở đảm bảo hiệu quả kinh tế và tính cạnh tranh trên thị truờng. Đầu tu phát triển bông vải trên cơ sở quy hoạch lại các vùng trồng bông: điều kiện tự nhiên, thổ nhuỡng, khả năng phát triển cơ sở hạ tầng về tới tiêu và khả năng huy động tài chính. Nghiên cứu khả năng sản xuất các sản phẩm hoá dầu phục vụ cho dệt may thay thế cho nhập khẩu.
Chú trọng khâu sản xuất, nhuộm, hoàn tất vải và phụ liệu cung cấp cho may xuất khẩu. Sản xuất vải và phụ liệu phụ liệu phục vụ cung cấp tại chỗ cho may xuất khẩu là khâu yếu nhất và cần đuợc uu tiên V.danh mục tài liệu tham khảo
V.DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.Dệt may Việt Nam cơ hội và thách thức (NXB Chính trị Quốc gia HN -2003)
2.Giáo trình: Đổi mới cơ chế Quản lý khoa học công nghệ ở Việt Nam(NXB KHKT-2003)
3.Giáo trình: Quản trị kinh doanh (NXB Lao động xã hội)
4.
5.ếng việt /tư vấn pháp luật /đề tài /oa.as?id=2503
MỤC LỤC
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- E0058.doc